Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG hóa của VIỆT NAM TRƯỚC và SAU KHI GIA NHẬP WTO THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.65 KB, 93 trang )

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ
CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
1.1Định nghĩa xuất khẩu.
Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh thu doanh lợi bằng cách bán sán
phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài và sản phẩm hay dịch vụ ấy phải di
chuyển ra khỏi biên giới của một quốc gia.
1.2Vai trò của xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế.
1.2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp
hóa đất nước.
Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất
yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp
hóa đất nước trong thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu
máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể tạo ra từ các nguồn sau:
- Xuất khẩu hành hóa;
- Đầu tư nước ngoài;
- Vay nợ, viện trợ;
- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ;
- Xuất khẩu sức lao động…
Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ… tuy quan ttrọng
nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Nguồn
1
vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hóa đất nuớc là xuất khẩu. Xuất
khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Ở Việt nam, thời kỳ 1986-1990 nguồn thu về xuất khẩu hàng hóa đảm bảo
trên 75% nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu; tương tự thời kỳ 1991-19995 là 66% và
1996-2000 là 50%( không tính nguồn vốn thông qua xuất khẩu dịch vụ).
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư
và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư
và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu- nguồn vốn chủ yếu để trả nợ trở
thành hiện thực.


1.2.2 Xuất khẩu đóng vai trò góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh
mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phát
triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Có 2 cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Một là: xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt
quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tê còn lạc hậu và chậm phát triển
như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ ở sự
“thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp.
Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế cũng sẽ rất chậm.
Hai là: coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng
để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị
2
trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện
ở:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác cơ hội phát triển thuận
lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc
phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như: bông, sợi hay thuốc nhuộm, công
nghiệp tạo mẫu…Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
xuất khẩu, dầu thực vật, chè, có thể sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công
nhiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho
sản xuất phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế-kỹ thuật nhằm cải tạo và

nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là
phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài
vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực
sản xuất mới.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi
chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu tổ chức luôn thích nghi
được với thị truờng.
- Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn
thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị
trường.
1.2.3 Xuất có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống của nhân dân.
3
Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều mặt.
Trước hết sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang trực tiếp là nơi thu
hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp.
Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu
phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân.
Quan trọng hơn cả là việc xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho
cả quy mô và tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành
nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều
hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân dân đuợc cải thiện.
1.2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nuớc ta.
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua
lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh
tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn,
xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu

tư, mở rộng vận tải quốc tế…Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại chúng
ta vừa kể lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Tóm lại: đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để
phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
1.3Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu.
1.3.1 Nhóm nhân tố tác động từ bên trong nền kinh tế.
1.3.1.1 Sản xuất trong nước.
4
Xuất khẩu là kết quả của sản xuất phát triển. Về cơ bản, một quốc gia sẽ
không thể xuất khẩu nếu như quốc gia đó không có một nền sản xuất phát triển với
cơ cấu hợp lý. Với những nước đang phát triển có lợi thế về lao động và tài
nguyên thiên nhiên, cơ cấu kinh tế của các nước này chủ yếu là nông nghiệp nên
xuất khẩu cũng tập trung vào các loại nông sản. Ngược lại, các nước phát triển với
ưu thế về vốn và công nghệ, cơ cấu kinh tế cũng tập trung vào khu vực công
nghiệp và dịch vụ nên cơ cấu hàng xuất khẩu cũng có nhiều tiến bộ, tỷ trọng xuất
khẩu sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao. Nói một cách khác, trình độ sản xuất
và cơ cấu nền kinh tế là nhân tố quyết định đến kim ngạch xuất khẩu.
Đối với Việt Nam, nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Tốc độ tăng trưởng GDP năm
sau cao hơn năm trước, bình quân trong năm 2001-2005 đạt mức kế hoạch 7,5%.
Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh
tế( tích lũy- tiêu dùng, thu-chi ngân sách, ) được cải thiện; việc huy động các
nguồn nội lực cho phát triển có tiến bộ, tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách Nhà
nước vượt dự kiến tổng vốn đầu tư vào nền kinh tế tăng mạnh. Đã tạo dựng thêm
nhiều cơ sở vật chất- kỹ thuật quan trọng, trong đó nhiều công trình lớn đã được
đưa vào sử dụng.
Tuy nhiên, quy mô nền kinh tế còn nhỏ. Các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế
chưa thật vững chắc, dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động từ bên ngoài. Trình độ
khoa học, công nghệ, năng suất lao động còn thấp; giá thành nhiều sản phẩm cao
hơn so với khu vực và thế giới. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa

được huy động và khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước dàn trãi, bị thất thoát nhiều.
Một số công trình xây dựng lớn, quan trọng của quốc gia không hoàn thành theo
kế hoạch. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách Nhà nước và tiêu dùng xã hội cũng
nghiêm trọng. Môi trường sinh thái ở nhiều nơi ô nhiễm nặng. Việc khai thác, sử
dụng tài nguyên thiên nhiên, nhìn chung chưa hợp lý.
5
Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh về kinh tế của Việt Nam còn ở những thứ
bậc thấp trong xếp loại của thế giới.
Bảng 1.1 Vi trí xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt nam.
Năm 1997 1998 1999 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Xếp
hạng/
tổng số
49/5
3
39/5
3
48/5
3
60/7
5
65/8
0
60/10
2
77/10
4
74/11
7
77/12

