Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Biện pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm nội thất tại công ty xuân hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.04 KB, 79 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài:
Là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, hoạt
động tiêu thụ sản phẩm có vị trí quan trọng với việc tổ chức các hoạt động của
công ty trong điều kiện cơ chế thị trường. Nếu trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, Nhà nước chỉ rõ địa chỉ tiêu thụ hoặc bao tiêu sản phẩm cho công ty,
thì trong cơ chế thị trường việc tiêu thụ sản phẩm là trách nhiệm của công ty,
là vấn đề sống còn của công ty.
Hoạt động trong ngành hàng nội thất – một ngành hàng đang được phát
triển tại Việt Nam với những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng, môi
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do đó hoạt động tiêu thụ sản phẩm của
công ty Xuân Hòa gặp không ít những khó khăn. Để có thể tồn tại và phát
triển được công ty cần quan tâm hàng đầu tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm và
cần phải đưa ra các biện pháp thúc đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của
công ty. Xuất phát từ sự cần thiết phải đề ra các biện pháp tiêu thụ sản phẩm
của công ty, em quyết định chọn đề tài: “Biện pháp đẩy mạnh hoạt động
tiêu thụ sản phẩm nội thất tại công ty Xuân Hòa” để nghiên cứu làm
chuyên đề tốt nghiệp.
Nội dung nghiên cứu chuyên đề gồm:
Một là, chuyên đề nghiên cứu các vấn đề cơ bản về hoạt động tiêu thụ
sản phẩm nội thất của doanh nghiệp nói chung như: khái niệm, vai trò, nội
dung hoạt động tiêu thụ sản phẩm , những nhân tố ảnh hưởng và các chỉ tiêu
đánh giá hoạt động tiêu thụ sản phẩm nội thất.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
1
Chuyên đề tốt nghiệp


Hai là, chuyên đề nghiên cứu một cách khái quát về công ty Xuân Hòa;
thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm nội thất của công ty
Xuân Hòa trong những năm gần đây; những ưu điểm và hạn chế về công ty,
về sản phẩm của công ty, từ đó tìm ra những nguyên nhân chủ yếu tồn tại
những hạn chế đó.
Ba là, chuyên đề nghiên cứu và đưa ra các biện pháp tiêu thụ sản phẩm
nội thất của công ty Xuân Hòa dựa trên định hướng và mục tiêu phảt triển
hoạt động tiêu thụ sản phẩm nội thất của công ty Xuân Hòa.
Phạm vi nghiên cứu: chuyên đề tập trung nghiên cứu chủ yếu tại công
ty Xuân Hòa thông qua sự tìm hiểu thực tế tại công ty kết hợp với các cơ sở lý
luận về hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Biện pháp đẩy mạnh hoạt động
tiêu thụ sản phẩm nội thất tại công ty Xuân Hòa” bao gồm 3 phần chính
(ngoài phần phụ lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo):
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động tiêu thụ sản phẩm nội thất của
doanh nghiệp.
Chương 2: Phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm nội thất của công ty
Xuân Hòa.
Chương 3: Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ
sản phẩm nội thất của công ty Xuân Hòa.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động tiêu thụ sản phẩm
nội thất của doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm và vai trò của tiêu thụ sản phẩm.
1.1.1. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm.
Sản phẩm hàng hoá được công ty sản xuất ra là để bán nhằm thực hiện
mục tiêu đã định của riêng mỗi doanh nghiệp. Do đó tiêu thụ sản phẩm là
một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp. Quá trình tiêu thụ sản phẩm gắn liền với sự thanh toán giữa
người mua và người bán và sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa. Trong nền
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình quyết định 3 vấn đề trung
tâm cho nên việc tiêu thụ sản phẩm cần được hiểu theo nghĩa hẹp và cả theo
nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, “tiêu thụ (bán hàng) hàng hoá, lao vụ, dịch vụ là
việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm hàng hóa, lao vụ, dịch vụ đã
thực hiện cho khách hàng đồng thời thu được tiền hàng hoá hoặc được
quyền thu tiền bán hàng.”
1
Theo nghĩa rộng, “tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao
gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách
hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất đến thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ,
xúc tiến bán hàng…nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất”
2
.Các khâu này
được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp ở tất cả các cấp, các phần tử trong hệ
thống doanh nghiệp, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển hoá hình
thái giá trị của hàng hoá từ hàng sang tiền đạt hiệu quả cao nhất.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm là hoạt động sử dụng tổng thể các biện
pháp về tổ chức, kinh tế và kế hoạch nhằm thực hiện các nghiệp vụ liên quan
1,

