Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

skkn vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong môn tiếng việt tiểu học (2021)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.5 MB, 48 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Lý do chọn đề tài :
Giáo dục một người không phải chỉ cung cấp cho họ có kiến thức mà cịn giúp họ
tự trang bị kiến thức cho mình, có được cái nhìn bao qt về cuộc sống để họ có thể
tự tin, chủ động hồ nhịp vào cuộc sống đang ngày càng phát triển.
Đã đến lúc chúng ta có cái nhìn mới về giáo dục. Chúng ta khơng phải là
nguời đi tìm và đưa kiến thức cho các em vì như thế các em sẽ trở nên thụ động,
chây ì mà các em sẽ là người tự tìm, tự chiếm lĩnh kiến thức cho mình dưới sự hỗ
trợ, giúp đỡ, dẫn dắt của người thầy – người mẹ thứ hai của các em. Chúng ta –
những người thầy, người cô phải làm sao để giúp học sinh cảm nhận được “Mỗi
ngày đến trường là một niềm vui”, giúp các em có hứng thú trong học tập, trong
việc tìm hiểu thế giới xung quanh các em.
Với những lý do trên, tôi tập trung nghiên cứu là phải làm thế nào dạy các
em học tốt phân môn này mà không nhàm chán . Đồng thời bồi dưỡng cho các em sự
tự tin, u thích các mơn học. Đồng thời tạo nền móng cho việc học tốt mơn tiếng
Việt và cả những môn học khác. Với những điều kiện đã học hỏi được ở các bạn
đồng nghiệp, qua sách, báo, … cùng với kinh nghiệm bản thân qua những năm giảng
dạy từ lớp Một đến lớp Năm đã giúp tơi có được một số biện pháp trong việc “Vận
dụng phương pháp dạy học tích cực trong mơn TiếngViệt”
1.2. Mục đích nghiên cứu :
Mơn Tiếng Việt là mơn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các mơn học ở
Tiểu học ( được xem là môn học công cụ).Bởi lẽ Tiếng Việt không những dạy cho
các em biết kiến thức về ngơn ngữ trong giao tiếp mà cịn giúp các em giữ gìn tiếng
mẹ đẻ,Tiếng Việt có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang bị cho các em
một số kiến thức về từ, câu, cách sử dụng ngôn ngữ trong giao. Tiếng việt là một thứ
tiếng giàu đẹp và trong sáng mà lịch sử đã chứng minh rằng “ Tiếng Việt trở thành
vũ khí của dân tộc Việt Nam”.


Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Tiếng Việt, người giáo viên phải thực hiện
đổi mới các phương pháp dạy học theo mơ hình học tập kiểu mới VNEN, sao cho


học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của mơn học một cách tích cực, sáng
tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải
quyết vấn đề đặt ra trong bài học.Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn
học. Giáo viên là người theo dõi quan sát và giúp đỡ các em thực hiện mục tiêu đó.
Tuy nhiên việc giúp các em chủ động, tích cực trong học tập không đơn giản
như chúng ta nghĩ. Đây quả là một cơng việc địi hỏi rất nhiều cơng sức và tâm huyết
ở người thầy. Người giáo viên phải có tấm lịng u nghề, u trẻ, phải đặt mình vào
vị trí của đứa trẻ xem trẻ nghĩ gì, có nhu cầu gì để từ đó có những phương pháp,
hình thức tổ chức hoạt động cho phù hợp, sinh động, lơi cuốn các em tham gia tìm
hiểu bài học.
Ngày nay, dạy học là lấy học sinh làm trung tâm. Vậy người thầy ở đâu?
Người thầy là người đi bên cạnh để định hướng, hướng dẫn, gợi mở cho các em. Để
thực hiện được điều đó, người giáo viên hãy làm đúng như một ngôn từ đã được ban
tặng “Người mẹ hiền thứ hai”. Người thầy hãy là người gần gũi, thân thiết, là người
bạn để hiểu được nhu cầu của trẻ; là người “Mẹ” để có đủ tình u, trách nhiệm giúp
trẻ bản lĩnh, tự tin bước vào cuộc sống. Và để làm gương, người thầy cũng cần chủ
động, sáng tạo, tích cực đổi mới trong cơng tác giảng dạy để truyền đến các em ngọn
lửa nhiệt tình, sự thích thú trong học tập.
Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình dạy
học. Thực tiễn giảng dạy cho thấy với cùng một nội dung, cùng một phương tiện dạy
học, cùng điều kiện dạy học thậm chí cùng những mục tiêu dạy học cụ thể nhưng kết
quả giờ dạy của giáo viên rất khác nhau .Điều đó phụ thuộc váo cách thức giáo viên
chọn lựa , phối hợp và sử dụng các phương pháp dạy học .
Nhưng vận dụng phương pháp dạy học nào để giúp học sinh học tốt mơn Tiếng
Việt đó là nội dung bài viết hôm nay. Thông qua đề tài giúp trẻ ham học, u thích
mơn Tiếng Việt , khuyến khích trẻ thể hiện, tích cực tương tác với bạn, khơng bị áp
đặt trong giờ học. Ngồi ra cịn giúp các em hịa nhập vào một mơi trường mới dễ
dàng và có cơ hội phát triển một cách tồn diện .



