Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục ở bậc thpt huyện thạch thành tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.4 KB, 135 trang )

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

---    ---

Chuyờn ngành:
QUẢN Lí GIÁO DỤC
Mã số:
60 – 14 – 05
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Ngô Sỹ Tùng

VINH, thỏng 12 năm 2009
1


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, thu thập tư liệu làm đề cương và
hoàn chỉnh đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục hố
giáo dục ở bậc trung học phổ thơng huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hố”
chúng tơi đã được Phó Giáo sư, Tiến sỹ Ngơ Sĩ Tùng – Phó Hiệu trưởng trường
Đại học Vinh hướng dẫn chỉ đạo tận tình. Ngồi ra cịn được tập thể học viên
khố 15 góp ý, tu chỉnh nhiều lần. Đặc biệt chúng tôi đã được lãnh đạo và bộ
phận văn thư lưu trữ của văn phòng: Phòng Giáo dục, UBND, Huyện uỷ huyện


Thạch Thành, Thư viện tổng hợp huyện Thạch Thành… cung cấp cho nhiều thư
viện gốc: Nghị quyết các lần Đại hội của tỉnh Thanh Hoá, Nghị quyết các lần Đại
hội của huyện Thạch Thành, Báo cáo tổng kết năm của huyện uỷ – HĐND –
UBND – Phòng giáo dục… , tài liệu thống kê niên giám… hoặc các sách lí luận,
giáo dục học, xã hội học, chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những sự
kiện lịch sử Đảng, văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc từ khố III đến khố X, luật
giáo dục… và sẵn sàng trả lời khảo nghiệm của chúng tơi.
Nhờ có sự giúp đỡ nhiều mặt ấy mà chúng tơi đã có đủ điều kịên để hồn
thiện luận văn của đề tài. Nhân dịp này chúng tôi xin trân trọng gửi tới Phó Giáo
sư, Tiến sĩ Ngơ Sĩ Tùng – Phó Hiệu trưởng trường Đại học Vinh, các đồng chí
lãnh đạo và cán bộ văn thư lưu trữ của phòng giáo dục, UBND, Huyện uỷ, Thư
viện huyện Thạch Thành lời cảm ơn chân thành nhất. Nếu trong quá trình cơng
tác chúng tơi có khiếm khuyết gì xin các vị lượng thứ. Xin chân thành cảm ơn.
Thạch Thành, ngày 12 tháng 01 năm 2010

2


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

MỤC LỤC

NỘI DUNG

Trang
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.


1

2. Mục đích nghiên cứu:

4

3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu.

4

4. Giả thuyết khoa học.

4

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

4

6. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu.

4

7. Các phƣơng pháp nghiên cứu.

5

8. Cấu kết luận văn: Luận văn có 3 phần.

5


Chƣơng I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
1. 1. Khái quát về lịch sử nghiên cứu vấn đề.
1.2. Khái niệm về giáo dục - Nhà trƣờng - Trƣờng THPT.
1.2.1. Giáo dục:

15

1.2.2. Hệ thống giáo dục quốc dân:

17

1.2.3. Nhà trường và trường trung học phổ thông .

19

1.3. Khái niệm về quản lý - quản lý giáo dục
1.3.1. Quản lý là gì:

20

1.3.2. Quản lý giáo dục:

22

1.4 .Quan niệm về xã hội hóa - Xã hội hóa hoạt động giáo dục.
1.4.1 Khái niệm xã hội hóa:

24


1.4.2. Xã hội hóa cơng tác giáo dục:

25

1.4.3. Bản chất của xã hội hóa cơng tác giáo dục.

28

1.5. Ý nghĩa, tầm quan trọng của xã hội hóa giáo dục:
1.5.1. Ý nghĩa.

28
3


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

1.5.2. Tình hình thế giới, khu vực, huy động xã hội tham gia
giáo dục.

30

1.5.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ xã hội hóa giáo dục
thế giới.
32
1.6. Nội dung xã hội hóa cơng tác giáo dục.
1.6.1.Thường xun nâng cao nhận thức cho mỗi thành viên:


33

1.6.2. Kết hợp các lực lượng xây dựng giáo dục:

33

1.6.3. Huy động mọi nguồn vốn cho giáo dục.

35

1.6.4. Xã hội hóa giáo dục cần đảm bảo sự lãnh đạo chặt chẽ
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò nòng cốt là ngành
giáo dục.

37

1.7. Xã hội hố THPT.
1.7.1. Vị trí của giáo dục trung học phổ thông:

38

1.7.2. Quan điểm của Đảng đối với Trung học phổ thơng.

39

Chƣơng II
THỰC TRẠNG CƠNG TÁC XÃ HỘI HĨA GIÁO DỤC Ở BẬC THPT
HUYỆN THẠCH THÀNH.
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên - Kinh tế - Xã hội – Truyền

thống lịch sử văn hóa - Huyện Thạch Thành.
2.1.1. Vị trí, điều kiện tự nhiên huyện Thạch Thành.

41

2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội

43

2.1.3. Truyền thống văn hóa, lịch sử:

46

2.2. Khái quát về thực trạng giáo dục nói chung, tình hình hoạt
động của bậc học trung học phổ thơng ở Thạch Thành nói riêng
2.2.1. Khái quát về thực trạng giáo dục Thạch Thành.
a, Khái quát về giáo dục Thạch Thành.

52

b, Tình hình hoạt động của bậc THPT.

55

2.2.2. Thực hiện cơng tác xã hội hóa giáo dục trung học phổ
4


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC


MAI THỊ LÝ

thông ở Thạch Thành.
a, Nhận thức của xã hội về xã hội hóa giáo dục.

57

b, Việc triển khai xã hội hóa giáo dục trung học phổ thổng ở huyện
Thạch Thành trong những năm qua.

62

c, Kết quả của cuộc vận động xã hội hóa cơng tác giáo dục:

65

2.2.3. Những hạn chế trong cơng tác xã hội hóa giáo dục THPT.

70

2.2.4. Ngun nhân thành công và khuyết điểm:
a, Nguyên nhân thành công:

70

b, Nguyên nhân khuyết điểm.

71
Chƣơng III


MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠNG TÁC
XÃ HỘI HĨA GIÁO DỤC BẬC THPT Ở THẠCH THÀNH.
3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác xã hội hóa
giáo dục ở các trƣờng trung học phổ thông huyện Thạch Thành.
a, Định hướng phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước.

72

b, Định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hóa và huyện
Thạch Thành.

73

3.2. Các quan điểm chỉ đạo và ngun tắc thực hiện cơng tác xã
hội hóa giáo dục.
a, Các quan điểm chỉ đạo:

78

b, Nguyên tắc thực hiện xã hội hóa giáo dục ở bậc THPT – Thạc
Thành

84

3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội hố giáo dục
ở bậc trung học phổ thơng ở huyện Thạch Thành.
3.3.1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận
thức về vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục và tầm quan trọng của
công tác xã hội hố giáo dục.


