Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Sự thay đổi môi trường kinh doanh của ngành ngân hang khi việt nam tham gia tổ chức thương mại thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.26 KB, 38 trang )

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
- Ngày 7 – 11 – 2006 tạ Geneve Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) sau 10 năm đàm phán căng thẳng và đầy nỗ lực. Đó
thực sự là một dấu mốc quan trọng đối với nước ta. Nó quan trọng khơng chỉ vì nó
đánh dấu một bước phát triển trong quan hệ ngoại giao và kinh tế của nước ta mà
cịn vì sau cái thời điểm trọng đại đó nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với vơ
vàn khó khăn thách thức và những cơ hội chưa bao giờ lớn hơn để phát triển để làm
những cuộc bứt phá ngoạn mục.
- Hệ thống tài chính – ngân hàng luôn là hệ thống đầu tầu của một nên kinh tế
có tầm ảnh hưởng lớn nhất tới mọi lĩnh vực khác trong nền kinh tế và cũng là hệ
thống nhạy cảm nhất với mọi biến động trong kinh tế thế giới. Sau ngày 1 – 4 –
2007 chính phủ cho phép các ngân hàng nước ngồi được phép góp vốn, mua cổ
phần, lập trụ sở và văn phòng đại diện tại Việt Nam đây sẽ là một thách thức rất lớn
với các ngân hàng thương mại trong nước vì các ngân hàng thương mại nước ngoài
là những ngân hàng có tiềm lực tài chính rất mạnh cùng với một hệ thống dịch vụ
vô cùng đa dạng.
- Gần 2 năm sau ngày Việt Nam gia nhập WTO các chi nhánh của các ngân
hàng nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều tại Việt Nam, đặc biệt là trong tháng 9
chính phủ đã cho phép 2 ngân hàng hàng đầu thế giới là HSBC và Standard Charter
thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngồi tại Việt Nam. Trong tình hình đó các
nhà quản trị ngân hàng thương mại của chúng ta đã ,đang và sẽ làm những gì để đưa
những ngân hàng trong nước đủ khả năng cạnh tranh thậm chí vượt lên trên các
ngân hàng ngoại quốc?
Sau đây là tìm hiểu của tôi về ngân hàng thương mại Việt Nam trước và sau
khi Việt Nam gia nhập

1


I- Giới thiệu chung về tổ chức thương mại thế giới và nguyên nhân việt
nam gia nhập tổ chức


1- Lịch sử hình thành WTO
WTO là tên viết tắt của tổ chức thương mại thế giới (World Trade
Oganization), được thành lập ngày 1/1/1995 kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết
thương mại quốc tế của tổ chức tiền than GATT(General Agreement on Tariffs and
Trade)- hiệp định chung về thuế quan và thương mại. GÂTT ra đời sau chiến tranh
thế giới lần thứ II, khi mà hang loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác
kinh tế quốc tế được thành lập như một trào lưu sôi nổi điển hình cho cơ chế này có
ngân hang quốc tế tái thiết và phát triển, thường được biết đến với tên gọi ngân
hang thế giới(World bank) và quỹ tiền tệ quốc tế IMF(international Monetary Fund)
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc. thể lê, luật chơi cho thương mại
quốc tế nhằng điều tiết các lĩnh vực việc làm, thương mại hang hóa, khắc phục tình
trạng hạn chế, rang buộc các hoạt động này phát triển. 23 nước sang lập GATT đã
cùng một số nước khác tham gia hội nghị về thương mại việc làm và dự thảo hiến
chương La Havana để thành lập tổ chức thương mại quốc tế(ITO-international
Trade Oganization) với tư cách là một tổ chức chuyên môn của liên hiệp quốc, đồng
thời các nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý
các biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế từ
đầu những năm 30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa mậu dịch, mở đường cho
kinh tế và thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời
sống của nhân dân các nước thành viên.
Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) được thỏa thuận tại
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở La Havana từ 11/1947 đến
23/4/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn, nên việc hình
thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) đã khơng thực hiện được.
Kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt được ở vòng
đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các bên tham
gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế giới, 23 nước sáng lập đã
cùng nhau ký Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính thức
có hiệu lực vào 1/1948
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan.

Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ sau Hiệp định Uruguay (1986-1994), do
2


thương mại quốc tế không ngừng phát triển, GATT đã mở rộng diện hoạt động.
Đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình
thành chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi thuế quan, thương mại dịch
vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương mại, thương
mại hàng nông sản, hàng dệt may, và cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều
tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, GATT - vốn chỉ là một sự thỏa
thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tùy ý, đã tỏ ra khơng thích hợp. Do
đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Maroc), các bên đã kết thúc hiệp định thành lập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp GATT.
WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên Hợp Quốc và đi vào
hoạt động từ 1/1/1995.
Tính đến ngày 02/02/2007, WTO có 150 nước, lãnh thổ thành viên, chiếm
97\% thương mại toàn cầu và khoảng 30 quốc gia khác đang trong quá trình đàm
phán gia nhập.
Hầu hết các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận.
Trong một số trường hợp nhất định, khi khơng đạt được sự nhất trí chung, các thành
viên có thể tiến hành bỏ phiếu. Khác với các tổ chức khác, mỗi thành viên WTO chỉ
có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các thành viên có giá trị ngang nhau.
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng , họp ít nhất 2
năm một lần. Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại hội đồng thường họp nhiều lần trong
một năm tại trụ sở chính của WTO ở Geneva. Nhiệm vụ chính của Đại hội đồng là
giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên và rà soát các chính sách
của WTO. Dưới Đại hội đồng là Hội đồng Thương mại hàng hóa, Hội đồng thương
mại dịch vụ và Hội đồng giám sát về các vấn đề liên quan đến quyền Sở hữu trí tuệ
2- Mục đích hoạt động của tổ chức
Mục đích hoạt động của WTO có thể nói tóm lại là hình thành những ngun

tắc. thể lê, luật chơi cho thương mại quốc tế nhằng điều tiết các lĩnh vực việc làm,
thương mại hang hóa, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này
phát triển. các nguyên tắc hoạt động của WTO:
2.1. Nguyên tắc thứ nhất: Không phân biệt đối xử.
Mỗi thành viên sẽ dành cho sản phẩm của một thành viên khác đối xử không
kém ưu đãi hơn đối xử mà thành viên đó dành cho sản phẩm của một nước thứ ba
(Đãi ngộ Tối huệ quốc- MFN).

3


Mỗi thành viên sẽ không dành cho sản phẩm của cơng dân nước mình đối xử
ưu đãi hơn so với sản phẩm của người nước ngoài (Đãi ngộ quốc gia- NT).
2.2. Nguyên tắc thứ hai: Thương mại phải ngày càng được tự do hơn thông
qua đàm phán.
Các hàng rào cản trở thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà sản
xuất hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao
sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được
thoả thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương.
2.3. Nguyên tắc thứ ba: Dễ dự đốn.
Các cơng ty, nhà đầu tư và chính phủ nước ngồi có thể vững tin rằng các rào
cản thương mại (gồm rào cản quan thuế, phi quan thuế và các rào cản khác) sẽ
không được dựng lên tuỳ tiện; ngày càng có thêm những cam kết về mặt pháp lý
trong việc giảm thuế suất và mở cửa thị trường trong WTO.
2.4. Nguyên tắc thứ tư: Tạo ra mơi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng.
Hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như
bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định.
2.5. Nguyên tắc thứ năm: Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu
đãi.Dành cho các nước chậm phát triển nhiều thời gian hơn để điều chỉnh,
tính linh hoạt cao hơn và những ưu đãi đặc biệt.

