Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thâm hụt kép hay biến động trái chiều! chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.89 KB, 16 trang )

Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
THÂM HỤT KÉP HAY BIẾN ĐỘNG TRÁI CHIỀU?!
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA, TÀI KHOẢN VÃNG LAI
VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THỰC Ở MỸ
Soyoung Kim, Nouriel Roubini
Tóm tắt
Mặc dù có những lo ngại về “thâm hụt kép” (thâm hụt ngân sách và tài khoản vãng
lai) ở Mỹ nhưng những bằng chứng thực nghiệm lại cho rằng “sự biến động trái
chiều” phổ biến hơn, theo số liệu trong quá khứ, nghĩa là khi ngân sách thâm hụt thì
tài khoản vãng lai tăng và ngược lại. Bằng quan sát thực nghiệm, bài viết này nghiên
cứu hiệu ứng của chính sách tài khóa (cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ) lên tài
khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực trong giai đoạn chế độ tỷ giá linh hoạt. Dựa trên
mô hình VAR (tự hồi quy vector), chúng tôi đã nhận dạng những cú sốc chính sách tài
khóa “ngoại sinh” sau khi kiểm soát những tác động của chu kỳ kinh tế lên cán cân
ngân sách. Trái ngược với dự báo của hầu hết mô hình lý thuyết, những kết quả
nghiên cứu ở Mỹ cho thấy một cú sốc chính sách tài khóa mở rộng, hay một cú sốc
thâm hụt ngân sách chính phủ, đã cải thiện tài khoản vãng lai và làm tăng tỷ giá hối
đoái thực. Sự gia tăng tiết kiệm tư nhân và sụt giảm đầu tư góp phần cải thiện tài
khoản vãng lai trong khi tỷ giá hối đoái danh nghĩa tăng, để chống lại sự thay đổi mức
giá tương đối, là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng tỷ giá hối đoái thực. “Sự biến
động trái chiều” của cán cân ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai cũng được giải
thích thông qua tính phổ biến của cú sốc sản lượng - hơn là cú sốc tài khóa - đã dẫn
đến sự biến động kết hợp của tài khoản vãng lai và cán cân ngân sách.
1. Giới thiệu
Những câu hỏi liên quan đến mối quan hệ giữa chính sách tài khoá, tài khoản
vãng lai và tỷ giá thực là mối quan tâm lớn cả về mặt phân tích lẫn thực nghiệm. Theo
lý thuyết, nhiều mô hình đã chỉ ra rằng một chính sách tài khoá mở rộng sẽ dẫn đến sự
sụt giảm tài khoản vãng lai và sụt giảm tỷ giá hối đoái thực.
Một ví dụ điển hình về mối quan hệ như vậy thường được tranh luận là “thâm
hụt kép” ở Mỹ trong nửa đầu những năm 1980 và những năm 2000. Trong những năm
gần đây, “thâm hụt kép” lại xuất hiện vì sự sụt giảm lớn cán cân ngân sách Mỹ (6%


GDP thặng dư năm 2000 thành khoản thâm hụt lớn năm 2004) kết hợp với một khoản
1
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
thâm hụt lớn của cán cân tài khoản vãng lai (tới khoảng 5% GDP năm 2003 và ngày
càng tệ hơn).
Tuy nhiên, trải nghiệm của Mỹ, không thể tinh giản thành một ý tưởng đơn
giản về việc lặp đi lặp lại thâm hụt kép và mối quan hệ đồng biến giữa cán cân ngân
sách chính phủ và tỷ giá hối đoái thực. Phần lớn sự trầm trọng của thâm hụt tài khóa
đầu những năm 1980 là hậu quả của cuộc suy thoái năm 1980-1982. Toàn bộ nguồn
tiết kiệm công bắt đầu được cải thiện từ năm 1983, trong khi tài khoản vãng lai thì
xấu đi trong giai đoạn 1982-1986, chủ yếu bởi vì tỷ lệ đầu tư đã phục hồi sau cuộc
suy thoái thời kỳ 1980-1982. Bên cạnh đó, giai đoạn 1989-1991, tài khoản vãng lai đã
tăng trong khi cán cân tài khóa có xu hướng suy giảm lại. Khoảng giữa năm 1992 và
2000, cán cân ngân sách Mỹ đã cải thiện một cách ấn tượng từ tỷ lệ tiết kiệm âm 5%
GDP đến dương 2,5% GDP, thế nhưng tài khoản vãng lai đã giảm từ -1% GDP đến
-4.5%GDP. Nói về tỷ giá hối đoái thực, sự thắt chặt của chính sách tài khoá và sự trở
lại của một ngân sách thặng dư trong những năm 1990 đã đi kèm với một sự sụt giảm
tỷ giá hối đoái thực. Mặc dù có sự tăng giá của USD trong giai đoạn 2000-2002, ngân
sách lại thâm hụt, thì tỷ giá hối đoái thực lại tăng trong giai đoạn 2002-2004, thâm hụt
ngân sách ngày càng trầm trọng.
Những số liệu thực nghiệm này là bài toán nếu dựa trên sự suy đoán về mặt lý
thuyết rằng một sự mở rộng chính sách tài khoá sẽ gây ra biến động ngược chiều lên
tài khoản vãng lai và tỷ giá thực.
Mối tương quan dương yếu giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản
vãng lai có thể được giải thích bởi những biến nội sinh của ngân sách chính phủ và tài
khoản vãng lai. Những biến nội sinh này mang tính quyết định về mặt phân tích và
thực nghiệm. Trong suốt thời kỳ suy thoái (hay tăng trưởng nóng), sản xuất giảm (hay
tăng) và ngân sách thâm hụt (hay cải thiện). Trong thời kỳ Nền kinh tế mới ở Mỹ và
bùng nổ IT trong những năm 1995-2000, có một cuộc bùng nổ đầu tư dẫn đến thâm
hụt tài khoản vãng lai. Đồng thời, cuộc bùng nổ kinh tế này lại cải thiện cán cân ngân