5
Khoản
g cách
đến
nước
thấp
nhất
4 14 5 15 15 42 27 43 48
Nguồn: Báo cáo thường niên của Diễn đàn kinh tế thế giới.
Cơ cấu kinh tế và lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Đến năm 2005, tỷ trọng giá trị nông-lâm-ngư nghiệp trong GDP còn
20.9%( kế hoạch 20-21%), công nghiệp và xây dựng 41% ( kế hoạch 38-39%),
dịch vụ 38,1% ( kế hoạch 41-42%). Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
còn chậm, chất lượng thấp, nhất là lĩnh vực dịch vụ. Nội dung và các biện pháp
công nhiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp và nông thôn chưa cụ thể. Sắp
xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là
cổ phần hóa chưa đạt yêu cầu đề ra. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động
chưa qua đào tạo vẫn là phổ biến, lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao.
6
Hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có những bước tiến
quan trọng. Một số sản phẩm của ta đã có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế
với thương hiệu có uy tín. Vốn tài trợ phát triển chính là ODA và vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI liên tục tăng qua các năm. Đã có một số dự án đầu tư của ta
ra nước ngoài. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu
được xây dựng; một số loại thị trường mới được hình thành; thị trường hàng hóa
phát triển tương đối nhanh.
1.3.1.2Quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, phát triển
ngoại thương trong từng giai đoạn.
Quan điểm và định hướng phát triển kinh tế xã hội là yếu tố quyết định đến
sự phát triển của hoạt động xuất khẩu.

Ở Việt Nam, Đại hội Đảng lần thứ VI, năm 1986 đánh dấu sự đổi mới của
Việt Nam, với quan điểm mở cửa và làm bạn với tất cả các nước, các khu vực,
không phân biệt chế độ chính trị, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau.
Tiếp đến các kỳ Đaị hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX và lần thứ X, Đảng ta vẫn thể
hiện rõ chủ trương thực hiện chính sách mở cửa, đẩy mạnh phát triển kinh tế và
hoạt động kinh tế đối ngoại. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra chiến
lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, xác định mục tiêu tổng quát của chiến
lược 10 năm là: “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung xây dựng có
chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản
xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các
ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phòng, đưa đất
nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Chất lượng đời sống vật chất, văn
hóa, tinh thần của nhân dân được nâng lên đáng kể”. Đại hội Đảng cộng sản Việt
Nam lần thứ X tháng 6/2006, vẫn tiếp tục khẳng định định hướng phát triển kinh
tế -xã hội nói trên, phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh hơn, có chất
7
lượng cao hơn, bền vững hơn và gắn kết với phát triển con người. Đến năm 2010
tổng sản phẩm trong nước GDP tăng gấp 1,2 lần so với năm 2000; mức tăng
trưởng GDP bình quân đạt 7,5 đến 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm. Đối với
hoạt động xuất khẩu, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đã khẳng định
“ nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp
hóa-hiện đại hóa, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, áp
dụng công nghệ mới để tăng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao,
mở rộng và đa dạng hóa thị trường và phương thức kinh doanh, hội nhập thắng lợi
vào kinh tế khu vực và thế giới. Chớp thời cơ thuận lợi tạo ra sự phát triển đột
biến, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa kinh tế nước ta và các nước trong
khu vực”. Đây là một căn cứ hết sức quan trong, là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của nước ta từ nay đến năm 2010.

Căn cứ vào mục tiêu, quan điểm lớn của hoat dộng xuất khẩu đã được xác
định tại nghị quyết Đại hội Đảng IX, Bộ thương mại đã xây dựng Chiến lược phát
triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010, xác định mục tiêu tổng quát của hoạt
động xuất khẩu giai đoạn 2006-2010 là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng
cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP; đẩy mạnh sản xuất và
xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt
hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng
nâng cao hiệu quả xuất khẩu; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh
xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo,
sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất
khẩu thô. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình cả giai đoạn 2006-
2010 đạt mức 17,5%/năm.
Về phát triển thị trường xuất khẩu, quan điểm của Việt Nam là mở rộng và
đa dạng hóa, đa phương hóa các thị trường xuất khẩu nhằm tạo ra một thị trường
xuất khẩu đa dạng, phong phú, sống động, có khả năng cạnh tranh, tìm kiếm các
8
thị trường mới, phát triển thị trường theo chiều sâu để tạo thế vững chắc, nhằm
tăng quy mô xuất khẩu, tăng mặt hàng xuất khẩu và mở ra khả năng xuất khẩu các
mặt hàng mới, đồng thời phát triển các thị trường tiêu thụ trong nước cho các sản
phẩm hàng hóa định hướng sản xuất để xuất khẩu, nhằm vừa đảm bảo tiêu thụ,
vừa phân tán rủi ro khi thị trường thế giới có biến động, vừa góp phần điều hòa
những mất cân đối lớn về cung cầu trên thị trường trong nước, ổn định và phát
triển sản xuất, tạo ra xung lực để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có hiệu quả.
1.3.1.3 Cơ chế, chính sách quản lý và khuyến khích xuất khẩu.
Các chính sách quản lý và khuyến khích xuất khẩu của mỗi quốc gia cũng sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu hàng xuất khẩu. Đối với những ngành hàng được
ưu tiên xuất khẩu, các chính sách khuyến khích như trợ cấp, tín dụng xuất khẩu,
xúc tiến xuất khẩu, được áp dụng sẽ góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu.
Thông thường, những ngành mục tiêu của chính sách khuyến khích xuất khẩu sẽ là