1.3. Đối tượng nghiên cứu :
- Khi chọn đề tài này, tơi dựa vào:
Tình hình thực tế của lớp học, khả năng và trình độ của bản thân, tơi chọn tập thể
học sinh do tôi chủ nhiệm lớp qua các năm học từ 2013 2021 tại trường Tiểu học
Ngô Mây và Tiểu học Võ Văn Dũng TP.Quy Nhơn .
1.4. Đối tượng khảo sát và thực nghiệm :
Thời gian thực hiện đề tài trong các năm học từ 2013 2021. Được thực hiện ở
các khối lớp nhằm nâng cao chất lượng phát huy tính tích cực cho học sinh khi học
mơn Tập đọc. Điều đó địi hỏi bản thân tơi cần có những giải pháp mới để áp dụng
vào cơng tác giảng dạy. Trong những năm qua, tôi đã dành nhiều thời gian cho đề
tài nghiên cứu này.
1.5. Phương pháp nghiên cứu :
Để hồn thành đề tài này , tơi chọn các biện pháp tiến hành sau :
Nghiên cứu tài liệu :
- Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục... có liên quan đến nội dung đề tài
- Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo .
Nghiên cứu thực tế :
- Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực , các hình thức tổ chức trong tiết
học .
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung của dề tài .
- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
- Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm (Soạn giáo án đã thông qua các tiết
dạy để kiểm tra tính khả thi của đề tài).
1.6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu :


Đề tài này tôi đã xây dựng, áp dụng qua nhiều năm làm cơng tác chủ nhiệm lớp tơi
thấy có hiệu quả và năm học này tôi tiếp tục thực hiện.
- Nghiên cứu từ tháng 9 năm 2013
- Viết nháp đề tài từ tháng 9 năm 2020

- Hoàn chỉnh đề tài tháng 2 năm 2021


II. NỘI DUNG
2.1. Những nội dung lý luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu :
Tình trạng học sinh học thụ động, nhồi nhét đã diễn ra một thời gian dài khi chưa đổi
mới giáo dục. Giai đoạn đó, chúng ta vẫn cịn sử dụng những phương pháp truyền
thống, cách giáo dục một chiều tức là giáo viên cung cấp, truyền thụ kiến thức cho
học sinh và học sinh tiếp nhận kiến thức đó. Lớp học im phăng phắc vì thầy giảng,
trị lắng nghe và ghi chép. Kiến thức các em đuợc tiếp thu cũng chỉ gói gọn trong bài
học mà không được mở rộng ra cuộc sống xung quanh. Những gì các em tiếp thu chỉ
là kiến thức, còn mặt kĩ năng các em lại bị thiếu hụt. Đây là một yếu tố quan trọng
để các em hồ nhập vào cuộc sống sau này. Nói như vậy khơng có nghĩa là chúng ta
phủ nhận hồn tồn những phương pháp truyền thống nhưng cũng thấy được mặt
hạn chế của những phương pháp cũ đó là chưa phát huy được tính tích cực và sự
hứng thú trong học tập của các em học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu :
Trong năm học này, khi tôi nhận lớp, các đồng nghiệp bảo với tơi lớp này có
nhiều em hiếu động nhưng cũng khơng ít em thụ động. Quả thật như vậy. Trong lớp
một số em tích cực, tham gia vào các hoạt động học tập rất tốt. Tuy nhiên có một số
em lại rất hiếu động, hay quậy phá trong lớp. Bên cạnh đó có nhiều em rất ngoan,
ngoan đến nỗi nhút nhát, thụ động, ít tham gia các hoạt động của lớp, khơng dám
chia sẻ, trình bày ý kiến cá nhân của mình trước mọi người.
Đặc điểm của một số em trong lớp
 Hay nói chuyện trong giờ học
 Hay làm việc riêng
 Lơ là, không tập trung nghe cô giảng bài
 Nhiều em thụ động, không dám giơ tay phát biểu xây dựng bài. Khi được
cô giáo mời đọc bài hay phát biểu thì nói lí nhí trong miệng, khơng biết trình bày
như thế nào cho đúng.

 Ít trao đổi, chia sẻ, trình bày ý kiến cá nhân và phản hồi lại ý kiến của bạn.
 Lười học, ít chuẩn bị bài, xem bài trước khi đến lớp.


Hiện nay, chúng ta đang chú trọng đổi mới giáo dục. Vấn đề giúp học sinh học
tập tích cực, chủ động đang được phát huy. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên vẫn
còn lúng túng trước việc làm thế nào để các em chủ động hơn trong học tập vì nhiều
yếu tố. Một số giáo viên do lớn tuổi nên việc làm thế nào để tổ chức lớp học vui
tươi, sinh động khiến họ gặp lúng túng. Bên cạnh đó cũng có thể họ đã quen với
cách dạy truyền thống nên việc thay đổi phương pháp mới cũng gây nên một số khó
khăn nhất định. Một số giáo viên vì một lí do nào đó mà việc chuẩn bị cho một hoạt
động học trên lớp có phần chưa được chu đáo lắm. Có giáo viên đến lớp lại mang
một tâm trạng không tốt sẽ gây ảnh hưởng đến không khí lớp học. Chính những điều
này tác động đến các em, làm các em cảm thấy không thoải mái, bị ức chế trong các
hoạt động học của mình, từ đó tính sáng tạo, tích cực của các em bị giảm dần.
Xã hội đang ngày càng phát triển, nếu các em chỉ được cung cấp kiến thức
theo một chiều mà không có sự rèn luyện kĩ năng thì khi bước ra xã hội, các em sẽ bị
hụt chân, không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Trong quá trình
đổi mới giáo dục, chúng ta cần đảm bảo học sinh được chủ động lĩnh hội kiến thức,
có kĩ năng và thái độ đúng chuẩn.
Với tình hình của lớp như thế, tơi thiết nghĩ mình cần đổi mới, cần tạo ra một
khơng khí lớp học thân thiện để các em cùng hòa đồng, hỗ trợ nhau học tập và hãy
đặt học sinh của mình vào trạng thái “Căng thẳng tích cực” để các em được làm
việc, động não, suy nghĩ liên tục. Có như thế các em mới thể hiện được hết khả năng
sáng tạo và năng lực học tập của mình.
2 .3. Mơ tả , phân tích các giải pháp:
Các biện pháp tiến hành , cách áp dụng và tính mới của các giải pháp :
2.3.1. Đối với thầy :
Để khắc phục tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, ngành
Giáo dục trong những năm gần đây đã có rất nhiều sự thay đổi. Sự thay đổi đó thể

hiện ở nhiều mặt như thay đổi về chương trình giáo dục tiểu học, thay đổi về phương
pháp và hình thức tổ chức, nâng cao chuẩn của giáo viên .