sách. Điều này giải thích tại sao tài khoản vãng lai suy giảm trong những năm 1990
trong khi cán cân ngân sách tăng lên. Vì vậy, tài khoản vãng lai có thể cải thiện (hoặc
xấu đi) khi cân đối ngân sách xấu đi (hoặc cải thiện). Chúng ta có thể quan sát “sự
biến động trái chiều”, xuất hiện nhiều hơn “thâm hụt kép”, khi yếu tố chủ yếu tác
động đến hai tài khoản này chính là cú sốc sản lượng.
Để đánh giá những vấn đề này, bài viết trình bày phân tích thực nghiệm về mối
quan hệ giữa cán cân ngân sách, tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực ở Mỹ trong
2
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
giai đoạn tỷ giá hối đoái linh hoạt thời kỳ hậu Bretton Wood. Chúng tôi kiểm định tác
động của cú sốc thâm hụt ngân sách lên tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực, và
cũng xem xét mối liên hệ giữa những biến này. Để xác định được những cú sốc thâm
hụt ngân sách nhằm kiểm soát những tác động của chu kỳ kinh tế, chúng tôi đã sử
dụng mô hình VAR (vectơ tự hồi quy). Một điểm mới trong nghiên cứu thực nghiệm
của chúng tôi có vẻ nghịch lý nếu so với hầu hết các mô hình kinh tế khác, đó là cú
sốc tài khóa mở rộng hay thâm hụt ngân sách chính phủ được kết hợp với một sự cải
thiện tài khoản vãng lai và sự gia tăng tỷ giá hối đoái thực. Điều này đặc biệt thú vị
bởi vì sự tương quan nghịch này xảy ra ngay cả khi chúng ta kiểm soát được những
tác động của chu kỳ kinh tế hay những cú sốc sản lượng, cái mà có vẻ tạo ra một
“biến động trái chiều”. Nghĩa là, thậm chí sự thâm hụt ngân sách “ngoại sinh” dường
như cũng góp phần cải thiện tài khoản vãng lai.
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây
Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác về lĩnh vực này. Đầu tiên có những
cuộc mô phỏng dùng mô hình cấu trúc quy mô lớn dựa trên những phiên bản khác
nhau của mô hình Mundell-Fleming-Dornbusch (ví dụ những nghiên cứu của Bryant
et al , 1988; và Taylor, 1993) hoặc sử dụng mô hình Dynamic Stochastic General
Equilibrium (Baxter, 1995; Kollmann, 1998; Betts và Devereux, 2000b; McKibbin và
Sachs, 1991). Tuy nhiên hầu hết những mô hình trong các bài nghiên cứu này đều dựa
trên số lượng lớn các giả định bị lý thuyết hạn chế; do đó, bằng chứng thu được không
thể trở thành một bằng chứng dựa trên dữ liệu thực nghiệm. Thứ hai, một vài nghiên

cứu như của Ahmed, 1986, 1987 đã kiểm định mối quan hệ giữa chi tiêu chính phủ và
tài khoản vãng lai trong dài hạn. Họ đã sử dụng mô hình Static Single Equation bằng
cách sử dụng chuỗi dữ liệu dài hạn với tần suất hằng năm bao gồm nhiều chế độ tỷ
giá. Tuy nhiên, kết quả của họ có những giới hạn bởi vì mối tương tác động giữa các
biến số không được xem xét và những nghiên cứu như vậy không sử dụng một chuỗi
dữ liệu mẫu với một chế độ tỷ giá đồng nhất. Thứ ba, một vài nghiên cứu mới đây sử
dụng mô hình VAR - trong đó tối thiểu hóa các giả định bị lý thuyết hạn chế, và
không phụ thuộc vào mô hình lý thuyết cụ thể nào (Clarida và Prendergast,1999; và
Rogers, 1999). Tuy nhiên, những nghiên cứu này đã kiểm định những hiệu ứng tác
động lên tỷ giá thực chỉ với dữ liệu có tần suất thấp. Ngược lại, bài viết của chúng tôi
cung cấp những bằng chứng thiên về dữ liệu thực nghiệm những tác động của chính
sách tài khoá lên tài khoản vãng lai và tỷ giá thực bằng việc sử dụng nhiều mô hình
VAR. Những mô hình này cho phép những tương tác động trong các biến số và sử
3
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
dụng tối thiểu các giả định bị hạn chế, tức là sẽ không phụ thuộc vào một mô hình lý
thuyết cụ thể nào. Chúng tôi sử dụng dữ liệu theo quý được cập nhật thường xuyên
trong những nghiên cứu về chu kỳ kinh tế. Chúng tôi thể hiện các phân tích trong thời
kỳ tỷ giá không đổi vì những tác động có thể khác nhau dưới những chế độ tỷ giá
khác nhau.
3. Phương pháp nghiên cứu
Như đã thảo luận trong phần giới thiệu, một lý do quan trọng giải thích tại sao
tương quan giữa tài khoản vãng lai và tiết kiệm chính phủ không xác định là do phản
ứng nội sinh của tiết kiệm chính phủ và tài khoản vãng lai đối với biến động sản
lượng. Chúng ta biết rằng cán cân ngân sách chính phủ, đặc biệt là nguồn thu, thường
biến động theo chu kỳ kinh tế, trong khi cả hai lý thuyết về tài khoản vãng lai truyền
thống và lý thuyết về chu kỳ kinh tế quốc tế hiện đại đều dự đoán những biến động
xảy ra không theo chu kỳ kinh tế của tài khoản vãng lai khi xảy ra các cú sốc về sản
lượng hay về năng suất sản xuất. Vì vậy, để nhận dạng những tác động của những cú
sốc thâm hụt ngân sách lên tài khoản vãng lai, điều quan trọng là phải kiểm soát được