2
GS.TS Đặng Đình Đào (2002), “Giáo trình Thương mại doanh nghiệp” tr. 86
2
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
3
Chuyên đề tốt nghiệp
đến tiêu thụ sản phẩm như nắm nhu cầu thị trường, tổ chức sản xuất, tiếp nhận

sản phẩm, chuẩn bị hàng hoá và xuất bán theo yêu cầu của khách hàng với chi
phí nhỏ nhất.
Đối với các doanh nghiệp, việc chuẩn bị hàng hoá để xuất bán cho
khách hàng và các hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông
(kho phân xưởng hoặc kho thành phẩm). Các nghiệp vụ sản xuất ở các kho
bao gồm: tiếp nhận, phân loại, bao gói, lên nhãn hiệu sản phẩm, xếp hàng ở
kho, bảo quản và chuẩn bị đồng bộ hàng để xuất bán và vận chuyển hàng theo
yêu cầu của khách.
Đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm là việc tăng cường tiêu thụ về
mặt hàng, mở rộng phạm vi thị trường, tăng số khách hàng, tăng doanh số bán
nhằm đạt được mục tiêu doanh nghiệp đã đặt ra. Mục tiêu của quá trình tiêu
thụ sản phẩm bao gồm cả mục tiêu số lượng: thị phần, doanh số, đa dạng hoá
doanh số, lợi nhuận và mục tiêu chất lượng: cải thiện hiệu quả của doanh
nghiệp và cải thiện dịch vụ khách hàng.
Tiêu thụ sản phẩm không chỉ là nhiệm vụ của riêng bộ phận tiêu thụ
sản phẩm mà là nhiệm vụ chung của toàn bộ doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm
cần phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản là đáp ứng đầy đủ nhu cầu của
khách hàng về các sản phẩm, bảo đảm tính liên tục trong quá trình tiêu thụ
sản phẩm, tiết kiệm và nâng cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ
thương mại.
1.1.2. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm .
a) Đối với doanh nghiệp
Bất kể loại hình doanh nghiệp gì, hoạt động trong lĩnh vực gì đều nằm
trong vòng xoáy của nền kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp ngày càng gay gắt cùng với nhu cầu con người ngày càng đa dạng đã
tạo ra muôn vàn cơ hội, tuy nhiên doanh nghiệp cũng phải đối phó với không
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
4
Chuyên đề tốt nghiệp
ít những khó khăn, thách thức. Và hoạt động tiêu thụ sản phẩm ngày càng khó

khăn hơn.
Tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, hoạt
động này quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi sản phẩm
mà doanh nghiệp sản xuất ra được tiêu thụ trên thị trường, tức là nó được
người tiêu dùng chấp nhận (thị trường chấp nhận), công ty mới có thể thu hồi
lại vốn để tái đầu tư và mới có thể thực hiện được các mục tiêu đã định trước.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm diễn ra liên tục, nhanh chóng sẽ giúp các
doanh nghiệp phát triển kinh doanh một cách an toàn, nhịp nhàng, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời cơ hội sản xuất sản phẩm mới
thích ứng nhu cầu mới trên thị trường.
Tiêu thụ sản phẩm nằm trong khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung
gian giữa một bên là sản xuất và phân phối và một bên là người tiêu dùng, do
đó nó là bộ phận hữu cơ của quá trình tái sản xuất, có vai trò đảm bảo tái sản
xuất liên tục ở doanh nghiệp.
Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín
của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu
dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ.
b) Đối với nền kinh tế
Tiêu thụ sản phẩm có vài trò quan trọng trong việc cân đối giữa cung
và cầu bởi vì nền kinh tế là một thể thống nhất với những cân bằng tương
quan tỷ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra có nghĩa là sản xuất đang diễn ra
bình thường và trôi chảy, tránh được sự mất cân đối giữ được bình ổn trong
xã hội và phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sản phẩm của doanh nghiệp
được tiêu thụ có nghĩa là xã hội đã thừa nhận kết quả lao động của doanh
nghiệp. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp sẽ giải quyết công ăn việc
làm, tạo thu nhập cho người lao động đồng thời tiêu thụ sản phẩm giúp các
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
5
Chuyên đề tốt nghiệp
doanh nghiệp xác định được phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất

cho giai đoạn tiếp theo. Thông qua tiêu thụ sản phẩm có thể dự đoán nhu cầu
dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản
phẩm. Trên cơ sở đó doanh nghiệp mới xây dựng được kế hoạch, chiến lược
phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
Tóm lại hoạt động tiêu thụ sản phẩm có một vai trò vô cùng quan trọng
đối với toàn xã hội. Hoạt động tiêu thụ của các doanh nghiệp có thực hiện
đựơc thì doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung mới vận động và
phát triển.
1.2. Nội dung của hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất - thực
hiện chức năng đưa sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng
nhằm thực hiện giá trị hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó hoạt động tiêu thụ
sản phẩm nội thất bao gồm những nội dung sau:
1.2.1. Nghiên cứu thị trường
Mục đích của nghiên cứu thị trường là để có được những thông tin cần
thiết phục vụ cho quá trình xây dựng các kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm. Các
thông tin này nhằm trả lời các câu hỏi: doanh nghiệp nên hướng vào thị
trường nào? Tiềm năng thị trường? Làm thế nào để nâng cao doanh số? Sản
phẩm dịch vụ như thế nào? Gía cả bao nhiêu? Mạng lưới tiêu thụ nên đựơc tổ
chức như thế nào?
Nội dung nghiên cứu thị trường: trước tiên doanh nghiệp phải xác định
được thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp đang kinh doanh hoặc sẽ
kinh doanh. Sau đó tiến hành tìm kiếm, thu thập, xử lý và phân tích thông tin
thu thập đựơc. Cuối cùng, doanh nghiệp dự đoán xu hướng phát triển của thị
trường đối với nhóm hàng đó và ra quyết định. Các thông tin doanh nghiệp
thu thập cần phải đủ, chính xác, độ tin cậy cao,cập nhật. Bên cạnh nguồn
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
6
Chuyên đề tốt nghiệp
thông tin thuộc về doanh nghiệp, doanh nghiệp cần nghiên cứu 4 yếu tố cấu

thành nên thị trường của doanh nghiệp: cung, cầu, giá cả và sự cạnh tranh trên
thị trường.
Phương pháp nghiên cứu thị trường: doanh nghiệp cần kết hợp cả 2
phương pháp để tiến hành nghiên cứu thu thập thông tin: nghiên cứu tại bàn
và nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu tại bàn là cách nghiên cứu thu thập
các thông tin đã được xuất bản trên sách báo, tạp chí, bản tin, niên giám
thống kê,… Tuy nhiên các tài liệu này thường có độ trễ so với thực tế.
Phương pháp nghiên cứu hiện trường tức cán bộ nghiên cứu thị trường đến
tận nơi quan sát, thực nghiệm, điều tra…thông tin thu được sinh động, thực
tế, hiện tại.
Các phương pháp dự báo thị trường sản phẩm nội thất có thể sử dụng
là: phương pháp thống kê – kinh tế, phương pháp toán kinh tế, phương pháp
chuyên gia, dự báo ngoại suy, thử nghiệm,…
1.2.2. Xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm và lập kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm
a) Xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm
Chiến lược tiêu thụ sản phẩm là định hướng tiêu thụ có mục tiêu của
doanh nghiệp trong một thời gian dài cùng với hệ thống các giải pháp, biện
pháp nhằm thực hiện mục tiêu đề ra trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp.
Quy trình xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm được tiến hành theo 3
bước sau:
Bước 1: Nghiên cứu thị trường và dự báo mực bán sản phẩm.
Bước 2: Xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm.
Bước 3: Lựa chọn và quyết định chiến lược tiêu thụ sản phẩm.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Doanh nghiệp cần lưu ý khi xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm cần
xuất phát từ những căn cứ khác nhau bởi chịu sự tác động của nhiều yếu tố.

Có 3 căn cứ chủ yếu mà người ta gọi là tam giác chiến lược, đó là: căn cứ vào
khách hàng, căn cứ vào khả năng của doanh nghiệp và căn cứ vào đối thủ
cạnh tranh.
Chiến lược tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp phải có 2 phần: chiến
lược tổng quát và chiến lược bộ phận.
Chiến lược tổng quát có nhiệm vụ xác định các bước đi và hướng đi
cùng với những mục tiêu cần đạt tới, thường thể hiện bằng những mục tiêu cụ
thể: phương hướng sản xuất, loại sản phẩm dịch vụ lựa chọn, thị trường tiêu
thụ, nhịp độ tăng trưởng và các mục tiêu về tài chính…Tuy nhiên vấn đề quan
trọng là phải xác định được mục tiêu then chốt cho từng thời kỳ.
Chiến lược bộ phận: bao gồm bốn chiến lược sản phẩm, giá cả, phân
phối, xúc tiến và yểm trợ.
 Chiến lược sản phẩm: Thị trường nội thất Việt Nam đặc biệt phát
triển trong những năm gần đây. Là mặt hàng phong phú về chủng loại, kiểu
dáng, màu sắc, tính năng kỹ thuật…Các dòng sản phẩm nội thất có thể kể
đến: nội thất gia đình, văn phòng, trường học, bệnh viện,…phục vụ nhu cầu
đa dạng của các nhóm khách hàng khác nhau có nhu cầu về sản phẩm nội
thất. Mặt hàng sản phẩm nội thất nằm trong phân lớp hàng tiêu dùng, một số
dòng sản phẩm nội thất thuộc lớp hàng lâu bền. Đó là những sản phẩm thường
không được mua thường xuyên, giá sản phẩm thường cao, khách hàng thường
bỏ nhiều công sức trong việc mua sắm khi so sánh sản phẩm về giá cả và chất
lượng giữa các hãng cạnh tranh để có được sản phẩm ưng ý nhất. Vì vậy để
có thể tăng thêm được lợi nhuận và cơ hội thị trường, doanh nghiệp cần phát
triển kích thước, danh mục sản phẩm theo chiều rộng và chiều sâu. Doanh
nghiệp cũng cần phải xác lập danh mục sản phẩm ban đầu còn tiện cho việc
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
8
Chuyên đề tốt nghiệp
nhập nguyên vật liệu đầu vào, trang thiết bị công nghệ phục vụ cho quá trình
sản xuất ra sản phẩm.