Tuy nhiên, để giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong
học tập, người có vai trị quan trọng chính là người giáo viên đứng lớp. Đối với cấp
tiểu học, mỗi ngày học sinh đến trường là mỗi ngày học sinh được gặp thầy cô giáo
của mình. Có bao giờ các bạn tự hỏi: có khi nào học sinh cảm thấy nhàm chán chính
thầy cơ của chúng khơng? Có thể lắm chứ nếu như mỗi ngày học sinh của chúng ta
đều được nhìn, được nghe thấy một việc quen thuộc, một câu lệnh quen thuộc và
làm những việc quen thuộc. Như vậy, muốn học sinh của chúng ta hứng thú, tích cực
thì người giáo viên cũng phải luôn sáng tạo, đổi mới trong những giờ lên lớp. Bên
cạnh đó, người giáo viên hãy là người bạn lớn của học sinh để tạo được sợi dây tình
cảm bền chặt với trẻ, mang đến cho các em sự tin cậy, gần gũi. Dưới đây tơi xin trình
bày một số giải pháp giúp học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo
trong học tập.
2.3.1.1. Tìm hiểu về tâm lí, nhu cầu của trẻ :
Để tạo được sự sáng tạo, chủ động, tích cực nơi trẻ thì trước hết chúng ta cần
phải hiểu trẻ, xem trẻ suy nghĩ gì, mong muốn gì. Ngay ngày đầu, tơi đã gặp giáo
viên của lớp cũ để trao đổi tình hình, đặc điểm của một số em trong lớp để tìm hiểu
xem bản tính của các em năm học trước như thế nào, các em hiếu động kiểu nào, thụ
động ra sao. Hãy tập quan sát trẻ trong giờ học, chúng ta sẽ thấy tất cả hiện lên trong
từng ánh mắt, hoạt động của trẻ. Trẻ thích thú? Trẻ chán? Trẻ mệt mỏi? Trẻ đang tị
mị muốn xem cơ (thầy) của chúng đang chuẩn bị làm gì? Trẻ ở lứa tuổi tiểu học rất
khác với người lớn chúng ta. Chúng không thể ngồi yên một chỗ suốt nhiều giờ liền
và chỉ làm một việc lặp đi lặp lại. Điều đó dễ gây nên sự nhàm chán nơi trẻ. Lứa
tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi vẫn còn rất hiếu động. Chúng thích được chạy nhảy,
thích được trị chuyện, thích được làm một việc gì đó chứ khơng phải là ngồi n
một chỗ. Như vậy có thể thấy là trẻ thích được hoạt động. Vậy tại sao chúng ta
không tạo nên sự ham thích nơi trẻ, sự khám phá nơi trẻ bằng việc tự tin giao quyền

chủ động cho các em, tạo cho các em những hoạt động mà ở đó các em được tham
gia, được khám phá. Thật thú vị biết bao khi tự mình phát hiện, tìm tịi ra một điều gì
mà mình chưa biết. Trong giờ học, tơi thường xun đặt ra những tình huống có vấn
đề, tổ chức cho các em thảo luận, hợp tác, chia sẻ để tìm hiểu vấn đề ấy. Có những


vấn đề các em tự khám phá được và tôi cảm nhận được niềm vui, sự tự hào trong đôi
mắt các em. Có những vấn đề khó các em cần có sự hướng dẫn và gợi mở của giáo
viên nhưng khi tìm được kết quả, tơi vẫn nhận thấy sự thích thú ở các em khi các em
được tự mình hoạt động để tìm kiếm tri thức.
2.3.1.2. Hãy biết lắng nghe học sinh :
Ngày còn bé, khi còn học tiểu học, tôi rất ngại khi phải đứng trước mặt thầy
cô của mình. Tơi ít giơ tay phát biểu vì sợ nếu nói sai thì cơ sẽ la mắng, sẽ trách phạt
mình. Dần dần tơi thu mình vào vỏ ốc mặc cảm, thụ động. Nhưng cô giáo lớp 4 đã
làm thay đổi tôi. Cô là người nhẹ nhàng, thân thiện. Vào lớp cơ hay trị chuyện với
chúng tơi, hỏi thăm học trị của mình. Và khi chúng tơi nói cơ đều tỏ thái độ muốn
nghe. Tôi dần trở nên tự tin hơn. Tôi đã mạnh dạn phát biểu nhiều hơn trước. Và bây
giờ, tôi cũng đang cố gắng thực hiện điều đó với học sinh của mình. Trước các em,
tơi ln tỏ thái độ muốn lắng nghe những điều các em muốn trình bày. Nếu được bày
tỏ điều mình suy nghĩ và có người lắng nghe mình, các em sẽ dần mạnh dạn hơn,
hăng hái thể hiện bản thân mình, chủ động hơn trong việc học tập. Hãy để các em
được trình bày, được thể hiện bản thân mình, điều đó sẽ giúp các em phát triển kĩ
năng giao tiếp của mình trong cuộc sống, mang lại cho các em sự chủ động, tự tin
trong mọi việc.
Bên cạnh đó, khi cịn giảng dạy ở thành phố Hồ Chí Minh được học hệ
thống kĩ năng phát triển câu hỏi tư duy của Intel cịn giúp bản thân tơi hồn
thiện hệ thống câu hỏi đặt ra cho học sinh. Thực tế cho thấy, hệ thống câu hỏi
trong q trình học tập khơng chỉ là con đường dẫn đến nguồn tri thức mà học
sinh cần lĩnh hội mà cịn có tác dụng khuyến khích phát triển tư duy có phân
tích của học sinh ở mức cao nhất. Trong những giờ học trước đây, hệ thống câu

hỏi mà tôi đặt ra tuy phù hợp với các đối tượng học sinh nhưng vẫn còn hạn chế
bởi mục đích khai thác câu hỏi chủ yếu để học sinh hiểu ra nội dung mà chưa
chú trọng rèn các hoạt động tư duy cho các em. Khi tìm hiểu về bảng phân loại
kĩ năng tư duy của Bloom, ở mỗi bài học tôi luôn xem xét và đánh giá các câu
hỏi có sẵn trong sách giáo khoa theo mức độ đi từ Biết -> Hiểu -> Vận dụng ->
Phân tích -> Tổng hợp -> Đánh giá, rồi từ đó tôi soạn ra một hệ thống câu hỏi


vừa đảm bảo việc khai thác nội dung bài học vừa rèn kĩ năng tư duy cho các
em.
Ví dụ thực tế việc Dạy bài tập đọc “ Phần thưởng ” (Sách tiếng việt 1 tập 1- Lớp
2 ) tôi đã vận dụng như sau :
Hệ thống câu hỏi được đặt với HS
CHỦ YẾU DỰA VÀO SGK

Mục tiu

1/ Hãy kể những việc làm tốt của bạn Na ?
Phương

2/ Theo em điều bí mật được các bạn Na bàn bạc là gì ?

pháp cũ

3/ Em có nghĩ rằng Na xứng đáng được phần thưởng
khơng ? Vì sao ?
4/ Khi Na được nhận phần thưởng , những ai vui mừng ? - Chủ yếu tìm
Vui mừng như thế nào ?

nội dung, ý

nghĩa của bài
đọc.