những biến động nội sinh của cán cân ngân sách lên tài khoản vãng lai, đặc biệt là khi
có sự hiện diện của những cú sốc sản lượng. Mô hình thực nghiệm mà chúng tôi trình
bày trong phần tới được xây dựng nhằm kiểm soát đặc tính tương tác nội sinh này của
ngân sách chính phủ và tài khoản vãng lai, và để nhận dạng những thành phần ngoại
sinh của cán cân ngân sách. Chúng tôi sử dụng một mô hình cấu trúc tự hồi quy vecto
(VAR) bởi vì mô hình VAR rất hữu dụng trong việc kiểm soát những yếu tố nội sinh
và tách những yếu tố ngoại sinh của chúng. Mô hình chúng tôi sử dụng thông tin từ
nhiều biến số vĩ mô khác nhau, những tương tác và những mối quan hệ động của
chúng để hình thành các thành phần ngoại sinh của thâm hụt ngân sách và để phân
tích những tác động từ các cú sốc ngoại sinh thâm hụt ngân sách lên tài khoản vãng
lai và tỷ giá hối đoái thực.
Dữ liệu về sản lượng, tài khoản vãng lai, cán cân ngân sách Chính phủ, và
những thành phần của chúng được lấy từ các bảng National Income và Product
Accounts (NIPA) tại trang web của Cục Phân tích Kinh tế của Mỹ
().
Dữ liệu tỷ giá hối đoái hiệu lực được thu thập từ hai nguồn, Thống kê tài chính
thế giới của IMF và Công bố thống kê của Cục dự trữ liên bang từ website của Cục dự
trữ liên bang. Từ công bố thống kê của Cục dự trữ liên bang, chỉ số tỷ giá hối đoái
thực và danh nghĩa tính theo trọng số thương mại so với các đồng tiền chính (“Major
4
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
Currencies”) và so với một nhóm lớn các đối tác thương mại (“Boards”) được thu
thập. Trong mô hình cơ bản, sử dụng chỉ số tỷ giá hối đoái thực tính theo trọng số
thương mại so với các đồng tiền chính từ các công bố thống kê của Cục dự trữ liên
bang. Trong mô hình cơ bản mở rộng, tỷ giá hối đoái danh nghĩa được sử dụng tương
ứng.
Những dữ liệu khác như lãi suất, CPI, GDP tiềm năng, nợ công được thu thập
từ FRED, chi tiêu quốc phòng thực được lấy từ CITIBASE.
Cuối cùng, dữ liệu trong mô hình VAR - bao gồm tập hợp các nước không phải
Mỹ – được thu thập từ các nguồn sau. Tỷ số cán cân ngân sách cơ bản/GDP được thu

thập từ OECD Economic Outlook. GDP – tính theo đơn vị đồng nội tệ hiện hành và
cố định, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tính theo đơn vị đồng nội tệ hiện hành,
và chỉ số GDP giảm phát được thu thập từ OECD Quartely National Accounts đối với
Mỹ, Đức, Anh và từ thống kê tài chính quốc tế đối với Pháp và Nhật.
Trong khi chúng tôi sử dụng thâm hụt ngân sách chính phủ cơ bản trong mô
hình cơ bản, chúng tôi cũng xem xét thâm hụt ngân sách chính phủ và vay nợ ròng
của chính phủ. Liên quan đến các thành phần của ngân sách chính phủ, chúng tôi xem
xét thâm hụt ngân sách chính phủ cơ bản thực (thay vì tính theo % GDP), log của chi
tiêu chính phủ thực và chi đầu tư thực, tỷ số tiêu dùng chính phủ/GDP, tỷ số tiêu dùng
và đầu tư chính phủ/GDP, và log của chuyển nhượng thực ròng.
Đối với các phương pháp đo lường tài khoản vãng lai khác nhau, chúng tôi thử
nghiệm 3 phương pháp đo lường khác nhau: chênh lệch giữa log của xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ theo các giá trị thực và log của nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ theo
các giá trị thực, tỷ số giữa xuất khẩu ròng thực của hàng hóa và dịch vụ so với GDP
tiềm năng thực từ Văn phòng Ngân sách Quốc hội, và tỷ số giữa xuất khẩu ròng thực
của hàng hóa và dịch vụ so với GDP thực theo xu hướng được tính bằng phương pháp
lọc HP.
Đối với các phương pháp khác nhau để đo lường lãi suất thực, đầu tiên, chúng
tôi sử dụng chỉ số lạm phát CPI thay cho tỷ lệ lạm phát tính theo GDP hiệu chỉnh
được sử dụng trong mô hình cơ bản. Thứ hai, chúng tôi sử dụng lãi suất thực ước tính
theo tỷ lệ lạm phát kỳ vọng. Để tính tỷ lệ lạm phát kỳ vọng theo quý, chúng tôi giả
định log của GDP hiệu chỉnh theo mô hình VAR 5 biến (với 4 độ trễ) bao gồm lãi
suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 3 tháng, log của M2, log của GDP hiệu chỉnh, log của
GDP thực, tỷ số thâm hụt ngân sách chính phủ cơ bản so với GDP.
5
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
Đối với sự thay đổi thứ tự các biến, đầu tiên, thông tin của lãi suất thực hiện
hành được sử dụng để nhận dạng những cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ, bằng
cách thay đổi thứ tự các biến trong mô hình cơ bản (RGDP, RIR, GOV, CUR, RER).
Thứ hai, chúng tôi xem xét thứ tự của các biến {GOV, RGDP, CUR, RIR, RER} để

tính đến khả năng những cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ có thể tác động một
cách đồng thời lên nền kinh tế thực.
4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu
4.1 Phân tích thực nghiệm
4.1.1 Những thống kê và vấn đề sơ bộ
Đầu tiên, chúng tôi trình bày một số đặc tính cơ bản của dữ liệu và một vài số
liệu được quy cách hóa nhằm giúp chúng ta hiểu về sự biến động kết hợp giữa thâm
hụt ngân sách, tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực. Tài khoản vãng lai thường
được gọi là đầu tư nước ngoài ròng. Dựa trên các khái niệm, nó bằng với khoản chênh
lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư, mặc dù các dữ liệu thực tế chứa đựng những
sai số thống kê đáng kể. Tiết kiệm được chia thành tiết kiệm cá nhân và tiết kiệm
chính phủ (hoặc số dư ngân sách Chính phủ hay số âm của thâm hụt ngân sách). Tiết
kiệm của Chính phủ được chia thành tiền lãi ròng nhận được và cán cân ngân sách cơ
bản của Chính phủ (hay thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ). Nghĩa là:
Tài khoản vãng lai = Tiết kiệm – Đầu tư + Sai số thống kê = Tiết kiệm cá nhân
– Thâm hụt ngân sách sơ cấp + Lãi ròng nhận được - Đầu tư + Sai số thống kê (1)
Bảng 1: Mối tương quan cơ bản
Hệ số tương quan với CUR Hệ số tương quan với RER
Tiết kiệm Chính phủ/GDP - 0.11 - 0.08
Tiết kiệm Chính phủ sơ cấp/GDP - 0.16 0.03
“CUR” biểu thị tài khoản vãng lai (% của GDP) trong khi “RER” biểu thị tỷ giá
thực có hiệu lực
Đồng nhất thức thứ hai trong công thức (1) thường được sử dụng như là cơ sở
cho “thâm hụt kép” hay một mối quan hệ đồng biến giữa Tài khoản vãng lai và tiết
kiệm Chính phủ (hay một mối quan hệ đồng biến giữa thâm hụt tài khoản vãng lai và
thâm hụt ngân sách chính phủ). Nghĩa là, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi,
6
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
tiết kiệm chính phủ và tài khoản vãng lai sẽ đồng biến, một sự gia tăng trong thâm hụt
ngân sách chính phủ sẽ dẫn đến một sự xấu đi trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên,

