Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

TIỂU LUẬN hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.2 KB, 36 trang )






TIỂU LUẬN:

Hiệu quả kinh doanh trong
các doanh nghiệp








LờI NóI Đầu

Kinh tế thị trường là việc tổ chức nền kinh tế xã hội dựa trên cơ sở một nền sản xuất
hàng hoá. Thị trường luôn mở ra các cơ hội kinh doanh mới, nhưng đồng thời cũng chứa
đựng những nguy cơ đe doạ cho các doanh nghiệp. Để có thể đứng vững trước qui luật cạnh
tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải vận động, tìm tòi
một hướng đi cho phù hợp. Việc đứng vững này chỉ có thể khẳng định bằng cách hoạt động
kinh doanh có hiệu quả.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp. Đánh
giá hiệu quả kinh doanh chính là quá trình so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu về với
mục đích đã được đặt ra và dựa trên cơ sở giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế này:
sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Do đó việc nghiên cứu và xem xét
vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu đối với mỗi doanh nghiệp trong
quá trình kinh doanh hiện nay. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đang là một bài toán khó


đòi hỏi mỗi doanh nghiệp đều phải quan tâm đến, đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có độ
nhạy bén, linh hoạt cao trong qúa trình kinh doanh của mình. Vì vậy, qua quá trình học tập
với những kiến thức đã tích luỹ được cùng với sự nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề
này cho nên em đã mạnh dạn chọn đề tài "Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp"
làm đề tài nghiên cứu của mình.

nội dung
I. Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1. Các quan điểm và bản chất của hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
1.1. Các quan điểm cơ bản về hiệu quả
Ngày nay, khi đề cập đến vấn đề hiệu quả thì người ta vẫn chưa có được một khái niệm
thống nhất. Bởi vì ở mỗi một lĩnh vực khác nhau, xem xét trên các góc độ khác nhau thì
người ta có những cách nhìn nhận khác nhau về vấn đề hiệu quả. Như vậy, ở mỗi lĩnh vực
khác nhau thì người ta có những khái niệm khác nhau về hiệu quả, và thông thường khi nói
đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì người ta gắn ngay tên của lĩnh vực đó liền ngay sau
hiệu quả. Để hiểu rõ hơn về vấn đề hiệu quả thì chúng ta xem xét các vấn đề hiệu quả ở trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Tương ứng với các lĩnh vực này là 3 phạm trù hiệu
quả: hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội.
* Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu
kinh tế của một thời kỳ nào đó. Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố riêng lẻ thì chúng ta có
phạm trù hiệu quả kinh tế, và xem xét vấn đề hiệu quả trong phạm vi các doanh nghiệp thì
hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Hiểu theo mục đích
cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được hiệu
quả đó. Trong đó kết quả thu về chỉ là kết quả phản ảnh những kết quả kinh tế tổng hợp như
là: doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản lượng công nghiệp nếu ta xét theo từng yếu tố riêng lẻ
thì hiệu quả kinh tế là thể hiện trình độ và sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất
kinh doanh, nó phản ảnh kết quả kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào
quá trình kinh doanh.

Cũng giống như một số chi tiết khác hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản
ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là một phạm trù kinh tế
gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt
hiệu quả cao hay thấp. Nói một cách khác, chỉ tiêu hiệu quả kinh tế phản ánh về mặt định
lượng và định tính trong sự phát triển kinh tế.
Nhìn ở tầm vi mô của từng doanh nghiệp riêng lẻ hiệu quả kinh tế được biểu hiện qua
phạm trù hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh đầy đủ các mặt
của cả một quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp. Cụ thể là:

Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh lợi ích thu được với chi phí bỏ ra trong
suốt qúa trình kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới giác độ này thì chúng ta có thể xác định
hiệu quả kinh doanh một cách cụ thể bằng các phương pháp định lượng thành các chỉ tiêu
hiệu quả cụ thể và từ đó có thể tính toán so sánh được, lúc này phạm trù hiệu quả kinh doanh
là một phạm trù cụ thể nó đồng nhất và là biểu hiện trực tiếp của lợi nhuận, doanh thu
Ngoài ra nó còn biểu hiện mức độ phát triển doanh nghiệp theo chiều sâu, phản ánh trình độ
khai thác các nguồn lực trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện được mục tiêu kinh doanh.
Lúc này thì phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù trừu tượng và nó phải được định
tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Nói
một cách khác, ta có thể hiểu hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu phản ánh trình độ và khả năng
quản lý của doanh nghiệp. Lúc này hiệu quả kinh doanh thống nhất với hiệu quả quản lý
doanh nghiệp. Dưới góc độ này thì hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ và khả năng kết
hợp các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất.
Trong thực tế hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp đạt được trong các trường
hợp sau:
- Kết quả tăng, chi phí giảm
- Kết qủa tăng, chi phí giảm nhưng tốc độ tăng của chi phí nhỏ hơn tốc độ tăng của kết
quả.
Nói tóm lại ở tầm vĩ mô hiệu qủa kinh doanh phản ánh đồng thời các mặt của quá trình
sản xuất kinh doanh như: kết quả kinh doanh, trình độ sản xuất tổ chức sản xuất và quản lý,

trình độ sử dụng của yếu tố đầu vào đồng thời nó yêu cầu sự phát triển của doanh nghiệp
theo chiều sâu. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là
chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong thời kỳ.
Sự phát triển tất yếu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh, đây là
mục tiêu cơ bản nhất của doanh nghiệp.
* Hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị
Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội
nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh
tế quốc dân thì hiệu qủa xã hội và hiệu quả chính trị là chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng của hoạt
động kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền
kinh tế xã hội. Bởi vậy hai loại hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong việc phát triển đầu

nước một cách toàn diện và bền vững. Đây là chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển của nền
kinh tế xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình quân
thực tế ở các nước tư bản chủ nghĩa đã cho thấy các doanh nghiệp tư bản chỉ chạy theo hiệu
quả kinh tế mà không đặt vấn đề hiệu quả chính trị xã hội đi kèm và dẫn đến tình trạng: thất
nghiệp, khủng hoảng có tính chu kỳ, ô nhiễm môi trường, chênh lệch giàu nghèo quá lớn
Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối, chính sách cụ thể để đồng thời
tăng hiệu quả kinh tế kèm với tăng hiệu quả chính trị xã hội. Tuy nhiên, chúng ta không thể
chú trọng một cách thái quá đến hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội một bài học rất lớn từ
thời kỳ chế độ bao cấp để lại đã cho chúng ta thấy rõ được điều đó.
1.2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh
doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất (lao động, máy móc thiết bị,
nguyên liệu, tiền vốn) trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh cuả doanh
nghiệp.Bản chất của hiệu quả kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm
lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh doanh.
Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả
mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hôị, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và
tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú

trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu lực của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm
mọi chi phí.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi
phí tối thiểu, hay là phải đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả
nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra
nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ
hội là chi phí của sự lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua, hay là chi phí của sự hy sinh công việc
kinh doanh khác để thực hiện hoạt động kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được bổ sung
vào chi phí kế toán và phải loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thực.
Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án kinh doanh tốt
nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn.
2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường

Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với thị trường, nhất là
trong cơ chế thị trường hiện nay đặt các doanh nghiệp trong sự cạnh tranh gay gắt lẫn nhau.
Do đó để tồn tại được trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp
phải hoạt động một cách có hiệu quả hơn.
Các nguồn lực sản xuất xã hội là một phạm trù khan hiếm: càng ngày người ta càng sử
dụng nhiều các nhu cầu khác nhau của con người. Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội
ngày càng giảm thì nhu cầu của con người lại ngàu càng đa dạng. Điều này phản ánh qui luật
khan hiếm. Qui luật khan hiếm bắt buộc mọi doanh nghiệp phải trả lời chính xác ba câu hỏi:
sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Vì thị trường chỉ chấp nhận các nào
sản xuất đúng loại sản phẩm với số lượng và chất lượng phù hợp. Để thấy được sự cần thiết
của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
trước hết chúng ta phải nghiên cứu cơ chế thị trường và hoạt động của doanh nghiệp trong cơ
chế thị trường.
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi hàng hoá. Nó tồn tại một cách khách quan
không phụ thuộc vào một ý kiến chủ quan nào. Bởi vì thị trường ra đời và phát triển gắn liền
với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá.

Ngoài ra thị trường còn có một vai trò quan trọng trong việc điều tiết và lưu thông hàng
hoá. Thông qua đó các doanh nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông
qua hệ thống giá cả trên thị trường. Trên thị trường luôn tồn tại các qui luật vận động của
hàng hoá, giá cả, tiền tệ Như các qui luật giá trị, qui luật thặng dư, qui luật giá cả, qui luật
cạnh tranh Các qui luật này tạo thành hệ thống thống nhất và hệ thống này chính là cơ chế
thị trường. Như vậy cơ chế thị trường được hình thành bởi sự tác động tổng hợp trong sản
xuất và trong lưu thông hàng hoá trên thị trường. Thông qua các quan hệ mua bán hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường nó tác động đến việc điều tiết sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và từ đó làm
thay đổi cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành. Nói cách khác cơ chế thị trường điều tiết quá trình
phân phối lại các nguồn lực trong sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội một
cách tối ưu nhất.
Tóm lại, với sự vận động đa dạng, phức tạp của cơ chế thị trường dẫn đến sự cạnh tranh
gay gắt giữa các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của các doanh nghiệp cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu. Tuy nhiên để tạo ra được sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
đòi hỏi các doanh nghiệp phải xác định cho mình một phương thức hoạt động riêng, xây dựng
các chiến lược, các phương án kinh doanh một cách phù hợp và có hiệu quả.

Như vậy trong cơ chế thị trường việc nâng cao hiệu quả kinh doanh vô cùng quan trọng,
nó được thể hiện thông qua:
Thứ nhất: nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh
nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại này,
đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là luôn tồn tại và phát triển một cách vững chắc. Do đó
việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh
nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của
mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên.
Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá
trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh
nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là điều kiện hết sức
quan trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.

Một cách nhìn khác là sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra hàng
hoá, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội, đồng thời tạo ra sự tích
luỹ cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi doanh nghiệp đều phải vươn lên để đảm
bảo thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi trong qúa trình hoạt động kinh doanh. Có như
vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Và như vậy chúng ta buộc phải
nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình hoạt động kinh
doanh như là một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là yêu cầu mang tính chất
giản đơn còn sự phát triển và mở rộng của doanh nghiệp mới là yêu cầu quan trọng. Bởi vì sự
tồn tại của doanh nghiệp luôn luôn phải đi kèm với sự phát triển mở rộng của doanh nghiệp,
đòi hỏi phải có sự tích luỹ đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng theo đúng qui luật
phát triển. Như vậy để phát triển và mở rộng doanh nghiệp mục tiêu lúc này không còn là đủ
bù đắp chi phí bỏ ra để phát triển quá trình tái sản xuất giản đơn mà phải đảm bảo có tích
luỹ đáp ứng nhu cầu tái sản xuất mở rộng, phù hợp với qui luật khách quan và một lần nữa
nâng cao hiệu quả kinh doanh được nhấn mạnh.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ
trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩycạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi,
đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự
cạnh tranh. Trong khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là cạnh tranh về mặt

hàng mà cạnh tranh cả về chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Trong khi mục tiêu chung
của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm các doanh nghiệp mạnh
lên nhưng ngược lại cũng có thể là các doanh nghiệp không tồn tại được trên thị trường. Để
đạt được mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì doanh nghiệp phải chiến thắng trong
cạnh tranh trên thị trường. Do đó doanh nghiệp phải có hàng hoá dịch vụ chất lượng tốt, giá
cả hợp lý. Mặt khác hiệu quả kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành tăng khối
lượng hàng hoá bán, chất lượng không ngừng được cải thiện nâng cao
Thứ ba, mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực
hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra
sản phẩm cung cấp cho thị trường. Muốn vậy, doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực sản

xuất xã hội nhất định. Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử dụng các nguồn lực này bao nhiêu sẽ
càng có cơ hội để thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản
ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực xã hội nên là đIều kiện để thực
hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh càng cao càng phản
ánh doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất.Vì vậy, nâng cao hiệu quả
kinh doanh là đòi hỏi khách quan để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối
đa hoá lợi nhuận. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh
tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp.
2. Các nhân tố tác động đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp
Nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là yêu cầu quan trọng và là mục
tiêu hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nâng cao hiệu
quả kinh doanh chính là việc nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động trong qúa trình kinh
doanh. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố
ảnh hưởng khác nhau. Để đạt được hiệu qủa nâng cao đòi hỏi phải có các quyết định chiến
lược và quyết sách đúng trong qúa trình lựa chọn các cơ hội hấp dẫn cũng như tổ chức, quản
lý và điều khiển hoạt động kinh doanh cần phải nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống
các yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có thể được chia thành hai nhóm đó là
nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp và nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên
trong doanh nghiệp. Mục tiêu của quá trình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh doanh nhằm mục đích lựa chọn mục đích các phương án kinh doanh phù hợp. Tuy nhiên

việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh cần phải được thực hiện liên
tục trong suốt qúa trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường.
1. Nhóm các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài
1.1. Các nhân tố ảnh hưởng thuộc môi trường kinh doanh
Nhân tố môi trường kinh doanh bao gồm nhiều nhân tố như là: Đối thủ cạnh tranh, thị
trường, cơ cấu ngành, tập quán, mức thu nhập bình quân của dân cư
* Đối thủ cạnh tranh