3- Một số cam kết khi gia nhập WTO
Điều này thể hiện rõ nhất trong bảng báo cáo của ban công tác về việc gia
nhập WTO của Việt Nam. Báo cáo này thể hiện các cam kết đa phương, đó là các
cam kết chung, mnag tính nguyên tắc, về việc thực hiện các quy định của WTO Đây
là các cam kết về việc tuân thủ các hiệp định của WTO, các cam kết về sửa đổi quy
định, chính sách cho phù hợp với quy định của WTO và một số cam kết đặc thù của
Việt Nam.Báo cáo này do Ban Thư ký tổng hợp, dựa trên các bản trả lời câu hỏi,
các chương trình hành động và các bản thông báo về chế độ, chính sách mà Việt
Nam gửi cho Ban Cơng tác. Báo cáo bao gồm các đoạn văn có đánh số, sắp xếp
theo từng đề mục theo mẫu chung của WTO.

4


3.1. Cam kết về thương mại hàng hoá:
Các Thành viên WTO thường yêu cầu nước xin gia nhập phải cam kết: (i) ràng
buộc mức trần cho tất cả các dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu của mình; (ii) chỉ
dùng thuế nhập khẩu làm công cụ để bảo hộ; (iii) tại cửa khẩu, ngồi thuế nhập
khẩu, khơng sử dụng phí, lệ phí và các khoản thu khác nhằm mục đích thu ngân
sách.
WTO còn yêu cầu phải giảm thuế, nhất là các mặt hàng đang có thuế suất áp
dụng cao và yêu cầu các nước xin gia nhập cắt giảm thuế theo ngành với mức cắt
giảm 0% (như Hiệp định công nghệ thông tin, Hiệp định về thiết bị máy bay dân
dụng, thiết bị y tế) hoặc hài hoà thuế suất ở mức thấp (như Hiệp định hoá chất, Hiệp
định hàng dệt may).
Việt Nam giảm mức thuế bình quân từ mức hiện hành 17,4% xuống còn
13,4%, thực hiện dần trong vòng 5-7 năm. Mức thuế bình qn hàng nơng sản giảm
từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện trong khoảng 5 năm. Mức
thuế bình qn hàng cơng nghiệp giảm từ 16,8% xuống 12,6%, thực hiện trong
vòng từ 5 đến 7 năm (mức giảm thuế chi tiết từng mặt hàng xem biểu thuế).

Việt Nam cũng cam kết tham gia một số hiệp định tự do hoá theo ngành.
Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông
tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham gia một phần là
thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để giảm thuế là từ 3-5
năm.
Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng hạn ngạch thuế quan với đường, trứng gia
cầm, lá thuốc lá và muối. Riêng muối là mặt hàng WTO không coi là nông sản, do
vậy thường không được áp dụng công cụ hạn ngạch thuế quan nhưng ta kiên quyết
giữ để bảo vệ lợi ích của diêm dân.
Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế
MFN hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 40-50%, thuốc lá lá 30%,
muối ăn 30%). Mức thuế ngoài hạn ngạch cao hơn rất nhiều.
3.2. Các quy định của WTO về trợ cấp:
Đối với trợ cấp nông sản, nước xin gia nhập phải cam kết loại bỏ trợ cấp xuất
khẩu nông sản. Đối với sản phẩm phi nơng sản, có 3 nhóm trợ cấp: Nhóm đèn đỏ là
trợ cấp cấm được áp dụng (gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế nhập khẩu).
Nhóm đèn vàng là trợ cấp riêng biệt cho một ngành, gây bóp méo cho thương mại,
5


khơng bị cấm áp dụng nhưng có thể bị “trả đũa”. Nhóm đèn xanh là trợ cấp được
coi là ít gây bóp méo thương mại.
Tuy nhiên, WTO cũng có những ngoại lệ dành cho các nước đang và kém phát
triển đối với trợ cấp nông nghiệp và phi nông nghiệp. Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn
toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO (trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp
nội địa hóa).
Việt Nam bảo lưu được thời gian quá độ là 5 năm (trừ đối với ngành dệt may)
đối với các ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia
nhập WTO. Đối với hỗ trợ trong nước đối với nông nghiệp ta vẫn được hưởng mức
hỗ trợ là 10%.

3.3. Cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ:
Đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ để gia nhập WTO căn cứ theo yêu cầu
đàm phán mà các thành viên WTO đưa ra trên cơ sở các nguyên tắc của Hiệp định
chung về Dịch vụ liên quan đến thương mại (GATS). Lộ trình cam kết về thương
mại dịch vụ được gọi là Biểu cam kết về Thương mại Dịch vụ.
Về nội dung:
Biểu cam kết dịch vụ gồm 3 phần: cam kết chung, cam kết cụ thể và danh mục
các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc (MFN).
Phần cam kết chung bao gồm các nội dung cam kết được áp dụng cho tất cả
các dịch vụ đưa vào Biểu cam kết dịch vụ. Phần này chủ yếu đề cập tới những vấn
đề kinh tế - thương mại tổng quát như các quy định về chế độ đầu tư, hình thức
thành lập doanh nghiệp, thuê đất, các biện pháp về thuế, trợ cấp cho doanh nghiệp
trong nước …
Phần cam kết cụ thể bao gồm các nội dung cam kết được áp dụng cho từng
dịch vụ đưa vào Biểu cam kết dịch vụ. Điều này có nghĩa là đối với mỗi dịch vụ
trong Biểu cam kết sẽ có nội dung cam kết cụ thể áp dụng cho dịch vụ đó, chẳng
hạn như các cam kết về dịch vụ viễn thông, về dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng hoặc về
dịch vụ vận tải. Nội dung cam kết thể hiện mức độ mở cửa thị trường đối với từng
dịch vụ cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc liệt kê các biện pháp
được duy trì để bảo lưu việc vi phạm nguyên tắc MFN đối với những dịch vụ có
duy trì biện pháp miễn trừ. Theo quy định của GATS, một thành viên được vi phạm