1/ Na là cô bé thế nào ?
Phương

2/ Hãy kể lại chi tiết chứng tỏ Na là cô bé tốt bụng ?

pháp mới 2/ Vì sao Na xứng đáng được nhận phần thưởng ?
Chọn câu trả lời đúng:

- Hiểu nội dung
bài đồng thời
phát triển kĩ

 Vì Na là cơ bé tốt bụng .

năng tư duy

 Vì Na học giỏi .

của học sinh từ

 Vì Na là cơ bé tốt bụng và biết giúp đỡ bạn bè .

thấp đến cao.

6/ Thảo luận nhóm kể lại việc mọi người vui mừng khi Na
được nhận phần thưởng .
* Những tiêu chuẩn của một hệ thống câu hỏi tốt trong phương pháp đàm

thoại:
- Hệ thống câu hỏi gắn bó logic với nhau để học sinh có cơ sở quan sát, tìm tịi suy
nghĩ, khám phá rút ra những điều cần học một cách có hệ thống.
- Hệ thống câu hỏi phải dễ hiểu với học sinh.


- Hệ thống câu hỏi là sự kết hợp của nhiều dạng câu hỏi: Câu hỏi tái hiện đơn giản
những chi tiết, sự kiện; câu hỏi mở…
- Hệ thống câu hỏi tránh vụn vặt, tuỳ tiện, dễ dãi.
- Hệ thống câu hỏi tránh thiên về tái hiện đơn thuần kiến thức của sách giáo khoa.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời tránh áp đặt, mớm sẵn hoặc gò học sinh trả lời
theo đúng dự định của mình.
- Giáo viên cần có thái độ động viên và cơng
nhận những câu trả lời phù hợp của học sinh đưa
chúng vào nội dung của bài giảng.
- Giờ học cần được tổ chức thành một cuộc hội
thoại của học sinh ,giáo viên để phát triển cho
học sinh các kỹ năng phỏng đoán, hỏi, giải thích,
thuyết minh, thể hiện cảm nghĩ , tóm tắt , dần
dần tạo cơ hội để các em đảm nhận vai trị đặt
câu hỏi .
Qua thực tiễn, tơi nhận thấy ngày càng tự
tin hơn về kĩ năng đặt câu hỏi của mình, từ đó
vận dụng linh hoạt vào thực tế giảng dạy với
mong muốn ln kích thích sự phát triển tư duy
học sinh.
2.3.1.3 .Làm người bạn lớn của trẻ
Chúng ta cứ nghĩ nhiệm vụ của chúng ta khi đến lớp là giảng dạy, truyền đạt
đến các em tất cả những kiến thức kĩ năng cần thiết; là tạo dựng một lớp học nề nếp,
trật tự. Thế thôi vẫn chưa đủ. Chúng ta cũng cần phải hiểu, ngoài việc học, khi đến

lớp trẻ cũng cần được giao tiếp, được chia sẻ những tâm tư tình cảm với bạn bè và
đặc biệt là với chính thầy cơ giáo của chúng. Đứng trước học trò, người giáo viên
thường tạo ra một khoảng cách khiến học trị khơng dám gần gũi để bày tỏ tình cảm,
chia sẻ những tâm tư nguyện vọng với thầy cơ của chúng. Khơng khí lớp học sẽ thật
căng thẳng.


Chúng ta hãy nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc. Cố gắng làm sao để tạo được
một khơng khí thật vui, thật dễ chịu khi chúng ta và học sinh bước vào lớp. Giáo
viên hãy là người quan tâm, chia sẻ với các em, lâu dần các em sẽ tin tưởng và chia
sẻ với chúng ta. Mối dây tình cảm sẽ gắn bó thân thiết hơn. Điều này rất thuận lợi
cho giáo viên và học sinh. Có thoải mái thì bất cứ ai mới có thể làm việc và học tập
một cách hào hứng và tích cực được.
2.3.1.4 .Tạo mơi trường học thân thiện với trẻ
Quan tâm, chia sẻ với học sinh sẽ càng ngày
càng thắt chặt tình thầy trị. Chính vì thế tôi đã vận
dụng một số phương pháp dạy học theo mơ hình
trường Tiểu học mới VNENđó chính là tạo ra một "
Môi trường học thân thiện" với trẻ. Hãy để cho trẻ
được nhìn ngắm những sản phẩm do chính tay mình
làm ra. Sau mỗi giờ học, đặc biệt những mơn có sản
phẩm như Mĩ thuật, kĩ thuật ,Tiếng việt … tôi đều
cho

học

sinh

trưng bày sản phẩm ở quanh lớp. Mỗi ngày các
em đều được nhìn ngắm sản phẩm của mình và

của bạn nên học hỏi được những cái hay từ bạn.
Bên cạnh đó, những em có sản phẩm tốt đều
cảm thấy rất vui nên càng thể hiện sự cố gắng ở
những bài sau. Dưới lớp, tôi cũng dành cho các
em một góc sưu tầm. Tranh, ảnh, tư liệu sưu tầm
cũng được các em đính vào đó như một phương
pháp học tập và trang trí lớp. Ngồi ra tơi cịn có
sổ theo dõi về tình hình học tập, năng lực phẩm
chất của từng em để nhận xét tuyên dương
những em tích cực học tập , phẩm chất tốt ,
tham gia tốt phong trào trướng lớp trong các tiết


