Lời mở đầu
Trong mời năm từ 1997-2007 Nhật Bản luôn là thị trờng có kim ngạch nhập
khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam cao nhất trong tất cả các thị trờng của mặt hàng thuỷ
sản Việt Nam chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nớc. Trong
những năm vừa qua các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam đã dần xây dựng hình ảnh
của mình trên thị trờng này và chiếm đợc cảm tình của ngời tiêu dùng. Những
thành công này có đợc do những nỗ lực đa dạng hoá sản phẩm và thâm nhập thị tr-
ờng của các doanh nghiệp Việt Nam. Thị trờng Nhật Bản xét về trung hạn vẫn là
một trong ba thị trờng lớn nhất thế giới đặc biệt đối với sản phẩm nông thuỷ sản và
là thị trờng xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam.
Tuy nhiên trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu và quốc tế hoá đời sống
kinh tế nh hiện nay, cạnh tranh trong xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thuỷ sản
sang thị trờng Nhật Bản ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt. Sản phẩm thuỷ sản mà
chúng ta có lợi thế xuất khẩu cũng chính là sản phẩm mà nhiều nớc và khu vực
khác trên thế giới, nhất là các nớc trong ASEAN và Trung Quốc có điều kiện thuận
lợi để xuất khẩu sang thị trờng này. Bên cạnh đó còn những khó khăn xuất phát từ
thị trờng Nhật Bản, một thị trờng đòi hỏi khắt khe và có các rào cản thơng mại phức
tạp nhất thế giới đối với các sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu.
Với nhận thức trên, em đã chọn đề tài luận văn tốt nghiệp: Thực trạng xuất
khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Nhật Bản và các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục liên quan, luận văn bao gồm 3
chơng:
- Chơng I: Lý luận chung về xuất khẩu
- Chơng II: Thực trạng xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam sang thị trơng
Nhật Bản trong những năm qua.
- Chơng III: Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam
sang Nhật Bản trong thời gian tới.
chơng I
một số vấn đề lý luận liêu quan đến hoạt động
xuất khẩu
1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là một bộ phận cấu thành của hoạt động ngoại thơng,
trong đó hàng hoá và dịch vụ đợc bán ra nớc ngoài nhằm thu ngoại tệ. Hoạt
động xuất khẩu đã có từ lâu đời và ngày nay nó đợc khuyến khích phát triển và
ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Có thể thấy một số vai trò chủ yếu của
hoạt động xuất khẩu nh sau:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu. Xuất khẩu phục
vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị đặc
biệt đối với quốc gia đang phát triển nh Việt Nam. Nguồn vốn nhập khẩu có thể
đợc hình thành từ đầu t nớc ngoài, vay nợ, thu từ hoạt động du lịch nhng nguồn
vốn quan trọng nhất vẫn là xuất khẩu.
Thứ hai, xuất khẩu góp phần vào việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội
phát triển cùng, tạo ra khả năng mở rộng thị trờng tiêu thụ góp phần cho sản
xuất phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và
cải thiện đời sống của nhân dân. Hoạt động xuất khẩu từ việc tạo nguồn hàng
đến khâu tổ chức tiêu thụ hàng thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có
mức thu nhập không thấp. Bên cạnh đó xuất khẩu cũng còn tạo đợc nguồn vốn
để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng cho nhu cầu ngày càng phong phú của ng-
ời dân.
Thứ t, xuất khẩu còn là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại và phụ
thuộc lẫn nhau. Thực hiện hoạt động xuất khẩu có liên quan đến nhiều lĩnh vực
nh: các hoạt động ngân hàng quốc tế, vận tải quốc tế. Vì vậy, khi xuất khẩu phát
triển các quan hệ này cũng phát triển theo, và mặt khác các quan hệ kinh tế đối
ngoại này tạo tiền đề mở rộng cho xuất khẩu.
2. Nội dung và các hình thức xuất khẩu
Nói đến nội dung của xuất khẩu là nói đến các bớc chủ yếu của hoạt động
xuất nhập khẩu.
Bớc đầu tiên phải nói đến là nghiên cứu thị trờng giá cả hàng hoá, thông tin
về thị trờng giá cả không những giúp cho việc giải quyết vấn đề kinh doanh mà còn
tạo cơ sở giúp cho doanh nghiệp đa ra những quyết định phù hợp đúng đắn. Do đó
đây cũng là bớc đi đòi hỏi sự đầu t thích đáng về thời gian cũng nh vấn đề tài chính.
Đối tợng chủ yếu nghiên cứu thị trờng nớc ngoài là: hàng hoá, trong đó chú ý dung
lợng thị trờng, hình thức tiêu thụ, phơng thức tiêu thụ, các công ty, giá cả hàng hoá
và các biện pháp quảng cáo bán hàng, tổ chức mạng lới thông tin về thị trờng mặt
hàng đó, khả năng cạnh tranh với sản phẩm của doanh nghiệp.
Bớc thứ hai trong nội dung xuất khẩu là tạo nguồn hàng xuất khẩu. Để có
hàng xuất khẩu, doanh nghiệp cần phải nghien cứu thị trờng nớc ngoài cần loại
hàng gì, số lợng bao nhiêu sau đó tiến hành giao dịch, ký kết hợp đồng và tổ chức
thực hiện hợp đồng.
Lựa chọn và phát triển đối tác kinh doanh là bớc thứ ba trong nội dung của
xuất khẩu. Để thâm nhập thành công thị trờng nớc ngoài, doanh nghiệp có thể
thông qua một hoặc nhiều các công ty đang hoạt động tại thị trờng đó. Tuy nhiên
trớc khi lựa chọn doanh nghiệp cũng cần tiến hành tìm hiểu về khách hàng thông
qua tiếp xúc trực tiếp, chủ động gặp nói chuyện, giao dịch qua hội chợ, triển lãm,
các hội thảo. Tìm hiểu qua báo chí, bản tin thông báo về khách hàng, qua ngân
hàng, các hội buôn hoặc các nơi đã làm việc với khách hàng đó.
Bớc thứ năm trong nội dung này là quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng
bao gồm các bớc nhỏ nh: chào hàng, hoàn giá, chấp nhận, xác nhận. Quá trình đàm
phán và ký kết hợp đồng có thể diễn ra trực tiếp giữa các bên cũng có thể ký kết
hợp đồng dới các hình thức th điện tín, email, điện thoại, fax.
Bớc cuối cùng trong nội dung xuất khẩu là thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi hợp đồng xuất khẩu đợc ký kết, nghĩa vụ và quyền lợi của các bên đã đợc
xác lập, các doanh nghiệp với t cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp
đồng, tiến hành sắp xếp các công việc cần phải làm nh: xin giấy phép xuất khẩu
hàng hoá, chuẩn bị hàng xuất khẩu, kiểm tra chất lợng hàng hoá xuất khẩu, phơng
tiện vận tải, mua bảo hiểm, thủ tục hải quan, hình thức thanh toán, giải quyết tranh
chấp (nếu có).
Tổ chức thực hiện hợp đồng cần tuân thủ Luật quốc gia cũng nh Luật quốc tế
để tránh những sai sót khiếu nại. Việc này phải diễn ra đồng thời cả hai bên, hai
bên phải thông báo cho nhau biết trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Xuất khẩu trực tiếp là hình thức mà nhà xuất khẩu tiến hành các giao dịch
và bán hàng với khách hàng nớc ngoài thông qua các tổ chức của mình. Ưu điểm
của hình thức này là thu đợc lợi nhuận cao nhờ giảm đợc các chi phí trung gian.
Đồng thời với vai trò là ngời bán trực tiếp, doanh nghiệp có thể nâng cao uy tín của
mình thông qua quy cách phẩm chất hàng hoá của mình nh tiếp cận thị trờng, nắm
bắt đợc thị hiếu ngời tiêu dùng và phản ứng của khách hàng một cách nhanh chóng.
Tuy nhiên đây là hình thức đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lợng vốn khá lớn để
sản xuất hoặc thu mua hàng xuất khẩu, không những thế doanh nghiệp có thể gặp
nhiều rủi ro nh không xuất đợc hàng, do không thu đợc tiền hàng hay rủi ro do thay
đổi tỷ giá hối đoái.
- Xuất khẩu gián tiếp hay còn gọi là xuất khẩu qua trung gian là việc nhà sản
xuất thông qua dịch vụ độc lập đặt ngay tại nớc xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu
các sản phẩm của mình ra thị trờng nớc ngoài. Ưu điểm của hình thức này là doanh
nghiệp không phải đầu t nhiều và rủi ro bị hạn chế vì trách nhiệm bán hàng thuộc
về các tổ chức trung gian. Tuy nhiên phơng thức này làm giảm lợi nhuận của doanh
nghiệp do phải chia sẻ lợi nhuận với các tổ chức trung gian tiêu thụ đồng thời cũng
không có sự liên hệ trực tiếp với thị trờng do đó chậm thích ứng với những biến
động của thị trờng.
- Xuất khẩu uỷ thác là hình thức doanh nghiệp uỷ thác cho một cá nhân tổ
chức khác xuất khẩu hàng hoá của mình. Cá nhân, tổ chức đợc uỷ thác sẽ nhận hoa
hang từ hoạt động xuất khẩu. Hình thức này đợc áp dụng trong trờng hợp doanh
nghiệp có hàng hoá nhng không có thị trờng, hoặc do cha có nhiều kinh nghiệm
trong thơng mại quốc tế nên giá cả đàm phán đợc còn thấp hơn cả giá xuất khẩu
thu đợc thông qua doanh nghiệp nhận uỷ thác. Trớc đây, hình thức này khá phổ
biến do thủ tục xin cấp giấy phép khá khó khăn, tuy nhiên trong những năm gần
đây quyền xuất khẩu thay đổi một cách cơ bản, doanh nghiệp chỉ cần đăng ký qua
cơ quan hải quan là đợc tự do xuất khẩu do vậy hình thức xuất khẩu này nhìn chung
có xu hớng giảm.
- Xuất khẩu theo Nghị định th (xuất khẩu trả nợ) là hình thức doanh nghiệp
tiến hành xuất khẩu theo chỉ tiêu Nhà nớc giao cho về một hoặc một số hàng hoá
nhất định cho Chính phủ nớc ngoài dựa trên cơ sở Nghị đinh th đã ký kết giữa hai
Chính phủ. Với hình thức này, doanh nghiệp tiết kiệm đợc các khoản chi phí tìm
kiếm bạn hàng, tránh đợc rủi ro trong thanh toán. Tuy nhiên việc xuất khẩu bằng
hình thức này chỉ có một số doanh nghiệp nhất định đợc thực hiện.
- Xuất khẩu tại chỗ là hình thức đang có xu hớng phát triển và phổ biến rộng
rãi. Đặc điểm của hình thức này là không có sự dịch chuyển hàng hoá hoặc dịch vụ
ra khỏi quốc gia. Đó là việc cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các đoàn ngoại giao,
cho khách du lịch quốc tế ngay trên thị trờng nội địa. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ
có thể đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi
phí vận tải, tránh đợc rắc rối hải quan, thu hồi vốn nhanh. Khái niệm xuất khẩu tại
chỗ trớc đây thờng đợc nhắc đến, nhng theo quy định hiện hành, kim ngạch xuất
khẩu tại chỗ đợc tính vào doanh thu bán hàng hoá dịch vụ trên thị trờng nội địa.