như đã thảo luận trong phần giới thiệu, một mối quan hệ đồng biến thì khó mà thấy
được trong dữ liệu và mối tương quan nghịch đã xuất hiện trong biểu đồ 1. Bảng 1
cho thấy hệ số tương quan giữa tài khoản vãng lai và tiết kiệm chính phủ trong suốt
một thời kỳ mẫu. Quả thật hệ số tương quan này âm và yếu, -0.11. Hệ số tương quan
giữa tài khoản vãng lai và cân đối ngân sách sơ cấp thì âm nhiều hơn, -0.16. Điều này
xác nhận rằng ngân sách chính phủ và tài khoản vãng lai nhìn chung không biến động
theo cùng một hướng. Nghĩa là, “sự biến động trái chiều”, đúng hơn là “Thâm hụt
kép”, đã trở thành mẫu hình xuất hiện thường xuyên hơn trong dữ liệu của giai đoạn
mẫu.
4.1.2 Mô hình nhận dạng cơ bản
Mô hình cơ bản bao gồm năm biến {RGDP, GOV, CUR, RIR, RER}, lần lượt
là log của GDP thực, một biến ngân sách chính phủ tính theo % của GDP, tài khoản
vãng lai tính theo % của GDP, lãi suất thực ba tháng (hậu suy) và log của tỷ giá hối
đoái thực. Trong mô hình cơ bản, thâm hụt ngân sách sơ cấp ký hiệu là GOV. GOV,
CUR và RER là những biến chính được quan tâm trong bài nghiên cứu này. RGDP là
biến vĩ mô quan trọng đại diện cho toàn bộ sự phát triển kinh tế. RGDP được tính đến
để kiểm soát những yếu tố mang tính chu kỳ của thâm hụt ngân sách. RIR cũng là một
biến vĩ mô quan trọng, một dấu hiệu cho thấy sự tác động của chính sách tài khóa.
Biến RIR có thể bị tác động bởi chính sách tiền tệ, cái mà chúng tôi muốn kiểm soát.
Mô hình nhận dạng cơ bản của chúng tôi sử dụng là mô hình VAR đệ quy (được đề ra
bởi Sims, 1980). Danh sách của những biến là {RGDP, GOV, CUR, RIR, RER} trong
đó những biến ngoại sinh cùng thời được đặt đầu tiên. Trong mô hình, cú sốc thâm
hụt ngân sách (ngoại sinh) được rút ra bằng cách đặt điều kiện cho RGDP hiện hành
và RGDP trễ, cũng như các biến trễ khác. Chúng tôi đặt điều kiện cho RGDP hiện
hành vì (thâm hụt) ngân sách chính phủ có khả năng bị tác động nội sinh
(endogenously affected) bởi các trạng thái hiện thời của hoạt động kinh tế trong một
quý. Cụ thể, các yếu tố của thu nhập chính phủ, như thuế doanh thu và thuế thu nhập
cũng có thể phụ thuộc vào trạng thái của nền kinh tế tại thời điểm xem xét trong một
quý. Thời kỳ ước lượng là thời kỳ chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi gần đây (1973 –
2004;1). Mô hình sử dụng dữ liệu hàng quý và một kỳ hạn cố định. Mô hình bốn độ

trễ được chọn.
4.1.3 Những kết quả cơ bản
7
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
Phân tích phương sai sai số dự báo của thâm hụt ngân sách trong bảng 2
(những số trong dấu ngoặc đơn là dải sai số 68%) cung cấp những bằng chứng rõ hơn
cho kết quả này. Sự đóng góp của những cú sốc thâm hụt ngân sách (ngoại sinh) đến
những biến động của chính nó là 42.8% trong chuỗi 4 quý và ít hơn nhiều trong
những chuỗi thời gian dài hơn. Nghĩa là, những yếu tố ngoại sinh đóng góp ít hơn
nhiều 50% của tổng biến động thâm hụt ngân sách. Mặt khác, đóng góp của những cú
sốc sản lượng đầu ra thì nhiều hơn 50% tại mọi chuỗi thời gian được thể hiện trong
bảng 2. Điều này cho thấy rằng mô hình thực tiễn của chúng tôi cần tính đến những
yếu tố nội sinh quan trọng của thâm hụt ngân sách, đặc biệt là những yếu tố nội sinh
đối với những cú sốc sản lượng của cân đối ngân sách.
Bảng 2: Phân tích phương sai sai số dự báo của GOV
Thời gian/Cú sốc RGDP GOV CUR RIR RER
4 quý 53.1(42.4,60.6) 42.8(33.0,49.7) 0.8(0.6,3.1) 0.5(0.4,2.3) 2.7(0.8,6.6)
8 quý 62.9(48.1,69.3) 28.2(19.3,36.7) 0.6(0.6,4.1) 1.8(0.7,5.7) 6.5(1.7,14.6)
12 quý 61.2(44.0,68.3) 24.2(15.2,32.3) 0.6(0.8,5.1) 2.5(0.9,8.3) 11.6(3.2,22.7)
16 quý 57.9(39.0,66.0) 22.6(13.5,30.2) 0.7(1.0,6.2) 3.1(1.2,11.0) 15.7(5.1,28.2)
Những tác động của cú sốc sản lượng (RGDP) rất đáng để quan tâm. Khi đầu ra
tăng, thâm hụt ngân sách giảm (hay ngân sách chính phủ được cải thiện) trong vài
năm. Điều này nhất quán với vai trò là một yếu tố tự ổn định của ngân sách chính phủ
và hành vi mang tính chu kỳ cao của ngân sách chính phủ. Khi đầu ra tăng, tài khoản
vãng lai xấu đi, đồng nội tệ tăng giá trị (hay tỷ giá thực giảm) và lãi suất thực tăng.
Biến động phản chu kỳ này của tài khoản vãng lai phù hợp với cả những lý thuyết
truyền thống và hiện đại về tài khoản vãng lai. Nói chung, những xung phản ứng này
phù hợp với ý tưởng cho rằng các cú sốc sản lượng gây nên sự biến động trái chiều
giữa tài khoản vãng lai và tiết kiệm Chính phủ. Thêm vào đó, những kết quả này cho
thấy rằng mô hình của chúng tôi phân tích sâu hơn những biến động nội tại của tài

khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách (đặc biệt là những biến động gây ra bởi cú sốc
sản lượng).
Bây giờ, chúng tôi chuyển qua phần chính: những tác động của cú sốc thâm
hụt ngân sách. Khi thâm hụt ngân sách tăng, sản lượng đầu ra tăng liên tục và lãi suất
thực tăng. Những tác động này phù hợp với lý thuyết chuẩn. Mặt khác, những tác
8
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
động lên tài khoản vãng lai và tỷ giá thực thì hơi bất ngờ, nó thì khác với những dự
báo chuẩn của hầu hết mô hình lý thuyết.
Chúng tôi cũng cung cấp một bản tóm tắt những tác động của những cú sốc
cấu trúc khác mặc dù không dễ để giải thích rõ ràng những cú sốc cấu trúc đó. Lãi
suất thực tăng làm tăng giá trị đồng nội tệ, tác động này tuân theo điều kiện cân bằng
lãi suất thực không đảm bảo (UIPC). Cuối cùng, một sự tăng tỷ giá thực (một giảm
giá trị đồng nội tệ) sẽ cải thiện tài khoản vãng lai. Điều này nhất quán với hiệu ứng
chuyển đổi chi tiêu.
4.1.4 Những tác động đối với các thành phần của Tài khoản vãng lai và Tỷ
giá thực.
Trong phần trước, chúng tôi đã báo cáo một kết quả đáng ngạc nhiên rằng sự
gia tăng trong thâm hụt ngân sách chính phủ sẽ giúp cải thiện tài khoản vãng lai và
làm giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá thực. Trong phần này, chúng tôi sẽ tìm hiểu
thêm vì sao và như thế nào những tác động này được tìm ra, bằng cách phân tích tác
động của cú sốc thâm hụt ngân sách lên từng thành phần của tài khoản vãng lai và tỷ
giá thực.
Đầu tiên, chúng ta tìm hiểu phản ứng của của thành phần trong tài khoản vãng
lai. Chúng ta mở rộng vào mô hình 5 biến số cơ bản một biến số mới, CURA, một
thành phần của tài khoản vãng lai. Bây giờ chúng ta có một mô hình 6 biến {RGDP,
GOV, CUR, CURA, RIR, RER}. Bằng cách chia đầu tư thành đầu tư chính phủ và
đầu tư tư nhân, công thức (1) trở thành:
Tài khoản vãng lai = Tiết kiệm cá nhân - Thâm hụt ngân sách sơ cấp+ Thu lãi
ròng của Chính phủ - Đầu tư tư nhân - Đầu tư Chính phủ + Sai số thống kê (2)

Dựa vào công thức (2), chúng ta sử dụng tiết kiệm cá nhân, thu lãi ròng của
Chính phủ, đầu tư tư nhân, đầu tư Chính phủ, sai số thống kê (tất cả đều tính theo %
GDP) như là biến CURA (lưu ý rằng thâm hụt ngân sách sơ cấp đã bao gồm trong hệ
thống - trong GOV). Ngoài ra, để suy luận sâu hơn về hành vi tiêu dùng hộ gia đình,
chúng ta cũng tính đến chi tiêu hộ gia đình (theo % GDP) trong CURA. Thứ hai,
chúng ta thay thế tỷ giá có hiệu lực thực trong mô hình cơ bản bằng tỷ giá hối đoái
danh nghĩa để kiểm định sự thay đổi của tỷ giá danh nghĩa có tác động như thế nào
đến sự thay đổi tỷ giá thực (so sánh với tác động của sự thay đồi mức giá tương đối).
9
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
Phản ứng lại sự gia tăng thâm hụt ngân sách chính phủ (tiết kiệm Chính phủ
giảm), tiết kiệm cá nhân tăng vọt để bù đắp cho mức giảm tiết kiệm Chính phủ. Hiệu
ứng "Ricardo" rõ rệt đã xuất hiện. Nhưng sự tăng này cũng chỉ là cục bộ. Mức tăng
tiết kiệm cá nhân nhỏ hơn mức tăng thâm hụt ngân sách. Chi tiêu tăng không đáng kể
trong ngắn hạn. Thêm vào đó, sự tăng thâm hụt ngân sách gây ra sự rút vốn đầu tư tư
nhân hàng loạt trong ngắn hạn, đây có thể là kết quả của việc lãi suất thực tăng.
Nhưng trên hết, mức tăng tiết kiệm cá nhân và mức giảm đầu tư tư nhân lớn hơn mức
tăng thâm hụt ngân sách trong ngắn hạn. Do đó, tài khoản vãng lai được cải thiện
trong ngắn hạn. Những thành phần khác như chi trả lãi vay ròng của Chính phủ, sai số
thống kê thay đổi không đáng kể.
Mặt khác, chúng ta quan sát thấy tỷ giá danh nghĩa cũng tăng đáng kể. Vì vậy,
chúng ta có thể suy ra rằng sự giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá thực, được gây ra
bởi sự tăng thâm hụt ngân sách, chủ yếu là do sự giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá
danh nghĩa. Chính sách giá cố định có thể đã đóng một vai trò quan trọng trong tác
động này.
4.1.5 Những thành phần của ngân sách Chính phủ
Sử dụng mô hình cơ bản, chúng ta kiểm định tác động của cú sốc thâm hụt
ngân sách. Tuy vậy, từng thành phần của ngân sách, cụ thể là mặt thu và mặt chi, có
10
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a