U
1
thưởng bằng cách gắn hoa niềm vui vào bảng thi đua của lớp .Từ đó đã tạo cho các
C
em động lực và tích cực học tập.
á
Ở lớp , tơi cịn phát động phong trào " Môi trường xanh " và thực hiện việc trang
c
trí lớp học. Do có sự thi đua nên càng em thực hiện việc này rất hào hứng. Đặc biệt
t
là đối với phân môn tiếng việt các em có thể trình bày sản phẩm của mình như sơ đồ


sinh hoạt lớp . Cuối tháng em nào đạt thành tích tốt thì sẽ được tun dương khen

mạng ý nghĩa hay tả ngoại hình nhân vật . Qua đó các em rất hứng thú với việc học
môn học này.


t
r
o
n
g

Phúc hậu

Râu tóc
bạc phơ

Đẹp lão

Hiền
lành

Trong một lớp học, khơng phải emcnào cũng học khá giỏi như chúng ta mong
muốn. Bên cạnh những em học tốt cũngâcó những em học chậm. Giáo viên nên nhẹ
nhàng, hướng dẫn các em để các em cóusự tự tin trong học tập. Ngồi ra giáo viên
cần có sự động viên, khen ngợi kịp thời khi thấy các em tiến bộ dù chỉ là một bước
nhỏ. Nếu chúng ta trách phạt thì sẽ
tạo nên áp lực lớn ở các em. Càng
ngày các em càng thụ động và chui
vào " vỏ ốc" của mình, khơng dám
thể hiện bản thân mình, khơng cịn
sự chủ động và tích cực được nữa.
Tuy nhiên, đã có khen thưởng
thì cũng có phạt. Nhưng phạt như
thế nào để học sinh nhận ra lỗi và

dần sửa chữa được lỗi đó là điều
quan trọng. Người giáo viên nên
biết sử dụng các biện pháp thay
thế. Ở lớp, tôi hướng dẫn để học

c

m


sinh tự đề ra nội quy của lớp mình. Tơi cho các em tự thảo luận nêu ý kiến để xây
dựng bảng nội quy lớp. Sau đó tơi lại cho các em tự đề ra biện pháp xử lí theo sự
định hướng của giáo viên. Các em rất hào hứng khi tự mình đề ra nội quy riêng cho
lớp mình. Từ hơm đó, các em đã ngoan và chăm hơn, nhiều em ít quậy phá và đã
biết chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Có lẽ các em đã ý thức được mình cần tn thủ
những nội quy do chính mình đề ra. Các em là người tự đưa ra nội quy và cách xử lí
thì các em sẽ là người cố gắng thực hiện các điều quy định đó.
Việc đánh giá HS dựa trên các nguyên tắc sau :
1. Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích tính
tích cực và vượt khó trong học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học sinh phát huy
tất cả khả năng; đảm bảo kịp thời, cơng bằng, khách quan.
2. Đánh giá tồn diện học sinh thông qua đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ
năng và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh theo mục tiêu giáo dục
tiểu học.
3. Kết hợp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, trong đó đánh giá của
giáo viên là quan trọng nhất.
4. Đánh giá sự tiến bộ của học sinh, không so sánh học sinh này với học sinh khác,
không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh.
Vào những giờ ra chơi, những khi rảnh
rỗi tôi chủ động hỏi chuyện các em, đặc biệt

là những em nhút nhát trong lớp, hỏi thăm về
thầy cô cũ, về gia đình của các em. Dần dần
các em trở nên thân thiết hơn với cơ giáo,
thích trị chuyện và mạnh dạn bày tỏ nhiều ý
kiến hơn. Tơi cịn khuyến khích các em viết
thư vào hộp thư " Điều em muốn nói " để
cuối tuần vào giờ sinh hoạt tôi và các em lại
trao đổi cho nhau nghe. Những tâm sự, mong


muốn của các em sẽ được truyền tải qua những cánh thư mà có thể là khi trình bày
bằng lời các em sẽ gặp một số khó khăn. Đồng thời qua việc viết " Điều em muốn
nói" các em cịn rèn kĩ năng viết văn của mình . Đây cũng là một trong những việc
tôi áp dụng phương pháp dạy học theo mơ hình trường Tiểu học mới VNEN .
Ngồi ra để phục vụ cho việc tăng cường khả năng giao tiếp , rèn luyện tư duy và trí
tưởng tượng phong phú của các em khi viết văn , đồng thời hưởng ứng phong trào "
Đọc sách " của nhà trường , lớp tơi cịn xây dựng một kệ sách để cho các em thư
giãn vào giờ ra chơi với nhiều đầu sách tham khảo và giải trí.

2.3.15 .Chủ động, sáng tạo trong việc lập kế hoạch dạy học
Mỗi ngày đến lớp người giáo viên đều chuẩn bị cho mình một kế hoạch bài
học đầy đủ. Với sự chuẩn bị chu đáo, chúng ta sẽ là người chủ động dẫn dắt các em
trong từng hoạt động. Trong năm học này, theo sự chỉ đạo của BGD và ĐT, tôi đã
tiến hành đổi mới trong việc lập kế họach dạy học cho lớp. Vào đầu năm học, tơi
tiến hành nắm tình hình học tập của học sinh để có thể lên kế họach dạy học cho phù
hợp với tình hình thực tế của lớp. Khi soạn giáo án tôi thực hiện ngắn gọn nhưng
trong đó thể hiện rõ từng hoạt động với các hình thức tổ chức như thế nào. Bên cạnh
đó, tơi cịn chú ý đến việc dạy học theo hướng cá thể hóa theo từng đối tượng học
sinh. Tuy việc làm này mới ở bước đầu, còn gặp nhiều khó khăn nhưng cũng đã
mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong quá trình giảng dạy và học tập của các em.