những ngành sản xuất công nghiệp có hàm lượng chế biến cao, khai thác lợi thế
của quốc gia, góp phần chuyển dịch trong cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng gia
tăng hàm lượng chế biến. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, tác động của các chính sách
khuyến khích xuất khẩu đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu phụ thuộc nhiều
hơn vào hiệu quả thực thi các chính sách này. Kể cả khi chính sách này được ban
hành hợp lý, nhưng nếu không được thực hiện một cách hiệu quả thì cũng sẽ
không có tác động đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, chính sách quản lý xuất khẩu với các công cụ như: cấm xuất
khẩu, thuế xuất khẩu hay giấy phép… cũng sẽ tác động đến cơ cấu hàng xuất khẩu
theo hướng hạn chế xuất khẩu. Các biện pháp quản lý thường hướng đến hạn chế
xuất khẩu. Các biện pháp quản lý thường hướng đến các sản phẩm thô, chưa qua
chế biến. Do đó, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm này sẽ khó tăng cao.
9
Ở Việt nam, từ sau năm 1986, cơ chế, chính sách quản lý và khuyến khích
xuất khẩu liên tục được cải cách theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế.Có thể tóm
tắt những nội dung cải cách chủ yếu của chính sách quản lí và khuyến khích xuất
khẩu như sau:
Cơ chế điều hành hoạt động xuất nhập khẩu: Từ năm 1986 đã từng bước
chuyển các hoạt động ngoại thương từ cơ chế tập trung, bao cấp sang hoạch toán
kinh doanh, xóa bỏ quyết toán nội bộ, phân định rõ giữa quản lí vi mô và vĩ mô.
Quyền kinh doanh: Bắt đầu từ ngày 31/7/2008 Chính phủ ban hành Nghị
định 57/1998/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật thương mại năm 1998 đã cho phép
tự do kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu với tất cả các loại hình kinh doanh doanh
nghiệp. Như vậy quyền kinh doanh coi như đã hoàn toàn được tự do hóa.
Mặt hàng kinh doanh: Sau Nghị định 98/CP tháng 12/1995 hệ thống cấp giấy
phép chuyến đi đã bị hủy bỏ. Nhà nước cơ bản đã cho phép các doanh nghiệp kinh
doanh tất cả các mặt hàng (trừ một số mặt hàng cấp) và một số mặt hàng có ảnh
hưởng lớn đến cân đối nền kinh tế quốc dân hoặc mang tính đặc chủng cần phải có
giấy phép của bộ thương mại hoặc các bộ chủ quản
Quản lí qua thuế: Các múc thuế đã giảm đi rõ rệt, các mặt hàng xuất khẩu

được hưởng mức thuế VAT là 0%, thuế xuất khẩu coi như không đáng kể.
Các chính sách thưởng hổ trợ xuất khẩu như cung cấp thông tin thị trường
giá cả, xúc tiến thương mại… liên tục được Nhà nước quan tâm và cải thiện nhằm
giúp đỡ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu
Nhìn chung có thể nhận thấy là trong những năm vừa qua, Việt Nam đã có
những đổi mới cơ bản trong chính sách quản lí và khuyến khích xuất khẩu đã huy
động được mọi nguồn lực của mọi thành phần kinh tế vào đẩy mạnh xuất khẩu
trong thời gian qua. Tuy nhiên phần lớn chính sách của Việt Nam đều hướng tới
10
mục tiêu giải phóng mọi tiềm năng, Tăng kim ngạch xuất khẩu mà chưa có sự ưu
tiên, phân biệt giữa các nhóm hàng.Do đó chính sách khuyến khích xuất khẩu
chưa có những tác động lớn đến cơ cấu hàng xuất khẩu.
1.3.2 Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài nền kinh tế.
1.3.2.1Cách mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Một cơ cấu xuất khẩu được coi là tiến bộ khi nhóm hàng chế biến, có hàm
lượng khoa học công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của một quốc gia. Điều này thể hiện tốc độ và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu
của một nước phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của
nước đó. Trong những năm đầu của thế kỷ 21, nhân loại đã tững chứng kiến cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát
triển nhảy vọt, thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức và làm biến đổi sâu sắc
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trình độ làm chủ thông tin, tri thức có ý nghĩa
quyết định đến tương lai phát triển của các nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
nhanh, các lợi thế so sánh quốc tế của các quốc gia không ngừng biến đổi. Chu
trình luân chuyển vốn, thay đổi công nghệ và sản phẩm ngày càng được rút ngắn,
đòi hỏi các quốc gia cũng như các doanh nghiệp phải điều chỉnh rất nhanh nhạy để
thích ứng. Xu thế này cũng đặt ra nhiều vấn đề buộc các nước phải điều chỉnh cơ
cấu kinh tế phù hợp với thay đổi của thị trường thế giới, để từ đó có một cơ cấu
xuất khẩu hợp lý.
Thứ nhất: Cần tập trung phát triển các ngành dịch vụ, khu vực đang gia tăng