- Gia công quốc tế là hoạt động kinh doanh thơng mại trong đó một bên (bên
nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (bên
đặt gia công) để chế biến ra thành sản phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận
thù lao (phí gia công).
- Buôn bán đối lu là phơng thức trao đổi hàng hoá trong đó xuất khẩu kết hợp
chặt chẽ với nhập khẩu, ngời bán đồng thời là ngời mua, lợng hàng giao đi tơng
ứng với lợng hàng nhập về. Mục đích xuất khẩu ở đây không nhằm thu về một
khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tơng đơng. Hình thức
này có u điểm là tiết kiệm đợc ngoại tê, các nớc có thể khai thác tiềm năng của nớc
mình, tránh đợc sự quản lỳ chặt chẽ về ngoại hối của nhiều Chính phủ.
- Tạm nhập tái xuất là hình thức xuất khẩu trở lại ra nớc ngoài những hàng
hoá đã nhập khẩu cha qua chế biến ở nớc tái xuất. Mục đích của phơng thức này là
thu về một lợng ngoại tệ lớn hơn lợng vốn đã bỏ ra ban đầu. Hàng hoá đi từ nớc
xuất khẩu đến nớc tái xuất, rồi sẽ đợc xuất khẩu từ nớc tái xuất sang nớc nhập
khẩu.
- Chuyển khẩu là hàng hoá đi thẳng từ nớc xuất khẩu sang nớc nhập khẩu. N-
ớc tái xuất làm trung gian sẽ trả tiền cho nớc xuất khẩu và thu tiền của nớc nhập
khẩu. Cũng có khi hàng chuyển khẩu dừng lại ở nớc nhập khẩu trong một thời gian
nhất định, trớc khi chuyển đến nớc thứ ba nhng không làm thủ tục nhập khẩu thông
thờng và đơng nhiên không phải chịu thuế nhập khẩu. Đây là một đặc điểm khác
với hình thức tạm nhập tái xuất.
3. Các yếu tố ảnh hởng đến hoạt động xuất khẩu
3.1 Môi trờng bên ngoài.
Môi trờng pháp luật
Hệ thống pháp luật là một trong những bộ phận bên ngoài của môi trờng bên
ngoài ảnh hởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Vì
vậy hoạt động kinh doanh quốc tế trớc hết đòi hỏi các nhà kinh doanh phải quan
tâm và nắm vững luật pháp. Luật pháp ở đây muốn nói đến Luật quốc tế, Luật của
từng quốc gia, cũng nh mối quan hệ giữa luật pháp của các nớc. Có thể nói rằng,
chỉ trên cơ sở nắm vững Luật quốc tế cũng nh Luật quốc gia doanh nghiệp mới có
thể lựa chọn đợc hình thức xuất khẩu, mặt hàng xuất khẩu phù hợp.
Môi trờng chính trị
Tính ổn định về chính trị của các quốc gia cũng sẽ là một trong những nhân
tố thuận lợi cho các doanh nghiệp. Để tạo sự ổn định cho các hoạt động kinh doanh
xuât khẩu của minh các doanh nghiệp cần tìm hiểu về hình thức hoạt động, điều
hành của một Chính phủ, cần tìm hiểu rõ Chính phủ đó theo thể chế nào hoạt động
của Chính phủ tác động trực tiếp đến phạm vị hoạt động, mức độ hoạt động của
doanh nghiệp nh thế nào.
Môi trờng kinh tế
Hoạt động trong môi trờng kinh doanh quốc tế, các doanh nghiệp cần có
kiến thức nhất định về kinh tế để điều chỉnh các hoạt động của mình sao cho phù
hợp. Hệ thống kinh tế đóng vai trò rất quan trọng. Tính ổn định hay bất ổn về kinh
tế và chính sách kinh tế của một quốc gia, trong khu vực cũng nh trên thế giới có
tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của một doanh
nghiệp trên thị trờng nớc ngoài. Sự ổn định về kinh tế chính là sự ổn định về tài
chính, tiền tệ, lạm phát mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu luôn quan tâm
vì nó ảnh hởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trờng cạnh tranh
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong một môi trờng cạnh tranh khác nhau. Môi
trờng này thay đổi khi chuyển từ nớc này sang nớc khác. Do vậy, một số doanh
nghiệp khi tham gia hoạt đông kinh doanh ở nớc ngoài có khả năng nắm bắt cơ hội
và giành thắng lợi nhng cũng không ít doanh nghiệp gặp khó khăn khi phải đơng
đầu cạnh tranh với các công ty quốc tế có nhiều lợi thế và tiềm năng hơn.
Với nền kinh tế mở nh hiện nay, môi trờng cạnh tranh ngày càng trở nên gay
gắt hơn bao giờ hết. Cạnh tranh với doanh nghiệp bây giờ không còn chỉ là các
công ty trong nớc cùng ngành, đó còn là các doanh nghiệp đến từ nhiều quốc gia
khác nhau, đặc biệt là các công ty đến từ các quốc gia có trình độ công nghệ phát
triển, năng suất lao động cao và cả các công ty biết tận dụng lợi thế so sánh của đất
nớc mình khi tham gia phân công lao động quốc tế. Điều đó đòi hỏi các nhà xuất
khẩu khôngnhững phải biết phát huy thế mạnh của mình mà còn phải nắm vững đ-
ợc bối cảnh thị trờng quốc tế.
3.2 Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
Trình độ quản lý
Khả năng quản lý trong doanh nghiệp là yếu tố quan trọng giúp doanh
nghiệp khai thác tiềm năng sẵn có của mình đồng thời khai thác những cơ hội thị
trờng để từ đó mở rộng quy mô xuất khẩu cả về doanh số lẫn lợi nhuận. Mặt khác
trình độ quản lý còn là yếu tố quyết định đến chất lợng sản phẩm xuất khẩu, năng
suất lao động và hiệu quả thực hiện hợp đồng.
Nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu
Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả của quá trình thực
hiện hợp đồng xuất khẩu. Nó có tính quyết định đem tới cho công ty những lợi thế
đợc hởng nh đã ghi nhận trong hợp đồng. Yếu tố này góp phần khẳng định kết quả
cũng nh hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Nghiên cứu thị trờng
Thị trờng là yếu tố ảnh hởng trực tiếp và là yếu tố quyết định trong hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp. Từ kết quả nghiên cứu thị trờng mới đa ra đợc quyết
định đúng đắn, mới có thể định hớng cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Các yếu tố khoa học công nghệ
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ nh ngày nay đã tạo ra những
cơ hội đồng thời cũng gây nên những thách thức đối với các đơn vị sản xuất kinh
doanh mặt hàng xuất khẩu. Trong quá trình hoạt động xuất khẩu việc áp dụng các
tiến bộ khoa học công nghệ có thể tác động làm tăng hiệu quả của công tác này.
4. Xuất khẩu thuỷ sản và vai trò của xuất khẩu thuỷ sản
đối với nền kinh tế Việt Nam
Trong những năm qua thuỷ sản là một trong những ngành hàng xuất khẩu
chủ yếu của nền kinh tế nớc ta, đóng góp khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam. Đối với thuỷ sản, sản phẩm đợc sản xuất bằng chính nguyên liệu
trong nớc từ khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Vì vậy thuỷ sản đã góp phần không
nhỏ trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nớc, tạo thêm việc làm cho hàng
triệu lao động từ sản xuất nguyên liệu đến dịch vụ cho sản xuất thuỷ sản, chế biến
xuất khẩu. Theo số liệu thống kê của Ban tổng điều tra nông nghiệp, thuỷ sản nông
thôn vừa qua cho thấy vị trí của thuỷ sản trong cơ cấu kinh tế nông thôn ngày càng
cao. Hiện nay, cả nớc có 1,57 triệu hộ nuôi trồng thuỷ sản với số ngời là 2,33 triệu
ngời.
Xuất khẩu, với vai trò mở đờng là cầu nối thúc đẩy sản xuất thuỷ sản phát
triển, đã mở rộng thị trờng đa hàng thuỷ sản Việt Nam có mặt trên 75 quốc gia và
vùng lãnh thổ, đã tạo đầu ra và nền tảng vững chắc cho phát triển sản xuất nguyên
liệu trong cả khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Xuất khẩu thuỷ sản đã hớng dẫn điều
chỉnh cơ cấu sản phẩm khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, vì chỉ có thể bán những
sản phẩm mà thị trờng có nhu cầu. Vì vậy, trong khai thác ng dân đã chú ý hơn đến
chủng loại và chất lợng sản phẩm khai thác có giá trị kinh tế, có khả năng xuất
khẩu chứ không quan tâm nhiều đến số lợng. Trong nuôi trồng thuỷ sản, các đối t-
ợng có khả năng xuất khẩu đã đợc chú ý phát triển nh tôm sú, tôm càng xanh, cá
tra, cá basa, cá song, nhuyễn thể.
Xuất khẩu thuỷ sản đã thúc đẩy phát triển cơ sở vật chất và năng lực sản xuất
của toàn ngành theo hớng công nghiệp hoá hiện đại hoá nhất là trong khu vực chế
biến thuỷ sản: Đã hình thành công nghiệp chế biến thuỷ sản, với hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật tơng đối lớn. Trình độ công nghệ, kỹ thuật của trên 60% các cơ sở chế
biến thuỷ sản xuất khẩu đã tơng ứng với trình độ của khu vực và bớc đầu tiếp cận
đợc với trình độ công nghệ của thế giới. Những cơ sở chế biến này đã đem lại trên
80% giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nớc.
Xuất khẩu thuỷ sản đã kích thích mạnh mẽ việc chuyển đổi cơ cấu sản phẩm
trong nông nghiệp nông thôn, nhất là vùng nông thôn ven biển thông qua việc thúc
đẩy, mở rộng quy mô đầu t phát triển nguyên liệu, tạo nên phong trào nuôi tôm và
nuôi trồng thuỷ sản rộng khắp trên cả nớc, đa diện tích bãi bồi, hoang hoá và những
diện tích làm nông nghiệp không có hiệu quả sang nuôi thuỷ sản, cũng nh phong
trào đầu t khai thác hải sản xa bờ ngày càng phát triển.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê và Bộ Thuỷ sản, sản lợng thuỷ
hải sản của Việt Nam trong những năm qua liên tục tăng với tốc độ trung bình hàng
năm là 7,8%. Năm 1991 tổng sản lợng thuỷ sản chỉ đạt 1019 nghìn tấn thì đến năm
2003 đã lên đến 2410 nghìn tấn. Nh vậy nhìn chung xu hớng tăng sản lợng hải sản
của Việt Nam trong thời gian qua phù hợp với xu hớng chung của các nớc đang
phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Từ những phân tích trên cho thấy việc xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản đối với
nớc ta có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
CHƯƠNG II
THựC TRạNG XUấT KHẩU HàNG THUỷ SảN VIệT Nam VàO
THị TRƯờng Nhật bản
1. tổng quan về THị TRƯờng thuỷ sản nhật bản
Đã từ nhiều năm nay thị trờng Nhật Bản luôn đợc biết đến là một thị trờng có
nhu cầu cao về cả số lợng cũng nh các yêu cầu khắt khe về chất lợng của các mặt
hàng thuỷ sản. Để đáp ứng đợc nhu cầu của thị trờng này đòi hỏi các nớc cũng nh
các doanh nghiệp khi xuất khẩu vào Nhật Bản cần tìm hiểu kỹ thị trờng.