thể có những tác động khác nhau, mặc dù cả hai đều có thể làm tăng thâm hụt ngân
sách. Thật sự các mô hình phân tích thường dự đoán những tác động khác nhau của
chi tiêu Chính phủ và thuế ròng lên tài khoản vãng lai. Vì vậy, việc phân tích riêng lẻ
tác động của từng yếu tố có thể giúp chúng ta hiểu những kết quả nghịch lý nêu trên
về "sự biến động trái chiều". Đầu tiên, chúng ta xem xét tác động của chi tiêu Chính
phủ hay sự mua hàng hóa của Chính phủ. Để phù hợp với mô hình này, chúng ta xây
dựng mô hình 5 biến {GOV, RGDP, CUR, RIR, RER}, trong đó log của chi tiêu
Chính phủ thực được xem là GOV. Thứ hai, chúng ta xem xét tác động của cú sốc
chuyển nhượng ròng (hay số âm của thuế ròng). Trong mô hình cơ bản, chúng ta giả
định rằng chuyển nhượng ròng đồng thời bị tác động bởi RGDP, cụ thể là {RGDP,
GOV, CUR, RIR, RER}. Chúng ta dùng tỷ số của chuyển nhượng ròng đối với GDP.
Những kết quả thực nghiệm cho thấy sự tăng chi tiêu Chính phủ và tăng
chuyển nhượng ròng Chính phủ sẽ cải thiện tài khoản vãng lai và làm giảm giá trị
đồng nội tệ trong tỷ giá thực, điều này phù hợp với những kết quả ban đầu của chúng
tôi về thâm hụt ngân sách Chính phủ. Chúng ta cũng nhận ra rằng sự giảm đầu tư và
tăng tiết kiệm tư cũng đóng góp vào việc cải thiện tài khoản vãng lai. Các mô hình
phân tích đang tồn tại không thể giải thích những kết quả này một cách dễ dàng.
4.1.6 Phân tích sự biến động kết hợp
Trong phần này, chúng ta sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống đặc điểm biến
động kết hợp của ngân sách Chính phủ, tài khoản vãng lai và tỷ giá thực, được sinh ra
bởi từng cú sốc cấu trúc. Chúng ta sẽ phân tích, ví dụ, loại sốc nào có thể dẫn đến
"thâm hụt kép" hoặc "hay sự biến động trái chiều" và từng cú sốc đóng góp bao nhiêu
vào đặc tính biến động kết hợp này. Mặc dù những hàm xung phản ứng cung cấp một
số thông tin về đặc tính biến động kết hợp, chúng ta áp dụng thêm phương pháp phân
tích phương sai sai số dự báo tổng quát được phát triển bởi Kim (2006) để tìm ra vai
trò chính xác của từng cú sốc cấu trúc trong việc giải thích đặc tính biến động kết hợp.
Bảng 3
11
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
Hệ số tương quan không điều kiện của sai số dự báo đối với tài khoản vãng lai

và thâm hụt ngân sách trong 4 và 8 quý lần lượt là 0.42 và 0.34. Hệ số tương quan
dương này cho thấy trong ngắn và trung hạn, thâm hụt ngân sách Chính phủ và tài
khoản vãng lai có xu hướng biến đổi cùng chiều ("Biến động trái chiều"). Cú sốc
RGDP tạo ra mối tương quan xác định gần như hoàn toàn ("Biến động trái chiều ") là
0.97 và 0.98 lần lượt trong 4 và 8 quý. Cú sốc GOV cũng cho thấy một mối tương
quan xác định cao ("Biến động trái chiều ") là 0.70 và 0.63 lần lượt trong 4 và 8 quý.
12
Chuỗi thời
gian
Tương quan vô
điều kiện Các cú sốc
Tương quan có điều
kiện
Phân tích tương
quan
Phân tích hiệp
phương sai
(1) CUR và GOV
4 quý 0.42 (0.31 , 0.51) RGDP 0.97 ( 0.90 , 0.98 ) 0.33 (0.23 , 0.39) 78.0 (60.2 , 95.1)
GOV 0.70 ( 0.27 , 0.83 ) 0.10 (0.16 , 0.03) 22.7 (7.4 , 36.1)
CUR 0.25 (-0.14 , 0.58 ) 0.02 (-0.01 , 0.06) 4.4 (-3.4 , 15.8)
RIR 0.52 ( -0.46 , 0.89 ) 0.01 (-0.01 , 0.03) 1.6 (-1.5 , 6.2)
RER 0.05 ( -0.24 , 0.55 ) -0.03 ( -0.04 , -0.01) -6.8 ( -13.0 , -1.2 )
8 quý 0.34 (0.48 , 0.18) RGDP 0.98 ( 0.92 , 0.98 ) 0.40 (0.27 , 0.45 ) 117.5 (83.6 , 167.0)
GOV 0.63 ( 0.01 , 0.79 ) 0.06 (0.00 , 0.10 ) 16.4 ( 0.4 , 34.2)
CUR 0.05 ( -0.24 , 0.55 ) 0.00 ( -0.02 , 0.04 ) 0.7 ( -8.9 , 16.0 )
RIR 0.30 ( -0.39 , 0.72 ) 0.01 (-0.01 , 0.03 ) 1.8 ( -2.9 , 9.9 )
RER -0.97 ( -0.97 , -0.73 ) -0.12 (-0.17 ,-0.05 ) -36.4 ( -76.5 , -10.0 )
(2) RER và GOV
4 quý 0.09 (-0.05 , 0.22) RGDP 0.99 (0.79 , 0.99) 0.14 ( 0.04 , 0.21 ) 153.5 (75.4 , 195.6 )