Hãy để ý xem trong từng hoạt động chúng ta thực hiện như vậy thì đã phát huy được
tính tích cực của học sinh chưa. Nếu chưa thì ta hãy cố gắng đầu tư thêm để tổ chức
được một hoạt động để học sinh được tự mình tham gia theo đúng nghĩa của nó. Nếu
người giáo viên chủ động, sáng tạo trong việc tổ chức hoạt động thì sẽ giúp cho học
sinh chúng ta chủ động, tích cực khi tham gia hoạt động học tập đó .
Ví dụ : Bài tập đọc “ Kì diệu rừng xanh” ở HK1 lớp 5( có kế hoạch bài dạy đính
kèm)
Tơi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài và luyện đọc theo quy trình mới sáng tạo.
Ở quy trình cũ thì các phần luyện đọc đoạn , câu dài , tìm hiểu từ khó hiểu, tìm
giọng đọc … được tách riêng từng bước nhưng tôi vận dụng kết hợp với nhau cho
HS làm việc nhóm 4 tìm từ khó đọc , khó hiểu , câu văn dài , tìm giọng đọc từng
nhân vật trong câu chuyện chung một bước thì kết quả cho thấy các em hứng thú học
tập hơn vì có sự tương tác nhóm đồng thời tiết kiệm được thời gian học tập để dành
được nhiều thời gian hơn cho các bước tìm hiểu bài ở lớp lớn và luyện đọc ở lớp
nhỏ.
Khơng chỉ có thế việc thay đổi hình thức tìm hiểu bài cũng giúp học sinh hứng
thú hơn khi học môn này .Tùy theo mục tiêu bài dạy , tùy nội dung bài đọc mà tơi
thay đổi các hình thức tim hiểu bài như sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở , sử dụng
sơ đồ tư duy , sử dụng đồ dùng trực quan …
Qua đó học sinh có thể hiểu được nội dung bề nổi và bề sâu của bài đọc và có
thể trình bày lại theo cách hiểu của mình. Từ đó, học sinh có thể nêu được giá trị nội
dung, giá trị nghệ thuật của bài (với trình độ tiểu học).Mỗi học sinh đều được hoạt
động, đều được bộc lộ mình, đều được phát triển.Học sinh phát hiện, lĩnh hội tri thức
một cách tích cực, chủ động, sáng tạo, với một động cơ nhận thức đúng đắn dưới sự
hướng dẫn của giáo viên chứ không phải bị áp đặt. Học sinh có hứng thú học tập,
mức độ tự giác tham gia xây dựng bài cao.



Ví dụ : Bài tập đọc “ Thái sư Trần Thủ Độ ” ở HK2 lớp 5

2.3.1.6. Kết hợp sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy
Chúng ta đã quá quen thuộc với cách dạy truyền thống đó là thầy và trò gắn liền
với bảng đen và phấn trắng. Nhưng nếu thay bảng đen bằng màn hình, thay dịng
chữ và tranh ảnh cứng nhắc bằng những hình ảnh, những đoạn phim ngắn sinh động,
phong phú kết hợp với âm thanh vui nhộn thì học sinh của chúng ta sẽ thích thú và bị
lơi cuốn đến từng nào? Học sinh tiểu học dễ nhớ nhưng mau quên. Những bài học có
điều gì mới lạ sẽ ghi sâu vào tâm trí của các em hơn. Dẫu biết rằng để thực hiện một
bài giáo án điện tử không phải là dễ dàng. Chúng ta phải bỏ ra rất nhiều cơng sức để
tìm kiếm tư liệu. Bên cạnh đó có một số thầy cô bị hạn chế về khả năng sử dụng máy
vi tính. Tuy nhiên, nếu có điều kiện để thực hiện một bài học bằng giáo án điện tử,
tôi tin chắc học sinh của chúng ta sẽ rất thích thú, say mê. Tuỳ vào điều kiện chúng
ta có thể thực hiện được nhiều hay chỉ có một giáo án điện tử. Nhưng chỉ cần có một
chút thay đổi sáng tạo trong bài học là học sinh của chúng ta sẽ tích cực hơn trong
học tập. Nhất là với bộ môn Tiếng việt là một bộ môn hướng dẫn thẩm mĩ , kĩ năng
sống cho học sinh qua dạy chữ rèn người thì việc vận dụng GAĐT vào giảng dạy lại
càng cần thiết hơn.


* Để thực hiện một kế hoạch giảng dạy có ứng dụng công nghệ thông tin,
người giáo viên cần lưu ý:
+ Lựa chọn bài phù hợp để thực hiện giáo án điện tử.
Không phải bài học nào khi ứng dụng công nghệ thông tin cũng mang lại hiệu quả
cao. Chúng ta phải biết chọn lọc, xem bài nào có nội dung phù hợp, nếu ứng dụng
công nghệ thông tin sẽ tác động tích cực học sinh đến đâu. Trong các năm học trước
và năm học này, tôi cũng đã thiết kế được một số bài học có ứng dụng cơng nghệ
thông tin như: Luyện tập xây dựng đoạn văn trong văn kể chuyện , câu cảm , luyện
tập giới thiệu địa phương , động từ … Với những bài học này, tơi nhận thấy nếu có
ứng dụng cơng nghệ thơng tin thì sẽ giúp học sinh học tập tích cực, chủ động và đặc

biệt được mở rộng nhiều kiến thức mà SGK chưa cung cấp.
+ Giáo viên cần tìm kiếm thơng tin ở nhiều nguồn (hình ảnh, đoạn phim,…) để bài
dạy của mình thêm phong phú. Sử dụng các phần mềm hỗ trợ để bài học thêm sinh
động, hấp dẫn.
+ Khơng nên sử dụng nhiều hình ảnh động nhiều màu sắc rực rỡ hoặc âm thanh quá
lớn gây khó chịu, mất sự tập trung của học sinh.
+ Một số trang web hữu ích giúp giáo viên truy cập tìm kiếm thông tin phục vụ bài
giảng:


www.google.com (tìm kiếm thơng tin)
(tìm kiếm phim)
www.ohme-ohmy.com/print_selection.php (hình nền templates)
(hình động)
www.honoluluzoo.org (trang web về các lồi thú)
www.seawold.org/animal-info/sound-library (thư viện âm thanh các lồi động
vật)
www.suutap.com/bando/default.asp (bản đồ hành chính Việt Nam)
www.basao.com.vn (thư viện bản đồ)
www.terragalleria.com (tranh ảnh về phong cảnh đẹp và con người ở khắp nơi
trên thế giới, nhất là hình ảnh về Việt Nam rất đẹp)
www.vietmultimedia.com (hình ảnh đẹp của Việt Nam)
(tài liệu về
Huế, kinh thành Huế … )
2.3.1.7 . Thực hiện làm đồ dùng dạy học
Là người lớn chúng ta rất thích sử dụng những
đồ dùng đẹp. Học sinh của chúng ta cũng thế thôi. Các
em cũng rất thích thú khi cầm trên tay mình một đồ
dùng nào đó xinh xắn đáng yêu. Việc làm đồ dùng
không những giúp chúng ta rất nhiều vào việc tổ chức

các hoạt động trên lớp mà còn khơi gợi sự thích thú
của học sinh trong học tập. Ngồi việc sử dụng, các
em cịn biết cần phải giữ gìn bảo quản để có thể được
sử dụng nhiều lần. Ở lớp, trong một số giờ ngoại khóa, tơi tổ chức cho lớp cùng làm
đồ dùng học tập. Sau khi thực hiện, có những đồ dùng được sử dụng ngay, có những
đồ dùng chưa sử dụng thì tơi cho các em treo chung quanh lớp để trang trí. Nhìn lớp
học thật sinh động và đẹp. Các em nhìn thấy sản phẩm do chính mình làm ra nên rất
thích thú và cùng chung sức giữ gìn, bảo quản. Như vậy chúng ta có thể phát huy
được sự sáng tạo của học sinh trong việc học và hành.


- Tơi làm những đồ dùng dạy học khuyến khích học sinh cả lớp học tập tích cực như
: hoa học tập , bảng xoay trắc nghiệm , bảng mếu cười .

Ví dụ : Bộ hoa học tập áp dụng cho HS trắc nghiệm trả lời các câu hỏi phân môn tập
đọc

Thứ hai ngày 2 tháng 11 năm 2015
Tập đọc
Kiểm tra bài cũ

Bà cháu

Đ,S?
1. Trước khi gặp cô tiên, ba bà cháu sống như thế nào?
A ) Sống rất vui vẻ
S
B ) Sống đầm ấm
S
C ) Tuy vất vả nhưng cảnh nhà lúc nào cũng đầm ấm Đ



Ví dụ : Khi bạn đọc diễn cảm hoặc kể chuyện hay , em cũng có thể dùng bảng "
Mếu-cười " để nhận xét .

Ví dụ : Bộ hoa học tập " Bơng hoa kì diệu" áp dụng phương pháp dạy học tích cực
"Khăn phủ bàn "

Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá
nhân và hoạt động nhóm nhằm :
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực


- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS
- Phát triển mơ hình có sự tương tác giữa HS với HS
Cách sử dụng : Hoạt động theo nhóm (8 người / nhóm) (có thể 4 người )
- Mỗi em sử dụng một cánh hoa ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa

- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...)
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề như kể về
người thân trong gia đình em : ba , mẹ , ông , bà...). Mỗi cá nhân làm việc độc lập
trong khoảng vài phút
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất
các câu trả lời
- Nhóm trưởng tổng hợp viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ơ nhụy hoa màu
vàng
chăm sóc
chu đáo
cao ,
hơi gầy


40 tuổi
ổituổi

vui vẻ

Ba
em

em

yêu thương

chăm sóc
chu đáo
cao ,
hơi gầy

40 tuổi

vui vẻ
cao ,
hơi gầy
chăm sóc 40 tuổi
chu đáo
u thương

tuổi
cơng nhân


cơng nhân

vui vẻ

u thương


2.3.1.8. Tổ chức các hình thức học nhóm, thi đua và trò chơi học tập
Trong dạy học Tiếng Việt người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và lựa
chọn các phương pháp vào từng hoạt động của các dạng bài học, để hướng dẫn học
sinh tự tìm tịi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành hình thành
và rèn luyện kĩ năng Tiếng Việt, hướng dẫn học sinh giảng giải kết hợp việc vận
dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, hay trị chơi Tiếng Việt, nhằm
đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học Tiếng Việt .
Tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động là mấu chốt của
vấn đề đổi mới.Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy
học .
Việc giáo viên nên thường xuyên tổ chức các hoạt động thi đua cá nhân, nhóm,
tổ , trị chơi sẽ tăng thêm sự hào hứng, thích thú trong học tập của các em. Và sau
mỗi họat động thi đua, giáo viên cần có sự khen thưởng kịp thời để ghi nhận sự cố
gắng của các em. Việc khen thưởng cũng có thể thực hiện đơn giản bằng cách tặng
hoa, phiếu ghi nhận, thẻ mặt cười , lời khen… Việc khen thưởng tuy nhỏ nhưng
mang tính khích lệ và khuyến khích các em rất cao.
Điểm mới ở đây là tôi vận dụng " Các hình thức dạy học theo mơ hình VNEN
"để tổ chức các tiết học có hiệu quả :
1. Qui trình 5 bước dạy của giáo viên theo mơ hình VNEN :
Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh.
Bước 2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm.
Bước 3. Phân tích khám phá rút ra kiến thức mới.
Bước 4. Thực hành.



Bước 5. Ứng dụng.
2. 10 Bước học tập của học sinh :
+ Bước 1. Chúng em làm việc nhóm. Nhóm trưởng lấy tài liệu và đồ dùng học tập
cho cả nhóm.
+ Bước 2. Em đọc tên bài học rồi viết tên bài học vào vở ô li (lưu ý không được
viết vào sách).
+ Bước 3. Em đọc mục tiêu của bài học.
+ Bước 4. Em bắt đầu hoạt động cơ bản (nhớ xem phải làm việc cá nhân hay theo
nhóm).
+ Bước 5. Kết thúc hoạt động cơ bản em gọi thầy, cơ giáo để báo cáo những gì em
đã làm được để thầy, cô ghi vào bảng đo tiến độ.
+ Bước 6. Em thực hiện hoạt động thực hành:
- Đầu tiên em làm việc cá nhân.
- Em chia sẻ với bạn ngồi cùng bàn (giúp nhau sửa chữa những bài làm cịn
sai sót).
- Em trao đổi với cả nhóm. Chúng em sửa cho nhau, luân phiên nhau đọc...
(lưu ý không làm ảnh hưởng đến nhóm khác).
+ Bước 7. Hoạt động ứng dụng (gắn liền với gia đình và địa phương).
+ Bước 8. Chúng em đánh giá cùng thầy, cô giáo.
+ Bước 9. Kết thúc bài, em viết vào bảng đánh giá (nhớ suy nghĩ kĩ khi viết và lưu ý
về đánh giá của thầy, cô giáo).
+ Bước 10. Em đã học xong bài mới hoặc em phải học lại phần nào.
* Phương pháp học theo cặp hoặc nhóm: Học theo cặp hoặc nhóm là cách tổ chức
các hoạt động theo phương thức hợp tác, thể hiện quan điểm "hướng vào người học"
có những tác dụng tích cực sau:
-