6


nguyên tắc MFN nếu thành viên đó đưa biện pháp vi phạm vào danh mục các biện
pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc và được các Thành viên WTO chấp thuận.
Về cấu trúc:
Biểu cam kết dịch vụ gồm 4 cột: i) cột mô tả ngành/phân ngành; ii) cột hạn

chế về tiếp cận thị trường; iii) cột hạn chế về đối xử quốc gia và iv) cột cam kết bổ
sung.
Cột mô tả ngành/phân ngành thể hiện tên dịch vụ cụ thể được đưa vào cam
kết. Theo danh mục phân loại ngành dịch vụ của Ban Thư ký WTO, có tất cả 12
ngành và 155 phân ngành dịch vụ được các Thành viên WTO tiến hành đàm phán.
Việt Nam cam kết mở cửa 11 ngành và 110 phân ngành.
Cột hạn chế về tiếp cận thị trường liệt kê các biện pháp duy trì đối với các
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Biểu cam kết nào liệt kê càng nhiều biện pháp nói
trên thì mức độ mở cửa thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài càng
chặt chẽ.
Cột cam kết bổ sung liệt kê các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt động cung cấp
và tiêu dùng dịch vụ nhưng không thuộc về hạn chế tiếp cận thị trường hay hạn chế
về đối xử quốc gia. Cột này mô tả những quy định liên quan đến trình độ, tiêu
chuẩn kỹ thuật, các yêu cầu hoặc thủ tục về việc cấp phép v.v…
Về các phương thức cung cấp dịch vụ:
GATS quy định 4 phương thức cung cấp dịch vụ, bao gồm: 1) cung cấp qua
biên giới; 2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ; 3) hiện diện thương mại; 4) hiện diện thể
nhân.
Phương thức cung cấp qua biên giới (gọi tắt là Phương thức 1) là phương
thức theo đó dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một Thành viên này sang lãnh
thổ của một Thành viên khác. Ví dụ, vận tải hàng hoá hoặc hành khách từ Trung
Quốc sang Việt Nam.
Phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ (gọi tắt là Phương thức 2) là phương
thức theo đó người tiêu dùng của một Thành viên di chuyển sang lãnh thổ của một
Thành viên khác để tiêu dùng dịch vụ. Ví dụ, khách du lịch nước ngoài sang Việt
Nam tham quan và mua sắm.
Phương thức hiện diện thương mại (gọi tắt là Phương thức 3) là phương thức
theo đó nhà cung cấp dịch vụ của một Thành viên thiết lập các hình thức hiện diện
như cơng ty 100% vốn nước ngồi, cơng ty liên doanh, chi nhánh v.v…trên lãnh thổ
7



của một thành viên khác để cung cấp dịch vụ. Ví dụ, ngân hàng Hoa Kỳ thành lập
chi nhánh để kinh doanh tại Việt Nam.
Phương thức hiện diện thể nhân (gọi tắt là Phương thức 4) là phương thức
theo đó thể nhân cung cấp dịch vụ của một Thành viên di chuyển sang lãnh thổ của
một Thành viên khác để cung cấp dịch vụ. Ví dụ, các nghệ sĩ, chuyên gia nước
ngoài sang Việt Nam hoạt động.
Về mức độ cam kết:
Do các điều kiện được sử dụng trong Biểu cam kết của mỗi Thành viên sẽ tạo
ra các cam kết có tính ràng buộc pháp lý nên việc thể hiện có hay khơng có các hạn
chế về tiếp cận thị trường hay đối xử quốc gia phải thống nhất và chính xác.
Phụ thuộc vào mức độ hạn chế mà mỗi Thành viên có thể đưa ra, thường có
bốn trường hợp sau: Cam kết toàn bộ; Cam kết kèm theo những hạn chế; Khơng
cam kết; và Khơng cam kết vì khơng có tính khả thi kỹ thuật.
4- Ngun nhân Việt Nam muốn là thành viên của tổ chức
Hội nhập được coi như là một xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới xuất
phát từ q trình tồn cầu hố nền kinh tế thế giới và Việt Nam cũng không phải là
trường hợp ngoại lệ. Mặt khác khi được là thành viên của tổ chức thương mại thế
giới ta có được rất nhiều lợi ích có thể kể đến như:
Khi tham gia vào WTO ta có thể thấy những ảnh hưởng lớn trên cả cấp vĩ mô
và vi mô:
- Lợi ích lớn nhất có thể kể đến đó là việc mở rộng thị trường, tăng quy mơ
sản xuất từ đó hưởng tính lợi ích kinh tế nhờ quy mơ
Khi Việt nam gia nhập WTO, các thành viên WTO sẽ phải bãi bỏ hạn ngạch đối
với hàng dệt may Việt Nam (đây là một yêu cầu của WTO như đã được phân tích ở
trên). Hoa Kỳ hiện đang là một thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam về mặt
hàng này (chiếm hơn 50%) thị phần nhưng lại đang áp đặt hạn ngạch với ta. Khi ta gia
nhập, thị trường lớn nhất này sẽ buộc phải bãi bỏ hạn ngạch, do đó, ta có nhiều cơ hội
đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này. Thêm vào đó, các thị trường khác

như EU sẽ khơng có cơ hội áp đặt hạn ngạch như đã làm trước đây, từ đó đảm bảo tính
ổn định hơn cho thị trường dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, việc tăng này cũng có khả
năng đi kèm với nguy cơ bị kiện bán phá giá và viện dẫn áp đặt tự vệ như đã trình bày
ở trên

8


- Giảm chi phí xuất khẩu gắn với việc phân bổ hạn ngạch, từ đó làm tăng khả
năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu:
Theo tính tốn, việc phân bổ hạn ngạch dệt may theo Hiệp định ATC đã làm
tăng chi phí xuất khẩu cho doanh nghiệp. Chi phí này chiếm một tỷ trọng đáng kể
trong tổng chi phí xuất khẩu và đối với Việt nam, chi phí do hạn ngạch sinh ra đối
với mặt hàng dệt xuất khẩu sang US/Canada chiếm 6.9% tổng chi phí, đối với mặt
hàng may mặc vào 2 thị trường này là 7.1% và chi phí do hạnngạch sinh ra khi xuất
khẩu sang EU đã là 7.5% đối với mặt hàng dệt và 7.2% đối với mặt hàng may mặc.
Như vậy, khi gia nhập WTO, với việc các thành viên WTO phải bỏ hạn ngạch đối
với Việt Nam, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ có điều kiện giảm giá xuất
khẩu do khơng phải mất chi phí do việc cấp hạn ngạch gây ra.
Tỷ trọng chi phí do hạn ngạch gây ra trong tổng chi phí XK

Bangladesh
Trung Quốc
Hồng Kơng, Trung Quốc
Hungary
Ấn Độ
Indonesia
Philippin
Ba Lan
Sri Lanka

Thái Lan
Thổ Nhĩ Kỳ
Việt Nam
Các nước trung Âu khác

US/Canada (%)
Dệt
May mặc
15.3
8.1
20.0
33.0
1.0
10.0
6.9
5.0
9.8
34.2
8.1
7.8
6.5
7.8
6.9
5.0
15.3
8.3
8.3
13.2
7.0
4.9

6.9
7.1
6.9
5.0

EU (%)
Dệt
May mặc
8.4
7.3
12.0
15
1.0
5.0
0
0
12.0
15.2
6.3
6.0
5.7
6.0
0
0
5.5
6.6
6.4
7.8
1.5
0

7.5
7.2
0
0

(Nguồn từ: Cẩm nang hội nhập)
- Các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi hơn trong thủ tục xuất khẩu, từ đó
tăng kim ngạch xuất khẩu
Cơ chế hạn ngạch làm nảy sinh những vấn đề xã hội như nạn tham nhũng, tiêu
cực và sách nhiễu doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp có
năng lực sản xuất và chất lượng hàng hóa tốt lại khơng có cơ hội xuất khẩu do
khơng có hạn ngạch. Việc xóa bỏ hạn ngạch của các nước đối với Việt Nam khi