Đối với sản phẩm nội thất, doanh nghiệp có thể phát triển sản phẩm
theo các hướng khác nhau căn cứ vào nhu cầu của khách hàng và điều kiện cụ
thể của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể phát triển trên từng sản phẩm
riêng biệt bằng cách cải tiến chất lượng, kiểu dáng, hình thức thẩm mỹ, màu
sắc, kết cấu và tính năng của sản phẩm, đa dạng hoá các mẫu mã, kích cỡ sản
phẩm khác nhau. Hoặc doanh nghiệp có thể phát triển thêm danh mục sản
phẩm mới bằng cách bổ sung thêm các sản phẩm mới hoặc cải tiến sản phẩm
hiện có, đưa ra các danh mục sản phẩm mới hoàn toàn.
Sản phẩm nội thất là sản phẩm mà chu kỳ sống của nó trải qua các giai
đoạn chủ yếu: Triển khai, tăng trưởng, trưởng thành, bão hoà và suy thoái.
Mỗi giai đoạn khả năng thích ứng của sản phẩm là khác nhau và đem lại
những kết quả khác nhau, do đó doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ chu kỳ sống
của sản phẩm để từ đó đưa ra những phương án phù hợp với từng giai đoạn.
Giai đoạn triển khai: Khối lượng tiêu thụ tăng chậm vì hàng hoá ít
người biết đến trong khi chi phí sản xuất lớn và lợi nhuận rất nhỏ bé, thậm chí
có thể bị lỗ. Tham gia sản xuất ở giai đoạn này doanh nghiệp không thể mạo
hiểm đưa ra khối lượng lớn.
Giai đoạn tăng trưởng: Khối lượng hàng hoá tiêu thụ tăng mạnh do thị
trường đã chấp nhận sản phẩm mới. Chi phí sản xuất và giá thành giảm đáng
kể và do đó lợi nhuận tăng, khối lượng sản xuất có thể tăng do việc mở rộng
thị trường tương đối thụân lợi.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Biểu số 1: Chu kỳ sống của sản phẩm nội thất
Giai đoạn
triển khai
Giai đoạn
tăng trưởng
Giai đoạn

trưởng thành
Giai đoạn
bão hoà
Giai đoạn
suy thoái
D
max
Giai đoạn trưởng thành: Khối lượng hàng hoá tiêu thụ có tốc độ tăng
chậm lại, nhưng khối lượng tuyệt đối đạt con số cao nhất. Giai đoạn này
thường kéo dài và thường là cơ hội để doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, đưa
ra thị trường khối lượng hàng hoá lớn. Lợi nhuận lúc này đạt mức cao nhất.
Giai đoạn bão hoà: hàng hoá bắt đầu bị ứ đọng, nhu cầu thị trường
giảm và khách hàng bắt đầu chuyển sang mua sắm những sản phẩm khác.
Trên thị trường có nhiều đối thủ cạnh tranh với những sản phẩm tương tự. Để
tiếp tục duy trì mức bán hoặc không giảm sút quá nhanh, bắt buộc phải đưa ra
những giải pháp đòi hỏi chi phí cao: giảm giá, tăng chi phí xúc tiến. Lợi
nhuận trong kinh doanh giảm.
Giai đoạn suy thoái: Khối lượng bán giảm sút nhanh chóng tới mức sản
phẩm không thể bán được hoặc chỉ bán với khối lượng ít. Do đó doanh số và
lợi nhuận đều giảm sút.
Qua thực tế tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần nhận biết được mỗi
loại sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh thuộc chu kỳ nào
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
10
L
max
Doanh số
Lợi nhuận
0
Giá trị Thời