nhanh tỷ trọng và là cơ sở để hiện đại hóa các lĩnh vực kinh tế khác.
Thứ hai: Lựa chọn phát triển các ngành công nghệ cao để tận dụng cơ hội
của kinh tế tri thức, đăc biệt là công nghệ thông tin.
11
Thứ ba:Phát triển nông nghiệp hữu cơ, sản xuất sạch để tận dụng thành tựu
của thế giới về công nghệ sinh học, đồng thời đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi
trường và nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về các sản phẩm thân thiện
với môi trường. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước có tỷ trọng nông
nghiệp lớn như Việt Nam.
1.3.2.2 Xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại toàn cầu.
Xu thế tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành yếu tố
khách quan, ngày càng lôi cuốn thêm nhiều nước và mở rộng ra hầu hết các lĩnh
vực, làm tăng sức ép cạnh tranh và tác động qua lại giữa các nền kinh tế. Mở cửa
đơn phương và thông qua các hình thức hợp tác song phương và đa phương giữa
các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, bảo vệ môi
trường, phòng chống tội phạm, phòng chống thiên tai và các đại dịch . Các công ty
xuyên quốc gia không ngừng cấu trúc lại, hình thành những tập đoàn khổng lồ chi
phối các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng trên phạm vi toàn thế giới với
những hình thức tổ chức quản lý đa dạng và linh hoạt. Ngày nay, các quốc gia
không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hóa mà cần phải chủ động tham gia vào quá
trình này, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu để có thể đẩy mạnh xuất khẩu sản
phẩm của mình. Thực chất, đây là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh rất
phức tạp, đặc biệt là đấu tranh chống lại sự chi phối của các cường quốc kinh tế và
các công ty xuyên quốc gia. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, để
đẩy mạnh xuất khẩu, cần khai thác những cơ hội hợp tác với nước ngoài và các
công ty đa quốc gia.
Những thỏa thuận về tự do hóa thương mại sẽ mở ra những cơ hội tiếp cận
thị trường cho các nước đang phát triển. Về nông nghiệp, giảm thuế quan, loại bỏ
dần trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước đối với hàng nông sản sẽ tạo điều kiện
thúc đẩy thương mại nông sản trên thế giới, tạo cơ hội cho các nước phát triển như

Việt Nam có thể xuất khẩu nông sản sang thị trường các nước phát triển. Tuy
12
nhiên, cần chý ý rằng, mặc dù tự do hóa thương mại là xu thế tất yếu, nhưng nhiều
nước đang và sẽ áp dụng những biện pháp bảo hộ mới đối với nông sản khiến cho
khả năng cạnh tranh bị biến dạng. Việc này lại trở thành một thách thức lớn đối
với các nước đang phát triển, nếu không thể vượt qua được những rào cản về vệ
sinh an toàn thực phẩm, về môi trường thì sẽ khó có thể đẩy mạnh xuất khẩu các
sản phẩm nông sản. Đối với các sản phẩm công nghiệp, mặc dù mức thuế quan
giảm mạnh nhưng thay vào đó, tình trạng bảo hộ lại có xu hướng gia tăng ngay cả
tại những nước phát triển nhất nhưng dưới hình thức rào cản mới tinh vi hơn.
Nhìn chung, đây sẽ là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu nói riêng.
Nếu không nắm bắt một cách kịp thời xu thế mang tính tất yếu này để phát huy
những nội lực sẵn có và tận hưởng những lợi ích từ thị trường thế giới về vốn, kỹ
thuật, thị trường tiêu thụ và kinh nghiệm quản lý, thì cơ cấu xuất khẩu sẽ bị lạc
hậu, hiệu quả kinh doanh xuất khẩu sẽ bị giảm sút.
1.3.2.3Tiêu dùng và nhu cầu của thị trưong thế giới.
Thị trường thế giới đầy biến động, thay đổi khó lường, nhiều rủi ra và những
khó khăn tiềm ẩn luôn là một yếu tố quan trọng cần xem xét khi chúng ta nghiên
cứu vấn đề xuất khẩu của mình. Xem xét các xu hướng biến động của thị trường
sẽ giúp chúng ta chủ động hơn, có đối sách phù hợp hơn trong việc xác định thị
trường xuất khẩu hợp lý trong tương lai.
Thị trường hàng hóa thế giới ngày càng trở nên đa dạng và bị phân đoạn.
Toàn cầu hóa và tiến bộ khoa học công nghệ một mặt thúc đẩy quá trình tiêu
chuẩn hóa sản phẩm và hình thành thương hiệu toàn cầu, mặt khác, nó làm cho thị
trường bị phân ra nhiều bộ phận khác nhau, không phải do biên giới và các hàng
rào thương mại mà do thói quen của người tiêu dùng. Người tiêu dùng một mặt có
xu hướng mua các sản phẩm tiêu chuẩn, nhưng mặt khác, họ muốn sản phẩm phải
13
đáp ứng được những đồi hỏi riêng, cụ thể, đáp ứng một nhu cầu riêng biệt nào đó,

nhất là khi thu nhập của người dân đang có xu hướng tăng lên. Xu hướng này làm
tăng thêm các thị trường “ ngách” và là không gian hoạt động thích hợp của các
doạnh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa nền
kinh tế thế giới đang khiến cho ranh giới hữu hình giữa các quốc gia trở thành
ranh giới vô hình. Bên cạnh đó, công nghệ thông tin cũng cho phép rất nhiều công
ty thâm nhập vào các khu vực thị trường mà trước đó họ không hề biết tới và
không có khả năng tiếp thị, sự có mặt của các MNC với hệ thống chi nhánh rộng
khắp, có khả năng thâm nhập nhanh chóng vào mọi nơi trên thế giới. Nói cách
khác, thị trường đã trở nên rộng lớn hơn, mang lại cơ hội cho tất cả các quốc gia,
các nhà xuất khẩu. Điều quan trọng là các nhà sản xuất có thể đủ nguồn lực để tạo
ra sản phẩm làm hài lòng thị trường hay không.
Nói tóm lại, nhu cầu thị trường là một yếu tố thay đổi theo thời gian, phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như văn hóa, chính trị, kinh tế, thị hiếu, Tuy nhiên, dù thị
trường có thay đổi thế nào đi chăng nữa, thù xu hướng thay đổi cơ bản nhất, trào
lưu tiêu dùng mạnh mẽ và nỗi trội nhất sẽ cho phép chúng ta tiềm ra giải pháp cho
các mặt hàng xuất khẩu phù hợp với từng trào lưu, điều đó đồng nghĩa với cơ cấu
xuất khẩu của chúng ta đã được xác định theo nhu cầu của thị trường chứ không
phải căn cứ vào những gì mình có.
1.4Vận dụng một số lý thuyết về thương mại Quốc tế để đánh giá tiềm năng
xuất khẩu của Việt Nam.
1.4 1 Vận dụng lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố của Heckscher-Ohlin.
Theo lý thuyết H-O, mỗi quốc gia sẽ dồi dào tương đối về một loại nguồn
lực(lao động hoặc vốn). Các nước đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam thường
dồi dào về lao động trong khi các nước phát triển là những quốc gia dồi dào về
vốn.
14
Để đo lường lượng nguồn lực của một quốc gia, chúng ta có thể sử dụng số
người trong độ tuổi lao động và GDP của một quốc gia để đại diện cho lượng lao
động và lượng vốn. Bảng sau cho thấy tỷ lệ lao động và vốn( L/K) của một số
nước trong khu vực:

Bảng 1.2: Tỷ lệ lao động dựa trên vốn của một số nước.
Năm 2000 2001 2002 2003
Việt nam 1.200,21 1.179,81 1.126,76 1.027,57
Thái lan 276,78 298,47 275,56 246,61
Trung Quốc 684,76 633,28 593,30 538,88
Inđonêsia 636,86 690,84 582,62 481,57
Malaysia 105,99 110,25 104,16 99,26
Hàn Quốc 43,13 46,52 41,83 37,86
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Niên giám thống kê.
Bảng trên khẳng định lại nhận định của các nghiên cứu trước đây cho rằng
Việt Nam là một quốc gia dồi dào tương đối về lao động. Đặc biệt, các số liệu tính
toán cho thấy, mức độ dồi dào về lao động của Việt Nam so với các nước đang
phát triển khác trong khu vực là tương đối lớn. Do đó, phù hợp với lý thuyến H-O,
cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sẽ tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng
lao động cao như: dệt may, giày dép, một số nông sản…
Bên cạnh đó, có thể nhận thấy xu hướng giảm sút trong tỷ lệ L/K ở tất cả các
nước, bao gồm cả Việt Nam. Điều này phù hợp với xu thế chung của tất cả các
nước đang thực hiện công nghiệp hóa, sẽ giảm dần việc phụ thuộc vào lao động và
tăng dần sự phụ thuộc vào vốn và công nghệ. Do đó, để chuyển dịch cơ cấu xuất
khẩu, chuyển từ các sản phẩm có hàm lượng lao động sang các sản phẩm có hàm
lượng vốn, Việt Nam cần có những giải pháp mang tính đột phá. Chỉ có những
15
bước đi mạnh mẽ như vậy mới giúp chúng ta giảm đuợc tỷ lệ L/K xuống thấp hơn
các nước khác để có thể xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng vốn cao.
Tóm lại, việc vận dụng lý thuyết H-O cho thấy một số kết luận về cơ cấu
hàng xuất khẩu của Việt Nam như sau:
- Việt Nam là nước dồi dào tương đối về lao động nên Việt nam có
tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng lao động cao như nông sản,
dệt may, giày dép, và thực tế tình hình xuất khẩu hiện nay đã chứng minh điều
này.

- Lợi thế so sánh của Việt Nam về lao động đang giảm sút nên cơ cấu
hàng xuất khẩu trong thời gian tới sẽ có những biến động đáng kể. Nếu chúng
ta hình thành được những lợi thế so sánh mới(về lao động có kỹ thuật…) thì cơ
cấu hàng xuất khẩu của chúng ta sẽ chuyển dịch từ mặt hàng nông sản chưa
qua chế biến sang những nông sản đã qua chế biến, những sản phẩm công
nghiệp chế biến( kết hợp giữa lao động óc kỹ thuật với công nghệ đơn giản).
Ngược lại, nếu chúng ta không tìm được những lợi thế so sánh mới thì trong
tương lai, khi lợi thế so sánh của Việt Nam về lao động rẽ mất đi, sẽ ảnh hưởng
không chỉ đến cơ cấu hàng xuất khẩu mà còn ảnh hưởng đến kim ngạch xuất
khẩu của nước ta.
- Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện tại, một số mặt
hàng xuất khẩu chủ lực đang giảm sút về lợi thế so sánh như gạo, cà phê,…
nhưng cũng có những mặt hàng có lợi thế so sánh cũng đang tăng dần như thủy
sản, giày dép…Bên cạnh đó, những năm gần đây, chúng ta cũng đã có những
mặt hàng xuất khẩu mới như đóng tàu, điện tử…Tuy những mặt hàng này vẫn
chưa có lợi thế so sánh cao nhưng đang tăng dần và hứa hẹn có thể trở thành
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực và làm thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu
trong thời gian tới.
16
1.4.2 Vận dụng lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm của Raymond
Vernon.
Năng lực công nghệ ở Việt Nam.
Lý thuyết vòng đời quốc tế sản phẩm cho rằng thương mại quốc tế sẽ phụ
thuộc nhiều vào năng lực công nghệ( technological capability) của mỗi quốc gia.
Năng lực công nghệ không chỉ là khả năng của quốc gia đó trong viêc phát minh,
đưa ra những sản phẩm mới ( nước phát minh) mà còn là khả năng tiếp thu và làm
chủ công nghệ của quốc gia đó. Đối với các nước phát triển, thương mại quốc tế
thường dựa trên khả năng phát minh ra những công nghệ mới. Điều đó lý giải tại
sao các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU là những nước có kim ngạch xuất khẩu
lớn với cơ cấu tập trung vào những hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao, đặc