Bao gồm các đối thủ cạnh tranh sơ cấp (cùng tiêu thụ các sản phẩm đồng nhất) và các
đối thủ cạnh tranh thứ cấp (sản xuất và tiêu thụ những sản phẩm có khả năng thay thế). Nếu
doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ trở nên
khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vì doanh nghiệp lúc này chỉ có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh
bằng cách nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ, tăng
doanh thu tăng vòng quay của vốn, yêu cầu doanh nghiệp phải tổ chức lại bộ máy hoạt động
phù hợp tối ưu hơn, hiệu quả hơn để tạo cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh về giá cả,
chất lượng, chủ loại, mẫu mã Như vậy đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn đến việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời tạo ra sự tiến bộ trong kinh
doanh, tạo ra động lực phát triển của doanh nghiệp. Việc xuất hiện càng nhiều đối thủ cạnh
tranh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sẽ càng khó khăn và sẽ bị giảm
một cách tương đối.
* Thị trường
Nhân tố thị trường ở đây bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh
nghiệp. Nó là yếu tố quyết định qúa trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Đối với thị
trường đầu vào: cung cấp các yếu tố cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, máy móc
thiết bị Cho nên nó tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm, tính liên tục và hiệu quả của
qúa trình sản xuất. Còn đối với thị trường đầu ra quyết định doanh thu của doanh nghiệp trên
cơ sở chấp nhận hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường đầu ra sẽ quyết định tốc độ
tiêu thụ, tạo vòng quay vốn nhanh hay chậm từ đó tác động đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
* Tập quán dân cư và mức độ thu nhập bình quân dân cư
Đây là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nó quyết định
mức độ chất lượng, số lượng, chủng loại, gam hàng Doanh nghiệp cần phải nắm bắt và
nghiên cứu làm sao phù hợp với sức mua, thói quen tiêu dùng, mức thu nhập bình quân của

tầng lớp dân cư. Những yếu tố này tác động một cách gián tiếp lên quá trình sản xuất cũng
như công tác marketing và cuối cùng là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Mối quan hệ và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường
Đây chính là tiềm lực vô hình của doanh nghiệp tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp

trong hoạt động kinh doanh của mình, nó tác động rất lớn tới sự thành bại của việc nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Sự tác động này là sự tác động phi lượng hoá bởi vì chúng ta không thể
tính toán, định lượng được. Một hình ảnh, uy tín tốt về doanh nghiệp liên quan đến hàng hoá,
dịch vụ chất lượng sản phẩm, giá cả là cơ sở tạo ra sự quan tâm của khách hàng đến sản
phẩm của doanh nghiệp mặt khác tạo cho doanh nghiệp một ưu thế lớn trong việc tạo nguồn
vốn, hay mối quan hệ với bạn hàng Với mối quan hệ rộng sẽ tạo cho doanh nghiệp nhiều cơ
hội, nhiều đầu mối và từ đó doanh nghiệp lựa chọn những cơ hội, phương án kinh doanh tốt
nhất cho mình.
Ngoài ra môi trường kinh doanh còn có các nhân tố khác như hàng hoá thay thế, hàng
hoá phụ thuộc doanh nghiệp, môi trường cạnh tranh nó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cũng cần phải
quan tâm đến nó để có những cách ứng xử với thị trường trong từng doanh nghiệp từng thời
điểm cụ thể.
1.2. Nhân tố môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố như thời tiết, khí hậu, mùa vụ, tài nguyên
thiên nhiên, vị trí địa lý
* Nhân tố thời tiết, khí hậu, mùa vụ
Các nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến qui trình công nghệ, tiến độ thực hiện kinh
doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng mang tính
chất mùa vụ như nông, lâm, thủy sản, đồ may mặc, giày dép Với những điều kiện thời tiết,
khí hậu và mùa vụ nhất định thì doanh nghiệp phải có chính sách cụ thể phù hợp với điều
kiện đó. Và như vậy khi các yếu tố này không ổn định sẽ làm cho chính sách hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp không ổn định và chính là nhân tố đầu tiên làm mất ổn định hoạt
động kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Nhân tố tài nguyên thiên nhiên
Nhân tố này chủ yếu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai
thác tài nguyên thiên nhiên. Một khu vực có nhiều tài nguyên thiên nhiên, với trữ lượng lớn
và có chất lượng tốt sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp khai thác.

Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất nằm trong khu vực này mà có nhu cầu đến loại tài

nguyên, nguyên vật liệu này cũng ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
* Nhân tố vị trí địa lý
Đây là nhân tố không chỉ tác động đến công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp mà còn tác động đến các mặt khác trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp như: Giao dịch, vận chuyển, sản xuất các nhân tố này tác động đến hiệu quả kinh
doanh thông qua sự tác động lên các chi phí tương ứng.
1.3. Môi trường chính trị - pháp luật
Các yếu tố thuộc môi trường chính trị - pháp luật chi phối mạnh mẽ đến hoạt đọng kinh
doanh của doanh nghiệp. Sự ổn định chính trị được xác định là một trong những tiền đề quan
trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thay đổi của môi trường chính trị có
thể ảnh hưởng có lợi cho một nhóm doanh nghiệp này nhưng lại kìm hãm sự phát triển nhóm
doanh nghiệp khác hoặc ngược lại. Hệ thống pháp luật hoàn thiện, không thiên vị là một
trong những tiền đề ngoài kinh tế của kinh doanh. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi
pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường này nó tác động trực tiép đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Bởi vì môi trường pháp luật ảnh hưởng đến mặt hàng sản xuất,
ngành nghề, phương thức kinh doanh của doanh nghiệp. Không những thế nó còn tác động
đến chi phí của doanh nghiệp cũng như là chi phí lưu thông, chi phí vận chuyển, mức độ về
thuế đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh XNK còn bị ảnh hưởng bởi chính sách thương
mại quốc tế, hạn ngạch do nhà nước giao cho, luật bảo hộ cho các doanh nghiệp tham gia
hoạt động kinh doanh. Tóm lại môi trường chính trị - luật pháp có ảnh hưởng rất lớn đến việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách tác động đến hoạt động của doanh
nghiệp thông qua hệ thống công cụ luật pháp, cộng cụ vĩ mô
1.4. Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng
Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, hệ thống thông tin liên
lạc, điện, nước, đều là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh ở khu vực có hệ thống giao thông thuận lợi, điện, nước đầy
đủ, dân cư đông đúc và có trìng độ dân trí cao sẽ có nhiều đIều kiện thuận lợi để phát triển
sản xuất, tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí kinh doanh, và do đó

nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngược lại, ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, biên

giới, hải đảo có cơ sở hạ tầng yếu kém, không thuận lợi cho việc cho mọi hoạt động như vận
chuyển, mua bán hàng hoá, các doanh nghiệp hoạt động với hiệu quả kinh doanh không cao.
Thậm chí có nhiều vùng sản phẩm làm ra mặc dù rất có giá trị nhưng không có hệ thống giao
thông thuận lợi vẫn không thể tiêu thụ được dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp.
Trình độ dân trí tác động rất lớn đến chất lượng của lực lượng lao động xã hội nên tác
động trực tiếp đến nguồn nhân lực của mỗi doanh nghiệp. Chất lượng của đội ngũ lao động
lại là nhân tố bên trong ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Các nhân tố bên trong
Các nhân tố chủ quan trong doanh nghiệp chính là thể hiện tiềm lực của một doanh
nghiệp. Cơ hội, chiến lược kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp luôn phụ
thuộc chặt chẽ vào các yêú tố phản ánh tiềm lực của một doanh nghiệp cụ thể. Tiềm lực của
một doanh nghiệp không phải là bất biến có thể phát triển mạnh lên hay yếu đi, có thể thay
đổi toàn bộ hay bộ phận. Chính vì vậy trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp luôn phải
chú ý tới các nhân tố này nhằm nâng cao hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp hơn nữa.
2.1. Nhân tố vốn
Đây là một nhân tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối
lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối,
đầu tư có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh.
Yếu tố vốn là yếu tố chủ chốt quyết định đến qui mô của doanh nghiệp và quy mô có
cơ hội có thể khai thác. Nó phản ánh sự phát triển của doanh nghiệp và là sự đánh giá về hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kinh doanh.
2.2. Nhân tố con người
Trong sản xuất kinh doanh con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành
công. Máy móc dù tối tân đến đâu cũng do con người chế tạo ra, dù có hiện đại đến đâu cũng
phảI phù hợp với trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, trình độ sử dụng máy móc của người lao
động. Lực lượng lao động có thể sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sử
dụng tạo ra tiềm năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cũng chính lực lượng lao
đống sáng tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng phù hợp với cầu của người tiêu dùng, làm cho

sản phẩm của doanh nghiệp có thể bán được tạo cơ sở để nâng coa hiệu quả kinh doanh. Lực
lượng lao động tác động trực tiếp đến năng suất lao động, trình độ sử dụng các nguồn lực
khác nên tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3. Nhân tố trình độ kỹ thuật công nghệ

Trình độ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho phép doanh nghiệp chủ động nâng cao chất
lượng hàng hoá, năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Các yếu tố này tác động hầu
hết đến các mặt về sản phẩm như: đặc điểm sản phẩm, giá cả sản phẩm, sức cạnh tranh của
sản phẩm. Nhờ vậy doanh nghiệp có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình, tăng vòng quay
của vốn lưu động, tăng lợi nhuận đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh
nghiệp. Ngược lại với trình độ công nghệ thấp thì không những giảm khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp mà còn giảm lợi nhuận, kìm hãm sự phát triển. Nói tóm lại, nhân tố trình
độ kỹ thuật công nghệ cho phép doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng và hạ giá thành
sản phẩm nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh, tăng vòng quay của vốn, tăng lợi nhuận từ đó
tăng hiệu quả kinh doanh.
2.4. Nhân tố quản trị doanh nghiệp
Nhân tố này đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Quản trị doanh nghiệp chú trọng đến việc xác định cho doanh nghiệp một hướng đi
đúng đắn trong một môi trường kinh doanh ngày càng biến động. Chất lượng của chiến lược
kinh doanh là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của
một doanh nghiệp. Đội ngũ các nhà quản trị mà đặc biệt là các nhà quản trị cao cấp lãnh đạo
doanh nghiệp bằng phẩm chất và tài năng của mình có vai trò quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng
có tính chất quyết định đến sự thành đạt của một doanh nghiệp. Kết quả và hiệu quả hoạt
động của quản trị doanh nghiệp đều phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn của đội ngũ
các nhà quản trị cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp, việc xác định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận, cá nhân và thiết lập các mối quan hệ giữa các
bộ phận trong cơ cấu tổ chức đó.
2.5. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
Thông tin được coi là một hàng hoá, là đối tượng kinh doanh và nền kinh tế thị trường
hiện nay được coi là nền kinh tế thông tin hoá. Để đạt được thành công khi kinh doanh trong

đIều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp cần nhiều thông tin chính
xác về cung cầu thị trường hàng hoá, về công nghệ kỹ thuật, về người mua, về các đối thủ
cạnh tranh Ngoài ra, doanh nghiệp còn rất cần đến các thông tin về kinh nghiệm thành công
hay thất bại của các doanh nghiệp khác ở trong nước và quốc tế, cần biết các thông tin về các
thay đổi trong các chính sách kinh tế của Nhà nước và các nước khác có liên quan.
Trong kinh doanh biết mình, biết người và nhất là hiểu rõ được các đối thủ cạnh tranh
thì mới có đối sách giành thắng lợi trong cạnh tranh, có chính sách phát triển mối quan hệ

hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Kinh nghiệm thành công của nhiều doanh nghiệp nắm được các
thông tin cần thiết và biết sử lý sử dụng các thông tin đó kịp thời là một điều kiện quan trọng
để ra các quyết định kinh doanh có hiệu quả cao. Những thông tin chính xác được cung cấp
kịp thời sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng
chiến lược kinh doanh dài hạn.
3. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh
1. Các quan điểm cơ bản trong đánh giá hiệu quả kinh doanh
Trong thực tiễn không phải ai cũng hiểu biết và quan niệm giống nhau về hiệu quả kinh
doanh và chính điều này đã làm triệt tiêu những cố gắng, nỗ lực của họ mặc dù ai cũng
muống làm tăng hiệu quả kinh doanh. Như vậy khi đề cập đến hiệu quả kinh doanh chúng ta
phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian trong mối quan hệ với
hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế và
hiệu quả xã hội.
a. Về mặt thời gian
Sự toàn diện của hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả
khi xét trong thời kỳ dài, hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp
hiệu quả chu kỳ sau. Trong thực tế không ít những trường hợp chỉ thấy lợi ích trước mắt,
thiếu xem xét toàn diện và lâu dài những phạm vi này dễ xảy ra trong việc nhập về một số
máy móc thiết bị cũ kỹ lạc hậu Hoặc xuất ồ ạt các loại tài nguyên thiên nhiên. Việc giảm
một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc toàn diện và lâu dài các chi phí cải tạo môi trường tự nhiên,
đảm bảo cân bằng sinh thái, bảo dưỡng và hiện đại hoá, đổi mới TSCĐ, nâng cao toàn diện
trình độ chất lượng người lao động Nhờ đó làm mối tương quan thu chi giảm đi và cho rằng