gian
Chuyên đề tốt nghiệp
của chu kỳ sống, phân tích xem đã nên bỏ sản phẩm nào đó hay chưa, để từ
đó có những giải pháp phù hợp. Đối với những sản phẩm lỗi thời hay sản
phẩm không hợp thị hiếu người tiêu dùng cần có kế hoạch loại bỏ chúng đúng
thời điểm để giảm bớt các chi phí không cần thiết.
 Chiến lược giá cả
Giá cả là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến mức bán, cảm nhận về chất
lượng của khách hàng và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Giá vẫn là
yếu tố rất nhạy cảm đối với hoạt động tiêu thụ mặc dù cạnh tranh bằng giá cả
đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh tranh bằng chất lượng và dịch vụ. Đối với
thị trường Việt Nam, cạnh tranh bằng chiến lược giá vẫn được coi là vũ khí
lợi hại. Do vậy doanh nghiệp cần phải xác định được một chiến lược giá phù
hợp cho từng loại sản phẩm và từng thời kỳ hoạt động của doanh nghiệp. Kỹ
thuật định giá dựa trên chi phí kinh doanh trên cơ sử chi phí cộng thêm là
phương pháp định giá phổ biến của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản
phẩm nội thất. Theo phương pháp này, giá bán sản phẩm được xây dựng dựa
trên cơ sở giá thành sản phẩm và sau đó thêm một tỷ lệ cần thiết vào giá thành
sản phẩm để thu hồi các chi phí quản trị chung và đạt được mức lợi nhuận
thoả đáng theo mục tiêu. Sau đó căn cứ vào hình thức tiêu thụ để xác định
mức chiết khấu thương mại hợp lý. Và do đó các daonh nghiệp thường áp
dụng chính sách 2 giá: một mức giá bán lẻ (bán trực tiếp cho người tiêu dùng
cuối cùng) mức giá này thường cao và một mức giá bán đại lý (bán cho các
nhà trung gian) mức giá này thấp hơn. Giá sản phẩm nội thất thay đổi theo sự
thay đổi của thị trường, vì vậy các doanh nghiệp cần phân tích sự biến động
giá sản phẩm nội thất của các đối thủ cạnh tranh và xu hướng biến động về
giá cả trên thị trường để đưa ra được mức giá bán phù hợp đối với từng sản
phẩm nội thất mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
11

Chuyên đề tốt nghiệp
 Chiến lược phân phối
Đối với sản phẩm nội thất để có thể tiếp cận thị trường rộng lớn khắp
các khu vực, doanh nghiệp có thể sử dụng các dạng kênh phân phối được thể
hiện tổng quát qua sơ đồ sau:
Biểu số 2: Dạng kênh phân phối mà doanh nghiệp có thể sử dụng
Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp
Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp


Lực lượng bán hàng
của doanh nghiệp

Căn cứ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng cuối cùng
tiêu thụ sản phẩm có thể được thực hiện qua kênh trực tiếp hoặc kênh gián tiếp.
Kênh tiêu thụ trực tiếp là hình thức doanh nghiệp xuất bán thẳng sản
phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng không qua một khâu trung
gian nào. Hình thức tiêu thụ này có ưu điểm là giảm được chi phí lưu thông,
thời gian sản phẩm tới tay người tiêu dùng nhanh hơn, các doanh nghiệp có
điều kiện tiếp xúc với người tiêu dùng…song nó cũng có nhược điểm là
doanh nghiệp phải tiếp xúc với nhiều bạn hàng, đòi hỏi lực lượng bán hàng
phải rất lớn, chi phí cho bộ phận này rất cao, nhiều khi làm cho tốc độ chu
chuyển của vốn lưu động chậm hơn…
Kênh tiêu thụ gián tiếp là hình thức mà doanh nghiệp xuất bán sản
phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng có qua khâu trung gian. Sự
tham gia nhiều hay ít của người trung gian trong quá trình tiêu thụ làm cho
kênh tiêu thụ gián tiếp dài ngắn khác nhau. Với hình thức tiêu thụ này, sản
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
12
Doanh

nghiệp
sản
xuất
sản
phẩm
nội
thất
Người
sử
dụng
sản
phẩm
Người
bán lẻ
Người
bán lẻ
Người
bán buôn
Chuyên đề tốt nghiệp
phẩm nội thất của doanh nghiệp vươn tới thị trường xa và rộng lớn, tiêu thụ
được khối lượng lớn sản phẩm trong thời gian ngắn, từ đó thu hồi vốn
nhanh…Tuy nhiên thời gian lưu thông hàng hoá dài hơn, doanh nghiệp khó
có thể kiểm soát được các khâu trung gian…
Như vậy mỗi loại hình tiêu thụ sản phẩm đều có ưu nhược điểm nhất
định. Cần căn cứ vào mục tiêu trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm và tình hình
thực tế của doanh nghiệp để lựa chọn kênh tiêu thụ cho phù hợp.
 Chiến lược xúc tiến và yểm trợ bán hàng
Để hỗ trợ, tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội tiêu thụ sản phẩm nội thất, các
doanh nghiệp thường sử dụng các hoạt động xúc tiến thương mại:
Quảng cáo: sản phẩm nội thất với nhiều chủng loại, kiểu dáng, kích