Nhật Bản là quốc gia khai thác thuỷ sản lâu đời nhất thế giới, có thói quen ăn
thuỷ sản từ thời khai quốc nên Nhật Bản coi thuỷ sản là nguồn thực phẩm chính của
họ.Theo thống kê của Nhật Bản, hằng năm nớc này nhập khẩu thực phẩm với giá trị
lên đến 5 nghìn tỷ yên (khoảng 50 tỷ USD) chiếm 11,5% tổng nhập khẩu hàng hoá
của Nhật Bản, trong đó có khoảng hơn 1,5 nghìn tỷ yên (khoảng 15 tỷ USD) là các
mặt hàng thuỷ sản, chiếm khoảng 30% giá trị nhập khẩu của nớc này. Mức tiêu thụ
thuỷ sản bình quân theo đầu ngời của Nhật Bản luôn đứng đầu thế giới. Năm 1993
mức tiêu thụ tính theo đầu ngời về thuỷ sản là 67,8 kg, gấp 5 lần mức trung bình
của thế giới (13,4kg/ngời.năm). Hằng năm, mỗi hộ gia đình Nhật Bản chi tiêu
khoảng 37.000 yên cho thực phẩm thuỷ sản, chiếm khoảng 13% tổng tiêu cho thực
phẩm. Tuy nhiên, từ năm 1998 trở lại đây mức tiêu thụ thuỷ sản Nhật Bản đã giảm
một cách rõ rệt năm 2005 tiêu thụ thuỷ sản ở Nhật Bản chỉ đạt gần 13kg/ ngời/năm.
Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do nền kinh tế suy yếu, thu nhập của các
hộ gia đình ngời Nhật giảm nhng một nguyên nhân chính dẫn đến xu hớng này tại
Nhật Bản là do ngời Nhật đang thay đổi sở thích tiêu dùng của họ từ ăn thuỷ sản
sang ăn thịt. Tuy nhiên tiêu thụ thuỷ sản ở Nhật chỉ giảm đối với một số loại chứ
không phải với tất cả.
Nếu xét theo nhóm sản phẩm nhập khẩu chính, nhóm các sản phẩm tơi, ớp
đá hoặc đông lạnh đợc xếp hàng cao nhất cả về khối lợng và giá trị; sau đó là nhóm
các sản phẩm chế biến hoặc bảo quản đứng thứ hai và nhóm các sản phẩm tơi sống
đứng thứ ba. Sau cùng là nhóm các sản phảm muối khô và xông khói.
Các nhóm hàng thuỷ sản nhập khẩu
của Nhật Bản 2002-2005
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
2002 2003 2004 2005
T RI?U USD
T ơi sống
T ơI ớp
đá/ đông
lạnh
Muối khô/
xông khói
Chế biến
sẵn/ bảo
quản
Sản phẩm
hải sản
khác
Nhóm mặt hàng tơi ớp đá hoặc đông lạnh nhập khẩu vào Nhật Bản bao gồm
các nhóm sản phẩm chính là tôm, cá ngừ, cá hồi, cua, nhuyễn thể đầu chân mực
Trong đó đứng đầu nhóm sản phẩm thuỷ sản tơi sống đợc nhập khẩu nhiều
nhất là tôm, trong đó tôm đông lạnh chiếm tỷ trọng 80% (trong tôm đông lạnh tôm
sú chiếm 30%), đạt 239.935 tấn, giá trị 228,96 tỷ yên (xấp xỉ 1,92 tỷ USD), chiếm
13,72 tổng giá trị nhập khẩu năm 2005.
Đứng thứ hai về giá trị nhập khẩu thuỷ sản tơi ớp đá hoặc đông lạnh nhập
khẩu vào Nhật Bản là cá ngừ với 12,99% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Nhật
Bản. Năm 2005, nhập khẩu cá ngừ tơi, ớp đá đông lạnh cũng đạt 216,77 tỷ yên (1,8
tỷ USD). Trong mấy năm gần đây khối lợng nhập khẩu cũng dao động và không có
xu hớng rõ rệt trong 3 năm (2003-2005). Trong tổng khối lợng nhập khẩu, nhiều
nhất là cá ngừ vây vàng, tiếp theo là cá ngừ mắt to và vây dài.
Cá Hồi là mặt hàng đứng thứ 3 về giá trị nhập khẩu sau tôm và cá ngừ, chiếm
khoảng 6,49% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản, đạt 108,35 tỷ yên năm 2005 (906,72
triệu USD), có xu hớng tăng về giá trị trong 3 năm gần đây, tăng 4,2% so với năm
2004.
Cua là mặt hàng đứng thứ 4 về giá trị nhập khẩu, chiếm 4,12 % tổng giá trị
nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản. Năm 2005, nhập khẩu cua tơi, ớp đá hoặc đông
lạnh đạt 68,83 tỷ yên (576.012 triệu USD) giảm 14,7% so với năm 2004.
Đứng thứ năm về giá trị nhập khẩu là nhuyễn thể chân đầu tơi, ớp đá và đông
lạnh chiếm 3,67% tổng nhập khẩu của Nhật Bản, đạt giá trị 61,27 tỷ yên (512,277
triệu USD). Cũng giống nh các nhóm mặt hàng trên khối lợng nhập khẩu nhuyễn
thể của Nhật Bản có xu hớng giảm trong 3 năm 2003-2005
Nếu xét theo khối lợng nhập khẩu thì bột cá là mặt hàng có khối lợng nhập
khẩu cao nhất trong tổng nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản. Sau khi đạt đỉnh cao
594.325 tấn năm 1995, khối lợng bột cá nhập khẩu có chiều hớng giảm xuống,
giảm mạnh vào năm 1998 xuống mức 329.792 tấn. Năm 2005, nhập khẩu bột cá
của Nhật Bản đạt 372.639 tấn, giá trị 28,36 tỷ yên (237,35 triệu USD), giảm 6,5%
khối lợng và 6,3% về giá trị so với năm 2004. Nhìn chung cả khối lợng và giá trị
mặt hàng này đều lên xuống qua các năm theo xu hớng đồ thị hình sin.
Ngoài các nhóm hàng thuỷ sản nhập khẩu nêu trên hàng năm Nhật Bản cũng
nhập khẩu một lợng thuỷ sản đóng hộp không nhỏ. Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu
khoảng trên dới 25 nghìn tấn thuỷ sản đóng hộp. Năm 2000 kim ngạch nhập khẩu
mặt hàng này đạt 13 tỷ yên, giảm 29% so với mức 18,3 tỷ yên năm 1997. Nguyên
nhân của việc sụt giảm này là do nhập khẩu quá nhiều đồ hộp cá ngừ giá rẻ chủ yếu
từ Thái Lan, Inđônêxia và một số nớc khác.
Nhật Bản nhập khẩu thuỷ sản từ 15 nớc chính sau đây, trong đó Việt Nam là
nớc cung cấp đứng thứ 9 với thị phần chiếm 4,65%.
Các nớc xuất khẩu thuỷ sản chính cho thị trờng Nhật Bản.
Để thâm nhập vào thị trờng Nhật Bản các Doanh nghiệp xuất khẩu vào thị tr-
ờng này cũng cần tìm hiểu rõ hệ thống phân phối thuỷ sản tại Nhật Bản trong đó ít
nhất 70% sản phẩm thuỷ sản đợc phân phối thông qua thị trờng bán buôn nhng hầu
hết thuỷ sản đông lạnh nhập khẩu nh cá ngừ, tôm, cá hồi đông lạnh đợc phân phối
theo các kênh chuyên biệt.
Có hai loại chợ buôn thuỷ sản đợc điều chỉnh bằng luật thị trờng bán buôn
thuỷ sản gồm chợ bán buôn trung ơng (chợ phục vụ cho trên 20 vạn dân, do Tổng
cục thuỷ sản quản lý và Chợ bán buôn địa phơng (do tỉnh thành phố quản lý).
Ngoài ra Nhật Bản còn có chợ cá quy mô nhỏ nhng không thuộc phạm vi điều
chỉnh của luật thuỷ sản.
2 Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trờng
Nhật Bản.
Hàng thuỷ sản là một trong ba sản phẩm truyền thống của Việt Nam (dầu
thô, hàng dệt may, hàng thuỷ sản) xuất khẩu sang Nhật Bản. Đây là các mặt hàng
xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. Chỉ riêng ba mặt hàng này thờng xuyên chiếm
trên 60% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản.
2.1 Cơ cấu sản phẩm việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản
Các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản thờng đợc chế
biến dới dạng đông lạnh, ớp đông, tơi, tẩm ớp gia vị, và một số loại ở dạng đồ hộp.
Trong số các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản, các mặt hàng
tôm các loại, cá ngừ các dạng, nhuyễn thể đông lạnh luôn là ba mặt hàng chính
chiếm tỷ trọng lớn (trên 75% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt
Nam sang Nhật Bản). Tỷ trọng của từng nhóm mặt hàng này qua từng năm chỉ tăng
giảm nhỏ, dao động từ 1-2%. Có thể nói, cơ cấu xuất khẩu của các nhóm mặt hàng
này là ổn định trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản.
Đây cũng là những mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu mạnh nhất.
Trong đó, nhóm mặt hàng tôm chiếm tỷ trọng cao nhất với tỷ trọng trên 60%.
Cỏc mt hng TS ca VN xut khu sang Nht Bn, 1997-2005
n v: 1000 USD
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
2005
Tụm L 221.390 215.261 240.133 291.035 289.606 345.394 388.541 521.427
517.831
Cỏ L
(tr cỏ
ng) 35.083 24.610 19.868 26.348 25.330 33.575 43.288 50.527
53.621
Mc L 45.786 45.350 39.453 41.958 46.368 46.438 35.534 46.173
50.573
Bch tuc
L 22.246 12.151 15.996 12.046 14.667 18.228 20.421 29.295
27.247
Mc khụ 21.922 17.121 14.997 15.369 13.198 17.326 10.766 20.255
17.225
Cỏ khụ 3.993 3.304 2.415 2.537 2.304 3.526 1.609 4.315
7.537
Ruc khụ 2.684 3.253 2.853 2.893 2.520 2.389 2.005 2.582
1.865
Cỏ ng
L 2.614 8.345 9.685 11.700 21.258 21.737 10.778 8.630
13.027
Mt hng
khỏc 27.058 28.142 37.673 65.587 50.650 48.846 69.896 88.991
111.842
Tng
cng 382.776 357.537 383.073 469.473 465.901 537.459 582.838 772.195
785.876
Ngun : Trung tõm Tin hc - B Thu sn
Tôm xuất khẩu của Việt Nam là mặt hàng rất đợc a chuộng tại thị trờng Nhật
chiếm 67,% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản.