9


Việt Nam gia nhập WTO sẽ góp phần giải quyết dứt điểm tình trạng này, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trong việc xuất khẩu hàng dệt may
và góp phần nâng cao uy tín về chất lượng hàng dệt may trên thị trường thế giới.
- Hệ thống luật pháp trở nên thuận lợi hơn đối với các hoạt động kinh doanh
và doanh nghiệp dệt may được bảo vệ bởi các công cụ giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế
Theo ngun tắc minh bạch hóa chính sách, trong quá trình gia nhập WTO,
Việt Nam phải minh bạch hố tồn bộ các chính sách liên quan đến thương mại của
mình và thơng báo các kế hoạch hành động để tuân thủ dần dần các nguyên tắc của
WTO. Thông qua q trình này, khn khổ pháp lý của Việt Nam về ngành dệt may
sẽ minh bạch hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi, cạnh tranh lành mạnh và khuyến khích thương mại, đầu tư cũng như hợp tác về
các vấn đề khác với cộng đồng quốc tế.
Khi Việt nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp có khả năng phải đối mặt

nhiều hơn với các vụ kiện chống bán phá giá. Tuy nhiên, việc gia nhập sẽ giúp các
doanh nghiệp được giải quyết thỏa đảng hơn theo cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO, hạn chế tình trạng áp đặt đơn phương như hiện nay.
Tạo điều kiện thuận lợi hơn để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tư cách thành viên WTO là bằng chứng của một môi trường kinh doanh thuận
lợi, và nhờ đó, sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào khu vực xuất khẩu
và khu vực sản xuất cho thị trường nội địa. Tuy nhiên, xác định mức độ mà tư cách
thành viên WTO tác động đến FDI là một việc khó khăn, bởi có quá nhiều nhân tố
ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư. Năm 2002, Trung Quốc được kết nạp vào
WTO, Trung Quốc thu hút được 52,7 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài và Trung
Quốc trở thành nước đứng đầu thế giới về FDI.
Việt Nam cũng đã thành công trong việc thu hút đầu tư. Đến năm 2004, tổng
FDI vào Việt Nam là 4,1 tỷ USD, trong đó số FDI vào ngành dệt may là 3.215 triệu
USD (vốn đăng ký) với tổng số dự án là 534 từ 28 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Như vậy, với những thay đổi trong hệ thống pháp lý của Việt Nam qua tiến
trình đàm phán gia nhập sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao tính minh bạch
và trách nhiệm trong các quy định liên quan đến đầu tư, và như vậy, sẽ tạo nên môi
trường thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư cả trong và ngồi nước, trong đó đương
nhiên có các nhà đầu tư vào ngành dệt là ngành thượng nguồn cung cấp nguyên liệu

10


cho ngành may Việt Nam, là yếu tố quan trọng cho việc phát triển bền vững ngành
dệt may Việt Nam.
Trên đây là những lợi ích cơ bản mà Việt Nam sẽ được hưởng khi là thành
viên của WTO và cũng chính điều này là động lực thúc đẩy Việt Nam gia nhập
WTO

II- Giới thiệu chung về tình hình của các ngân hàng thương mại Việt

Nam trước khi Việt Nam tham gia WTO
1- Tình hình kinh doanh cuả các ngân hàng thương mại
Theo quý I năm 2007
Trong quý 1/2007, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vẫn duy trì các
mức lãi suất đã công bố trong các quý trước, đồng thời từ 01/3/2007, NHNN bắt
đầu thực hiện bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín
dụng (TCTD), thống nhất thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong việc huy động
tiền gửi của các TCTD theo Quyết định số 07/2007/QĐ-NHNN. Tỷ giá đồng
USD/VND giảm nhẹ so với cuối năm 2006 (khoảng 0,28%) và tăng nhẹ so với cùng
kỳ năm ngoái (tăng 0,81%). Lãi suất huy động của các NHTM có một số thay đổi
khơng đáng kể, chủ yếu ở các NHTMCP tình hình hoạt động của các ngân hàng
theo từng nhóm có những điểm nổi bật sau:
• Số lượng và vốn điều lệ thực hiện của các tổ chức tham gia BHTG là NHTM
không thay đổi nhưng có sự thay đổi về mơ hình hoạt động
• Tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tiếp tục giảm nhưng tỉ lệ nợ quá hạn vẫn ở mức cao
• Huy động vốn tồn hệ thống tăng cao cả về tiền gửi bằng VND và ngoại tệ
Cơ cấu các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi: Khơng có sự thay đổi về số lượng
các tổ chức tham gia bảo hiểm là ngân hàng thương mại, tuy nhiên có sự thay đổi về
tên gọi và nhóm hoạt động của một số ngân hàng. Trong quý 1, ngân hàng Tồn cầu
đổi tên thành ngân hàng Dầu khí tồn cầu, và 3 ngân hàng chuyển từ nhóm ngân hàng
thương mại cổ phần nơng thơn lên hoạt động ở nhóm NHTMCP đơ thị1. Trong q
1/2007, khơng có thêm NHTMCP nào tăng vốn vượt mức 1.000 tỉ đồng.
Tổng tài sản có: Tổng tài sản có tồn hệ thống NHTM tính đến hết quý
1/2007 tăng 10,73% so với quý 4/2006, trong đó tài sản có sinh lời vẫn chiếm
khoảng 92% tổng tài sản. Đây cũng có thể coi là một trong những điều kiện khiến

11


cho thu nhập của các ngân hàng đạt mức cao và tăng liên tục trong các quý gần đây,

góp phần tạo ra một kết quả kinh doanh khá ấn tượng của ngành ngân hàng

12


13


Dư nợ & Nợ xấu: Trong quý 1/2007, tổng dư nợ toàn hệ thống ngân hàng
tăng 5,98% so với thời điểm cuối quý 4/2006 và tăng 28,9% so với cùng kì năm
2006. Nguyên nhân của việc tổng dư nợ trong quý 1/2007 tăng cao hơn so với các
năm trước có thể do mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tăng cao trong năm vừa
qua. Việc Việt Nam gia nhập WTO cũng làm cho các ngành, các lĩnh vực tích cực
mở rộng hoạt động kinh doanh và do vậy, nhu cầu vay vốn tăng cao (Theo số liệu
giám sát của BHTGVN, dư nợ phân theo ngành kinh tế tập trung ở một số ngành
chủ yếu như Công nghiệp khai thác mỏ (79%), Xây dựng (8,8%), Công nghiệp chế
biến (5%) và Thương nghiệp (3,6%)). Trong quý này, tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
tiếp tục giảm (giảm 15,8% so với quý 4/2006 và giảm 37,8% so với quý 1/2006).
Tuy nhiên, tỉ lệ nợ quá hạn vẫn ở mức cao. Nhóm NHTMNN vẫn là nhóm ngân
hàng có tỉ lệ nợ xấu và nợ quá hạn cao so với các nhóm khác trong tồn hệ thống. Tỉ
lệ nợ xấu của nhóm NHTMNN trong quý 1/2007 vào khoảng 2,62% và tỉ lệ nợ quá
hạn là 12,47%. Trong thời gian tới, toàn hệ thống NHTM nói chung và nhóm
NHTMNN nói riêng cần có những biện pháp tích cực để tiếp tục giảm tỉ lệ nợ xấu
và tỉ lệ nợ quá hạn, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động