thước, màu sắc,…khác nhau. Để truyền tải được nhiều hình ảnh về sản phẩm
nội thất của doanh nghiệp, phương tiện quảng cáo chủ yếu: quảng cáo trên
Internet, qua hội chợ triển lãm, qua báo chí, catalogue.
Trưng bày giới thiệu sản phẩm hàng hoá: Đối với hoạt động này cần
quan tâm đến địa điểm đặt phòng, sản phẩm trưng bày giới thiệu hàng hoá,
cách bố trí sắp xếp sản phẩm cho phù hợp…
Tham gia hội chợ triển lãm: là hình thức doanh nghiệp đưa ra trưng bày
và giới thiệu sản phẩm nội thất nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao
kết hợp đồng đặt hàng và mua bán sản phẩm.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể áp dụng các hoạt động xúc tiến và yểm
trợ khác như: khuyến mại, tổ chức hội nghị khách hàng, in ấn và phát hành tài
liệu, tổ chức các hoạt động dịch vụ khách hàng, xây dựng, bảo vệ và phát
triển thương hiệu.
b) Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Trên cơ sở các mục tiêu chiến lược trong tiêu thụ sản phẩm, các doanh
nghiệp tiến hành xây dựng các mục tiêu ngắn hạn và lập kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm của mình trong từng thời kỳ.
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là cơ sở quan trọng đảm bảo cho quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành nhịp nhàng, liên tục theo kế
hoạch đã định; là căn cứ để xây dựng kế hoạch hậu cần vật tư và các bộ phận
khác của kế hoạch sản xuất - kỹ thuật – tài chính doanh nghiệp…
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm bao gồm những nội dung chính sau:
- Các chỉ tiêu tiêu thụ sản phẩm: khối lượng tiêu thụ sản phẩm về hiện
vật và giá trị có phân theo hình thức tiêu thụ, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu thị
trường, giá cả tiêu thụ…Các chỉ tiêu kế hoạch có thể tính theo hiện vật và
giá trị, chỉ tiêu tương đối và tuyệt đối.
- Các biện pháp thực hiện các chỉ tiêu đã đề ra.

- Thời gian thực hiện kế hoạch.
1.2.3. Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán
Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán cho khách hàng là hoạt động quá trình
sản xuất kinh doanh trong khâu lưu thông. Muốn cho quá trình lưu thông hàng
hoá được liên tục, không bị gián đoạn thì doanh nghiệp phải chú trọng đến các
nghiệp vụ sản xuất ở kho như: tiếp nhận, phân loại, lên nhãn hiệu sản phẩm,
bao gói, sắp xếp hàng hoá ở kho - bảo quản và ghép đồng bộ để xuất bán cho
khách hàng. Tiếp nhận đầy đủ về số lượng và chất lượng hàng hoá từ các
nguồn nhập kho (từ các phân xưởng, tổ đội sản xuất của doanh nghiệp) theo
đúng mặt hàng quy cách, chủng loại hàng hoá. Thông thường, kho hàng hoá
của doanh nghiệp đặt gần nơi sản xuất sản phẩm. Nếu kho hàng đặt xa nơi sản
xuất (có thể gần nơi tiêu thụ) thì doanh nghiệp phải tổ chức tốt việc tiếp nhận
hàng hoá bảo đảm kịp thời, nhanh chóng, góp phần giải phóng nhanh phương
tiện vận tải, bốc xếp, an toàn sản phẩm, tiết kiệm chi phí lưu thông.
1.2.4. Tổ chức hoạt động bán hàng
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Bán hàng là một trong những những khât cuối cùng của hoạt động kinh
doanh. Hoạt động bán hàng là hoạt động mang tình nghệ thuật, tác động đến
tâm lý người mua nhằm đạt mục tiêu bán được hàng.
Người bán phải đặc biệt quan tâm đến quá trình tác động vào đặc điểm
tâm lý của khách hàngvì những bước tiến triển về tinh thần, tâm lý, tính chủ
quan va khách quan diễn ra rất nhanh chóng trong khách hàng. Nghệ thuật
của người bán hàng là làm chủ quá trình bán hàng về tâm lý, để điều khiển có
ý thức quá trình bán hàng.
Để bán được nhiều hàng các doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu
của khách hàngnhư: chất lượng, mẫu mã, giá cả …và phải biết lựa chọn các
hình thức bán hàng phù hợp.
1.2.5. Phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm

Sau mỗi chu kỳ kinh doanh, doanh nghiệp cần phải phân tích, đánh giá
hoạt động tiêu thụ sản phẩm nhằm xem xét khả năng mở rộng thị trường tiêu
thụ, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các nguyên nhân ảnh
hưởng đến kết quả tiêu thụ…nhằm kịp thời có các biện pháp thích hợp để
thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm. Kết quả tiêu thụ của việc phân tích,
đánh giá quá trình tiêu thụ sản phẩm sẽ là căn cứ để doanh nghiệp có các biện
pháp thúc đẩy tiêu thụ và hoàn thiện quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
trên mọi phương diện. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt công
tác, đồng thời phải làm rõ đựơc những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách
thức của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.
 Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động tiêu thụ sản phẩm
 Chỉ tiêu hiện vật:
Chỉ tiêu số lượng sản phẩm tiêu thụ:
Q = Σq
i
Chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch:
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Số lượng tiêu thụ theo thực tế
Số lượng tiêu thụ theo kế hoạch
Chỉ tiêu đánh giá sự phối hợp nhịp nhàng giữa sản xuất và tiêu thụ
Số lượng tiêu thụ
Số lượng sản xuất
 Chỉ tiêu giá trị:
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm = Σq
i
*p
i
q