biệt là công nghệ hiện đại. Ngược lại, những nước đang phát triển như Việt Nam
thường chỉ dựa vào khả năng tiếp thu và làm chủ công nghệ của mình. Tuy nhiên,
ngay cả trong trường hợp này thì năng lực công nghệ cũng phụ thuộc nhiều vào
khả năng tiếp thu công nghệ của nước tiếp nhận.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp FDI được đánh giá là nguồn chuyển giao
công nghệ và đầu tư nghiên cứu và phát triển chủ yếu ở Việt Nam trong những
năm qua. Nhìn chung các công nghệ của các doanh nghiệp liên doanh đều cao hơn
công nghệ đang sử dụng ở Việt Nam và ở mức trung bình của khu vực. Một số dự
án đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực dầu khí, viễn thông, sản xuất ôtô, xi
măng, sát thép, điện tử….thuộc loại tiên tiến so với trình độ công nghệ thế giới.
Tuy nhiên, tác động chuyển giao công nghệ và quản lý của FDI trong nhiều trường
hợp chưa đạt được yêu cầu mong muốn và tiềm năng công nghệ của các nhà đầu
tư nước ngoài chưa được chuyển khai triệt để; ví dụ như công nghệ sử dụng còn
gây ô nhiễm môi trường, đầu tư nghiên cứu và phát triển còn thấp, đầu tư vào
nghiên cứu khoa học và đào tạo chưa đáng kể. Thực hiện mục tiêu tăng chất lượng
đầu tư để đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện vốn trong nước còn hạn
17
chế, đầu tư nước ngoài với ưu thế về công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến được
xem là một trong những lực lượng quan trọng nhất để đạt được mục tiêu này. Như
vây, có thể thấy rằng khai thác tốt hơn tiềm năng về công nghệ và quản lý của đầu
tư nước ngoài cần được chú trọng để nâng cao tiềm lực công nghệ của quốc gia.
Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có tác động dây
chuyền tích cực như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh
nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức bố
trí sản xuất, quản lý, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm và cách thức tiếp thị,
phục vụ khách hàng,…Tuy nhiện, sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước
với các doanh nghiệp nước ngoài còn yếu. Điều này được thể hiện ở tỷ trọng nhập
khẩu nguyên liệu đầu vào trong tổng số nguyên liệu sử dụng của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài còn rất cao.
Vai trò của các doanh nghiệp FDI trong hoạt động xuất khẩu.

Tuy nhiên, tác động rõ nét nhất của đầu tư nước ngoài tới mở rộng thị trường
tiêu thụ cho hàng hóa được sản xuất ở Việt Nam là đóng góp hết sức to lớn của
các doanh nghiệp này vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Trong giai đoạn 2001-2007 xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài tăng nhanh chóng và có đóng góp ngày càng lớn trong kim ngạch
xuất khẩu chung của cả nước.
Ngoài ra, khu vực đầu tư nước ngoài cũng có đóng góp nhất định trong việc
mở rộng thị trường trong nước, phát triển các hoạt đông dịch vụ, tạo cầu nối trong
các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận thị trường quốc té.
Tuy nhiên, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc tăng cường khả
năng tiếp cận thị trường của Việt Nam còn có nhiều hạn chế. Tỷ trọng các dự án
đầu tư nước ngoài thay thế nhập khẩu, hướng vào thị trường nội địa càng lớn.
18
Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài tuy tăng nhanh nhưng chủ yếu vẫn là
gia công dệt may, giày dép, lắp ráp điện tử, giá trị gia tăng thấp và hàm lượng
công nghệ không cao.
Việc vận dụng lý thuyết vòng đời sản phẩm cho thấy một số nhận xét về xuất
khẩu của Việt Nam như sau:
- Theo lý thuyết vòng đời sản phẩm, hoạt động sản xuất các sản phẩm
công nghiệp sẽ dịch chuyển dần từ các nước phát triển sang các nước đang
phát triển. Thực tế các ngành công nghiệp dệt may, ôtô, điện tử, cũng đang
dịch chuyển từ các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản,…sang Trung Quốc, Ấn Độ, Việt
Nam,…Như vậy, chúng ta hoàn toàn có cơ hội để tận dụng sự chuyển dịch này
để phát triển sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm này, từ đó chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng gia tăng các sản phẩm công nghiệp.
- Trên thực tế những năm qua, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh kim ngạch xuất
khẩu. Trong nhiều ngành công nghiệp như điện tử. ôtô,…sự có mặt của các
doanh nghiệp FDI là nhân tố quan trọng, góp phần tăng tỷ trọng xuất khẩu sản
phẩm công nghiệp. Tuy nhiên, do những hạn chế về năng lực công nghệ và liên

kết với doanh nghiệp trong nước còn hạn chế nên chưa tạo được tác động lan
tỏa, phát triển khu vực doanh nghiệp trong nước. Do đó, cơ cấu hàng xuất khẩu
tuy đã có sự chuyển dịch nhất định nhưng chưa căn bản, phần lớn còn dưới
dạng gia công, lắp ráp.
- Trong khi tiếp nhận công nghệ từ nước khác cần chú trọng đến phân
loại để sàng lọc lựa chọn những công nghệ phù hợp, giá thành hợp lý và có sản
phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới.
- Tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước khác, chúng ta cần
chủ động tạo ra những sản phẩm xuất khẩu có đặc thù riêng mang lại lợi thế
của Việt Nam.
19
1.4.3 Vận dung lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter.
Điều kiện các yếu tố sản xuất.
Vị trí địa lý.
Với hình chữ S, một mặt tiếp giáp địa lục, một mặt hướng ra biển Đông, có
3200 km bờ biển, trải dài trên 15 vĩ tuyến, Việt nam được xem là một quốc gia có
rất nhiều thuận lợi trong vận tải đường biển, có nhiều điều kiện mở rộng hoạt động
thông thương quốc tế. Mặt khác, đây chính là yếu tố quan trọng để phát triển kinh
tế biển.
Việt Nam được coi là quốc gia có vị trí nối liền trục đường bộ và đường sắt,
đường ống từ Châu Âu sang Trung Quốc qua các nước ASEAN, Ấn Độ và các
nước Trung Á…đặc biệt từ năm 2003, đường bộ xuyên Á đã được nối liền và đưa
vào sử dụng, tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế giữa các nước trong khu vực.
Ngành hàng không của nước ta được coi là rất trẻ, những năm gần đây, liên
tục được bổ sung với các loại máy bay gần như mới nhất của các hãng tiên tiến
trên thế giới, hệ thống sân bay quốc tế cũng không ngừng mở rộng như sân bay
Nội Bài, Đà Nẵng, Hải Phòng… và đặc biệt là sân bay Tân Sơn Nhất có vị trí lý
tưởng.
Vị trí địa lý thuận lợi như vậy cho phép ta mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển ngoại thương, các dịch vụ hàng