86

3.3.2. Nâng cao vai trị nòng cốt của cơ quan giáo dục địa phương.
3.3.3. Tăng cường huy động các lực lượng xã hội tham gia công tác
5

92


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

xã hội hoá giáo dục ở các trường THPT ở Thạch Thành.

96

3.3.4. Nâng cao vai trò quản lý nhà nước, thực hiện dân chủ hố
trong cơng tác xã hội hố giáo dục trung học phổ thông.

100

3.3.5. Đẩy mạnh việc huy động các nguồn lực tăng cường cơ sở vật
chất và phương tiện thiết bị phục vụ giảng dạy, nâng cao chất lượng
giáo dục ở các trường trung học phổ thông.
105
3.4. Kết quả khảo nghiệm.

108


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:

111

2. Kiến nghị.

112

6


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chỉ rõ. Từ khi loài người xuất
hiện trên trái đất, do nhu cầu tự thân của sự tồn tại và phát triển, một hình thức
giáo dục sơ khai đã xuất hiện, nhằm truyền thụ những kinh nghiệm về săn bắt,
hái lượm, trồng trọt, chăn nuôi... cho mọi người, có thể coi đó là giáo dục cộng
đồng. Dân tộc Việt Nam trước khi có giáo dục nhà nước phong kiến cũng đã trải
qua hình thức giáo dục cộng đồng sơ khai ấy.
Việt nam sau hàng ngàn năm Bắc thuộc đã đấu tranh anh dũng, kiên cường
thoát khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc, xây dựng một quốc gia độc
lập. Các triều đại Ngô - Đinh - Lê - Lý - Trần - Lê - Nguyễn đã ra sức xây dựng
đất nước về mọi mặt, trong đó có giáo dục. Tuy nhiên cũng phải đến triều Lý trở
về sau thì việc học hành thi cử mới có thể chế rõ ràng. Nhưng do bản chất của
chế độ, giáo dục bị hạn chế chỉ nhằm đào tạo trực tiếp những người thống trị

nhân dân, nên đa số dân khơng có chỗ học. Để giải quyết nhu cầu học tập nhân
dân đã mời thầy (ông Đồ) dạy cho con cái mình. Một hình thức giáo dục cộng
đồng được tiếp tục duy trì, phát triển có hiệu quả.
Thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858) chúng thi hành một chính sách
ngu dân để dễ bề cai trị. Chống lại các chính sách ấy các sĩ phu yêu nước lại lấy
giáo dục cộng đồng làm vũ khí đấu tranh. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục,
phong trào truyền bá chữ quốc ngữ.... đã góp phần củng cố, xây dựng truyền
thống cộng đồng của dân tộc ta.
Đảng ta - Đảng cộng sản Việt Nam, từ khi thành lập (3/2/1930) đã chú ý
khơi dậy truyền thống dân tộc, trong đó có văn hóa giáo dục. Ngay từ năm 1943
khi chưa dành được chính quyền “ Đề cương văn hóa Việt Nam” - của Đảng, đã
nêu ra nhiệm vụ cho các nhà văn hóa yêu nước là phải: “Xây dựng nền văn hóa
dân chủ mới với ba tính chất : Dân trí, khoa học và đại chúng” (1)
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành cơng. Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc
tun ngơn độc lập, thì ngay sau đó ngày 3/9/1945 trong phiên họp đầu tiên của
chính phủ lâm thời, Bác Hồ đã nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách trong đó nhiệm vụ
7


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

số 2 là “Mở chiến dịch chống nạn mù chữ

” (2)

MAI THỊ LÝ

; ngày 8/9/1945 “Đảng phát động

phong trào chống nạn mù chữ” (3); Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ

cộng hịa ban hành sắc lệnh, thành lập Nha bình dân học vụ “ Để trông nom việc
học hành của nhân dân”.(4) Trong lời kêu gọi chống thất học, Bác Hồ đã chỉ rõ


Nhân dân Việt Nam muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước

giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình
phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ

”(5)

Để biến phong trào học chữ

quốc ngữ thành phong trào rộng lớn của quần chúng Bác đã đề ra biện pháp


Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết. Vợ chưa biết thì

chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ chưa biết thì con bảo…” (6)
Hưởng ứng phong trào phát động của Đảng, lời kêu gọi của Bác Hồ, cả
nước đã dấy lên cao trào học chữ quốc ngữ, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng
bằng đến miền núi lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân từ già đến trẻ đều tham
gia. Trong lịch sử giáo dục Việt Nam chưa bao giờ có một cao trào xã hội hóa
giáo dục như vậy. Thật đa dạng, phong phú về cách dạy, cách học, cách tổ chức
trường lớp, cách kiểm tra đánh giá và đối tượng người học.
Nhờ có xã hội hóa giáo dục mà “30 năm qua (1945- 1975) nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng vừa đánh giặc vừa sản xuất và học tập thắng lợi”
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày
25/4/2006 đã xác định nhiệm vụ những năm tới của giáo dục và đào tạo “Nâng

cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương
pháp dạy và học, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa xã hơị hóa” chấn hưng nền
giáo dục Việt Nam...
Để thực hiện mục tiêu trên, Đại hội xác định phải chuyển đổi mơ hình giáo
dục nước ta, từ chỗ là một “hệ thống đóng kín của từng cấp học, ngành học, theo
niên chế, nặng nề về thi cử, lấy bằng cấp tín chỉ làm thước đo. Nhiệm vụ hôm
nay là chuyển dần sang mô hình giáo dục mở, mơ hình xã hội học tập với hệ
thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học,
xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người. Với những hình thức học
tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, tạo nhiều khả
8