như thế là có "hiệu quả" không thể coi là hiệu quả chính đáng và toàn diện được.
b. Về mặt không gian
Có hiệu quả kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào chỗ hiệu quả của hoạt động kinh tế cụ
thể nào đó, có ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả kinh tế của cả hệ thống mà nó liên quan
tức là giữa các ngành kinh tế này với các ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ
hệ thống, giữa hiệu quả kinh tế với việc thực hiện các nhiệm vụ ngoài kinh tế.
Như vậy, với nỗ lực được tính từ giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật nào đó dự định
áp dụng vào thực tiễn đều phải được đặt vào sự xem xét toàn diện. Khi hiệu quả ấy không
làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân thì mới được coi là hiệu quả
kinh tế.

c. Về mặt định lượng
Hiệu quả kinh tế phải được thể hiện qua mối tương quan giữa thu chi theo hướng tăng
thu giảm chi. Điều này có nghĩa là tiết kiệm đến mức tối đa chi phí sản xuất kinh doanh để
tạo ra một đơn vị sản phẩm có ích.
d. Về mặt định tính
Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được phải
gắn chặt với hiệu quả của toàn xã hội. Giành được hiệu quả cao cho doanh nghiệp chưa phải
là đủ mà còn đòi hỏi mang lại hiệu quả cho xã hội. Trong nhiều trường hợp, hiệu quả toàn xã
hội lại là mặt có tính quyết định khi lựa chọn một giải pháp kinh tế, dù xét về mặt kinh tế nó
chưa hoàn toàn được thoả mãn.
Trong bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào khi đánh giá hiệu quả của hoạt động ấy
không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả đạt được mà còn đánh giá chất lượng của kết quả
ấy. Có như vậy thì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh mới được đánh giá một cách toàn
diện hơn.
Cụ thể khi đánh giá hiệu quả kinh doanh chúng ta cần phải quán triệt một số quan điểm
trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Thứ nhất: Bảo đảm sự kết hợp hài hoà các loại lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích
người lao động, lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu
quả kinh doanh phải xuất phát từ việc thoả mãn một cách thích đáng nhu cầu của các chủ thể

trong mối quan hệ mắt xích phụ thuộc lẫn nhau. Trong đó quan trọng nhất là xác định được
hạt nhân của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đã từ đó thoả mãn lợi ích của chủ thể này tạo
động lực, điều kiện để thoả mãn lợi ích của chủ thể tiếp theo và cứ thế cho đến đối tượng và
mục đích cuối cùng. Nói tóm lại theo quan điểm này thì quy trình thoả mãn lợi ích giữa các
chủ thể phải đảm bảo từ thấp đến cao. Từ đó mới có thể điều chỉnh kết hợp một cách hài hoà
giữa lợi ích các chủ thể.
Thứ hai : là bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Theo quan điểm này thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải là sự kết hợp hài hoà
giữa hiệu quả kinh doanh của các bộ phận trong doanh nghiệp với hiệu quả toàn doanh
nghiệp. Chúng ta không vì hiệu quả chung mà làm mất hiệu quả bộ phận. Và ngược lại, cũng
không vì hiệu quả kinh doanh bộ phận mà làm mất hiệu quả chung toàn bộ doanh nghiệp.
Xem xét quan điểm này trên lĩnh vực rộng hơn thì quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu
quả kinh doanh phải xuất phát từ việc đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất

hàng hoá, của ngành, của địa phương, của cơ sở. Trong từng đơn vị cơ sở khi xem xét đánh
giá hiệu quả kinh doanh phải coi trọng toàn bộ các khâu của quá trình kinh doanh. Đồng thời
phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ tác động qua lại của các tổ chức, các lĩnh vực trong một
hệ thống theo một mục tiêu đã xác định.
Thứ ba: là phải bảo đảm tính thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan
điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất
phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội của ngành, của địa phương và của doanh nghiệp
trong từng thời kỳ.
Thứ tư: là đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị, xã hội với nhiệm vụ kinh tế
trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trước hết ta phải nhận thấy rằng sự ổn định của
một quốc gia là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong khi
đó chính sự ổn định đó lại được quyết định bởi mức độ thoả mãn lợi ích của quốc gia. Do
vậy, theo quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải được xuất phát từ
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cụ thể là, nó được thể hiện ở việc
thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn hàng của nhà nước giao cho doanh nghiệp hoặc các
hợp đồng kinh tế mà doanh nghiệp ký kết với nhà nước. Bởi vì đó là nhu cầu điều kiện đã

đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân.
Thứ năm là: Đánh giá hiệu quả kinh doanh phải căn cứ vào cả mặt hiện vật lẫn giá trị
của hàng hoá. Theo quan điểm này đòi hỏi việc tính toán và đánh giá hiệu quả phải đồng thời
chú trọng cả hai mặt hiện vật và giá trị. ở đây mặt hiện vật thể hiện ở số lượng sản phẩm và
chất lượng sản phẩm, còn mặt giá trị là biểu hiện bằng tiền của hàng hoá sản phẩm, của kết
quả và chi phí bỏ ra. Như vậy, căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về mặt hiện vật và mặt giá trị
là một đòi hỏi tất yếu trong quá trình đánh giá hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường.
2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, cần phải dựa vào một hệ thống
các tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu phấn đấu. Có thể hiểu
tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là mốc xác định ranh giới có hay không có hiệu quả. Nếu
theo phương pháp so sánh toàn ngành có thể lấy giá trị bình quân đạt được của ngành làm
tiêu chuẩn hiệu quả. Nếu không có số liệu của toàn ngành thì so sánh với các chỉ tiêu của năm
trước. Cũng có thể nói rằng, các doanh nghiệp có đạt được các chỉ tiêu này mới có thể đạt

được các chỉ tiêu về kinh tế. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm:
2.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp
- Chỉ tiêu năng suất lao động:

=
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Tổng số lao động trong kỳ
- Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân cho 1 lao động:
Lợi nhuận bình quân
tính cho một lao động
=
Lợi nhuận trong kỳ
Tổng số lao động bình quân trong kỳ