GOV 0.93 (0.20 , 0.94) 0.14 ( 0.09 , 0.25 ) 97.5 (-31.4 , 139.9 )
CUR 0.11 ( -0.69 , 0.69 ) 0.00 ( -0.01 , 0.01 ) 1.1 ( -10.1 , 12.7 )
RIR -0.36 ( -0.81 , 0.62) -0.01 ( -0.03 , 0.01 ) -9.6 (-32.3 , 27.8 )
RER -0.85 ( -0.87 , -0.72 ) -0.13 (-0.18 , -0.05) -142.6 (-202 , 185 )
8 quý 0.05 (-0.14 , 0.25) RGDP 0.93 (0.78 , 0.96) 0.22 ( 0.09 , 0.31 ) 404.8 (-195 , 259 )
GOV 0.84 (0.10 , 0.87) 0.07 ( 0.00 , 0.11 ) 120.5 (-44.8 , 102.4 )
CUR 0.41 (-0.65 , 0.73) 0.00 ( -0.01 , 0.02 ) 9.0 ( -9.3 , 16.5 )
RIR -0.82 ( -0.90 , -0.03 ) -0.01 ( -0.03 , 0.01 ) -73.9 ( -49.7 , 59.1 )
RER -0.90 (-0.91 , -0.75 ) -0.20 ( -0.26 , -0.08) -260.4 (-219 , 252 )
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
Những cú sốc về CUR và RIR cũng cho ra những mối tương quan xác định trong khi
cú sốc về RER lại cho thấy mối tương quan phủ định.
Nhìn chung, sự biến động kết hợp cùng chiều (hay biến động kết hợp không
điều kiện) chủ yếu là kết quả của những cú sốc sản lượng: trong hệ số tương quan, sự
đóng góp của đầu ra là 0.33 trong 0.42 (chiếm 78%), và là 0.40 trong 0.34 (chiếm
117.5%) lần lượt trong 4 và 8 quý. Cú sốc thâm hụt ngân sách cũng đóng góp 0.10
trong 0.42 (chiếm 22.7%) và 0.06 trong 0.34 (chiếm 16.4%) lần lượt trong 4 và 8 quý.
Vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng cú sốc sản lượng là nguyên nhân quan trọng nhất
dẫn đến hiện tượng "biến động trái chiều" mà chúng ta quan sát thấy thông qua dữ
liệu. Nhưng trong một chừng mực nhất định, cú sốc thâm hụt ngân sách cũng góp
phần tạo nên "biến động trái chiều".
Bảng 3 (2) cho thấy kết quả phân tích biến động kết hợp của tỷ giá thực và
thâm hụt ngân sách Chính phủ. Hê số tương quan không điều kiện của sai số dự báo
lần lượt là 0.09 và 0.05 trong 4 và 8 quý. Cú sốc RGDP và GOV sinh ra một mối
tương quan xác định cao và nó được bù đắp bằng một mối tương quan phủ định cao
được sinh ra bới những cú sốc RIR và RER. Mối tương quan không điều kiện có ý
nghĩa với mức xác suất 68%. Trong 4 quý, cú sốc GOV và RGDP có vai trò ngang
nhau trong việc giải thích sự biến đổi cùng chiều của RER và GOV; còn trong 8 quý,
mức đóng góp của cú sốc RGDP lớn hơn đóng góp của cú sốc GOV.
4.2 Kiểm định mở rộng và kiểm định tính chắc chắn của mô hình

4.2.1 Kiểm định các biến bằng các phương pháp, các lược đồ nhận dạng
thay thế và những mô hình mở rộng
Chúng tôi kiểm định độ chắc chắn của những kết quả chính theo những khía
cạnh khác nhau. Đầu tiên, chúng tôi kiểm định xem những kết quả của chúng tôi có
chắc chắn hay không dưới những định nghĩa khác nhau của thâm hụt/cân đối ngân
sách chính phủ và những thành phần ngân sách chính phủ. Thứ hai, chúng tôi thử với
những cách xác định tỷ giá hối đoái thực khác nhau. Thứ ba, chúng tôi thay đổi cách
sắp xếp những biến trong mô hình. Thứ tư, chúng tôi xem xét các phương pháp khác
để tính lãi suất thực. Thứ năm, chúng tôi thử nghiệm các cách đo lường khác của tài
khoản vãng lai. Trong mọi trường hợp, tài khoản vãng lai được cải thiện, đồng nội tệ
giảm giá trị, các tác động trong ngắn hạn thì có ý nghĩa ở mức xác suất 68%. Trong
nhiều trường hợp, gia tăng tỷ giá hối đoái thực với mức xác suất 68%.
13
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
Chúng tôi cũng xem xét một số mô hình mở rộng. Trước tiên, chúng tôi xây
dựng một mô hình có sáu biến bao gồm thêm một biến, ví dụ như nợ công ("Debt"
trong biểu đồ 6) và chênh lệch kỳ hạn ("Spread"). Thứ hai, chúng tôi xem xét một mô
hình bao gồm một sự đo lường thâm hụt ngân sách sơ cấp do cấu trúc ("Structural"),
trong đó loại trừ những thành phần có tính chu kỳ của thâm hụt ngân sách sơ cấp.
Cuối cùng, tỷ giá thực và tài khoản vãng lai của Mỹ đại diện cho một mối quan
hệ kinh tế giữa Mỹ và phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, mô hình VAR cơ bản có
thể không nắm bắt đúng những điều kiện kinh tế nước ngoài vì nó không bao gồm
những biến nước ngoài. Để kiểm soát những biến nước ngoài này, chúng tôi xây dựng
hai mô hình mở rộng. Đầu tiên, chúng tôi xây dựng một mô hình mà bao gồm trong
đó mỗi biến là độ lệch của nó so với con số tổng của các nước G5 trừ Mỹ
("Deviations"). Mô hình bao gồm những biến sau đây, {RGDP- RGDP
*
, GOV-GOV
*
,

TB5, RIR- RIR
*
, RER5}, với RGDP
*
là log của GDP thực của các nước G5 trừ Mỹ .
GOV
*
là tỷ lệ của thâm hụt ngân sách trên GDP của các nước G5 trừ Mỹ. TB5 là tỷ số
cán cân thương mại của Mỹ đối với các nước G5 trừ Mỹ trên GDP của Mỹ (ở đây cán
cân thương mại được sử dụng thay cho tài khoản vãng lai ); RER5 là tỷ giá thực có
hiệu lực của Mỹ đối với các nước G5 trừ Mỹ; và những biến ngoại sinh cùng thời
được đặt lên đầu. Thứ hai, mô hình trước đây hữu ích nhưng giới hạn trong mô hình
là đã không tách rời những tác động của những cú sốc thâm hụt ngân sách Mỹ khỏi
những cú sốc thâm hụt ngân sách từ các nước khác. Vì thế, chúng tôi xây dựng một
mô hình khác đã tách rời thâm hụt ngân sách của Mỹ và thâm hụt ngân sách của các
nước khác ("7VAR"). Những biến trong mô hình này là {RGDP, RGDP
*
, GOV
*
,
GOV, TB5, RIR–RIR
*
, RER5}, trong đó những biến ngoại sinh cùng thời được đặt
đầu tiên. Chú ý rằng GOV
*
được đặt trước GOV để xác định những cú sốc thâm hụt
ngân sách của Mỹ mà không tương quan với sự thay đổi trong thâm hụt ngân sách của
những nước khác. Thêm vào đó, RGDP và RGDP
*
cũng được tính riêng để xây dựng