14


Bảng 1: Một số chỉ tiêu chính về tình hình hoạt động của các NHTM tham gia bảo hiểm tiền gửi


TT

Chỉ tiêu

Q1/2006

Q4/2006

Tăng(+)/giảm Tăng(+)/giảm
(-) Q1/2007 so (-) Q1/2007 so
với Q1/2006 với Q4/2006

Q1/2007

1 Tổng tài sản có

872.065.256 1.127.053.369 1.243.896.276

42,64%

10,73%

2 Tổng dư nợ

540.886.878

655.927.955

695.156.233


28,79%

5,98%

18.134.371

16.247.309

14.519.214

-19,88%

-10,57%

3,35%

2,48%

2,09%

-37,84%

-15,87%

593.575.355

755.638.237

846.572.216


42,62%

12,03%

68,07%

67,04%

68,05%

-0,03%

1,5%

6.298.418

10.959.404

7.174.747

13,91%

67

73

73

8,96%


0%

9 Số lượng các ngân hang có vốn điều lệ > 1000 tỷ

5

13

13

160%

0%

10 Số lượng các ngân hang lỗ lũy kế

3

5

5

67%

0%

3 Nợ xấu
4 Tỉ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ
5 Vốn huy động từ cá nhân, tổ chức kinh tế
6


Tỉ lệ vốn huy động từ cá nhân, tổ chức kinh tế/
tổng nguồn vốn

7 Kết quả kinh doanh
8 Số lượng các NHTM tham gia BHTG

15


Vốn huy động: Trong quý 1, vốn huy động từ cá nhân, tổ chức kinh tế trong
toàn hệ thống ngân hàng tăng mạnh, tăng trên 12,3% so với quý 4 năm 2006 và tăng
tới 43% so với cùng kì năm ngoái, cao hơn hẳn so với các mức tăng tương ứng vào
thời điểm quý 1 năm 2006 (5,4% và 31,01%). Trong đó, huy động vốn bằng VND
và ngoại tệ đều tăng (tiền gửi bằng VND tăng 9,06% và USD tăng 2,36% so với
quý 4 năm 2006). Như vậy, theo số liệu giám sát q, khơng có dấu hiệu người gửi
tiền và các tổ chức kinh tế chuyển dịch từ tiền gửi VND sang USD mặc dù lãi suất
USD đã chính thức được tự do hóa và tăng lên tại một số NHTMCP. Nguồn vốn
huy động của các ngân hàng phần lớn vẫn là từ tiền gửi của cá nhân và các tổ chức
kinh tế (chiếm trên 68% tổng nguồn vốn) tuy nhiên trong quý 1, tiền gửi VND của
các TCKT tăng mạnh (mức tăng cao hơn mức tăng của tiền gửi cá nhân khoảng
5%). Vốn huy động tăng cao trong quý 1 nhưng lãi suất huy động không tăng mạnh,
lãi suất huy động VND có tăng lên với mức nhẹ ở một số ngân hàng và phổ biến ở
mức 9%/năm. Trong khi đó, sau khi Quyết định số 07/2007/QĐ-NHNN có hiệu lực,
các ngân hàng tăng lãi suất huy động USD phổ biến ở mức từ 0,5 – 3,35%/năm.
Kết quả kinh doanh: Chênh lệch thu nhập - chi phí của tồn hệ thống NHTM
trong quý 1/2007 đạt trên 7 nghìn tỉ đồng, tăng 13,91% so với cùng kì năm ngối.
Mức tăng trưởng của ngành ngân hàng trong thời gian vừa qua là tương đối khả
quan. Tuy nhiên các ngân hàng cũng cần có những biện pháp kiểm sốt tốt nhằm
tránh tình trạng tăng trưởng quá nóng có thể dẫn tới những rủi ro cho hoạt động

ngân hàng.
Trong quý này, toàn hệ thống ngân hàng thương mại vẫn có 5 ngân hàng bị
lỗ lũy kế, chiếm 6,8% số các ngân hàng tham gia BHTG, tập trung vào nhóm chi
nhánh ngân hàng nước ngồi tại Việt Nam. Đáng chú ý là có ngân hàng mức lỗ
lũy kế tính đến hết quý 1/2007 lên tới 17 tỉ VND.
2- Cách thức quản lý của các nhà quản trị ngành ngân hang
Trong những năm vừa qua các nhà quản trị ngân hang đã làm được rất nhiều
việc giúp ích cho sự phát triển của ngành ngân hang nhưng cơng việc quản trị của
họ vẫn cịn có một số các tồn tại. mang cả tính khách quan và chủ quan có thể kể
đến như:
Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội
lực của chính các ngân hàng, với quy mơ vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ
cơng nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực.

16


Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng
còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng
thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương
mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ
thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động
vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng.
Trong khi đó, hệ số an tồn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt
Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông
lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải
đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Theo PGS.TS Lê Hồng Nga, Học viện Ngân hàng, nếu trích lập đầy đủ
những khoản nợ khoanh và nợ khó địi thì vốn tự có của nhiều ngân hàng thương
mại Việt Nam, nhất là ngân hàng thương mại Nhà nước, ở tình trạng âm.

Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ ngân
hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu
khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động
vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín
dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập.
Trong tham luận gửi về hội thảo, TS. Lê Quốc Lý, Vụ trưởng Vụ Tài chính
tiền tệ, Bộ Kế hoạch Đầu tư, có viết: “Do khơng thể đa dạng hóa các loại hình dịch
vụ ngân hàng đã khiến các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công
cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác
dụng ở mức giới hạn nhất định”.
Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng
chú ý là các tổ chức tín dụng nhà nước. TS. Lý cũng cho biết thêm, một số nguyên
nhân dẫn đến tình trạng nợ quá hạn gia tăng tại các ngân hàng thương mại quốc
doanh là do: việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất
động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và cịn nhiều biến động phức tạp; tự
do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên, tạo điều
kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo
thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay
từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình
trạng mất vốn ngày càng lớn.
17


Một yếu điểm nữa của hệ thống ngân hàng là “Việc sử dụng vốn cho vay trung
và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố
gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an tồn cho toàn bộ hệ thống”, TS. Lê
Quốc Lý nhận xét.
*Giải pháp đề xuất
Thứ nhất là nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại bằng