Chỉ tiêu này cho thấy với mỗi lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận
trong kỳ. Dựa vào chỉ tiêu này để so sánh mức tăng hiệu quả của mỗi lao động trong kỳ.
2.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định:
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn cố định bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận,
thể hiện trình độ sử dụng tài sản cố định, khả năng sinh lợi của tài sản cố định trong sản xuất
kinh doanh.
- Hệ số sử dụng công suất máy móc thiết bị
Hệ số sử dụng công
suất máy móc thiết bị =
Công suất thực tế máy móc thiết bị
Công suất thiết kế


2.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
- Sức sản xuất của vốn lưu động:
Sức sản xuất của vốn lưu động =
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
vốn lưu động bình quân trong kỳ


Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong
kỳ. Nếu chỉ tiêu này qua các kỳ tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng đồng vốn lưu động tăng.
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:

Hiệu quả sử dụng vốn lưu động =
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ

=

Năng suất lao
động


Chỉ tiêu này cho ta biết với một đồng vốn lưu động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
trong kỳ. Chỉ số này càng cao càng tốt. Chứng tỏ hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn lưu
động.
- Tốc độ luân chuyển vốn: trong quá trình sản xuất kinh doanh, nguồn vốn lưu động
thường xuyên vận động không ngừng, nó tồn tại ở các dạng khác nhau. Có khi là tiền, có khi
là hàng hoá, vật tư, bán thành phẩm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Do
đó việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết việc ách tắc, đình
trệ của vốn, giải quyết nhanh nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn trong doanh nghiệp đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp.
Thông thường người ta sử dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tốc độ luân chuyển vốn trong
doanh nghiệp.
+ Số vòng quay của vốn lưu động:
Số vòng quay vốn lưu động =
Doanh thu trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này cho biết số vòng quay của vốn lưu động bình quân trong kỳ. Chỉ số này
càng lớn càng tốt, chứng tỏ vòng quay của vốn tăng nhanh, điều này thể hiện việc sử dụng
vốn lưu động có hiệu quả và ngược lại.
+ Số ngày luân chuyển bình quân 1 vòng quay:

Số ngày luân chuyển bình
quân một vòng quay
=
365 ngày
Số vòng quay của vốn lưu động


Chỉ tiêu này cho chúng ta biết thời gian để vốn lưu động quay được một vòng. Thời
gian này càng nhỏ thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao và ngược lại.
2.4. Nhóm chỉ tiêu dánh giá hiệu quả tổng hợp
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, được dùng để phản ánh chính xác hoạt động kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp và được dùng để so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau và so sánh trong
doanh nghiệp qua các thời kỳ để xem xét các thời kỳ doanh nghiệp hoạt động có đạt hiệu quả
cao hơn hay không.
- Doanh lợi của doanh thu bán hàng:
Doanh lợi của doanh thu bán hàng =
Lợi nhuận trong kỳ
Doanh thu trong kỳ
x 100


Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của doanh nghiệp đã tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận từ một đồng doanh thu bán hàng. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích các doanh
nghiệp tăng doanh thu giảm chi phí. Nhưng để có hiệu quả thì tốc độ tăng doanh thu phải nhỏ
hơn tốc độ tăng lợi nhuận.
- Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh:
Doanh lợi vốn kinh doanh=
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn kinh doanh BQ trong kỳ

x 100
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Một đồng vốn kinh doanh tạo ra
được bao nhiêu đồng lợi nhuận, nó phản ánh trình độ lợi dụng vào các yếu tố vốn kinh doanh
của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt điều này chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng
một cách có hiệu quả các nguồn vốn của doanh nghiệp.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí:
Tỷ suất lợi nhuận theo
chi phí
=
Lợi nhuận trong kỳ
Tổng chi phí SX và tiêu thụ trong kỳ
x 100

Chỉ tiêu này phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố chi phí trong sản xuất. Nó cho thấy
vói một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu lợi nhuận. Chỉ tiêu này có hiệu quả nếu tốc độ tăng lợi
nhuận tăng nhanh hơn tốc độ tăng chi phí.
- Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo chi phí:
HQKD theo chi phí =
Doanh thu tiêu thụ SP trong kỳ
Tổng chi phí SX và tiêu thụ trong kỳ
x100
Chỉ tiêu này cho thấy với một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
- Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng vốn sản xuất:
Doanh thu trên một đồng vốn
sản xuất
=
Doanh thu tiêu thụ SP trong kỳ
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ



Với chỉ tiêu này cho ta thấy với một đồng vốn kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
3. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế - xã hội
Do yêu cầu của sự phát triển bền vững trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp
ngoài việc hoạt động kinh doanh phải đạt hiệu quả nhằm tồn tại và phát triển còn phải đạt

được hiệu quả về mặt kinh tế xã hội. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế - xã hội bao
gồm các chỉ tiêu sau:
3.1. Tăng thu ngân sách
Mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ
nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như thuế doanh thu, thuế lợi tức,
thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt Nhà nước sẽ sử dụng những khoản thu này để
cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và lĩnh vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại
thu nhập quốc dân.
3.2. Tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động
Nước ta cũng giống như các nước đang phát triển, hầu hết là các nước nghèo tình trạng
kém về kỹ thuật sản xuất và nạn thất nghiệp còn phổ biến. Để tạo ra nhiều công ăn việc làm
cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo lạc hậu đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tự tìm tòi đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng quy
mô sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
3.3. Nâng cao đời sống người lao động
Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động đòi hỏi các doanh nghiệp làm ăn
phải có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sống của người lao động. Xét trên phương diện
kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua chỉ tiêu như gia tăng thu
nhập bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội
3.4. Tái phân phối lợi tức xã hội
Sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế xã hội giữa các vùng, các lãnh thổ trong
một nước yêu cầu phải có sự phân phối lợi tức xã hội nhằm giảm sự chênh lệch về mặt kinh
tế giữa các vùng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện nay, hiệu quả kinh tế xã hội còn
thể hiện qua các chỉ tiêu: Bảo vệ nguồn lợi môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế
II. Đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Các doanh nghiệp
Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp luôn đặt cho mình
một mục tiêu phát triển và luôn nỗ lực trong việc thực hiện các mục tiêu đặt ra. Nhưng trong
điều kiện hiện nay, mọi nỗ lực của Doanh nghiệp đều nhằm mở rộng quy mô hoạt động của
mình trên cơ sở mở rộng thị trường, mặt hàng kinh doanh, hình thức kinh doanh đồng thời.
Doanh nghiệp cũng đặt ra vấn đề hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh lên
hàng đầu. Thực tế tại Doanh nghiệp thời gian vừa qua chỉ thực hiện được mục tiêu mở rộng