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo
dục”.(7)
“Trong hệ thống giáo dục quốc dân ngành học phổ thơng chiếm vị trí quan
trọng. Bậc học THPT bậc học cuối cùng của ngành học phổ thơng địi hỏi phải
hồn thiện cơ bản kiến thức phổ thông. Trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức
kĩ năng và kỹ xảo bền vững có hệ thống. Rèn luyện tính năng động sáng tạo cho
hoc sinh, rèn luyện tu dưỡng đạo đức học sinh đạt kết quả tốt.
Chuẩn bị tốt cho học sinh vào cuộc sống, thái độ tích cực đối với sự phát
triển kinh tế - văn hóa địa phương, sẵn sàng lao động cải tạo quê hương, có sự
chuẩn bị nghề nghiệp và năng lực quản lý cần thiết để xây dựng cho mình một
cuộc sống ấm no, hạnh phúc và góp phần xây dựng quê hương giàu mạnh” (8)
Thực hiện các nghị quyết của Đảng về cơng tác giáo dục địi hỏi người cán
bộ quản lý giáo dục trong nhà trường, phải làm tham mưu cho các cấp ủy đảng,

chính quyền địa phương hiểu về giáo dục, tổ chức tập hợp các lực lượng chính trị
xã hội ở cơ sở (Mặt trận, thanh niên, phụ nữ, cơng đồn, cựu chiến binh, hội
khuyến học, nơng dân... ) thành một mặt trận để làm giáo dục. Làm được việc ấy
thực chất là người cán bộ quản lý trường học đã và đang thực hiện chủ trương
dân chủ hóa trường học, tạo điều kiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
trong giáo dục đào tạo. Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý,
nhân dân làm chủ sự nghiệp giáo dục ở địa phương nói chung và ở hệ THPT
Thạch Thành nói riêng.
Thạch Thành một huyện miền núi, vốn có truyền thống cách mạng nhưng vì
những nguyên nhân lịch sử nên việc học trước đây còn nhiều hạn chế. Trải qua
hơn 20 năm đổi mới (1986-2008) kinh tế trong huyện đã phát triển và có nhiều
thành tựu, làm cơ sở cho giáo dục nhất là bậc THPT phát triển mạnh (19962008) trong vòng 10 năm thành lập 3 trường THPT. Bên cạnh những thuận lợi
cơ bản các ngành trong huyện nói chung, giáo dục nhất là giáo dục THPT nói
riêng cịn nhiều khó khăn cần phải có sức mạnh của cả cộng đồng mới giải quyết
được. Việc tìm ra một số giải pháp.

9


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

Nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác xã hội hóa giáo dục ở trường THPT
Thạch Thành II là một yêu cầu khách quan và cần thiết. Đó cũng chính là lý do
để tôi, người cán bộ quản lý nhà trường chọn đề tài: “Một số giải pháp, nâng
cao hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục bậc THPT ở huyện Thạch Thành,
tỉnh Thanh Hóa” mong sao tìm được một số biện pháp khả thi, bố trí hợp lý, tổ
chức thực hiện đồng bộ để cơng tác xã hội hóa giáo dục ở huyện ngày càng phát
triển vững chắc. Đúng ý Đảng, lòng dân. Trường là của dân, do dân và vì dân.

2. Mục đích nghiên cứu:
2.1. Tìm hiểu tập hợp các sự việc có liên quan xã hội hóa giáo dục ở huyện
Thạch Thành nói chung và bậc THPT huyện Thạch thành nói riêng.
2.2. Tìm ra giải pháp để nâng cao hiệu quả về công tác xã hội giáo dục ở
huyện Thạch Thành và bậc THPT huyện Thạch Thành.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác xã hội giáo dục ở bậc THPT huyện
Thạch Thành .
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác xã
hội hóa giáo dục ở bậc THPT huyện Thạch Thành.
4. Giả thuyết khoa học.
Có thể nâng cao hiệu quả cơng tác xã hội hóa giáo dục ở bậc THPT huyện
Thạch Thành nếu xây dựng được và thực hiện tốt hệ thống giải pháp đồng bộ
hợp lý.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản về xã hội hóa giáo dục nói chung
và giáo dục bậc THPT nói riêng.
5.2. Thống kê phân tích thực trạng xã hội cơng tác xã hội hóa giáo dục ở
huyện Thạch Thành và bậc THPT huyện Thạch Thành.
- Thực trạng cơng tác xã hội hóa giáo dục ở địa phương
- Ưu điểm lớn
- Tồn tại

10


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ


5.3. Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác xã
hội hóa giáo dục ở bậc THPT huyện Thạch Thành.
6. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu.
6.1. Nghiên cứu tìm ra các giải pháp cơ bản về xã hội hóa giáo dục trong
phạm vi trường THPT để cán bộ quản lý bậc THPT trên địa bàn huyện có thể
ứng dụng từ 2009 đến 2015.
6.2. Giới hạn thời gian khảo sát (12 năm) từ 1996 đến 2008.
7. Các phƣơng pháp nghiên cứu.
7.1. Nghiên cứu lý luận:
- Đọc phân tích, tổng hợp nghị quyết đại hội Đảng nói về xã hội hóa giáo
dục (Từ Đại hội III đến Đại hội X)
- Nghiên cứu quan điểm của CN Mác Lê nin về vai trò quần chúng, vai trò
của giáo dục đối với kinh tế xã hội
- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo.
7.2. Nghiên cứu thực tiễn:
- Quan sát, tổng kết kinh nghiệm, đọc, tổng hợp số liệu thống kê của trường,
phòng giáo dục huyện Thạch Thành từ đó phân tích làm rõ.
- Điều tra xã hội học (gặp gỡ trò chuyện với CMHS, học sinh các khóa đã ra
trường)
- Phỏng vấn lãnh đạo địa phương về cơng tác xã hội hóa giáo dục.
8. Cấu kết luận văn: Luận văn có 3 phần.
Phần I: Đặt vấn đề.
Phần II: Nội dung đề tài
Phần III: Kết luận và kiến nghị

11


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC


MAI THỊ LÝ

Chƣơng I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
1.1. Khái quát về lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Trải qua q trình pháp triển của xã hội lồi người từ chế độ mẫu hệ sang
chế độ phụ hệ, từ chế độ quần hôn sang chế độ một vợ một chồng. Từ những bầy
người nguyên thủy qua nhiều sự biến đổi chuyển theo gia đình. Đó là bước tiến
vượt bậc của lồi người.
Gia đình là tế bào của xã hội. Mọi thành bại của xã hội, đều có phần đóng
góp của gia đình. Giáo dục lúc phơi thai với tư cách là truyền thụ kinh nghiệm
trong sản xuất như hái lượm, săn bắt, trồng trọt chăn nuôi... theo kiểu bắt trước,
tiến dần lên là truyền cho nhau cách ứng xử trong cuộc sống giữa các mối quan
hệ: cộng đồng, gia đình... trên dưới, ngang dọc... Phải chăng đó là giáo dục cộng
đồng, giáo dục nhân dân mang tính xã hội hóa rộng rãi, trước khi có giáo dục.
Nhà nước Việt Nam trước khi có hệ thống giáo dục cũng đã trải qua hình thức
giáo dục phơi thai ấy.
Giáo dục của nhà nước phong kiến là một nền giáo dục hạn hẹp, chỉ nhằm
tạo ra một số người đủ phục vụ cho giai cấp thống trị. Nhân dân muốn con cái
được học phải tự nuôi thầy (ông đồ). Mọi ăn, mặc của thầy, tiền cơng thầy đều
do cha mẹ học sinh đóng góp, họ cịn phải mượn nhà, gường, chiếu cho con em
ngồi học. Nền giáo dục cộng đồng mang tính xã hội hóa lại một lần nữa được
phát huy tác dụng. Khơng chỉ thế nhân dân cịn có nhiều hình thức tôn vinh sự
học, đề cao người học thành tài. Nhiều làng, nhiều tổng, huyện tỉnh có văn chỉ,
văn miếu thờ khổng tử, các bậc tiên hiền, danh nhân của địa phương. Nhiều nơi
có ruộng học điền, để lấy hoa lợi chi vào việc lễ nghi, tế bái ở văn chỉ, văn miếu
và chi dùng cho sự học. Mỗi khi làng có người đỗ Trung khoa (Cử nhân), Đại
khoa (Đệ nhất giáp tiến sĩ), Đệ nhất danh (Trạng nguyên), Đệ nhị danh (Bảng
nhãn), Đệ tam danh (Thám hoa), Đệ nghị giáp tiến sĩ (Hoàng giáp), Đệ tam giáp
tiến sĩ (Đồng tiến sĩ xuất thân, sau này triều nguyễn còn lấy thêm Phó bảng). Mọi