cú sốc thâm hụt ngân sách Mỹ bằng cách điều chỉnh một cách phù hợp cú sốc RGDP.
4.2.2 Những thử nghiệm sâu hơn về các thành phần của ngân sách chính
phủ
Chúng tôi đã kiểm định những tác động của hai thành phần của ngân sách
chính phủ: chi tiêu và thuế ròng. Trong mục này, chúng tôi kiểm định sâu hơn những
tác động của hai thành phần này bằng việc sử dụng những phương pháp khác nhau.
14
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
Đầu tiên, chúng tôi xem xét một mô hình nhận dạng bất đệ quy ("Non-
Recursive"), chi tiêu của chính phủ và chuyển nhượng ròng được đưa vào trong mô
hình.
{GOV1, GOV2, RGDP, CUR, RIR, RER} được đưa vào trong mô hình, trong
đó chi tiêu thực của chính phủ được sử dụng như GOV1 và tỉ số chuyển nhượng ròng
trên GDP được sử dụng như GOV2. Trong mô hình này, những tác động cùng thời
của chi tiêu chính phủ và chuyển nhượng ròng lên mức đầu ra, cũng như những tác
động cùng thời của mức đầu ra lên chuyển nhượng ròng, đều được tính đến.
Thứ hai, chúng tôi sử dụng mô hình Edelberg, Eichenbaum, và của Fisher
("EEF") để kiểm định tác động của cú sốc chi tiêu mua sắm chính phủ lên tài khoản
vãng lai. Chúng tôi thêm hai biến chi tiêu mua sắm chính phủ và tài khoản vãng lai
vào bốn biến cơ bản được dùng bởi EEF.
Trong mọi trường hợp, chúng tôi thấy rằng có sự cải thiện tài khoản vãng lai và
một sự gia tăng tỷ giá hối đoái thực. Những mô hình trước đây, tác động của những
cú sốc chi tiêu chính phủ lên tài khoản vãng lai có xu hướng ổn định hơn tác động của
cú sốc chuyển nhượng ròng. Trong mô hình EEF, tài khoản vãng lai xấu đi trong giai
đoạn đầu. Nó dường như là kết quả từ sự sụt giảm ban đầu chi tiêu mua sắm chính
phủ (biểu thị hàng đầu tiên). Từ giai đoạn kế tiếp, chi tiêu mua sắm chính phủ bắt đầu
tăng và tài khoản vãng lai cũng bắt đầu cải thiện. Do vậy kết quả dường như là phù
hợp với kết quả trước đó.
Cuối cùng, một nghiên cứu gần đây của Monacelli and Perotti (2006) chỉ trích
mô hình cơ bản của chúng tôi:

- Những tác động cùng thời của cú sốc thâm hụt ngân sách lên đầu ra không
được kể đến trong hệ thống.
- GDP là một biến nội sinh và không nên xuất hiện trong mẫu thức của các
biến tài khóa mà chúng tôi đã nghiên cứu.
Tuy nhiên, những kết quả chính của chúng tôi có sự vững chắc với hai chỉ trích
trên, vì kết quả thực nghiệm của chúng tôi vững chắc về mặt định tính dưới những đặc
tính thực nghiệm có thể thay thế, những đặc tính này có tính đến tác động cùng thời
của cú sốc thâm hụt ngân sách lên đầu ra và những đặc tính này sử dụng những biến
tài khóa được đo bằng giá trị thực (không tính theo % GDP).
5. Kết luận
15
Thâm hụt kép hay biến động trái chiều?! Chính sách tài khoá, cán cân vãng lai và TGHĐ thực ở Mỹ a
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi đã kiểm định những tác động của cú sốc
thâm hụt ngân sách lên tài khoản vãng lai và tỷ giá thực tại Mỹ, dựa trên mô hình
VAR, trong thời kỳ chế độ tỷ giá linh hoạt. Mô hình thực nghiệm xác định những cú
sốc thâm hụt ngân sách chính phủ sau khi kiểm soát những nguồn gây ra biến động
nội sinh của ngân sách chính phủ, như là các cú sốc sản lượng.
Những kết quả thực nghiệm đã chỉ ra rằng thâm hụt ngân sách làm tăng tài
khoản vãng lai và làm tăng tỷ giá hối đoái thực trong ngắn hạn. Những kết quả này đi
ngược lại những dự báo của hầu hết các mô hình lý thuyết. Phát hiện này thì đứng
vững qua nhiều cách xác định khác nhau, các phương pháp đo lường thâm hụt ngân
sách chính phủ khác nhau, những giả định nhận dạng thay thế, các thành phần khác
nhau của ngân sách chính phủ, và những mô hình thực nghiệm thay thế.
Những phân tích chi tiết hơn đã chỉ ra rằng sự cải thiện tài khoản vãng lai là
kết quả từ hành vi tăng tiết kiệm cá nhân cục bộ theo hiệu ứng Ricardo (nghĩa là, tiết
kiệm cá nhân tăng), và sự suy giảm trong đầu tư (tác động chèn lấn dường như là kết
quả của sự gia tăng lãi suất thực), trong khi đó sự gia tăng tỷ giá hối đoái thực chủ yếu
được gây ra bởi sự gia tăng tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Mặc dù một vài mô hình phân
tích chỉ ra rằng thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến một sự cải thiện tài khoản vãng lai và
gia tăng tỷ giá hối đoái thực, nhưng chúng không hoàn toàn đưa ra những bằng chứng

chi tiết như đã trình bày trong bài nghiên cứu này. Những nghiên cứu lý thuyết trong
tương lai cố gắng nối kết những phát hiện trong bài viết này sẽ cho ra nhiều kết quả,
cũng như những nghiên cứu thực nghiệm trong tương lai cố gắng làm sáng tỏ cơ chế
truyền động này.
Những kết quả trình bày trong đây cũng chỉ ra rằng sự biến động trái chiều
dường như là mẫu hình phổ biến hơn trong dữ liệu so với thâm hụt kép. Một sự
chuyển động nghịch nhau của cân đối ngân sách và tài khoản vãng lai được kỳ vọng
sẽ xảy ra khi có những cú sốc mang tính chu kỳ của đầu ra hay năng suất sản xuất.
Thật sự, hầu hết sự đồng biến của cân đối ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai
dường như là do những cú sốc của đầu ra và năng suất sản xuất. Tuy nhiên, sự biến
động trái chiều vẫn xảy ra, thậm chí khi chúng ta xem xét những cú sốc tài khóa do
yếu tố ngoại sinh gây ra. Trong khi sự đóng góp của các cú sốc tài khóa ngoại sinh
vào hiện tượng biến động trái chiều này là tương đối nhỏ so với các cú sốc sản lượng,
những kết quả này đề xuất một sự cần thiết trong việc xem xét phân tích lại về tác
động của các chính sách tài khóa ảnh hưởng như thế nào trên tài khoản vãng lai.
16

×