kinh doanh mà mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh chưa thực hiện được. Đây là một vấn
đề tồn tại như một bài toán khó đối với mọi doanh nghiệp cũng như đối với ban lãnh đạo của
Doanh nghiệp. Việc chưa thực hiện được mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh là do ngoài
những thuận lợi và nỗ lực của bản thân Doanh nghiệp thì còn có nhiều khó khăn, hạn chế từ
môi trường bên ngoài cũng như bên trong nội tại của Doanh nghiệp đã tác động tiêu cực
không nhỏ tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Qua quá trình thực tế nghiên cứu tại các doanh nghiệp, em rút ra được những nhận xét,
đánh giá sau:
1. Những thành tựu đã đạt được của các doanh nghiệp trong thời gian qua
Trong vòng 10 năm qua, doanh nghiệp đã tạo lập được cơ sở sản xuất, trang bị những
dây chuyền sản xuất công nghệ hiện đại với công suất lớn nên sản phẩm làm ra có chất lượng
cao. Hiện nay nhiều doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận ISO 9002, đây là điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của mình tạo ra uy tín
cho Doanh nghiệp về chất lượng sản phẩm đối với khách hàng.
Những thành tựu đạt được của Doanh nghiệp trong những năm qua thể hiện ở quy mô
sản xuất không ngừng mở rộng, doanh thu, lợi nhuận, nghĩa vụ với nhà nước đều tăng lên qua
các năm, ngày càng nâng cao mức thu nhập người lao động, cải thiện đời sống vật chất của
người lao động. Để đạt được những thành tựu trên bằng những nỗ lực của bản thân ngoài ra
còn có những thuận lợi đáng kể của các chính sách vĩ mô, thuận lợi của chính doanh nghiệp
tạo ra đó là:
- Doanh nghiệp có một cơ cấu tổ chức quản lý hiệu quả phù hợp với quy mô sản xuất.

Điều này được thể hiện ở cơ cấu các phòng ban chức năng của Doanh nghiệp. Hệ thống này
hoạt động một cách độc lập về công việc nhiệm vụ nhưng lại liên hệ rất chặt chẽ với nhau về
nghiệp vụ cũng như sự phối hợp về vận động.
- Về quan hệ giao dịch của Doanh nghiệp, Doanh nghiệp có quan hệ hầu hết với các
nguồn hàng trong nước với các cơ sở sản xuất. Doanh nghiệp đã tạo được chữ tín để kinh
doanh lâu dài trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
- Doanh nghiệp đã có tầm chiến lược về con người, luôn cử các cán bộ đi học, đào tạo
tại chỗ nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ. Hiệu quả kinh doanh tăng lên qua các năm đã
chứng minh chiến lược của Doanh nghiệp là hợp lý.
Ngoài những thuận lợi từ phía Doanh nghiệp, Doanh nghiệp còn có những thuận lợi do
chính sách vĩ mô của nhà nước tạo ra như việc thực hiện chính sách kinh tế mở. Sự tham gia

của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do châu á (AFTA). Sự hoàn thiện về cơ chế xuất
khẩu của Nhà nước và chính sách kinh tế khuyến khích xuất khẩu đã tạo ra những thuận lợi
lớn cho Doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
2. Những tồn tại của Doanh nghiệp và nguyên nhân dẫn đến tồn tại
Ngoài những thành tựu đã được nói trên, Doanh nghiệp còn có những hạn chế nhất định
trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình như là:
- Thị trường chủ yếu của Doanh nghiệp là thị trường trong nước mà thị trường trọng
điểm là Hà Nội tuy có những ưu điểm, song chính sách tập trung vào một thị trường này cũng
có những hạn chế nhất định như gặp nhiều rủi ro trong sự biến động của thị trường, hoạt động
tiêu thụ quá lệ thuộc vào một thị trường. Ngoài ra Doanh nghiệp chưa khai thác triệt để được
thị trường miền Bắc. Nguyên nhân chính là do doanh nghiệp chưa tổ chức được một đội ngũ
marketing và nghiên cứu thị trường có trình độ. Đây là một thị trường lớn với một số lượng
khách hàng đông đảo. Khắc phục được hạn chế này sẽ góp phần mở rộng thị trường, tăng
nhanh tốc độ tiêu thụ, tăng doanh thu, tăng vòng quay của vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh
của Doanh nghiệp. Kinh tế thị trường bắt buộc các nhà sản xuất phải tìm kiếm khách hàng
bởi vì nền kinh tế thị trường cung thường lớn hơn cầu. Để bán được hàng Doanh nghiệp phải
nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng hay lôi kéo họ về với mình. Mặc dù vậy hoạt
động kinh doanh của Doanh nghiệp chưa chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường,

quảng cáo, chủ yếu là khách hàng vẫn tự tìm đến Doanh nghiệp đặt và mua hàng.
- Tuy đã xây dựng chiến lược mặt hàng nhưng chưa đảm bảo sự đa dạng mặt hàng,
chủng loại, mẫu mã sản phẩm chưa phong phú. Hiện nay Doanh nghiệp chỉ chủ yếu sản xuất
các sản phẩm mẫu mã chủ yếu do khách hàng mang đến. Đây là một hạn chế mà Doanh
nghiệp cần phải khắc phục ngay để đảm bảo sự đa dạng về mặt hàng, mẫu mã sản phẩm, từ
đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp.
- Giá các sản phẩm của doanh nghiệp không tương xứng với vị thế của doanh nghiệp
trên thị trường. Nhiều sản phẩm của doanh nghiệp giá còn cao hơn hoặc bằng các sản phẩm
cùng loại do các doanh nghiệp có uy tín lâu năm trên thị trường. Chính đIều này làm cho sản
phẩm của doanh nghiệp khó tiêu thụ dẫn đến doanh thu tăng chậm, làm giảm hiệu quả kinh
doanh.
- Chất lượng sản phẩm chưa cao, tỷ lệ sản phẩm hỏng chiêm khoảng 5-7%. Đây là một
tỷ lệ khá cao đối với các doanh nghiệp sản xuất. Nguyên nhân chính là do sự vô trách nhiệm

của người lao động, chỉ sản xuất một cách máy móc, gặp sự cố không chịu suy nghĩ tìm cách
khắc phục, chỉ biết ngồi chờ người có trách nhiệm đến giải quyết.
- Doanh nghiệp có khá nhiều thợ giỏi nhưng trình độ lao động nói chung còn thấp. Năng
suất lao động chưa cao cũng là do người lao động chưa có ý thức lao động, không gắn sự
sống còn của doanh nghiệp với cuộc sống của mình.
- Số vòng quay vốn lưu động chưa cao hay hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn thấp
nguyên nhân chính là do hàng tồn kho nhiều, khả năng thu hồi nợ từ các đơn vị khác còn kém
chưa có biện pháp hữu hiệu để thu hồi nợ.
Mặc dầu Doanh nghiệp có rất nhiều mối quan hệ làm ăn trong nước cũng như trên thế
giới, nhưng Doanh nghiệp vẫn chưa có mối quan hệ nào mang tính chất liên kết kinh tế.
Chính các sự hạn chế này đưa Doanh nghiệp vào tình trạng khó giải quyết được những
yếu điểm của mình như về: vấn đề về vốn kinh doanh, nguyên vật liệu sản xuất, đội ngũ lao
động đồng thời Doanh nghiệp không khai thác được thế mạnh của mình như việc mở rộng
các mối quan hệ kinh doanh, nâng cao uy tín
- Cùng tình trạng chung của toàn ngành nhựa Việt Nam, là một ngành công nghiệp non
trẻ, Các doanh nghiệp nói riêng trong toàn ngành nói chung đều thiếu vốn hoạt động sản xuất.