Giúp học sinh phát huy cao độ vai trò chủ động, sáng tạo, tích cực, tự giác và


năng động trong học tập.
-

Hình thành, phát triển một số kỹ năng xã hội và phẩm chất cần thiết, chuẩn bị

cho học sinh biết sống hợp tác.
-

Ln đảm bảo tính dân chủ và tính nhân văn sâu sắc trong dạy học.


-

Chuẩn bị cho học sinh sống trong một thế giới hiện thực, biết chịu trách

nhiệm.
-

Giúp học sinh nâng cao thành tích học tập của cá nhân mình và tập thể lớp,

tạo cơ hội cho các em bổ sung kiến thức cho nhau cũng như tự điều chỉnh những
hiểu biết chưa chính xác phù hợp với bản thân.
-

Đặc biệt lưu ý cách dạy học " Cá thể hoá " để chia nhóm cho phù hợp .

* Vài điều cần thiết khi chia nhóm:
-


Thành lập nhóm từ 2 hoặc 8 thành viên.

-

Thường xuyên thay đổi cơ cấu nhóm, tránh giữ các nhóm ổn định suốt năm

học.
-

Cho mỗi học sinh trong nhóm luân phiên nhau đảm trách vai trị nhóm trưởng.

-

Tạo điều kiện cho mỗi thành viên có cơ hội thực hành đóng góp.

-

Nhiệm vụ của mỗi nhóm phải thực hiện có độ khó và tầm quan trọng như

nhau so với yêu cầu, mục tiêu của giờ học.
* Chú ý: Khi giao việc cho nhóm, giáo viên cần phải trình bày nội dung hoạt
động một cách rõ ràng và ấn định thời gian làm việc cụ thể.
Tâm lí của giáo viên thường sợ mất thời gian. Khi gặp một bài tập khó, một
vấn đề phức tạp mà giáo viên nghĩ rằng vượt quá sức học sinh thì giáo viên thường
chủ động nêu hướng giải quyết hoặc trả lời dùm các em. Có giáo viên lại sa đà vào
giảng giải. Chúng ta hãy mạnh dạn giao việc cho các em để các em tự thực hiện, khi
nào thấy các em thật sự gặp khó khăn, giáo viên hãy là người hướng dẫn, gợi ý giúp
học sinh đi đúng hướng. Đối với những hoạt động yêu cầu mức độ cao, một học sinh
không đủ sức để thực hiện, giáo viên hãy tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm
nhỏ. Như vậy các em sẽ được thảo luận, được trình bày ý kiến, được tự mình tìm tịi

ra vấn đề một cách chủ động. Trong giờ học, tôi thường xuyên tổ chức cho các em
học theo nhóm, trao đổi thảo luận với nhau. Các em hiếu động giờ trở nên nhanh
nhẹn hơn; các em e dè, nhút nhát đã tự tin, mạnh dạn trao đổi với các bạn và trình
bày ý kiến trước lớp. Tơi biết trong số những em hiếu động có em Sang , em Qn ,
em Ngun rất thích đóng kịch nên tơi tạo điều kiện cho các em đóng kịch trong giờ
kể chuyện. Những câu chuyện các em trình bày trước lớp bằng cách sắm vai dù chưa


đạt về mặt hình thức hay nội dung nhưng các em rất hăng say, thích thú và sáng tạo
khi thực hiện điều đó. Các em diễn với vẻ nhí nhảnh vốn có nên càng tạo được
khơng khí vui tươi cho cả lớp. Tơi đánh giá cao điều đó. Dù chưa đạt ở mặt nào đó
nhưng tơi nhìn thấy ở các em có sự tiến bộ, đã tham gia tích cực, sáng tạo trong các
hoạt động học tập.

* Phương pháp trò chơi: Trò chơi là cách thức giáo viên tổ chức hoạt động cho
học sinh bằng cách vận dụng những trò chơi nhằm tạo cơ hội cho các em củng cố
hay phát triển những kiến thức hoặc kỹ năng ngôn ngữ của mình. Thơng qua các trị
chơi học sinh được làm việc cá nhân hoặc làm việc trong nhóm, trong lớp theo sự
phân cơng và tinh thần hợp tác.
-

Mục đích của trò chơi phải hướng đến củng cố hay phát triển kiến thức, rèn

luyện kỹ năng ngôn ngữ cụ thể của từng bài hay từng nhóm bài.
-

Hình thức trị chơi cần đa dạng nhằm thay đổi hình thức hoạt động học tập của

học sinh, giáo viên nên chọn trò chơi phù hợp với trình độ phát triển của học sinh ở
từng cấp lớp.

Mức tập trung chú ý của học sinh tiểu học thường không cao. Các em sẽ dễ
mệt mỏi khi học tập liên tục trong một thời gian dài. Hãy thay đổi khơng khí lớp
bằng cách cho các em thư giãn bằng một bài hát, một trò chơi nho nhỏ. Bên cạnh đó,
chúng ta có thể lồng ghép vào bài học một hoạt động trò chơi học tập phù hợp. Học
mà chơi - chơi mà học. Chơi nhưng lồng ghép vào đấy kiến thức của bài học sẽ giúp
học sinh tiếp nhận kiến thức một cách chủ động và sáng tạo. Hãy nhìn vào đơi mắt


×