i
số lượng sản phẩm nội thất loại i tiêu thụ được
p
i
giá bán sản phẩm nội thất loại i
Doanh thu tiêu thụ theo từng dòng sản phẩm
Q
i
= p
i
∗ p
i
Doanh thu tiêu thụ trực tiếp /đại lý
Doanh thu tiêu thụ đại lý = Σsố lượng sản phẩm loại i bán theo đại lý *
giá bán đại lý sản phẩm nội thất loại i
Doanh thu tiêu thụ trực tiếp = Σsố lượng sản phẩm nội thất loại i bán
trực tiếp * giá bán đại lý sản phẩm nội thất loại i
Chi phí bán hàng
Lãi gộp
Kết quả tài chính = Tổng doanh thu  Tổng chi phí
L
i
= Σ[Q
i
* P
i
– (Z
i
+ F
i

+ T
i
)]
L
i
: Lợi nhuận hay lỗ từ hoạt động tiêu thụ sản phẩm nội thất loại i
Q
i
: Khối lượng sản phẩm loại i tiêu thụ được
P
i
: Giá bán sản phẩm loại i
Z
i
: Tổng gía thành tại xưởng sản phẩm loại i
F
i
:

Tổng chi phí lưu thông sản phẩm loại i bán ra.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
16
* 100
* 100
Chuyên đề tốt nghiệp
T
i
: Tổng mức thuế tiêu thụ của sản phẩm loại i.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
17

Chuyên đề tốt nghiệp
 Chỉ tiêu hiệu quả:
Mức doanh lợi của vốn kinh doanh (%)
ΣLợi nhuận
Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi
nhuận .
Mức doanh lợi của doanh thu:
ΣLợi nhuận
Tổng doanh thu
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng doanh thu đem lại bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Mức doanh lợi của chi phí:
Σlợi nhuận
Chi phí kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng
lợi nhuận.
 Chỉ tiêu định tính:
Chỉ tiêu đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng: Thông qua các ý
kiến phản hồi, đóng góp và nhận xét của khách hàng đối với doanh nghiệp, bộ
phận hay cá nhân đại diện bán hàng về sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp
cung cấp để từ đó có khả năng làm hài lòng khách hàng hơn nữa.
Chỉ tiêu đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng: thông qua
tình hình hoạt động của các kênh tiêu thụ, tình hình hoàn thành kế hoạch, kết
quả hỗ trợ xúc tiến bán hàng …Từ đó phân tích khả năng đáp ứng nhu cầu thị
trường của doanh nghiệp.
Uy tín và thương hiệu: chỉ tiêu này được xem là tài sản vô hình của
doanh nghiệp. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp đã tạo được niềm tin của
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
18

P
1
=
P
2
=
P
3
=
Chuyên đề tốt nghiệp
khách hàng, doanh nghiệp có thể tạo dựng được thương hiệu của mình, nâng
cao uy tín đối với sản phẩm nội thất của doanh nghiệp, công tác tiêu thụ càng
đạt hiệu quả cao.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm nội thất của
doanh nghiệp.
1.3.1. Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
a) Khách hàng: Các dòng sản phẩm nội thất mà các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh đó là dòng sản phẩm nội thất gia đình, nội thất văn phòng,
nội thất bệnh viện, nội thất công cộng. Do đó khách hàng tiêu dùng sản phẩm
nội thất là các cá nhân (gia đình), hoặc tổ chức. Đối với khách hàng cá nhân -
họ mua sản phẩm nội thất để phục vụ cho nhu cầu của chính cá nhân họ do đó
thường mua với khối lượng ít. Ngược lại, khách hàng là các tổ chức, họ mua
hàng để thoả mãn nhu cầu hoạt động của một tổ chức do đó họ thường mua
với khối lượng lớn hoặc giá trị lớn. Vì vậy nhóm hàng này có ảnh hưởng cách
thức đánh gía, lựa chọn sản phẩm, ảnh hưởng đến mức độ phức tạp và thời
gian ra quyết định mua hàng.
b) Thị trường cung ứng vật tư: Các nguyên vật liệu chính dùng để sản
xuất sản phẩm nội thất là: gỗ, nhựa, sắt thép, sơn, giả da,…Sản xuất có kịp
thời hay không một phần phụ thuộc vào nguồn vật tư cho sản xuất và bản thân
nó lại phụ thuộc vào việc nghiên cứu và khai thác thị trường đầu vào. Hiện