việc đa dạng hố các hình thức huy động vốn, điều chỉnh lãi suất tiền gửi trung và
dài hạn hợp lý. Ngoài ra, các ngân hàng cần cơ cấu đầu tư vốn trong điều kiện mới
theo hướng, giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài
hạn, phát triển cho vay tiêu dùng đối với các cá nhân trong nền kinh tế.
Điểm thứ hai là tăng cường hiện đại hố cơng nghệ ngân hàng và hệ thống
thanh tốn. Theo TS. Đinh Xn Hạng, Học viện Tài chính, các ngân hàng thương
mại cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên,
các dự án đầu tư cơng nghệ cần tính tốn kỹ lưỡng để sử dụng cơng suất phù hợp
với chiến lược mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Thực tế mặc dù đã được Nhà
nước "bơm" vốn tới 4 lần, nhưng tổng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại
nhà nước tính đến đầu năm 2005 mới đạt khoảng 21.000 tỷ đồng, làm hạn chế khả
năng huy động và cung ứng tín dụng cho tồn nền kinh tế. Dư nợ tín dụng mới đạt
xấp xỉ 55% GDP, thấp xa so với mức trên 80% của các nước trong khu vực. Bình
qn, mức vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước khoảng từ 200 đến
250 triệu USD, chỉ bằng một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực; còn lại hầu
hết các ngân hàng cổ phần có mức vốn điều lệ bình qn chỉ khoảng từ 200 đến 300
tỷ đồng.
Điểm thứ ba được tất cả các diễn giả đồng ý là nhân lực chất lượng cao là
động lực để bức phá. Nâng cao năng lực cán bộ thơng qua nâng cao trình độ quản
trị điều hành. Theo Th.S Trịnh Phong Lan, Vụ Tài chính ngân hàng, Bộ Tài chính,
việc nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng thương mại Nhà nước sau khi cổ
phần hóa sẽ được thực hiện nhanh nhất và hiệu quả nhất thông qua sự trợ giúp của
các đối tác chiến lược nước ngoài.
Và một phần quan trọng để khắc phục những rủi ro tín dụng của ngân hàng là
thực hiện quản trị ngân hàng thương mại từ chiều rộng sang chiều sâu theo hướng
nâng cao năng lực quản trị rủi ro thơng qua việc hồn thiện bộ máy tổ chức quản trị
nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường xuyên.

18



3- Các chuẩn bị của một số ngân hàng khi Việt Nam sắp gia nhập WTO
Một số việc làm đã được đề xuất giúp các ngân hang có thể giải quyết khó
khăn để chuẩn bị hội nhập:
-tích cực nâng cao năng lực tài chính và chất lượng tín dụng tiếp cận các tiêu
chuẩn quốc tế như nâng cao tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu với mục tiêu đến năm 2006
đạt 6% và năm 2010 đạt 8%, tiến hành quá trình cổ phần hóa Ngân hang ngoại
thương và Ngân hang nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long, tiến tới cổ phần hóa tiếp các
ngân hang thương mại khác, tạo điều kiện để các ngân hang phát hành các trái phiếu
dài hạn nhằm thúc đẩy thị trường vốn.
- Kiềm chế nợ xấu cũng là yêu cầu cấp thiết trước thềm hội nhập. Theo đánh
giá của ngân hang nhà nước tỉ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hang Việt Nam ước
chừng 20.000 tỷ đồng tương đương trên 1 tỷ USD, tỷ trọng lớn nhưng số lượng nhỏ.
Các khoản nợ này phần lớn rơi vào các doanh nghiệp nhà nước vì thế tới đây khi
nguồn vốn ngân sách dồi dào tỉ lệ này có thể giảm bớt, Ngân hang nhà nước đang
xúc tiến các dự án nhằm cải thiện năng lực của các ngân hang trong việc đánh giá
mức độ rủ do của các dự án và khách hang vay nhằm giúp cho các khoản nợ tồn
đọng không bị tăng thêm. Đội ngũ cán bộ được đào tạo nâng cao các kỹ năng đánh
giá các mơ hình kinh doanh và khả năng sinh lời của dự án, từ đó dự đốn được
mức độ rủi do cho các khoản tín dụng một cách hợp lý
-Bổ sung hồn thiện các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực ngân hang sao cho
phù hợp với các cam kết hội nhập, hướng tới hạn chế và xóa bỏ tình trạng bảo hộ,
bao cấp của nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng nhằm tạo lập mơi trường kinh
doanh bình đẳng….

III- Sự thay đổi mơi trường kinh doanh của Ngành ngân hang khi Việt
Nam tham gia tổ chức thương mại thế giới.
1- Tác động của luật pháp
Để thực thi các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và chuẩn bị
cho gia nhập WTO, trong thời gian qua hệ thống pháp luật về ngân hàng của Việt

Nam đã có những thay đổi cơ bản. Các văn bản pháp luật cơ bản về tiền tệ, ngân
hàng được hoàn thiện, như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Ngân trên là
hàng nhà nước Việt Nam ngày 17/6/2003; Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật
các tổ chức tín dụng ngày 15/6/2004; Luật các cơng cụ chuyển nhượng ngày
29/11/2005; Pháp lệnh Ngoại hối của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày
19


13/12/2005; Nghị định số 22/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28 tháng 2 năm
2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngồi, văn phịng đại diện tổ chức tín dụng nước
ngồi tại Việt Nam; Nghị định số 74/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/6/2005
về phịng, chống rửa tiền... Như vậy, nếu đối chiếu với các cam kết của Việt Nam
trong Phụ lục Biểu Cam kết cụ thể đối với thương mại dịch vụ (tài liệu
WT/ACC/VNM/48/Add.2) kèm Nghị định thư về việc gia nhập WTO, với pháp
luật Việt Nam hiện hành có thể nhận thấy những tương thích cơ bản.
Tuy nhiên, những thành tựu lập pháp nói trên chỉ là khởi động của một quá
trình, để dịch vụ tiền tệ ngân hàng phát triển bền vững trong sau hội nhập, những
thay đổi trên chưa đủ.
Thứ nhất: Các văn bản pháp luật liên quan lĩnh vực giao dịch có bảo đảm (thế
chấp, cầm cố, bảo lãnh); pháp luật về công chứng; pháp luật về đăng ký giao dịch
có bảo đảm; pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm…phải được sửa đổi, hoàn thiện cho
phù hợp trong điều kiện mới.
Thứ hai: Các qui định cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và giấy phép hoạt động ngân hàng của các
tổ chức khác chưa cụ thể. Hiện tại, theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng,
một trong những điều kiện bắt buộc để được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem
xét cấp phép là “có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn”. Thiết nghĩ, phải
nhanh chóng xố bỏ các điều kiện mang tính định tính trong nhóm các điều kiện
tiếp cận thị trường. Thay vào đó, các điều kiện như tỷ lệ vốn an tồn, khả năng

thanh tốn và trình độ quản trị ngân hàng sẽ được bổ sung vào nhóm các điều kiện
cấp phép. Những bổ sung này đảm bảo phù hợp với tinh thần các cam kết, vừa
trong khuôn khổ “biện pháp thận trọng” được phép ghi nhận trong Hiệp định chung
về Thương mại dịch vụ, nhằm đảm bảo an toàn hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia.
Thứ ba: Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam cần
thiết phân định rạch ròi hơn nữa chức năng của các ngân hàng thương mại và ngân
hàng chính sách xã hội. Những ngân hàng thương mại dù là ngân hàng thương mại
nhà nước phải được trao quyền tự chủ trong kinh doanh, được “giải phóng” khỏi sự
can thiệp hành chính. Việc xố bỏ những ưu đãi, bảo hộ của nhà nước đối với các
ngân hàng thương mại nhà nước phải tiến hành đồng thời với việc xoá bỏ các biện
pháp can thiệp mang tính hành chính. Ví dụ: khoản 2 Điều 3 Nghị định số
178/1999/NĐ-CP về các biện pháp bảo đảm tiền vay cho phép Chính phủ chỉ định
ngân hàng thương mại nhà nước cho vay một số đối tượng khơng có tài sản bảo
20