người lấy làm tự hào, sẵn sàng tham gia dước các vị tân khoa vinh quy bái tổ,
12


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

sẵn sàng góp tiền của, cơng sức để hàng huyện làm cổng, hàng tổng làm nhà cho
các vị đỗ ông nghè (Tiến sĩ) sẵn sàng lấy tên làng mình và học vị để gọi các vị
thành danh, tránh không dùng tên húy, tên hiệu. Muốn gọi cụ Phạm Văn Nghị
(làng Tam Đăng - huyện Vụ Bản - Nam Định) đậu Hoàng giáp, người ta khơng
gọi họ tên mà gọi: Cụ Hồng Giáp Tam Đăng; Cụ Nguyễn Thượng Hiền (ở làng
Liên Bạt - nay thuộc Hà Nội đậu Hoàng Giáp, người ta gọi là Cụ Hồnh Liên
Bạt; Có làng (Nguyệt viên nay thuộc Hồng Lộc huyện Hồng Hóa tỉnh Thanh
Hóa) giành nơi trang trọng nhất, sập kê giữa làng liền hương án thờ (sặp hồi văn)
cho đại khoa ngồi khi làng có đình đám; đại thần (quan Tam tứ phẩm trở lên)
khơng được ngồi.
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng thi hành một chính sách phản động
(Ngu dân). Các sĩ phu yêu nước đã dùng đã dùng truyền thống giáo dục của dân
tộc để chống lại. Các Cụ lập trường Đông kinh nghĩa thục, lập hội truyền bá chữ
quốc ngữ.
Cách mạng tháng 8/1945 thành cơng, bằng chủ trương xã hội hóa giáo dục,
TW Đảng và Bác Hồ đã phát động phong trào tồn dân xóa nạn mù chữ
(8/9/1945) theo phương châm người biết chữ dạy người chưa biết chữ, vợ chưa
biết thì chồng dạy, em chưa biết thì anh dạy, cha mẹ chưa biết thì con dạy…
người học cố sức học cho biết. Nhờ tư tưởng chỉ đạo cụ thể của Bác Hồ mà một
phong trào toàn dân học tập lan rộng trong toàn quốc, kết quả là sau 3 năm từ
chỗ 95%-99% dân mù chữ, đã thanh toán được nạn mù chữ. Có thể khẳng định
trong lịch sử giáo dục Việt Nam chưa bao giờ lại có sự xã hội hóa rộng khắp và

có hiệu quả như vậy.
Phát huy kinh nghiệm thanh toán nạn mù chữ, trong 2 cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ chúng ta đã huy động sức dân sản xuất, đánh giặc
thắng lợi, và xây dựng nên một nền giáo dục nhân dân đạt kết quả diệu kỳ. Giáo
dục của chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đúng như Bác Hồ dạy.
“Dễ một lần khơng dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
13


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

Có dân chúng ta có đất, có nguyên vật liệu, có nhân cơng... để làm trường
lớp học, có đất đào hầm hào cho học sinh trú ẩn... Khi ngân sách hạn hẹp phải
tập trung cho kháng chiến, dân đã bỏ gạo, bỏ tiền để ni thầy. Để duy trì và
phát triển giáo dục (Trường dân lập, giáo viên dân lập dạy trường cơng lập).
Nhiều nơi dân cịn nhường cả nhà mình cho trường làm lớp học, lúc bị máy bay
Mỹ oanh tạc cháy nhà dân vẫn hy sinh. Ngoài việc lo cho con học cha mẹ còn
tranh thủ học để thanh tốn nạn mù chữ và bổ túc văn hóa. Tỷ lệ người đi học có
lúc, có nơi rất cao, cứ 3 người dân có 1 người đi học.
63 năm qua kể từ ngày cách mạng tháng 8/1945 đến nay đất nước ta đã trải
qua những biến đổi cực kỳ quan trọng có thời gian vận mệnh của đất nước mong
manh như ngàn cân treo sợi tóc. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
của Bác Hồ, chúng ta đã vượt qua và từng bước trưởng thành. Trong 30 năm
(1945-1975) Chúng ta đã đánh bại 2 cuộc xâm lăng của thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, giải phóng tồn vẹn đất nước, cả nước thống nhất và đi lên chủ nghĩa
xã hội. Chúng ta đã kiên cường, sáng suốt, tài tình đứng vững trong cuộc hủng

khoảng của CNXH (1976-1985) và đi lên con đường đổi mới 1986 đến nay liên
tiếp dành được thắng lợi. Trong suốt thời gian ấy, lúc thuận lợi cũng như lúc khó
khăn, Đảng, chính phủ lúc nào cũng quan tâm đến sự nghiệp giáo dục- đào tạo;
ln có chủ trương, chỉ thị, nghị quyết kịp thời cho giáo dục thực hiện hệ thống
giáo dục, nội dung giáo dục và quan trọng hơn là đường lối chiến lược về giáo
dục: Các mục tiêu, nguyên lý...
Tháng 7/1950 trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân pháp đang bước
vào giai đoạn quyết liệt, Hội đồng chính phủ vẫn thơng qua đề án cải cách giáo
dục và quyết định bắt đầu thực hiện. Theo đề án của nền giáo dục nước Việt
Nam dân chủ cộng hịa chính thức là “Nền giáo dục của dân do dân, vì dân,
được xây dựng theo nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng”, với nguyên lý
mục tiêu phương châm cụ thể:
- Nguyên lý giáo dục: Giáo dục phục vụ chính trị, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất.