không, hàng hải và du lịch quốc tế.
Tài nguyên thiên nhiên.
20
Với một nước nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, thì nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ tạo ra các tiền đề vật chất quan trọng cho
việc phát triển các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, thủy sản, công nghiệp khai
thác nhằm cung cấp nguồn hàng cho xuất khẩu, đồng thời tạo cơ hội thu hút đầu
tư nước ngoài.
Với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, phân hóa đa dạng theo không gian và theo
mùa đã tạo điều kiện cho nước ta phát triển có hiệu quả một nền nông nghiệp nhiệt
đới, trong đó có những snả phẩm có giá trị xuất khẩu cao như lúa gạo, các sản
phẩm cây công nghiệp nhiệt đới như cao su, cà phê, dừa, hồ tiêu, mía, thuốc
lá, các sản phẩm cây công nghiệp nguồn gốc cận nhiệt đới như chè, hồi,…các sản
phẩm ngành thủy sản, đặc biệt là tôm, mực và một số loài cá có giá trị xuất khẩu
cao.
Qua kết quả khảo sát nhiều năm cho thấy tài nguyên khoáng sản của Việt
Nam không có trữ lượng lớn nhưng ở mức vừa, chủng loại khá đa dạng và có chất
lượng tốt.
Diện tích rừng của nước ta đã bị thu hẹp nhỏ nhiều, nhưng gỗ quý vẫn là
nguồn hàng xuất khẩu có giá trị. Ngoài ra là các lâm sản khác làm nguyên liệu cho
hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống đã chiếm lĩnh thị trương nhiều nước trên thế
giới. Nguồn tre nứa, cộng với rừng nguyên liệu được trồng mới, là cơ sở để hợp
tác với nước ngoài phát triển ngành công nghiệp giấy. Trong thời gian vừa qua,
Việt Nam đã có chính sách bảo vệ và trồng mới khá tốt, do vậy chắc chắn đây vẫn
là một yếu tố đầu vào tiềm năng, làm cơ sở để đẩy mạnh xuất khẩu.
Cơ sở hạ tầng.
Tuy đã được đầu tư và có cải thiện đáng kể trong những năm gần đây, hệ
thống kết cấu hạ tầng của nước ta bao gồm điện, cáp thoát nước, đường, cầu, bến
cảng, đường sông, đường biển, đường hàng không, kho tàng, trong đó có chuyên
21

dụng như kho lạnh, viễn thông, Internet, bốc xếp, vận tải…còn nhiều mặt lạc hậu
so với khu vực. giá đất xây dựng đô thị và khu công nghiệp bị đảy lên quá cao là
một bất lợi về các yếu tố đầu vào cho kinh doanh.
Cản trở nghiêm trọng nhất từ kết cấu hạ tầng đối với năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là hệ thống dịch vụ độc quyền, áp đặt giá quá cao với chất lượng
dịch vụ chưa tốt, năng suất lao động và hiệu quả sử dụng phương tiện thấp. chi phí
cho các dịch vụ về hạ tầng của doanh nghiệp trong giai đoạn đầu phát triển ở nước
ta cao quá mức so với các nước trong khu vực, làm giảm các lợi thế khác của nền
kinh tế về lao động, sự ổn định chính trị xã hội…
Khoa học công nghệ.
Về đầu tư cho khoa học, công nghệ.
- Đầu tư cho khoa học công nghệ chủ yếu từ nguồn ngân sách và được
sử dụng một cách chưa hiệu quả cao.
- Vai trò của doanh nghiệp cho khoa học công nghệ đối với đầu tư cho
khoa học công nghệ còn quá thấp.
- Việc đầu tư cho các đề tài, chương trình nghiên cứu khoa học, công
nghệ chưa thật sự căn cứ vào nhu cầu của nền kinh tế và của xã hội, do vậy giá
trị sử dụng thấp.
Về chuyển giao công nghệ và phổ biến công nghệ.
- Tỷ trọng hàng hóa và dịch vụ sử dụng công nghệ vừa và cao ở nước
ta còn ở mức thấp.
- Những công nghệ được đầu tư trong những năm qua chủ yếu là nhập
khẩu từ nước ngoài. Điều này cho thấy thực tế là những kết quả hoạt động
khoa học, công nghệ trong nước thời gian qua chưa có tác động rõ rệt tới việc
22
nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp nước ta và tốc độ chuyển
giao công nghệ trong nước rất hạn chế.
- Các cơ quan nghiên cứu cũng chưa có “ lực đẩy” để gắn kết hơn các
công trình nghiên cứu với hoạt động của doanh nghiệp cũng như chưa có chú ý
tới việc quản bá kết quả nghiên cứu cho doanh nghiệp.