Trong mấy năm gần đây (2001-2004), nhập khẩu tôm của Nhật Bản từ Việt Nam có
xu hớng tăng. Năm 2004, nhập khẩu tôm đông lạnh của Nhật Bản từ Việt Nam đạt
khối lợng 62.451 tấn, giá trị trên 521,42 triệu USD, tăng 22% về khối lợng, 34,2%
về giá trị so với năm 2003 và tăng 26,9% về khối lợng, 50,9% về giá trị so với năm
2002. Nhng năm 2005 đạt 61.963 tấn, giá trị 517,83 triệu USD, giảm nhẹ khoảng
0,8% về khối lợng và 0,7% về giá trị so với năm 2004. Tuy nhiên trong những năm
qua tôm xuất khẩu của Việt Nam chỉ đứng ở vị trí thứ t và phải cạnh tranh với hàng
thuỷ sản có nguồn gốc từ ấn độ, Inđônêxia, Thái Lan. Công nghệ chế biến thuỷ sản
của các nớc này phát triển hơn nhiều so với Việt Nam, đặc biệt là Thái Lan với hệ
thống quản lý chất lợng khắt khe nên chất lợng xuất khẩu và giá xuất khẩu thuỷ sản
của Thái Lan thờng rất cao.
Cá ngừ là mặt hàng lớn thứ 2 trong tổng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
sang Nhật Bản. Năm 2004, cá ngừ của Việt Nam sang thị trờng này chiếm 19%
tổng giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam, đạt giá trị 13,02 triệu USD, đứng thứ
sau Mỹ (37%) trong danh sách thị trờng xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam. Xuất
khẩu cá ngừ của Việt Nam vào thị trờng Nhật Bản chỉ chiếm đợc một lợng nhỏ
trong tổng cá ngừ nhập khẩu của thịt trờng Nhật Bản (2.819,9 tấn), (trong đó chiếm
3,5% tổng nhập khẩu cá ngừ mắt to tơi của Nhật Bản và 4,8% tổng nhập khẩu cá
ngừ vây vàng tơi của Nhật Bản.) Mặt hàng cá ngừ của Việt Nam xuất khẩu vào thị
trờng Nhật Bản luôn phải đơng đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Ngoài ra, việc nhập
khẩu cá ngừ còn chịu ảnh hởng của các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm, nh
quy định về hàm lợng thuỷ ngân trong cá ngừ nhập khẩu.
Nhóm mặt hàng nhuyễn thể gồm: bạch tuộc, mực ống, mực nang. Trên thị tr-
ờng Nhật Bản, bạch tuộc của Việt Nam phải cạnh tranh với bạch tuộc có nguồn gốc
từ Tây Phi nơi có nguồn nguyên liệu dồi dào và giá xuất khẩu vào thị trờng Nhật
Bản ngày càng giảm. Đối với sản phẩm mực nang hiện nay Việt Nam là nớc đứng
thứ hai về cung cấp mực nang cho Nhật Bản sau Thái Lan.
Nhìn chung hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng Nhật Bản thờng có giá
cả thấp hơn một số nớc, chất lợng đã có thể cạnh tranh đợc song cần nâng cao khâu
bảo quản sau khai
2.2 Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Nhật Bản
0
100000
200000
300000
400000
500000
600000
700000
800000
900000
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy trong vòng 10 năm từ năm 19972007, thuỷ
sản Việt Nam đã có bớc tiến dài trong việc thâm nhập thị trờng Nhật Bản. Năm
1997 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trờng này chỉ đạt
382.776.000 USD sau mời năm kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên gần 2 lần
(754.000.000 USD năm 2007). Kim ngạch thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật
Bản tăng dần đều từ năm 1997 đến năm 2004 và đạt mức cao nhất vào năm 2006
với 844.000.000 USD. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam xuất
sang thị trờng Nhật Bản là biểu đồ tăng trởng hình sin với một năm tăng và năm
tiếp sau giảm về khối lợng kim ngạch xuất khẩu. Điều này chứng tỏ tăng trởng xuất
khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trờng Nhật Bản vẫn còn thiếu ổn định và có nhiều
điểm yếu tiềm ẩn.
Năm 2006 Nhật Bản chính thức áp dụng Luật thực phẩm sửa đổi, trong đó có
những quy định chặt chẽ hơn về d lợng hoá chất, kháng sinh trong thực phẩm nhập
khẩu. Chinh việc áp dụng luật này đã bộc lộ rõ những điểm yếu còn tồn tại của chất
lợng sản phẩm thuỷ sản Việt Nam với việc hàng loạt các lô hàng thuỷ sản Việt
Nam xuất khẩu vào thị trờng Nhật Bản bị phát hiện có chứa d lợng thuốc kháng
sinh. Trong năm này hàng loạt các lô hàng thuỷ sản của Việt Nam nhập khẩu vào
Nhật Bản bị phát hiện nhiễm chất Chlorampheningcol và đặc biệt một số lô nhiễm
AOZ. Bên phía Nhật Bản đã nhiều lần cảnh báo phía doanh nghiệp Việt Nam về
vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm nhng tình trạng trên vẫn còn tái diễn nhiều lần tại
nhiều doanh nghiệp xuất khẩu vào Nhật Bản. Đến tháng 12 năm 2006, Nhật Bản
chính thức áp dụng lệnh kiểm tra100% đối với các sản phẩm tôm tự nhiên (kể cả sơ
chế) có xuất xứ từ Việt Nam. Nh vậy, mặt hàng tôm của Việt Nam, không phân biệt
tôm nuôi hay tôm tự nhiên đều bị Nhật áp dụng lệnh kiểm tra 100%. Lệnh kiểm tra
này đã trực tiếp làm tăng chi phí xuất khẩu các sản phẩm tôm của Việt Nam và gián
tiếp làm giảm kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản sang thị trờng Nhật Bản từ 844
triệu USD năm 2006 xuống còn 754 triệu USD năm 2007. Tuy nhiên những số liệu
này cũng phản ánh rõ những yếu kém còn tồn tại trong ngành chế biến xuất khẩu
thuỷ sản Việt Nam đó là chất lợng vệ sinh an toàn còn thấp không đáp ứng đợc các
yêu cầu khắt khe của thị trờng Nhật Bản.
3. thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp khi xuất khẩu
vào thị trờng Nhật bản
3.1 Thuận lợi
Việt Nam là nớc có nhiều tiềm năng xuất khẩu thuỷ sản với bờ biển dài 3260 km
với 112 cửa sông, lạch, vùng đặc quyền kinh tế biển khoảng hơn 1 triệu km2 với
4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo, vùng, vịnh, đầm phá và nhiều ng tr-
ờng.Ngoài ra Việt Nam còn có thêm 1,4 triệu héc-ta diện tích đánh bắt nội đồng
gồm sông ngòi, hồ đầm và ruộng cá có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản. 600.000
hec-ta tập trung ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 80.000 hecta còn lại nằm ở
vùng Đồng bằng Sông Hồng phía Bắc và vùng Duyên Hải. Theo số liệu của ngành
thuỷ sản, trên hai phần Việt Nam có khoảng 2.000 loài cá biển trong có xấp xỉ 130
loại có giá trị thơng mại. Lợng cá biển ớc tính khoảng 4,2 triệu tấn và tổng tài
nguyên có thể phục hồi ớc tính khoảng 1,73 triệu tấn. Bên cạnh đó nhiệt độ các
vùng biển của Viêt Nam tơng đối ấm và ổn định quanh năm đã điều kiện lý tởng
cho sự sinh trởng của các loài thuỷ sản. Thêm vào đó hệ thống sông ngòi, kênh
rạch dày đặc cho phép nuôi tôm, cá và các loại thuỷ sản khác đã tạo cho ngành
thuỷ sản Việt Nam có một nguồn nguyên liệu thuỷ sản dồi dào, đa dạng, tạo ra
nhiều thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
Bên cạnh nguồn tài nguyên dồi dào trong những năm gần đầyngành thuỷ sản
Việt Nam cũng đã phát triển mạnh và đồng bộ. Tổng giá trị đánh bắt gia tăng ổn
định trong 10 năm qua do năng suất và số lợng tàu thuyền đánh bắt tăng lên. Các
nà nghiên cứu do Viện nghiên cứu thuỷ sản tiến hành ớc tính trữ lợng xa bờ của cả
nớc là 1.93 triệu tấn trong đó 770.000 tấn có thể khai thác đợc. Điều này cho thấy
phát triển đánh bắt xa bờ có một tiềm năng to lớn để gia tăng sản lợng đánh bắt.
Tuy nhiên sản lợng từng đơn vị khai thác đã giảm xuống đáng kể và có xu hớng
chuyển sang các loại cá nhỏ hơn. Tuy nhiên các chuyên gia hảI sản dự báo nguồn
hải sản sẽ không vợt quá 1,5 1,6 triệu tấn/năm. Do đó ngành nuôi trồng thuỷ sản
sẽ còn tiếp tục phát triển nữa.
Một thuận lợi khác của ngành thuỷ sản Việt nam là ngành chế biến xuất khẩu
phát triển rất nhanh. Hiện nay Việt Nam đã tiếp cận với trình độ công nghệ và quản
lý tiên tiến của khu vực và thế giới trong một số lĩnh vực chế biến thuỷ sản. Sản
phẩm thuỷ sản xuất khẩu đảm bảo chất lợng và có tính cạnh tranh, tạo dựng đợc uy
tín trên thị trờng thế giới. Hiện nay cả nớc có gần 500 nhà máy chế biến thuỷ sản
xuất khẩu. Chất lợng sản phẩm thuỷ sản không ngừng đợc nâng lên do các cơ sở
chế biến ngày càng hiện đại, công nghiệp tiên tiến, quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh các doanh nghiệp nhà nớc, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản
của t nhân phát triển mạnh trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế t nhân đã có giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên dới 100 triệu
USD một năm.
Nhật Bản là thị trờng có truyền thống nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam
trong thời gian qua. So với thị trờng Mỹ và EU thì các doanh nghiệp Việt Nam
cũng đã thiết lập đợc mối quan hệ với nhiều bạn hàng Nhật Bản. Trong những năm
qua, các doanh nghiệp xuất khẩu của ta sang thị trờng Nhật Bản không ngừng đẩy
mạnh nghiên cứu thị trờng và tìm kiếm bạn hàng với phơng châm: coi thị hiếu là
yếu tố quan trọng hàng đầu, chủ động tiếp cận thị trờng để nắm bắt sự thay đổi về
nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng, để sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng đợc yêu cầu
của thị trờng.