14


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

- Mục tiêu đào tạo: Giáo dục thế hệ trẻ trở thành cơng đân trung thành với
Tổ quốc, có năng lực và phẩm chất phục vụ đất nước.
- Phương châm giáo dục: Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực
tiễn.
Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (Từ ngày 5/12 đến 9/12 năm 1960)
đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (Từ ngày 18/4 đến 25/4 năm 2006), cùng
với các vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự... giáo dục luôn được Đảng tổng kết,
đánh giá và đề ra phương châm phát triển.

Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng, trình trước Đại hội
toàn quốc lần thứ III nêu rõ “Sự nghiệp giáo dục của chúng ta phải nhằm bối
dưỡng thế hệ trẻ thành những người lao động, làm chủ đất nước, có giác ngộ
XHCN, có văn hóa và kỹ thuật, có sức khỏe, những người phát triển toàn diện để
xây dựng xã hội mới... Phải nắm vững nguyên lý: Giáo dục kết hợp với lao động
sản xuất và các phương châm: Lý luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với
hành, giáo dục của nhà trường kết hợp với giáo dục xã hội”.
“Phải phát triển vừa nhiều vừa nhanh sự nghiệp giáo dục, đồng thời phải
luôn luôn coi trọng việc nâng cao chất lượng của nhân dân để thực hiện một
cách tích cực và theo từng bước vững chắc sự nghiệp phổ cập giáo dục, đi đơi
với giáo dục văn hóa phải thực hiện giáo dục kỹ thuật. Coi trọng vấn đề bổ túc
văn hóa, cho cán bộ, bộ đội, cơng nhân, nông dân. Phải không ngừng mở rộng
cửa nhà trường XHCN cho công nông và đồng bào dân tộc thiểu số”
Trong 15 năm (1960-1975) chống Mỹ cứu nước Chính phủ và nhân dân ta
luôn thấm sâu lời dạy của Bác Hồ “Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây. Vì lợi
ích 100 năm thì phải trồng người”. Chính phủ ln có chỉ thị, nghị quyết, hướng
dẫn ngành giáo dục thực hiện nghị quyết đại hội trong tình hình mới.
Ngày 27/4/1970 Hội đồng chính phủ có quyết định 86/CP “Về một số vấn
đề cấp bách trong công tác giáo dục”. Quyết định ghi rõ: “Ngành giáo dục xây
dựng và đệ trình một đề án cải cách một bước giáo dục phổ thông. Nhất thiết
không được giảm biên chế giáo dục, tự động giải tán và thu hẹp các trường sư
phạm và bồi dưỡng giáo viên. Cần tiếp tục duy trì và phát triển bổ túc văn hóa,
15


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

các loại hình trường, đội ngũ giáo viên chuyên trách ở các xã, tăng cường xây

dựng đội ngũ, cơ sở vật chất thiết bị, quan tâm chăm sóc đời sống gáo viên”
Ngày 30/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh tồn thắng. Sau 116 năm nước ta
sạch bóng quân thù, Tổ quốc ta thu về một mối, cả nước thống nhất trong độc lập
tự do. Đảng đã mở Đại hội lần thứ IV (từ 14/12 đến 20/12 năm 1976) tại Hà Nội .
Khi nói đến giáo dục, nghị quyết đại hội đã nêu rõ mục tiêu chính với các nhiệm
vụ:
- Tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước làm cho hệ thống giáo dục
quốc dân gắn chặt hơn nữa với sự nghiệp cách mạng XHCN.
- Phát triển phổ thơng thanh tốn nạn mù chữ, tăng cường cơng tác bổ túc
văn hóa, phát triển và nâng cao chất lượng mẫu giáo mở rộng, hoàn chỉnh mạng
lưới giáo dục chuyên nghiệp.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua hai tốt.
- Cải tiến bộ máy quản lý và công tác quản lý từ cấp bộ đến trường học.
Ngày 15/12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tại Hà Nội. Đây là
Đại hội mở đầu cho thời kỳ đổi mới, trước hết là đổi mới về tư duy, nhất là tư
duy kinh tế. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW trình đại hội đã nêu
rõ: “Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách
XHCN của thế hệ trẻ... Tổng kết kinh nghiệm thực hiện cải cách giáo dục, điều
chỉnh nâng cao chất lượng của cuộc cải cách này, phát triển có kế hoạch hệ
thống giáo dục, bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào tạo... Bố trí hợp lý cơ cấu
hệ thống giáo dục, thể hiện tính thống nhất của quá trình giáo dục bao gồm
nhiều hình thức: Đào tạo và bồi dưỡng, chính qui và khơng chính qui, tập trung
và tại chức. Mục tiêu của từng loại hình, của từng trường học phải được cụ thể...
Xây dựng ngành giáo dục mầm non, nâng cao chất lượng môn dạy trẻ, phát triển
các lớp mẫu giáo, xóa bỏ nạn mù chữ cịn lại ở một số địa phương, hồn thành
cơ bản phổ cập cấp I, phổ cập câp II ở nhiều nơi có điều kiện, từng bước mở
rộng THPT bằng nhiều hình thức. Các trường phổ thơng phải dạy kiến thức phổ
thông cơ bản, lao động kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp dạy nghề phổ thông.

16



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục ở miền núi, thực hiện chủ trương dùng tiếng nói,
chữ viết dân tộc cùng với tiếng phổ thông ở trường phổ thông”.
Thực hiện nghị quyết của đại hội, Hội đồng Bộ trưởng đã họp và ra nghị
quyết số 23 ngày 9/3/1989 về giáo dục. Hội đồng Bộ trưởng kết luận: “Giáo dục
là một bộ phận của kinh tế-xã hội, có vị trí hàng đầu trong chiến lược con người,
phục vụ chiến lược kinh tế-xã hội và quốc phịng. Do đó phải đầu tư cho giáo
dục như đầu tư cơ bản cho sản xuất”..
Năm 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã họp tại Hà
Nội (từ ngày 24/6 đến 27/6 năm 1991) đã có đổi mới quan trọng về tư duy giáo
dục và đào tạo. Nghị quyết nêu rõ: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục đào
tạo, khoa học và cơng nghệ, coi đó là Quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố
con người, động lực trực tiếp của sự nghiệp phát triển”.
Triển khai nghị quyết đại hội, từng bước cụ thể hóa bằng thể chế pháp luật.
Ngày 12/8/1991 Quốc hội đã thông qua “Luật phổ cập giáo dục tiểu học”, “Luật
chăm sóc bảo vệ và giáo dục trẻ em”.
Ngày 14/1/1993, Hội nghị lần thứ VI của Ban chấp hành TW Đảng khóa
VIII sau khi thảo luận kỹ về quan tâm chỉ đạo, chủ trương chính sách và biện
pháp lớn đã ra nghị quyết: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Tiếp tục đổi mới
sự nghiệp giáo dục và đào tạo”.
Ngày 11/12/1998, Quốc hội khóa X đã thơng qua “Luật giáo dục”. Nói về
mục tiêu giáo dục đã ghi rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam
phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.