- Hiện tại vẫn chưa có chính sách hữu hiệu thúc đẩy các cơ quan
nghiên cứu triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu của mình. Thêm vào đó,
các hoạt động hỗ trợ thị trường công nghệ chưa được tổ chức tốt. Hệ thống
thông tin và dịch vụ khoa học, công nghệ chưa làm tốt vai trò trung gian, thúc
đẩy sự trao đổi thông tin giữa bên cung cấp công nghệ và bên có nhu cầu đổi
mới công nghệ.
Lao động.
- Lực lượng lao động dồi dào.
- Tỷ lệ lao động trẻ cao.
- Tỷ lệ tham gia lao động cao.
- Giá cả sức lao động tương đối thấp.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp.
- Thiếu lao động chất xám về số lượng và chất lượng.
- Tác phong và kỷ luật lao động chưa cao.
Vốn đầu tư.
Xét về cơ cấu nguồn vốn đầu tư thì tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực Nhà
nước rất cao. Nguồn vốn này có vị trí quan trọng vì đây là nguồn hình thành các
công trình trọng điểm của quốc gia, nhất là công trình kết cấu hạ tầng xã hội của
đất nước.
Nếu xét về cơ cấu vốn đầu tư theo ngành thì tỷ trọng vốn đầu tư vào công
nghiệp- xây dựng đã tăng nhanh. Điều dó là phù hợp với việc chuyển sang giai
23
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhóm ngành này đã thu
hút được nhiều hơn các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn của các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vốn tín dụng. Tuy nhiên, việc đầu tư cho nhóm
ngành này cũng có những hạn chế bất cập.
Các ngành công nghiệp phụ trợ.
Các ngành công nghiệp phụ trợ được hiểu là những ngành công nghiệp cung
cấp các đầu vào cho những ngành chính. Đặc biệt có những ngành công nghiệp
phụ trợ chung với những ngành như hóa chất, cơ khí, thép, nhựa…Tuy nhiên,

những ngành công nghiệp phụ trợ này ở Việt Nam đều kém phát triển. Gây khó
khăn cho việc mua sắm đầu vào và nguyên liệu ở thị truờng trong nước.
Thị trường trong nước.
Trong giai đoạn vừa qua thị trường hàng hóa và dịch vụ trong nước cũng đã
có những bước phát triển. Tuy nhiên, trên thị trường nội địa vẫn tồn tại không ít
nhược điểm và tiềm ẩn nhiều bất ổn, ảnh hưởng đến năng lực xuất khẩu của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh những hạn chế của thị trường, bản thân các doanh nghiệp Việt
Nam chưa khai thác hết thị trường trong nước. Các doanh nghiệp đều mong muốn
hướng hoạt động của mình vào thị trường, song rất ít doanh nghiệp tổ chức nghiên
cứu thị trường và người tiêu dùng.
Chiến lược doanh nghiệp và môi trường cạnh tranh.
Khả năng quản lý doanh nghiệp.
Trình độ học vấn nói chung của chủ doanh nghiệp hoặc giám đốc doanh
nghiệp Việt Nam không thấp, tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không nhỏ còn ở
trình độ tốt nghiệp văn hóa phổ thông. Về kinh nghiệm hoạt động, đa số chủ
24
doanh nghiệp, Giám đốc đều đã trải qua hoạt động thực tiễn trước đó. Đối với các
doanh nghiệp Nhà nước thì Giám đốc thường được tuyển chọn, bổ nhiệm theo
truyền thống “ kinh nghiệm”, “ sống lâu lên lão làng”, nên độ tuổi rất cao.
Việc vận dụng lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của M.Porter đem lại một
số nhận xát về tiềm năng xuất khẩu như sau:
- Trong số các yếu tố cấu thành lợi thế cạnh tranh thì Việt Nam chỉ có
thuận lợi về điều kiện tự nhiên và lao động đơn giản. Đây là các đầu vào cơ
bản nhưng không quan trọng bằng các đầu vào cao cấp. Còn các đầu vào khác
của nước ta đều hạn chế, đặc biệt là chưa có cơ chế hình thành các đầu vào một
cách hiệu quả. Đối với 3 yếu tố cấu thành còn lại, chúng ta đều mới chỉ bắt đầu
quan tâm đến chứ chưa có được những kết quả đáng kể nào.
- Bắt nguồn từ khối kim cương của Việt Nam, cơ cấu hàng xuất khẩu
của Việt Nam hiện nay cũng chủ yếu là những ngành dựa trên nguồn lực tự

nhiên hoặc lao động. Việt Nam chưa có những mặt hàng xuất khẩu khai thác
được đầy đủ 4 yếu tố cấu thành của lợi thế cạnh tranh. Chỉ có những ngành như
vậy mới đem lại kim ngạch xuất khẩu như yêu cầu đặt ra.
- Muốn có được kim ngạch xuất khẩu như kế hoạch giải pháp bền
vững và lâu dài là phải phát triển đầy dủ khối kim cưong của nước ta, trong đó
chú trọng hơn đến các ngành công nghiệp phụ trợ, phát triển thị trường trong
nước và hình thành môi trường cạnh tranh hơn.
1.5Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam từ việc phát triển hoạt động xúc
tiến xuât khẩu của một số Quốc gia trên thế giới.
Học hỏi kinh nghiệm của các nước đã thành công trong việc tổ chức các hoạt
động xúc tiến thương mại và rút ra những bài học kinh nghiệm tổ chức , quản lý
hoạt đông xúc tiến xuất khẩu là việc làm thiết thực . Tác giả xin được nêu ra dưới
đây những bài học kinh nghiệm dựa theo những thông tin của Trung tâm thương
25

×