đảm. Các qui định tương tự vẫn tồn tại trong các văn bản pháp luật hiện hành như
một gánh nặng cho các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc thực hiện các chính
sách xã hội được đảm nhận bởi Ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng này phải
có một cơ chế pháp lý riêng.
Thứ tư: Hệ thống pháp luật về thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đặc biệt trong đối
với dịch vụ tiền tệ - ngân hàng chưa đồng bộ. Những qui định pháp luật về cạnh
tranh trong Luật cạnh tranh ngày 03/12/2004 (có hiệu lực từ 01/7/2005) cho dù
được đánh giá cao song để áp dụng trong lĩnh vực dịch vụ tiền tệ - ngân hàng cần
thiết phải có những văn bản hướng dẫn cụ thể và phải tính đến những yếu tố đặc thù
trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. Tình trạng tương tự cũng thể hiện ở pháp luật phá
sản.
Thứ năm: Vai trò của Ngân hàng trung ương (Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
trong điều kiện hội nhập cịn mờ nhạt do những trói buộc trong Luật Ngân hàng nhà
nước Việt Nam. Trong điều kiện hội nhập với cộng đồng tài chính- tiền tệ thế giới,

vị thế và vai trò của Ngân hàng trung ương phải được củng cố. Với địa vị pháp lý và
chế độ tài chính hiện hành, Ngân hàng nhà nước Việt Nam khó có thể thực thi một
cách hiệu quả và linh hoạt chính sách tiền tệ để ngăn chặn những thảm hoạ tài
chính- tiền tệ cũng như quản lý một cách hữu hiệu hoạt động ngân hàng được dự
đoán là rất sôi động và cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ này trong
tương lai.
2- Tác động của môi trường kinh tế - xã hội.
Gia nhập WTO mang lại cho ta rất nhiều lợi ích đã được kể đến ở trên nhưng
chúng ta cũng gặp không ít khó khăn khi là thành viên của tổ chức này:
- Từ mười năm nay chỉ số giá tiêu dùng tăng trung binh 6 % mỗi năm, một tỷ
số đã có thể coi là một tỷ số khá cao. Nhưng năm 2007, bỗng nhiên tăng vọt lên đến
hơn 12 %[5]. Lạm phát những sản phẩm cơng nghiệp có thể giải thích bằng hai
nguyên nhân :
a- Vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh làm tăng sức mua của
một số thành phần xã hội. Với hiện tượng bong bóng chứng khốn và địa ốc, nhiều
người có cảm giác bỗng nhiên giàu nên tiêu thụ nhiều.
b- Những cơ sở và thiết bị sản xuất với lượng vốn mới đổ vào Việt nam chưa
sản xuất kịp tương xứng với tăng trưởng của sức mua.

21


Nhu cầu những sản phẩm công nghiệp tăng ; những xí nghiệp khơng đáp ứng
được ; giá những mặt hàng đó tăng theo luật cung cầu của kinh tế. Đối với một
nước đang nhôi lên (emergient country) lạm phát là một điều đương nhiên.
Nhưng lạm phát ở một mức cao như vậy có thể gây bất ổn xã hội. Những
thành phần xấu số nhất của xã hội dành gần như hầu hết ngân sách tiêu dùng của họ
để mua lương thực, thực phẩm và nhiên liệu. Giá lương thực trên thế giới tăng từ 8
đến 10 % và giá nhiên liệu đã tăng lên tới mức kỷ lục từ 1980 cho đến nay. Cộng
thêm với nguyên nhân lạm phát nêu ở trên, giá những sản phẩm cốt yếu này lại là

những mặt hàng tăng mạnh nhất, tới hơn 14 %.
- Thách thức từ nguồn nhân lực
Tình trạng thiếu nhân lực có trình độ vẫn là một vấn đề nan giải. và hiện tượng
đáng ngại nhất đó là học sinh bỏ học đại trà Tuyên Quang hơn 3.300 học sinh bỏ
học, Nghệ An hơn 10.700, cà mau 11. 110, Kiên giang khoảng 15.000, An giang
trên 21.000… Theo tổng cục thống kê năm học 2000- 2001 có 9.741 nghìn học sinh
theo học các trường tiểu học và năm 2006- 2007 con số này chỉ cịn 7.029 nghìn học
sinh, giảm 5,4% mỗi năm. Nếu tình trạng này cịn tiếp diễn sẽ gây tình trạng thiếu
nhân lực ngày càng trầm trọng cho ngành ngân hàng nói riêng và tồn quốc nói
chung.
3- Một số tác động của các nhân tố khác
- Bất công xã hội
Tăng do khoảng cách giàu nghèo tăng điều này gây khó khăn cho ngân hàng
trong việc thu hồi vốn.Và xác định đối tượng cho vay
- Điều kiện lao động
Điều kiện về cơ sở vật chất và trang thiêt bị còn cũ nên hiệu quả lao động chưa
cao, các nhân viên ngân hàng phải làm tăng ca rất nhiều.
Ngồi ra cịn các nhân tố khác như: Công nghệ thông tin, hậu cần, năng
lượng… cũng tác động đến năng suất cũng như hiệu quả của công việc.

22


IV- Ngân hàng thương mại Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO
1- Huy động vố đầu tư cho phát triển kinh tế của hệ thống ngân hàng sau gần 2
năm Việt Nam gia nhập WTO
Nhiều quan điểm tỏ ra lo ngại về quy mô, năng lực cũng như khả năng cạnh
tranh của hệ thống ngân hang Việt Nam khi mở cửa hôị nhập. Song thực tế sau gần
2 năm gia nhập WTO, hệ thống ngân hang Việt Nam đã có những bước chuyển biến
rõ rệt theo hướng tạo ra một thị trường mở cửa, có tính cạnh tranh cao hơn và thích

ứng với các tác động từ bên ngoài.
Lượng vốn các ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế là rất lớn,
chiếm khoảng 17- 18% GDP và trên 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Đặc biệt, năm
2007, tổng nguồn vốn huy động đạt 1.404 tỷ đồng, tăng gần 40% so với năm 2006,
trong đó vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế chiếm 80%.
Quy mơ vốn tự có của các ngân hàng cũng được cải thiện nhiều. Bên cạnh
kênh phát hành trái phiếu Chính phủ với các ngân hàng Nhà nước và phát hành cổ
phiếu, các ngân hàng đã bằng nhiều giải pháp trích từ lợi nhuận, phát hành trái
phiếu dài hạn, "bắt tay" với các nhà đầu tư nước ngoài… để tăng vốn tự có. Vốn tự
có của hệ thống năm 2007 tăng 55,84% so với năm 2006, năng lực tài chính cũng
được cải thiện rõ rệt.
Bên cạnh đó, các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và mang lại nhiều tiện
ích cho khách hàng. Sự xuất hiện của các chi nhánh 100% vốn nước ngoài vừa tăng
thêm số lượng nhà cung cấp, vừa tạo sức ép cạnh tranh buộc các ngân hàng trong
nước phải nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình.
Về khả năng sinh lời, năm 2007, kết quả kinh doanh của các ngân hàng
thương mại tăng 54%, trong đó nhóm TMCP đơ thị tăng cao nhất 118%.
Lượng vốn các ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế là rất lớn, chiếm khoảng
17- 18% GDP và trên 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Đặc biệt, năm 2007, tổng nguồn
vốn huy động đạt 1.404 tỷ đồng, tăng gần 40% so với năm 2006, trong đó vốn huy
động từ dân cư và các tổ chức kinh tế chiếm 80%.
Quy mơ vốn tự có của các ngân hàng cũng được cải thiện nhiều. Bên cạnh
kênh phát hành trái phiếu Chính phủ với các ngân hàng Nhà nước và phát hành cổ
phiếu, các ngân hàng đã bằng nhiều giải pháp trích từ lợi nhuận, phát hành trái
phiếu dài hạn, "bắt tay" với các nhà đầu tư nước ngoài… để tăng vốn tự có. Vốn tự