Hiện nay Doanh nghiệp đang làm hàng gia công cho Trung Quốc để lợi dụng vốn tạo công ăn
việc làm cho công nhân viên. Ngoài ra, nguồn vốn của Doanh nghiệp còn hạn hẹp. Đây là
một trong những hạn chế lớn nhất cho Doanh nghiệp, tạo ra những khó khăn cho hoạt động
sản xuất nói chung và công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp.
Qua thực tế nghiên cứu ở Doanh nghiệp ta thấy một số tồn tại cơ bản nói trên, đây chính
là những nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp. Nếu khắc phục được
những tồn tại này sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Doanh
nghiệp.

III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Các doanh nghiệp
1. Mục tiêu và phương hướng phát triển của Các doanh nghiệp trong những năm
tới
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt ở cả trong nước và nước ngoài như hiện hay, để
đứng vững và phát triển mỗi doanh nghiệp phải tự tìm cho mình một hướng đi phù hợp trong
từng giai đoạn, trên cơ sở thực tế của từng đơn vị của đất nước, của điều kiện và môi trường
quốc tế. Với chiến lược đúng đắn bản thân các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình những

mục tiêu, kế hoạch và biện pháp cụ thể mang tính khả thi đảm bảo mang lại hiệu quả kinh
doanh cao và đạt được những thắng lợi trong cạnh tranh.
a). Mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của Doanh nghiệp trong những năm tới
Các doanh nghiệp hoạt động đều luôn hướng tới lợi nhuận. Muốn vậy Doanh nghiệp
phải quan tâm đến điều hoà vốn và thời gian hoàn vốn, từ đó xác định được doanh số bán
hàng, thời gian cho lãi và các nhân tố chủ quan, khách quan ảnh hưởng tới lợi nhuận. Để mục
tiêu của Doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất trên cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, tiền vốn,
vật tư lao động của mình cần phải xác định phương hướng và biện pháp đầu tư, biện pháp sử
dụng điều kiện sẵn có làm sao có hiệu quả tối ưu nhất.
Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình những mục tiêu
chiến lược cụ thể:
- Tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, tăng lợi nhuận, tăng thu cho ngân sách. ổn định
và nâng cao mức sống cho người lao động.

- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, bảm bảo nâng cao hiệu quả
kinh doanh.
-Nâng cao chất lượng sản phẩm thoả mãn khách hàng nhằm tiêu thụ mạnh sản phẩm,
chú trọng hơn về khâu marketing nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Nâng cao sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường để từng bước tiến tới hội nhập kinh tế
thế giới.
b) Định hướng phát triển của các doanh nghiệp
Trên cơ sở mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước mà Đảng và chính phủ đề ra trong 5
năm 1996 - 2000
- Căn cứ vào định hướng phát triển của ngành và thực tiễn phát triển 20 năm của
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có kế hoạch củng cố và mở rộng thị trường như sau:
+ Tập trung chỉ đạo và đầu tư cho công tác thị trường Hà Nội là khu vực có sức tiêu
thụ cao và Doanh nghiệp rất có khả năng phát triển trước mắt và lâu dài. Mục tiêu những
năm tới thị trường Hà Nội chiếm tỷ lệ % lớn khoảng 60% tổng doanh thu của Doanh nghiệp

+ Đầu tư mở rông thị trường phía Bắc, Doanh nghiệp dự định đến năm 2002 khu vực
thị trường này sẽ chiếm 30% thị trường xuất khẩu.

+ Thị trường Thành phố Hồ Chí Minh dự định đến năm 2002 chiếm khoảng 10%
doanh thu của Doanh nghiệp.
Sản phẩm luôn là nhân tố có ảnh hưởng lón dẫn tới chiến thắng trong cuộc cạnh tranh
trên thị trường quốc tế luôn đòi hỏi phải có những sản phẩm không chỉ có chất lượng cao mà
còn phải có mẫu mã phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Nắm được điều đó các doanh
nghiệp đã xác định các mục tiêu về chính sách sản phẩm của mình như sau:
- Cải tiến mẫu mã, tăng cường chất lượng là một giải pháp mang tính sống còn để tồn
tại và phát triển.
- Trên các thị trường khác nhau, các doanh nghiệp sẽ tập trung tiêu thụ các mặt hàng
khác nhau, có lượng tiêu thụ ổn định và các mặt hàng có nhu cầu lớn nhằm khai thác triệt để
tiềm năng của thị trường.


2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Các doanh nghiệp
Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân tạo nên những thuận lợi, khó khăn và những
tồn tại. Từ đó có những biện pháp hạn chế những tồn tại, tháo gỡ khó khăn, khai thác triệt để
các thuận lợi. Có thể đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp.
a) Thành lập bộ phận marketing, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường
Kinh tế thị trường càng phát triển thì hoạt động marketing càng giữ vai trò quyết định
sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị
trường. Do đó việc nâng cao hiệu quả hoạt động marketing và nghiên cứu thị trường là mục
tiêu mà các doanh nghiệp hướng tới. Hiệu quả của công tác này được nâng cao có nghĩa là
các doanh nghiệp càng mở rộng được nhiều thị trường, sản phẩm tiêu thụ nhiều góp phần
năng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Do tầm quan trọng của việc nghiên cứu thị trường nên trong giai đoạn hiện nay cũng
như những năm sau doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược cụ thể về việc
nghiên cứu thị trường.
Hiện nay, các doanh nghiệp phải có một phòng riêng biệt nào đứng ra đảm trách, về
công tác marketing. Các hoạt động marketing của doanh nghiệp phải phối hợp giữa các
phòng cùng với ban giám đốc xúc tiến và đảm nhiệm. Công tác nghiên cứu thị trường phải
mang tính chất hệ thống. Chính vì vậy biện pháp thành lập và đẩy mạnh công tác nghiên cứu

×