(9)

“... Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển tồn diện
về đạo đức, trí tuệ thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách
con người Việt Nam XHCN. Xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ tổ quốc”.(10)
17


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

“…Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả giáo dục trung học cơ sở, hồn thiện học vấn phổ thơng và những
hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”.

(11)

Tháng 4/2001, Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã quyết định tiếp tục
“Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân”, “Thực hiện giáo dục cho mọi
người, cả nước trở thành một xã hội học tập”.
Chiến lược xây dựng con người được hội nghị ban chấp hành TW lần thứ
IX khóa IX khẳng định trong nghị quyết, quyết tâm của toàn Đảng là: “Tiếp tục
triển khai trong thực tiễn quan điểm phát triển giáo dục đào tạo khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu…” (12)
Kế thừa các đại hội trước (đặc biệt là nghị quyết TW2 và TW5 khóa VIII),
Đại hội X chỉ rõ: “Cần năng cao chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa

học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực…”.

(13)

Đại hội xác định đổi mới

toàn diện sự nghiệp giáo dục đào tạo là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới cơ chế tổ chức, nội dung phương pháp dạy và học thực hiện chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam…”. Để thực
hiện mục tiêu trên đại hội chỉ ra cần phải tiến hành các việc:
“ - Chuyển đội mơ hình giáo dục.
- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.
- Phát triển hệ thống hướng nghiệp và dạy nghề.
- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học sau đại học.
- Đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả
các cấp học, bậc học.
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tính
tích cực sáng tạo của người học.
- Thực hiện xã hội hóa giáo dục.
- Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo”. (14)

18


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

Trong quá trình thực hiện đường lối giáo dục của Đảng (1945-2008). Bộ

chính trị các khóa, Quốc hội, Hội đồng chính phủ, Thủ tướng (Chủ tịch hội đồng
bộ trưởng) đã căn cứ vào thực tế tình hình đất nước mà thay đổi cải cách, về nội
dung, phương pháp, hệ thống giáo dục cho phù hợp .
Bên cạnh các chỉ thị nghị quyết của TW Đảng, Chính phủ, các nhà quản lý
giáo dục, các nhà khoa học cũng đã bàn nhiều về xã hội háo giáo dục. Trong
cuốn “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI”, Giáo sư viện sĩ,
nguyên Bộ trưởng giáo dục Phạm Minh Hạc đã khẳng định: “Xã hội hóa cơng
tác giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối chiến lược,
một con đường phát triển guáo dục nước ta” và “Sự nghiệp giáo dục không chỉ
là của nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người cùng làm giáo dục, nhà nước
và xã hội, TW và địa phương cùng làm giáo dục”. (15)
Nhiều nhà khoa học, nhiều giáo sư, tiến sĩ (như Phạm Tất Duy, Thái Duy
Tuyên, Nguyễn Mậu Bành, Nguyễn Thanh Bình....) đã có nhiều bài viết về xã hội
hóa giáo dục.
Bước vào năm 2001, năm đầu của thế kỷ XXI, Ban chấp hành TW hội
khuyến học Việt Nam khóa II do cụ Vũ Oanh, nguyên ủy viên Bộ chính trị, chủ
tịch hội chủ trì hội nghị lần thứ III (ngày 8/1/2001) tại thành phố Hồ Chí Minh
cũng đã đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục khơi dậy và phát huy truyền thống hiếu học
của nhân dân, mở rộng tổ chức hội đến khắp các địa phương và cơ sở, nâng cao
chất lượng hoạt động theo ba mục tiêu cơ bản, đưa phong trào khuyến học vào
chiều sâu góp phần đẩy mạnh phong trào toàn dân học tập, toàn dân tham gia
làm giáo dục, từng bước xây dựng xã hội học tập”. Thực hiện nhiệm vụ và theo
sự chỉ đạo của TW hội đến nay hội đã hợp với ngành giáo dục xây dựng được
một tổ chức học tập mới trong các xã là “Trung tâm cộng đồng”.
Xây dựng một xã hội học tập, tồn dân học tập khơng chỉ có ở nước ta mà
ngày nay đã trở thành xu thế chung của toàn nhân loại. “Dự báo thế kỷ XXI”
(NXBTK tháng 6/1998) đã nêu: “Năm 1972 tổ chức văn hóa giáo dục liên hợp
quốc đã đưa ra bản báo cáo “Sự tồn tại của học hỏi”, “Thế gới giáo dục hôm

19



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

nay và ngày mai” đã xác nhận: Hai mươi năm nay quan niệm giáo dục suốt đời
dần dần thâm nhập sâu vào lòng người”.
Nguyên tắc giáo dục suốt đời, được thế giới tiếp thu một cách phổ biến.
Trong những nước tiến hành cải cách giáo dục được tiến hành vào năm 70. Nhật
Bản đi đầu trong việc đưa ra viễn cảnh giáo dục suốt đời. Năm 1988 giáo dục
Nhật Bản công bố “Sách trắng” đưa ra một cách xác minh rằng: “Nhật Bản
trong đối diện với mục tiêu cơ bản của việc cải cách giáo dục thế kỷ XXI chính
là thực hiện một xã hội giáo dục suốt đời”. Tháng 4/1984 báo cáo của ủy ban
giáo dục chất lượng cao toàn nước Mỹ gửi nhà trắng với đầu đề: “Đất nước đang
lâm nguy, xu thế giáo dục đang tất yếu tiến hành”, bản báo cáo nêu biện pháp:
“Cần phải dốc sức vào việc giáo dục suốt đời, mở ra một phong trào giáo dục
với mục tiêu xã hội hóa học tập”.
Ngày 18/4/1991 trong chiến lược giáo dục của “Kế hoạch năm 2000 của
Mỹ” do tổng thống công bố, lại nhấn mạnh thêm một bước “học tập là sự nghiệp
suốt đời, yêu cầu toàn dân Mỹ học tập suốt đời kiến thức và kỹ thuật, suốt đời là
học sinh” và cịn hơ hào mở cuộc vận động cải tạo nước Mỹ thành một nước
“Cả nước đều đi học”.
Xã hội truyền thống chia đời người thành 3 giai đoạn: Đến trường, đi học,
nghỉ hưu. Nền giáo dục truyền thống cho rằng số kiến thức và kỹ năng học được
ở trường lúc con trẻ về cơ bản có thể dùng cho suốt đời. Thế nhưng theo sự phát
triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật chế độ giáo dục truyền thống này đã
biểu lộ rõ ràng những thiếu sót của nó.
“...Về mặt thời gian, giáo dục sẽ kéo dài suốt đời người. Về mặt khơng gian
giáo dục sẽ mở rộng đến tồn xã hội. điều đó khơng những hàm chứa ý nghĩa:

Trong xã hội tương lai mỗi người đều tiếp thu giáo dục và học tập bất cứ lúc nào
và ở đâu mà còn hàm chứa ý nghĩa mỗi người trong xã hội tương lai đều học tập
qua việc tham dự những hoạt động xã hội, và hàm chứa ý nghĩa cả xã hội tương
lai sẽ gánh vác chức năng xã hội... ” (16)
“Ngoài ngành giáo dục phổ thông truyền thống hiện giờ, cả xã hội đều lập
ra các trường mở rộng các cấp, các loại, lớp học ngắn ngày, trường hàm thụ,
20


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

trường truyền hình, trường phát thanh, trường ban đêm, trường phường xã,
trường gia đình... , các cơ quan từ chính phủ, TW đến địa phương... đều có thể
làm cơng việc giáo dục với những nội dung phong phú, những hình thức đa
dạng…”. (17)
“Việc thúc đẩy toàn dân giáo dục suốt đời địi hỏi pháp luật bảo đảm mội
người khơng phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, tơn giáo, tín ngưỡng đều có
quyền bình đẳng, có cơ hội học nghề thành cơng... Ngày nay người ta coi sự bình
đẳng về cơ hội học nghề là một mục tiêu trọng yếu của dân chủ hóa giáo dục.
Mặc dù mục tiêu này khơng thể thực hiện tức thời, song người ta vẫn không mất
lòng tin và đang cố gắng đấu tranh với sự thất học và nghề nghiệp...” (18)
“Giáo dục-Học tập suốt đời-Xây dựng một xã hội học tập” là xu thế tất yếu
của thời đại, là bước đường xã hội hóa giáo dục của thời đại chúng ta.
1.2. Khái niệm về giáo dục - Nhà trƣờng - Trƣờng THPT.
1.2.1. Giáo dục:
Nói tới giáo dục là nói tới một hoạt động có tổ chức có mục đích nhằm phát
triển con người theo một hướng nhất định.
Trước kia khi hỏi giáo dục là gì cũng có một số ý kiến khác nhau, có người

cho giáo dục là nơi truyền thụ kiến thức, có người lại định nghĩa: Giáo dục là nơi
truyền thụ kinh nghiệm.
Thực ra nói như vậy là đúng nhưng cũng chưa đúng vì khi nói giáo dục là
một hoạt động phải nghĩ ngay đến qui trình, qui phạm, qui định. Là hoạt động
nghề nghiệp thì người dạy, người quản lý phải có tri thức nghề nghiệp, quản lý
phải giỏi một môn. Mặt khác giáo dục là hoạt động đào tạo nên không phải chỉ
có truyền thụ tri thức người cán bộ quản lý trong q trình đào tạo cũng khơng
phải chỉ quản lý truyền thụ tri thức. Do đó trong hoạt động giáo dục tính tổ chức
và tính mục đích rất cao, khơng một phút nào sai trái. Vì nói đến tính mục đích
cao của giáo dục thể hiện ở chỗ: Sản phẩm của giáo dục đưa ra đời khơng được
có sản phẩm xấu. Trong sản xuất cơng nghiệp cho phép có chính phẩm, thứ
phẩm, thứ phẩm có thể tái tạo được. Nhưng sản phẩm giáo dục là con người thì
21


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

không thể được có phế phẩm, phế phẩm là con người sửa lại thì vơ cùng tốn kém
và rất khó khăn.
- Giáo dục lại thuộc phạm trù của hoạt động nhân đạo, để có sẩn phẩm sai
trong q trình giáo dục sẽ phạm vào hoạt động nhân đạo.
- Tính mục đích khơng chỉ diễn ra trong giảng dạy mà cịn diễn ra trong mọi
hoạt động của quá trình giáo dục kể cả lúc ra chơi. Ra chơi theo quan niệm của
giáo dục là thay đổi hoạt động, phục hồi sức khỏe chuẩn bị cho tiết học sau tốt
hơn.
Cùng với tính mục đích, tính tổ chức của giáo dục cũng rất cao: Nó biểu
hiện ở tổ chức dạy và học, tổ chức lao động sản xuất, tổ chức hoạt động xã hội.
Vì vậy mà chiến tranh có thể coi là kẻ thù số một của giáo dục, nó phá vỡ nề nếp

trường học rất ghê gớm.
Có tính mục đích, tính tổ chức rồi, nhưng muốn tiến hành được quá trình
giáo dục phải có phương pháp giáo dục. Phương pháp giáo dục có tính lịch sử rất
rõ rệt. Mỗi nền giáo dục ở mỗi chế độ xã hội, mỗi giai đoạn lịch sử phải có
phương pháp tiến hành khác nhau. Giáo dục của cha ông ta là theo kiểu quyền uy
nặng về vũ lực “Thương cho vọt, ghét cho ăn” hoặc “Hay chữ dữ đòn”. Đối với
chúng ta ngày nay, người với người là bạn nên phương pháp giáo dục là thuyết
phục, phát huy tính tích cực của học sinh, xây dựng nhà trường, lớp học tích cực,
thân thiện.
Từ quan điểm, nhận thức về giáo dục như trên ta thấy giáo dục có 5 đặc
điểm sau:
- Giáo dục là một nhu cầu thiết yếu của con người nảy sinh cùng với loài
người và gắn với yêu cầu sản xuất, nó khác với yêu cầu luyện thú. Giáo dục phải
được phân phối bình đẳng cho mọi người.
- Giáo dục là một phương thức đấu tranh giai cấp, bản thân giáo dục khơng
mang tính giai cấp, nhưng người sử dụng giáo dục đem lại cho nó tính giai cấp rõ
rệt. Nó được thể hiện rõ ở ý thức hệ chi phối nhà trường chúng ta (đó là Chủ
nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh) và mục tiêu của nó là phục vụ cho ai?
Đây là vấn đề mới càng ngày ta càng nhận thức rõ hơn.
22


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

- Giáo dục là một phương thức tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội,
nhân tố hết sức quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. 40 năm trước đây quan
niệm giáo dục là nhân đạo, là độc lập tự do, nay ta có thêm CNXH. Chính trị của
ta hiện nay suy đến cùng là kinh tế, nhân đạo nhất là kinh tế.