23


có của hệ thống năm 2007 tăng 55,84% so với năm 2006, năng lực tài chính cũng

được cải thiện rõ rệt.
Bên cạnh đó, các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và mang lại nhiều tiện
ích cho khách hàng. Sự xuất hiện của các chi nhánh 100% vốn nước ngoài vừa tăng
thêm số lượng nhà cung cấp, vừa tạo sức ép cạnh tranh buộc các ngân hàng trong
nước phải nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình.
Về khả năng sinh lời, năm 2007, kết quả kinh doanh của các ngân hàng
thương mại tăng 54%, trong đó nhóm TMCP đơ thị tăng cao nhất 118%.
Một ví dụ của việc huy động vốn của các ngân hang đó là Ngân hang ngoại
thương Việt
Nam- Vietcombank:
2- Cạnh tranh trên thị trường ng̀n nhân lực tài chính ngân hàng sau khi Việt
Nam gia nhập WTO
Kể từ giữa tháng 11, khi chuyện thẩm định hồ sơ ở Ngân hàng Nhà nước vẫn
chưa rõ ràng, một nhà băng cịn trong q trình phơi thai đã rầm rộ đăng thông báo
tuyển dụng trên mạng nội bộ của mình, với hàng chục vị trí từ nhân viên giao dịch,
kiểm soát viên, thu ngân cho tới phát hành thẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử... Khi
nhận được tin chính thức, thơng báo tuyển dụng được đăng tải dày đặc hơn. Một
cán bộ nhân sự trong ban trù bị thành lập ngân hàng này cho hay, từ khi có tin Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận về nguyên tắc, mỗi ngày có hơn 20 hồ sơ gửi tới.
Một tập đồn tầm cỡ cũng thuộc nhóm 4 đơn vị được chấp thuận đầu tiên còn
lo sớm hơn. Ngay từ giữa tháng 9, tập đoàn này đã đăng tin trên các mạng tuyển
dụng lớn, mời gọi các ứng viên tham gia vào ngân hàng sắp thành lập. Yêu cầu đưa
ra khá khắt khe, đều phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực liên quan, trong khi tương
lai còn chưa rõ ràng, song vì danh tiếng của tập đồn mà nhiều ứng viên tỏ ra rất
háo hức nộp hồ sơ.
Theo tính tốn giới chuyên môn, một nhà băng mới thành lập với quy mơ vốn
điều lệ 1.000 tỷ đồng cần ít nhất 100-200 nhân viên để khởi sự, trong đó đa phần
phải là những người có kinh nghiệm. Chỉ tính sơ sơ với 4 ngân hàng vừa được chấp
thuận về nguyên tắc và khoảng 3 đơn vị nữa được xét duyệt, những tay chơi mới sẽ
"nuốt" ngót nghét 1.000 nhân viên có tay nghề của các bậc đàn anh.

Ông Lê Đắc Sơn, Tổng giám đốc Ngân hàng cổ phần Ngoài quốc doanh VPBank, ước tính hơn 30.000 người đang làm việc trong khối ngân hàng cổ phần.
24


Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh doanh, mở rộng mạng lưới, mỗi năm nhân sự
trong ngành phải tăng trưởng 30-50%.
"Lo nhân sự cho nhu cầu phát triển đã là bài toán nan giải. Nay sự ra đời ồ ạt
của các ngân hàng mới có nguy cơ làm rối loạn nhân lực, nhất là ở các ngân hàng
thương mại cổ phần. Cứ tưởng tượng hệ thống nhân sự của một ngân hàng giống
như một toà nhà với các kết cấu thép hồn chỉnh. Nay ngơi nhà đó đứng trước nguy
cơ bị rút ruột ngun vật liệu", ơng Sơn ví von.
Trong thơng báo tuyển dụng của các tân binh, có khá nhiều vị trí liên quan tới
dịch vụ ngân hàng điện tử, phát triển thẻ... Bà Nguyễn Tú Anh, Tổng giám đốc
Công ty cổ phần Smartlink (tiền thân là liên minh thẻ của Vietcombank với các
ngân hàng cổ phần) yên tâm về đội ngũ cán bộ của cơng ty mình, song tỏ ra lo lắng
cho các ngân hàng khác.
"Smartlink chỉ có 20 nhân viên, đều là quân tinh nhụê, có kinh nghiệm và tôi
tin tưởng họ sẽ không bỏ tôi mà đi. Nhưng đây thực sự là vấn đề đau khổ với ngành
tài chính ngân hàng, đặc biệt trong mảng dịch vụ điện tử", bà Tú Anh nói.
Theo bà Tú Anh, 2 vị trí quan trọng nhất với mảng dịch vụ ebanking của các
ngân hàng chính là R&D (nghiên cứu và phát triển) và IT. R&D là đầu mối trong
việc phát triển các kế hoạch kinh doanh, là những người tiếp cận nhanh nhất với
công nghệ mới trên thế giới và ngay lập tức có thể nghiên cứu để ứng dụng vào
doanh nghiệp. Còn IT là những người biến những ý tưởng đó thành hiện thực.
Một cán bộ R&D hay IT phải có background tốt và cũng cần ít nhất 3 năm đào
tạo. Một khi họ ra đi, sẽ là tổn thất lớn. Và đây cũng chính là nguồn nhân lực dễ bị
các ngân hàng "câu kéo" nhất.
Nạn rút ruột không chỉ tấn công các ngân hàng thương mại. Ngay như Ngân
hàng Nhà nước, từ đầu năm tới nay đã có tới 100 hồ sơ xin nghỉ việc. Một lãnh đạo
cấp cao của cơ quan này buồn rầu tâm sự: "Những cán bộ một thời do mình đào tạo,

rèn rũa, nay họ lần lượt ra đi tìm cơ hội mới. Bản thân họ cũng chịu nhiều sức ép và
cám dỗ từ mơi trường sơi động bên ngồi. Một cán bộ cấp vụ có thể được mời về
làm phó tổng, thậm chí tổng giám đốc ngân hàng".
Tại VPBank, cả năm qua phát triển thêm 1.000 nhân viên mới, nâng tổng số
lên 2.600 người. Tỷ lệ bỏ việc, chuyển việc không cao, chủ yếu tập trung ở lứa nhân
viên dưới 30 tuổi, mới về ngân hàng chưa đầy năm. Tuy nhiên, ngay sau khi có tin
hàng loạt ngân hàng mới sẽ ra đời, bên cạnh chính sách giữ chân nhân tài vẫn áp

25


×