3.2 khó khăn
Một khó khăn lớn nhất hiện nay doanh nghiệpViệt Nam gặp phải khi xuất khẩu
thuỷ sản vào thị trờng Nhật Bản đó là vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Năm 2006
và năm 2007 là hai năm mà vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đợc các cấp các
ngành quan tâm đặc biệt do số lợng các vụ hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào
Nhật Bản bị nhiễm d lợng kháng sinh cấm tăng đột biến. Và hậu quả của tình trạng
trên là việc Nhật Bản áp dụng quyết định kiểm tra 100% d lợng chất
chloramphenicol và chất AOZ đối với mặt hàng tôm (bao gồm cả tôm nuôi và tôm
tự nhiên) và mực của Việt Nam xuất sang Nhật. Điều này đã ảnh hởng không nhỏ
đến uy tín hàng thuỷ sản Việt Nam, có thể ảnh hởng xấu đến kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản sang thị trờng Nhật Bản và các thị trờng khác. Mặc dù Việt Nam hiện nằm
trong nhóm các quốc gia chế biến và xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới nhng
trong khi cả nớc hiện có 470 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản thì có đến 154 doanh
nghiệp tức gần 33% số doanh nghiệp không chịu nâng cấp cơ sở sản xuất vệ sinh
kém, thiếu đội ngũ và thiết bị kiểm tra vệ sinh an toàn cho sản phẩm của nhà máy
mình. Bên cạnh đó nguồn nguyên liệu đầu vào của ngành thuỷ sản không đảm bảo
đợc chất lợng do trong nhiều năm qua nông dân và ng dân nuôi trồng đánh bắt thuỷ
sản của Việt Nam đã sử dụng nhiều các thuốc thú y và các loại hoá chất xử lý ao
nuôi, hoá chất bảo quản thuỷ sản đánh bắt cũng nh hoá chất trị bệnh cho tôm. Bên
cạnh đó các thức ăn và các thuốc thú y sử dụng trong nuôi tôm cũng làm nhiễm
chất AOZ vào các sản phẩm thủy sản và việc sử dụng Chloramphenicol trong việc
bảo quản tại các cơ sở thu mua, sơ chế đã làm nhiễm chất này vào các lô hàng mực
và tôm. Những nguyên nhân này đã đặt ra yêu cầu cấp bách cho các cấp các ngành
có liên quan đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản và các doanh nghiệp đó là phải
kiểm soát đợc chất lợng nguồn nguyên liệu đầu vào để chế biến sản phẩm thuỷ sản
xuất khẩu.
Khó khăn thứ hai của thuỷ sản Việt Nam là sự mất cân đối cơ cấu xuất khẩu
thuỷ sản Việt Nam. Trong nhiều năm qua 90% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt
Nam là dạng sản phẩm thuỷ sản tơi, ớp đông lạnh, (riêng giáp xác nhuyễn thể 80-
85%). Sự mất cân đối về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu một mặt thể hiện lợi thế so
sánh của mặt hàng thuỷ sản Việt Nam mặt khác lại thể hiện sự yếu kém của ngành
công nghiệp chế biến thuỷ sản nớc nhà nhng đây lại cũng là tiềm năng để Việt
Nam đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu trong thời
gian tới. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian tới sẽ
có sự phù hợp tơng đối với cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản thế giới: tăng hơn nữa tỉ trọng
xuất khẩu đồ hộp thuỷ sản (phát trỉên các mặt hàng mới nh đồ hộp cá ngừ hay tôm
đồ hộp). Tăng tỷ trọng cá và tỷ trọng thuỷ sản sống trong cơ cấu hàng thuỷ sản tơi,
ớp đông và đông lạnh và giảm tỷ trọng hàng đông lạnh sơ chế. Chuyển hớng cơ cấu
sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam vì hai lẽ cơ bản: khối lợng xuất khẩu tăng và giá xuất khẩu tăng, nh vậy sẽ có
khả năng tăng lớn kim ngạch xuất khẩu. Nh vậy vào đầu thế kỷ 21 ngoài việc phấn
đấu để nâng tỷ trọng hàng chế biến sâu trong trong cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất
khẩu (các dạng đồ hộp tôm, sasimi, cá ngừ), đa tỷ lệ này lên 25-30% từ 12-13%
nh hiện nay, ngoài ra các doanh nghiệp cũng thể gia tăng giá trị xuất khẩu thuỷ sản
bằng cách xuất khẩu các thuỷ sản cao cấp ở dạng sống.
Khó khăn thứ ba là khả năng cạnh tranh của các mặt hàng thuỷ sản và doanh
nghiệp Việt Nam trên thị trờng Nhật Bản vẫn còn thấp. Khả năng cạnh tranh của
hàng thuỷ sản Việt Nam xét trên các khía cạnh về giá cả, chất lợng, mẫu mã sản
phẩm vẫn còn yếu. Giá thành các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam còn cao do năng
suất lao động, thiết bị công nghệ, chất lợng nguyên liệu đầu vào còn thấp làm giảm
lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu. Bên cạnh đó chất lợng hàng thuỷ sản
Việt nam vẫn thấp hơn so với hàng hoá của các nớc khác trong khu vực nh Trung
Quốc, Hồng Kông, và ngay cả các nớc trong khu vực ASEAN nh Thái Lan,
Phillipines. Nguyên nhân của tình trạng này là do mặt bằng về khoa học công nghệ
của Việt Nam còn thấp ảnh hởng đến phơng thức chế biến, chất lợng sản phẩm xuất
khẩu. Hiện nay công nghệ đánh bắt của Việt Nam còn lạc hậu so với thế giới đặc
biệt là công nghệ chế biến ngay sau khi đánh bắt vẫn cha đáp ứng đợc yêu cầu của
thị trờng Nhật Bản. Mặt khác ngời Nhật Bản lại tiêu dùng rất nhiều thuỷ sản sống,
do đó công nghệ chế biến của Việt Nam cần đợc đầu t nâng cấp để đáp ứng cho
nhu cầu thị trờng Nhật Bản nói riêng và nhu cầu của thế giới. Mẫu mã hàng của
doanh nghiệp Việt Nam còn cha thực sự bắt nhịp với thị trờng. Bao bì hàng xuất
khẩu trong thời gian qua đã làm mất đi tính cạnh tranh của một sản phẩm, đặc biệt
không làm tăng đợc giá trị của sản phẩm xuất khẩu. Thêm vào đó năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu cả về năng lực thể chế và năng lực
chuyên môn Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, trình độ công nghệ
lạc hậu, trình độ quản lý và chuyên môn hạn chế, năng lực kém, hiệu quả và sức
cạnh tranh kém, cha có chiến lợc phát triển kinh doanh bền vững, dễ bị tổn thơng
trong cơ chế thị trờng. Phần lớn các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về vốn, mặt
bằng sản xuất, kinh doanh, về thị trờng tiêu thụ sản phẩm nên hoạt động khó
khăn ngay cả ở thị trờng nội địa chứ cha nói tới xuất khẩu.
Khó khăn thứ t của ngành chế biến thuỷ sản Việt Nam đó là thiếu nguồn nguyên
liệu. Trong nhiều năm nguồn lợi thuỷ sản của Việt Nam đã bị khai thác cạn kiệt,
chi phí đánh bắt tăng cao, hiệu quả khai thác giảm, thị trờng đầu ra nguyên liệu
khai thác có dấu hiệu cha lành mạnh Do đó, dự báo trong nhiều năm sản lợng khai
thác vẫn không tăng. Trong khi đó, năng lực bảo quản nguyên liệu khai thác còn
kém, làm cho tỉ lệ nguyên liệu thất thoát sau thu hoạch cao, hoạt động dịch vụ ở
các cảng cá cha đáp ứng yêu cầu bảo đảm chất lợng và tổ chức thị trờng nguyên
liệu lành mạnh. Hoạt động nuôi trồng còn phân tán, nhỏ lẻ sản xuất cha theo kế
hoạch chung. Cở sở hạ tầng vùng nuôi đang trong giai đoạn quy hoạch đầu t, nhiều
vùng nuôi phát triển tự phát cha đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trờng, quản lý vùng
nuôi cha đợc quan tâm đúng mức. Các khu quy hoạch đủ tiêu chuẩn còn phải mất
nhiều năm nữa mới có khả năng đa vào hoạt động ổn định. Với những khó khăn
nêu trên vấn đề thiếu nguồn nguyên liệu trong chế biến thuỷ sản sẽ còn diễn ra
trong nhiều năm tới và đòi hỏi có giải pháp đồng bộ để giải quyết tình trạng trên.
Khó khăn thứ năm các doanh nghiệp xuất khẩu vào Nhật Bản gặp phải đó là
khó tiếp cận với hệ thống kênh phân phối hàng hoá trên thị trờng Nhật Bản. Thuỷ
sản Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cho các công ty thơng mại Nhật Bản, các kênh
khác nh hệ thống cửa hàng bán lẻ, các nhà chế biến công nghiệp việc tiếp cận còn
rất hạn chế và cha có hệ thống. Nguyên nhân của tình trạng trên cũng một phần do
hệ thống phân phối sản phẩm thuỷ sản ở Nhật phức tạp và việc lựa chọn nhà phân
phối kỹ lỡng của Nhật Bản. Những yếu tố này cũng tạo ra rào cản lớn đối với các
nhà xuất khẩu Việt Nam muốn xâm nhập thị trờng này.
Khó khăn thứ sáu doanh nghiệp gặp phải đó là hoạt động xúc tiến thơng mại
(đặc biệt là chính sách xúc tiến thơng mại trọng điểm quốc gia) triển khai còn
chậm và lúng túng, hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng nhìn chung vẫn
thấp. Hơn nữa, môi trờng xã hội và các thể chế hỗ trợ xuất khẩu chậm đợc cải thiện
và cha đáp ứng đợc những thay đổi trong tình hình mới. Hoạt động xúc tiến xuất
khẩu của Chính phủ (đợc hiểu là toàn bộ các biện pháp, chính sách có tác động trực
tiếp hay gián tiếp khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ cho doanh nghiệp)
có ý nghĩa quan trọng đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu của đất nớc. Thời gian qua,
Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp chính sách khuyến khích xuất khẩu thuỷ
sản sang thị trờng Nhật Bản. Tuy nhiên, công tác hỗ trợ, xúc tiến thơng mại của
Việt Nam cha đợc tiến hành mạnh mẽ và hiệu quả. Các hoạt động cung cấp thông
tin, trợ giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm tại thị trờng Nhật Bản,
các hoạt động t vấn, hỗ trợ các đoàn doanh nghiệp Việt Nam khảo sát thị trờng
Nhật Bản và ngợc lại là sự đón tiếp các doanh nghiệp Nhật bản đến Việt Nam cha
đáp ứng đợc so với yêu cầu của các doanh nghiệp. Các hoạt động quảng bá thơng
hiệu Việt Nam của Chính phủ và của bản thân các doanh nghiệp vẫn cha đợc quan
tâm đúng mức.