- Giáo dục bắt nguồn từ lao động, truyền thụ tri thức cho nhau để tiếp tục
lao động, giáo dục là đào tạo sức lao động, sức lao động cả trí óc và chân tay,
khơng có lao động chân tay, lao động trí óc đơn thuần, tách bạch trong thời đại
kinh tế tri thức, thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật đòi hỏi phải năng cao tay
nghề cho người lao động, khoa học trở thành lực lượng lao động trực tiếp, vấn đề
nảy sinh ngay trong trường phổ thơng.
- Giáo dục là nền tảng của trình độ văn hóa của một nước... (Văn hóa bao
gồm cả giá trị vật chất và tinh thần). Nhận thức qui luật và áp dụng qui luật có
tính giai cấp và tính dân tộc. Giáo dục phổ thơng, làm việc giáo dục thế hệ trẻ
tiếp nhận văn hóa nhân loại và dân tộc, đào tạo người lao động mới. Nhà trường
với tư cách là pháo đài của CNXH, là nơi thực hiện cuộc cách mạng tư tưởng
văn hóa với 1/4 dân số, 1/4 thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, là đối tượng của
giáo dục. Nhà trường là bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng văn hóa.
- Giáo dục gắn chặt hơn nữa với sự nghiệp cách mạng XHCN, là quan điểm,
là tư tưởng cơ bản nhất của Đảng ta. Xét giáo dục trong các mối quan hệ của hệ
thống xã hội = giáo dục với xã hội, giáo dục với chính trị giáo dục với kinh tế,
giáo dục với văn hóa, theo từng chức năng trong hệ thống.
Tóm lại: Giáo dục là một hoạt động xã hội đặc biệt, giúp người học biến đổi
thông tin bên ngồi thành tri thức bên trong cho con người mình. Dạy và học là
quá trình chủ yếu của hoạt động giáo dục. Nhờ có giáo dục mà lồi người truyền
cho nhau những tri thức từ đời nọ sang đời kia ngày càng phong phú, là điều kiện
cơ bản cho xã hội loài người tồn tại phát triển.
1.2.2. Hệ thống giáo dục quốc dân:
Sau cách mạng tháng 8/1945, chúng ta đã xây dựng một nền giáo dục mới,
với khẩu hiệu “Dân tộc, khoa học, đại chúng”. Hệ thống giáo dục lúc đầu tiếp

23


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC


MAI THỊ LÝ

tục hệ thống giáo dục của chính phủ Trần Trọng Kim, có cải tiến cho phù hợp
với chính thể mới.
Tháng 7/1950, Hội đồng chính phủ thơng qua đề án cải cách hệ thống giáo
dục quyết định hệ thống giáo dục Phổ thông 3 cấp học: cấp I, cấp II, cấp III theo
hệ 9 năm học.
+ Cấp I: 4 năm (từ lớp 1 đến lớp 4) thay cho bậc tiểu học cũ 6 năm.
+ Cấp II: 3 năm (Từ lớp 5 đến lớp 7) thay cho bậc trung học đệ nhất cấp 4
năm.
+ Cấp III: 2 năm (Từ lớp 8 đến lớp 9) thay cho bậc chung học chuyên khoa
(hay đệ nhị cấp)
- Giáo dục bình dân (cho người lớn) có 4 cấp: Sơ cấp học 4 tháng, xóa mù
chữ, dự bị bình dân 4 tháng đạt trình độ lớp 2,3, bổ túc bình dân học 8 tháng đạt
trình độ lớp 5, trung cấp bình dân học 18 tháng đạt trình độ lớp 8 phổ thông.
- Giáo dục chuyên nghiệp gồm các hệ: Sơ cấp học sinh tốt nghiệp lớp 4 học
2 năm, Trung cấp học sinh tốt nghiệp lớp 7 học từ 2 năm đến 4 năm
Hệ thống đại học: Lấy học sinh tốt nghiệp lớp 9 (phải qua 2 năm dự bị đại
học)
Ngày 30/8/1956 Bộ giáo dục ra nghị định số 596 về qui chế trường phổ
thơng 10 năm. Có thể coi đây là cuộc cải cách giáo dục lần thứ II, 10 năm học
phổ thông được chia làm 3 cấp:
+ Cấp I: 4 năm (Từ lớp 1 đến lớp 4)
+ Cấp II: 3 năm (từ lớp 5 đến lớp 7)
+ Cấp III: 3 năm (Từ lớp 8 đến lớp 10)
Ngày 11/1/1979, Bộ chính trị ban chấp hành TW khóa IV ra nghị quyết 04
về cải cách giáo dục. Toàn ngành giáo dục thực hiện cải cách giáo dục lần III. Hệ
thống giáo dục phổ thông 12 năm, gồm 3 cấp học.
Cấp I: 5 năm (Từ lớp 1 đến lớp 5)

Cấp II: 4 năm (Từ lớp 6 đến lớp 9)
Cấp III: 3 năm (Từ lớp 10 đến lớp 12)

24


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

MAI THỊ LÝ

Năm 1985 lại sát nhập cấp 1và 2 để thành phổ thông cơ sở: Tiểu học và
trung học cơ sở; bổ túc văn hóa và dạy nghề thành trung tâm giáo dục thường
xuyên đến năm 2001 lại tách thành 2 trung tâm:
+ Trung tâm giáo dục thường xuyên (giáo dục quản)
+ Trung tâm dạy nghề (Lao động thương binh xã hội quản)
Từ ngày 28/10 đến ngày 02/12/2005, tại kỳ họp thứ IV đã thông qua luật
giáo dục (sửa đổi). Hệ thống giáo dục quốc dân (thuộc luật sửa đổi 2005).
Theo chương I-điều 4: Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy
và giáo dục thường xuyên.
“Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
+ Giáo dục mầm non có nhà trẻ mẫu giáo
+ Giáo dục phổ thơng có: tiểu học, THCS, THPT.
+ Giáo dục đại học và sau đại học (gọi là giáo dục đại học) đào tạo
trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ”.
1.2.3. Nhà trường và trường trung học phổ thông .
Nhà trường: Đơn vị cơ sở của ngành giáo dục, có tư cách pháp nhân tiến
hành giáo dục theo một chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp phù hợp
với đối tượng nhất định. Phục vụ cho việc giáo dục nhà trường, nhà trường cịn
có cơ sở vật chất (trường lớp, bàn ghế, bảng, phịng thí hóa nghiệm và thiết bị
trường học, thư viện...) có đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên trực tiếp quản lý,

giảng dạy, cán bộ hành chính phục vụ cho việc dạy học.
Nhà trường phổ thông là một nghành học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Mục 2- Điều 26- chương II- Luật giáo dục sửa đổi quy định giáo dục phổ thông
gồm: Giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở, giáo dục trung học phổ thông.
Bậc trung học phổ thông luật quy định: “Giáo dục trung học phổ thông
được thực hiện trong 3 năm học từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào học lớp 10
phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là 15 tuổi”. (19)
Điều 27: Mục tiêu của giáo dục trung học phổ thông là “Nhằm giúp học
sinh củng cố và phát triển những kết quả của trung học cơ sở, hoàn thiện học
vấn phổ thơng và có hiểu biết thơng thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có diều
25


×