Khó khăn thứ bảy là công tác nghiên cứu thị trờng Nhật Bản cả ở tầm vĩ mô và
vi mô còn yếu và cha đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn xuất khẩu sang Nhật
Bản. Thị trờng của Nhật Bản đòi hỏi rất khắt khe về nhiều mặt nh chất lợng, vệ sinh
an toàn thực phẩm, thủ tục xuất khẩu, hình thức xuất khẩu. Những vấn đề này quá
phức tạp và thờng tạo ra những cản trở đối với các doanh nghiệp trong quá trình tìm
hiểu và tiếp cận với thị trờng Nhật Bản. Mặt khác, nhà nớc lại cha có những biện
pháp hỗ trợ thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa vả nhỏ trong quá trình tìm hiểu thông tin thị trơng. Điều này đã làm hạn chế
khả năng cạnh tranh tiếp cận, chiếm lĩnh thị trờng của doanh nghiệp Việt Nam.
Hiện nay các doanh nghiệp vẫn chủ yếu là tự tìm hiểu về thị trờng nên dẫn đến th-
ờng phiến diện và không hiệu quả.
Khó khăn thứ tám doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi xuất khẩu thuỷ sản sang
Nhật Bản là hiện nay Việt Nam và Nhật Bản cha ký hiệp định thơng mại song ph-
ơng. Hai nớc mới chỉ dừng lại ở mức trao đổi công hàm và thoả thuận cho nhau h-
ởng quy chế MFN về thuế suất. Trong khi đó Nhật Bản lại chủ động thúc đẩy đàm
phán và ký kết FTA với các nớc, đặc biệt là với một loạt các nớc ASEAN khác nh
Thái Lan, Indonexia, Phillipines. Trong điều kiện nh vậy, hàng xuất khẩu của Việt
Nam sẽ ở vào thế bất lợi so với hàng hoá của các nớc có FTA với Nhật. Hơn nữa,
giữa ta và Nhật cũng cha đạt đợc thoả thuận về kiểm dịch hàng nông sản và thuỷ
sản, nên vẫn có nguy cơ phía Nhật bản sẽ dựng lên các rào cản kỹ thuật mới để hạn
chế nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam.
Khó khăn cuối cùng đặt ra không chỉ cho doanh nghiệp mà còn là khó khăn đối
với ngành khai thác chế biến thuỷ sản và Việt Nam nói chung đó chính là tình trạng
khai thác thuỷ sản không mang tính bền vững. Tình trạng phát triển tự phát nuôi
trồng ở một số nơi do qui hoạch tổng thể phát triển ngành cha đợc phê duyệt, qui
hoạch cụ thể vùng nuôi ở một số địa phơng cha đợc xây dựng đã dẫn đến những tổn
thất lớn trong nuôi trồng thuỷ sản và tàn phá môi trờng sinh thái. Không những vậy
sự phát triển nhanh chóng của ngành thuỷ sản đã và đang đặt ra những vấn đề môi
trờng bức xúc trớc mắt và lâu dài nh suy thoái rừng ngập mặn, mất cân bằng sinh
thái, nguy cơ ô nhiễm môi trờng và sự phát triển của dịch bệnh. Việc nuôi trồng
khai thác thuỷ sản không có quy hoạch cụ thể đã làm suy giảm diện tích rừng ngập
mặn từ 252.500 ha năm 1993 xuống còn 110.00 ha năm 2000. Nh vậy trong các
thập kỷ 80 và 90 Việt Nam bị mất 142.500 ha rừng ngập mặn. Diện tích rừng bị
mất trong thời kỳ này bị quy kết chủ yếu do phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Ngoài
diện tích rừng bị suy giảm một cách nghiêm trọng việc nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt
nuôi trồng tôm sử dụng các hoá chất, chất diệp tạp đã phá huỷ môi trờng sống của
các loài khác. Các hiện tợng nh ô nhiễm môi trờng đã xuất hiện trên nhiều khu đầm
phá nuôi thâm canh vì ngời nuôi ngày càng sử dụng nhiều thức ăn, chế phẩm, thuốc
và hoá chất. Những hậu quả của việc khai thác nuôi trồng thuỷ sản thiếu bền vững
trong nhiều năm qua đòi hỏi phải có các biện pháp quản lý chặt chẽ hơn của các
cấp các ngành cũng nh sự phối kết hợp của các doanh nghiệp với địa phơng và ngời
nuôi khai thác thuỷ sản để đảm bảo tơng lai lâu dài cho ngành chế biến thuỷ sản
xuất khẩu của Việt Nam.
4. dự báo
Theo dự báo của các nhà nghiên cứu trong thời gian tới nhu cầu tiêu dùng
thuỷ sản sẽ ngày một cao hơn và nuôi trồng thuỷ sản sẽ là nguồn cung cấp chính để
đáp ứng nhu cầu này. Theo dự báo của Trung tâm thuỷ sản thế giới, đến năm 2020,
các nớc đang phát triển sẽ chiếm tới 77% tổng tiêu thụ thuỷ sản toàn cầu và 79%
tổng sản lợng thuỷ sản thế giới. Nh vậy là từ năm 1997 đến năm 2020, tiêu thụ thuỷ
sản ở các nớc đang phát triển sẽ tăng từ 62.7 triệu tấn lên 98,6 triệu tấn (57%),
trong khi các nớc phát triển sẽ chỉ tăng 4%, từ 28,1 triệu tấn lên 29.2 triệu tấn. Dự
báo đến năm 2015 nhu cầu sẽ đạt 180 triệu tấn tăng gấp 1.4 lần so với 130 triệu tấn
vào những năm 1999-2001. Giá thuỷ sản dự báo sẽ tăng 3% vào năm 2010 và 3.2%
vào năm 2015.
Dự báo thơng mại thuỷ sản thơng mai thế giới giai đoạn 2006 2010 sẽ
tăng khoảng 2.5%/ năm. Hàng đông lạnh có xu hớng giảm dần nhng vẫn đóng vai
trò chủ đạo, các mặt hàng tơi sống ngày càng đợc chú ý tới. Thuỷ sản đóng hộp,
thuỷ sản ăn liền cũng giảm nhẹ. Trong số các mặt hàng thuỷ sản, các mặt hàng cá
hồi, cá ngừ, cá biển, tôm vẫn đóng vai trò chính. Dự báo trong giai đoạn 5 năm tới,
3 nhóm hàng này sẽ tăng ở mức 3,8%. Tôm cũng sẽ tăng nhng chỉ ở mức 2,5%
trong giai đoạn này và thấp hơn nữa ở giai đoạn sau. Cá rô phi sẽ có nhiều cơ hội để
mở rộng thị trờng nhờ giá bán ổn định, thịt cá rô phi có hơng vị nhẹ, có thể chế
biến theo nhiều khẩu vị khác nhau và đợc đại đa số ngời tiêu dùng chấp nhận đợc.
Đối với thị trờng Nhật Bản, Bộ Nông Lâm Ng nghiệp Nhật Bản dự báo trong
những năm tới nhu cầu của Nhật sẽ giảm. Đối với Nhật Bản, nguồn cung cấp thuỷ
bình quân đầu ngời và tiêu thụ hàng ngày có thể giảm vi ngời Nhật Bản có xu hớng
tránh các món ăn thuỷ sản. Nếu xu hớng hiện nay vẫn tiếp tục thì lợng tiêu thụ thuỷ
sản tính theo đầu ngời của Nhật vào năm 2010 sẽ giảm xuống bằng mức năm 1995.
Dự báo, ngành thuỷ sản Việt Nam sẽ đạt đợc kế hoặc của Bộ Thuỷ sản với
mức tăng trởng xuất khẩu thuỷ sản 49,8%, trung bình tăng 10,63%/năm trong giai
đoạn 2006- 2010 do các nhà quản lý và sản xuất đã nhận thức đợc nhu cầu cấp thiết
phải phát triển vững để tiến hội nhập, đáp ứng các yêu cầu của xu hớng thơng mại
hoá toàn cầu. Trong những năm tới thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sẽ có mặt ở gần
100 thị trờng nhng vẫn tập trung vào trên 20 thị trờng chính. Dự báo nhập khẩu
thuỷ sản của Việt Nam cũng sẽ tăng do nhu cầu tiêu dùng trong nớc đồng thời để
phục vụ chế biến xuất khẩu, dự báo, nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam sẽ tăng từ 8
10% mỗi năm trong giai đoạn 2005 2010, phần lớn nhập từ các nớc châu á.
Tổng giá trị nhập khẩu sẽ vào khoảng 190 triệu USD
Cơ cấu hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn tiếp tục chuyển dịch theo
chiều hớng tiếp tục gia tăng tỷ trọng của sản phẩm chế biến, chế tạo và các sản
phẩm có hàm lợng công nghệ cao, giảm tỷ trọng hàng thô (ớp đông, đông lạnh,
hàng khô). Theo kế hoạch của Bộ Thuỷ Sản, tới năm 2010, Việt nam sẽ phát triển
các nhóm sản phẩm chính nh tôm sú (Xuất khẩu khoảng 160.000 tấn), tôm chân
trắng (25.000 tấn), tôm hùm, tôm càng xanh, Cá tra Ba sa, nhuyễn thể hai mảnh
vỏ, cá biển nuôi, cá rô phi. Tuy nhiên muốn đạt đợc kế hoạch xuất khẩu thuỷ sản
cần chú trọng hơn nữa tới việc phải phát triển nuôi các mặt hàng thuỷ sản đáp ứng
các yêu cầu của từng loại thị trờng trên thế giới. Ngoài ra, hớng đầu t sẽ mở rộng
hơn tới khu vực nuôi các loài phù hợp với môi trờng sinh thái nh trồng rong biển,
động vật thân mềm, cá lồng biển xa bờ và nuôi kết hợp với nhiều đối tợng. Riêng
đối với thị trờng Nhật Bản dự báo tốc độ tăng trởng xuất khẩu tăng bình hàng năm
sẽ đạt mức 8.5 9%, với kim ngạch xuất khẩu đạt 1 1,2 tỷ USD năm 2010.
Chơng III
Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ
sản Việt Nam sang Nhật Bản trong thời gian tới
I những giảI pháp về phía doanh nghiệp
Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trờng Nhật Bản
theo em điều đầu tiên các doanh nghiệp Việt Nam cần làm đó là nâng cao chất lợng
an toàn vệ sinh thực phẩm. Các doanh nghiệp cần nhanh chóng áp dụng quản lý
chất lợng theo HACCP, GMP, SSOP và các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm
khác. Có đáp ứng đợc những đòi hỏi về chất lợng thì sản phẩm mới có khả năng
xuất khẩu sang Nhật Bản. Nâng cấp chất lợng nguyên liệu, giảm giá đầu vào bằng
cách trang bị hệ thống bảo quản ngay trên tàu, xây dựng hệ thống chợ cá tại các
cảng cá của các tỉnh trọng điểm, các trung tâm công nghiệp chế biến và tiêu thụ
Cần đặc biệt quan tâm tới việc nuôi trồng thuỷ sản tạo nguồn nguyên liệu chính
cho chế biến vì những sản phẩm nuôi trồng thờng cho chất lợng tốt và số lợng đồng
đều hơn sản phẩm đánh bắt, việc bảo quản trớc khi chế biến cũng thuận tiện hơn và
giảm bớt rủi ro do vi sinh vật gây nên. Tăng cờng đổi mới trang thiết bị, hiện đại
hoá công nghệ chế biến và bảo quản thuỷ sản để đảm bảo chất lợng thuỷ sản xuất
khẩu sang Nhật. Các doanh nghiệp cần theo sát thị trờng công nghệ để hiện đại hoá
công nghệ chế biến, bảo quản thuỷ sản.
Thứ hai là các doanh nghiệp cần đa dạng hoá sản phẩm chú trọng đa dạng
hoá và nâng cao giá trị sản phẩm, không ngừng cải tiến và nâng cấp các mặt hàng
truyền thống, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm mới có giá trị và chất lợng cao xuất
khẩu sang Nhật. Phát triển mạnh xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản tơi, sống, cá
đông lạnh, đồ hộp, các mặt hàng giá trị gia tăng, các sản phẩm ăn liền đóng gói
nhỏ. Phát triển xuất khẩu các sản phẩm từ cá và các đặc sản nớc ngọt, phát triển sản
xuất và xuất khẩu cá cảnh, các chế phẩm sinh học việc nâng tỷ trọng hàng chế
biến sâu nh đồ hộp thuỷ sản hay thuỷ sản ăn liền trong tổng hàng xuất khẩu thuỷ
sản, cũng nh việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật mới để tăng năng xuất khẩu
các thuỷ sản sống có giá trị cao. Còn dạng sản phẩm sơ chế khó có thể nói tăng giá
trừ khi cung cấp không đáp ứng đợc nhu cầu. Tất nhiên, việc nghiên cứu để đa ra
một chính sách giá hợp lý góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản là một công
việc khó khăn cần phải đợc đầu t thích đáng
Thứ ba là doanh nghiệp cần nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm thuỷ sản
của Việt Nam. Khả năng cạnh tranh của một sản phẩm thể hiện rõ nhất ở chất lợng
sản phẩm. Các doanh nghiệp cần có chính sách và biện pháp cải tiến chất lợng để
đáp ứng cho thị trờng Nhật vốn có đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn chất lợng. Đôi khi
những tiêu chuẩn này quá cao nếu muốn đáp ứng thờng phải tốn kém. Tuy nhiên,
nêu các doanh nghiệp Việt Nam đảm bảo chất lợng và nhận trách nhiệm về độ an
toàn của hàng hoá đối với ngời tiêu dùng sẽ có nhiều cơ hội thành công tại thị trờng
Nhật. Các sản phẩm xuất vào thị trờng Nhật cần thích ứng với thị trờng, trong đó
các sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu chuẩn của Nhật Bản và có sự điều
chỉnh, thích ứng nhanh khi những tiêu chuẩn Nhật Bản đợc cập nhật. Sản phẩm cần
đảm bảo các quy định của Nhật Bản về an toàn, đảm bảo sức khoẻ và tạo sự thoải
mái, bảo vệ môi trờng trong quá trình sản xuất. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp
không phù hợp với thị trờng Nhật Bản thì cần cải tiến ngay cho phù hợp. Ngoài việc
nâng cao chất lợng sản phẩm doanh nghiệp cũng cần tạo nét riêng cho sản phẩm
của mình thông qua cải tiến mẫu mã sản phẩm, cải tiến chất lợng hoặc có những cải
tiến khác biệt về khẩu vị so với các sản phẩm cùng loại trên thị trờng này. Để sản
phẩm có tính độc đáo cần phải đầu t cho các khẩu quảng cáo, tiếp thị, trình độ công
nghệ, nghiên cứu và phát triển. Cần phải đa sự sáng tạo vào sản phẩm của mình
nhằm tạo ra sự khác biệt và làm cho khách hàng quan tâm đến sự khác biệt đó
Bên cạnh việc nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm các doanh nghiệp cũng
cần nâng cao sức cạnh tranh của chính doanh nghiệp bằng những chiến lợc kinh
doanh và hệ thống quản lý phù hợp với yêu cầu của hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
vào Nhật Bản. Các doanh nghiệp cần phải có chiến lợc lâu dài để thâm nhập thị tr-
ờng Nhật Bản với tầm nhìn sâu rộng thông qua nghiên cứu thị trờng một cách kỹ l-
ỡng và đầy đủ. Thứ nhất, tất cả các quá trình, thủ tục cũng nh hoạt động kinh doanh
tại thị trờng Nhật Bản thờng mất nhiều thời gian hơn tại các nớc khác. Thứ hai, việc
tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng tại thị trờng Nhật Bản là điều không thích hợp nên
cần phải kiên trì và có tầm nhìn lâu dài trên thị trờng này. Ngoài việc xây dựng
chiến lợc xuất khẩu dài hạn vào Nhật Bản các doanh nghiệp cũng phải nỗ lực xây
dựng năng lực quản lý và kinh doanh cho phù hợp với cơ chế kinh tế thị trờng và sự
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam để năng cao sức cạnh tranh xuất khẩu của
doanh nghiệp trên thị trờng Nhật Bản. Doanh nghiệp cần phải tự chủ và có chính
sách đảm bảo đủ vốn cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu, ứng dụng các thành tựu
khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất, chế biến xuất khẩu và chú trọng phát
triển nguồn nhân lực xuất khẩu thích ứng với điều kiện kinh doanh mới cả ở thị tr-
ờng trong nớc và trên thị trờng Nhật Bản. Chú trọng xây dựng thơng hiệu, uy tín,
xây dựng văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp để phát triển hoạt động xuất khẩu
với các đối tác Nhật Bản Mỗi doanh nghiệp phải xây dựng thơng hiệu riêng cho
sản phẩm của mình. Xây dựng đợc thơng hiệu nổi tiếng góp phần tạo dựng uy tín
doanh nghiệp, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của hàng hoá và
doanh nghiệp Việt Nam.
Tiếp đến là các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến đào tạo nguồn nhân lực
chế biến thuỷ sản. Công nhân cần đợc đào tạo phù hợp với trình độ công nghệ, nắm
vững và sử dụng tốt máy móc thiết bị của nhà máy, có kiến thức và hiểu biết về an
toàn vệ sinh thực phẩm từ khâu sản xuất, thu mua, vận chuyển cho đến bảo quản và
chế biến Mỗi doanh nghiệp cần thành lập hoặc củng cố bộ phận tổ chức nhân sự
đủ mạnh nghĩa là lựa chọn ngời đủ đức, tài và u tiên đãi ngộ cao cho công tác tổ
chức nhân sự. Công tác quy hoạch đề bạt cán bộ và đánh giá phân loại cán bộ phải
đợc làm công khai, dân chủ, thờng xuyên trên cơ sở xây dựng các tiêu chuẩn cán
bộ. Công tác đào tạo, bồi dỡng cán bộ phải gắn chặt với mục tiêu chiến lợc kinh
doanh - cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể kết hợp đa dạng các
hình thức đào tạo: đào tạo tại chỗ, đào tạo dài hạn, đào tạo ngắn hạn theo hình thức
chính quy, tại chức, tập trung, không tập trung, đào tạo từ xa, đào tạo lại
Bên cạnh đó công tác thông tin thị trờng cũng phải đợc tăng cờng và đẩy
mạnh các hoạt động xúc tiến thơng mại để mở rộng hơn nữa thị phần xuất khẩu
thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật. Cụ thể, cần có sự phối hợp chặt chẽ và tổ chức
dòng thông tin về thị trờng Nhật Bản tới các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam
thông qua các mắt xích chính trong hệ thống này là Bộ Thơng mại, Thơng vụ Việt
Nam tại Nhật, vụ Châu á Thái Bình Dơng, Bộ Thuỷ sản, Hiệp hội chế biến và xuất
khẩu thuỷ sản (VASEP). Về phía nhà nớc cần hỗ trợ tăng cờng năng lực của Hiệp
hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và các tổ chức hiệp hội ngành hàng
khác của ngành thuỷ sản để các tổ chức này phát huy tối đa vai trò và chức năng
của tổ chức trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và tiến hành xúc tiến thơng mại
ii. kiến nghị với nhà nớc đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản vào
nhật bản
Kiến nghị thứ nhất là Nhà Nớc cần có các biện pháp nâng cao chất lợng vệ sinh
an toàn thực phẩm trong chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Sau khi hàng thuỷ sản Việt
Nam bị Nhật Bản áp dụng lệnh kiểm tra 100% các mặt hàng chế biến từ tôm và
mực, Bộ thuỷ sản Việt Nam đã đa ra những biện pháp kịp thời để chấn chỉnh lại vệ
sinh an toàn thực phẩm nh ngày 14/12/2006 Bộ Thuỷ Sản đã ra quyết định số
1052/QĐ-BTS về việc tăng cờng kiểm tra hàng thuỷ sản xuất khẩu vào Nhật Bản.
Theo đó 100% các lô hàng tôm, mực của các doanh nghiệp đã đợc cha đợc công
nhận đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và các doanh nghiệp đã đạt chỉ tiêu
trên nhng bị phát hiện có nhiễm d lợng kháng sinh bị cấm sẽ phải tiến hành kiểm
tra d lợng các hoá chất, kháng sinh cấm trong hàng thuỷ sản xuất khẩu vào Nhật
Bản (trừ sản phẩm sống). Song song với đó Bộ Thuỷ Sản cũng đề nghị tạm ngừng
cấp phép xuất khẩu với doanh nghiệp có nhiều lô hàng liên tiếp bị phát hiện nhiễm
kháng sinh tại thị trờng này trong vòng 1-6 tháng. Theo ý kiến của em bên cạnh
những biện pháp trên Bộ Thuỷ Sản cũng cần tăng cờng kiểm tra các lô hàng do
những doanh nghiệp thơng mại (không có nhà máy chế biến) đứng tên xuất khẩu để
xác định trách nhiệm của những cơ sở trực tiếp chế biến và cung ứng các lô hàng
đó. Ngoài ra cần tiến hành kiểm tra nghiêm ngặt đối với chủ tàu, ngời nuôi, đại lý
thu mua, đại lý bán hoá chất, thuốc thú y, các cơ sở chế biến thức ăn. Kiên quyết xử
lý các cá nhân và cơ sở cố tình sử dụng kháng sinh bị cấm, thu hồi giấy phép ngành
nghề cấp cho các cơ sở không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó Bộ
thuỷ sản cần có các chính sách nâng cao nhận thức cộng đồng về nâng cao vệ sinh
an toàn thực phẩm. Trớc tiên các doanh nghiệp chế biến phải tự chịu trách nhiệm và
tự kiểm tra sản phẩm của họ từ khi nuôi trồng đến khi đa vào nhà máy chế biến.
Đồng thời, Bộ thuỷ sán nên có chính sách giúp từng ngời nuôi trồng những kinh
nghiệm và kỹ thuật để họ có thể thực hiện những mô hình nuôi trồng an toàn, bền
vững, đặc biệt là việc nhân rộngcác mô hình nuôi trồng an toàn bền vững đặc biệt
là nhân rộng các mô hình thuỷ sản sạch đã đợc triển khai thí điểm ở những doanh
nghiệp có uy tín trong thời gian qua. Đặc biệt Bộ Thuỷ sản cần có chủ trơng tổ
chức ngời nuôi trồng lại thành các hội, hợp tác xã để triển khai việc học tập và nâng
cao ý thức an toàn vệ sinh và chất lợng trong nuôi trồng thuỷ sản đợc thuận lợi, dễ
dàng hơn. Bởi vì nếu để tình trạng làm ăn tự phát manh mún nh hiện nay sẽ rất khó
kiểm soát. Song song với việc đẩy nhanh việc hoàn thiện những quy chuẩn, tiêu
chuẩn cụ thể về chất lợng an toàn vệ sinh thuỷ sản để có những cơ sở cho việc quản
lý, kiểm soát và xử phạt những trờng hợp sai phạm.
Thứ hai Nhà Nớc cần có biện pháp đề giải quyết vấn đề thiếu nguyên liệu trong
chế biến thuỷ sản. Để giải quyết vấn đề này theo em Nhà Nớc cần áp dụng một loạt
các giải pháp đồng bộ sau. Trên lĩnh vực khai thác, Nhà Nớc cần chú trọng nhiều
hơn vào đầu t công nghệ bảo quản, giảm thiểu tối đa thất thoát nguyên liệu sau thu
hoạch. nh nâng cao công nghệ chế biến trong sản xuất chế biến thuỷ sản nh nghiên
cứu, chọn lựa để nhập khẩu những công nghệ đánh bắt, nuôi trồng và chế biến tiên
tiến phù hợp với điều kiện thực tế về nguồn nhân lực và điều kiện tài nguyên thuỷ
sản nớc nhà. Tăng cờng đầu t cho nghiên cứu ứng dụng và cải tiến công nghệ đánh
bắt, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch, chế biến, bảo quản Khuyến khích phát
triển, hỗ trợ chuyên sâu các ngành nghề khai thác chọn lọc, khai thác các đối tợng
có giá trị kinh tế cao. Trên lĩnh vực nuôi trồng, cần tăng cờng năng lực quản lý, cải
tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng các vùng nuôi tập trung hiện có để khôi phục lại tình
hình sản xuất. Đặc biệt quan tâm điều tiết các vùng nuôi, sản xuất theo kế hoạch
thống nhất về đối tợng, thời gian, quy trình kỹ thuật kiểm soát đợc số lợng, chất l-
ợng trên cơ sở nhu cầu của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Tiếp tục hoàn
thiện mở rộng các vùng sản xuất thuỷ sản hàng hoá tập trung. Quy hoạch đầu t mở
rộng các vùng nuôi theo hớng dồn đIền đổi thửa để giảm chi phí đầu t, rút ngắn thời
gian thực hiện, đồng thời đảm bảo đợc các vấn đề kinh tế xã hội tại địa phơng. Chú
trọng đào tạo và phổ biến công nghệ, nâng cao trình độ dân trí và tay nghề cho ng
dân. Tiếp thu những kiến thức mới về khai thác hải sản, đào tạo đội ngũ cán bộ và
ng dân nhằm nhanh chóng thích ứng với công nghệ khai thác hiện đại Trên lĩnh
vực chế biến, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án quy hoạch khu công
nghiệp chế biến thuỷ sản. Việc quy hoạch tập trung các doanh nghiệp chế biến cần
xem xét tính toàn và có sự sàng lọc nhất định nhằm từng bớc tạo ra khu vực chế
biến công nghệ cao có khả năng tạo gia giá trị gia tăng lớn trên một đơn vị nguyên
liệu, nhằm giảm áp lực về nhu cầu nguyên liệu nh hiện nay. Ngoài ra Bộ Thuỷ Sản
cũng cần tăng cờng hợp tác về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trên
các lĩnh vực: sinh sản nhân tạo, di truyền, chọn giống, chuyển đổi giới tính một số
loài giống quý, phòng ngừa dịch bệnh và quản lý môi trờng. Triển khai hoạt động
hợp tác quốc tế song phơng và đa phơng với phía Nhật Bản để tiến hành điều tra
các nguồn lợi thuỷ sản, tiếp thu các công nghệ mới, phục vụ tốt cho công tác khai
thác hải sản, đặc biệt là khai thác xa bờ.
Thứ ba Nhà nớc cần có quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản. Nhà nớc cần rà soát
và điều chỉnh quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với việc lập các dự
án đầu t cụ thể, gắn với quy hoạch phát triển thuỷ lợi và đê biển chung trên địa bàn,
nâng cao hiệu quả đầu t và sử dụng có hiệu quả đất đai mặt nớc vào nuôi trồng thuỷ
sản. Nhà Nớc cần phải xây dựng quy hoạch hệ thống đê biển và phê duyệt các dự
án đầu t xây dựng đê biển có liên quan đến nuôi trồng thuỷ sản; đồng thời cần xây
dựng các trại sản xuất giống tôm, cá cho nhu cầu nuôi của từng địa phơng cụ thể
chỉ có trên cơ sở nh vậymới có thể đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cho chế
biến xuất khẩu thuỷ sản. Thêm vào đó quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản còn phải
đảm bảo phát triển ngành thuỷ sản trong tơng lai mang tính bến vững. Quy hoạch
ngành thuỷ sản phải đảm bảo ngành thuỷ sản có mối quan hệ hữu cơ với nông
nghiệp về sử dụng tài nguyên đất và nớc sao cho hợp lý và nâng hiệu quả sản lợng
tới mức khả năng cao nhất. Vì vậy cần có những quy định chặt chẽ để phát triển
bền vững, đồng thời các sản phẩm của nuôi trồng thuỷ sản có mối quan hệ khăng
khít với cộng đồng nên chúng phải đợc quản lý ở tất cả các khâu từ cấp Nhà nớc tới
địa phơng và cộng đồng.
Thứ t Nhà Nớc cần có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập vào thị tr-
ờng Nhật Bản. Nhà Nớc cần có chinh sách hỗ trợ về mặt tài chính nh xây dựng các
thể chế tín dụng đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu.
Quỹ bảo lãnh doanh nghiệp vừa và nhỏ cần đợc sớm thành lập để tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp này đợc vay vốn của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó thị trờng
tài chính cần đợc cải cách theo hớng dần dần mở cửa cho các nhà đầu t nớc ngoài
để hình thành nên các trung gian tài chính mạnh thực thụ, có khả năng cung cấp tài
chính và hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Tăng cờng tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa
các thể chế tài chính, tín dụng với các doanh nghiệp để hình thành mối quan hệ hợp
tác mới đảm bảo sự bình đẳng và các bên đều có lợi Ngoài ra Nhà Nớc cũng cần
có chính sách hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp khi thâm nhập thị trờng Nhật Bản
nh các cơ quan của Chính phủ có thể hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp nh thông
qua trang Web của Bộ Công Thơng để giới thiệu về thị trờng và các nhà nhập khẩu
Nhật Bản đối với các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Bên cạnh đó Cục
Xúc Tiến Thơng Mai (VIETTRADE) cần phối hợp chặt chẽ với JETRO của Nhật
Bản hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam thu thập và tìm kiếm các thông tin cần thiết
về thị trờng Nhật Bản, các nhà nhập khẩu Nhật Bản, các sản phẩm tiềm năng xuất
khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản, cần tăng cờng vai trò hỗ trợ và giúp đỡ của
Tham tán thơng mại Việt Nam tại Nhật Bản đối với việc cung cấp thông tin có phí
cho các doanh nghiệp theo yêu cầu của doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trờng này.
Thêm vào đó Nhà nớc cũng cần hỗ trợ về mặt nhân lực cho doanh nghiệp xuất khẩu
vào Nhật Bản. Các cơ quan hữu quan của Nhà nớc nên nghiên cứu và tập hợp nhu
cầu về đào tạo tiếng Nhật cho kinh doanh với thị trờng Nhật Bản trong phạm vi cả
nớc và tham vấn cho các cơ sở đào tạo về quy mô, nội dung và phơng pháp đào tạo
về kinh doanh với thị trờng Nhật Bản. Nhà nớc nên áp dụng các biện pháp khuyến
khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật cho các
doanh nghiệp thuỷ sản xuất khẩu sang Nhật Bản, nhà nớc cũng có thể đàm phán với
Chính phủ Nhật bản về một lợng ODA thích hợp cho việc phát triển lĩnh vực đào
tạo nghề ở Việt Nam và gửi công nhân Việt Nam sang Nhật đào tạo nghề.
Một khó khăn lớn doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi vào thị trờng Nhật Bản
đó là hiện nay Việt Nam và Nhật Bản vẫn cha ký kết hiệp định thơng mại song ph-
ơng (FTA). Để giải quyết vấn đề này Nhà nớc cũng cần chủ động có đối sách
với phía Nhật Bản, nếu cha đàm phán, ký kết đợc với Nhật Bản Hiệp định thơng
mại tự do (FTA) trong khi các nớc khác trong khu vực đã thực hiện FTA với Nhật
Bản thì cần tranh thủ đàm phán với phía Nhật Bản trong khuôn khổ đa phơng nh
Hiệp định thơng mại tự do ASEAN - Nhật Bản, diễn đàn hợp tác kinh tế châu á
- Thái Bình Dơng (APEC). Tích cực đàm phán, phát triển quan hệ kinh tế thơng
mại song phơng và trong khuôn khổ đa phơng với phía Nhật Bản để tạo điều kiện
tiếp cận thị trờng Nhật Bản rộng lớn và dễ dàng hơn cũng nh để xác lập điều kiện
cạnh tranh tốt cho hàng hoá và các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Nhật
Bản.
Cuối cùng Nhà Nớc cần có các chinh sách hỗ trợ để đẩy mạnh công tác xúc
tiến thơng mại của Việt Nam. Theo em Nhà Nớc cần tiếp tục hoàn thiện môi trờng
pháp lý cho hoạt động thông tin thơng mại và xúc tiến xuất khẩu ở Việt Nam tiến
hành thuận lợi vừa đảm bảo đợc sự quản lý thống nhất của Nhà nớc đồng thời
khuyến khích đợc các tổ chức dịch vụ thông tin và xúc tiến xuất khẩu phát triển
đáp ứng tốt yêu cầu thông tin và xúc tiến xuất khẩu của mọi đối tợng. Bên cạnh đó
Việt Nam cũng cần tranh thủ khai thác tối đa sự hỗ trợ và giúp đỡ của Sứ quán
Nhật, JETRO Nhật, Trung tâm phát triển nguồn nhân lực và đại diện của các doanh
nghiệp Nhật tại Việt Nam cho sự phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam sang thị trờng Nhật Bản. Ngoài ra hàng năm Cục Xúc Tiến Thơng Mại cần