nay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm nội thất tiếp nhận vật tư
cho sản xuất từ 2 loại thị trường đó là : thị trường trong nước và thị trường
ngoài nước mà chủ yếu là thị trường trong nước do giá cả của vật tư sản xuất
trong nước thường rẻ hơn. Chỉ những loại vật tư mà trong nước không đáp
ứng được mới nhập khẩu ở nước ngoài, tuy chất lượng tốt nhưng giá cao và
tiến trình thủ tục nhập khẩu phức tạp và tốn thời gian.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
19
Chuyên đề tốt nghiệp
c) Các đối thủ cạnh tranh: Thị trường nội thất Việt Nam ngày càng
phát triển, các doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh sản phẩm nội thất
gia tăng. Do đó mức độ cạnh tranh càng gay gắt. Đó cũng là tính vốn có của
nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường. Cạnh tranh có mặt tích cực là
thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đem lại lợi ích cho xã hội, song nó thực sự
khốc liệt đối với những doanh nghiệp nhỏ không có khả năng cạnh tranh. Đối
thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm nội thất
cùng loại và các hãng kinh doanh sản phẩm nội thất nhập từ nước ngoài.
d) Môi trường kinh tế: Các yếu tố kinh tế tác động đến cả cung và cầu
về sản phẩm nội thất của doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam gần đây nhanh(năm 2007 là 8,5%) tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
gia tăng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên lạm phát ngày càng
gia tăng không những ảnh hưởng lớn đến mức giá bán sản phẩm nội thất trên
thị trường mà còn ảnh hưởng đến cả giá vật tư đầu vào làm tăng chi phí sản
xuất từ đó tăng giá thành sản phẩm.
1.3.2. Nhân tố nội tại chủ quan
a) Định hướng sản xuất: doanh nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào, vào thời điểm nào, số lượng là bao nhiêu để thoả mãn được tối đa nhu
cầu của khách hàng. Định hướng sản xuất của doanh nghiệp cần phải được
sửa đổi linh hoạt cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Công tác nghiên
cứu thị trường “đầu vào” và “đầu ra” là căn cứ để xác định định hướng sản

xuất, là nguyên nhân thành công của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản
phẩm nội thất trong thị trường biến động như hiện nay.
b) Hình ảnh và uy tín của sản phẩm nội thất, của doanh nghiệp trên
thương trường: Sản phẩm có chất lượng cao, hình thức mẫu mã đẹp, đa dạng,
tính năng kỹ thuật cao sẽ gây được uy tín cho doanh nghiệp. Một nhãn hiệu
hàng hoá được chấp nhận, được ưa thích và có uy tín, chiếm thị phần lớn trên
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
20
Chuyên đề tốt nghiệp
thị trường sẽ có khả năng trở thành thương hiệu. Điều đó có tác động mạnh
mẽ đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm nói riêng và hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nói chung.
c) Mạng lưới tiêu thụ và bộ máy tổ chức tiêu thụ.
Mạng lưới tiêu thụ: như chúng ta đã biết đại lý là nhà phân phối trung
gian thay mặt cho nhà sản xuất cung cấp phân phối sản phẩm đến tay người
tiêu dùng. Do vậy nếu mạng lưới tiêu thụ càng lớn, trải khắp các khu vực thì
khả năng tiếp cận cũng như thâu tóm khách hàng càng lớn, tạo điều kiện mua
bán thuận tiện cho khách hàng. Bởi vậy phát huy thế mạnh từ hệ thống phân
phối sẽ đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm nội thất của doanh nghiệp.
Bộ máy tổ chức tiêu thụ: Sự hoàn hảo của bộ máy tổ chức, tính hiệu
quả của một hệ thống không chỉ là tổng của kết quả thực hiện của các bộ
phận, chức năng, nghiệp vụ được xem xét riêng biệt mà nó là hàm số của
những tương tác giữa chúng. Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của
mình thì đồng thời phải đạt được một trình độ tổ chức quản lý tương ứng. Khả
năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp, bao quát
tập trung và những mối quan hệ tương tác cả các bộ phận tạo thành tổng thể,
tạo nên sức mạnh thật sự cho doanh nghiệp.
d) Trình độ công nghệ và khả năng sản xuất của doanh nghiệp: Trình
độ công nghệ càng cao, quá trình sản xuất diễn ra liên tục ổn định giúp hoạt
động tiêu thụ sản phẩm diễn ra nhịp nhàng, tránh được tình trạng thiếu sản

phẩm cung cấp cho khách hàng, đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách kịp
thời, đầy đủ, đúng chất lượng.
e) Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp: Để có thể thực hiện được mục
tiêu của doanh nghiệp, các chiến lược và kế hoạch doanh nghiệp xây dựng
cần phải có ngân. Tình hình tài chính của doanh nghiệp có ảnh hưởng quan
trọng, toàn diện đến tất cả các hoạt động của công ty đặc biệt là việc xây
dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 2: Phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm
nội thất của công ty Xuân Hoà
2.1. Khái quát về công ty Xuân Hoà.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
Công ty Xuân Hoà là một doanh nghiệp Nhà Nước có hai cơ sở sản
xuất tại Cầu Diễn và Xuân Hoà và hai chi nhánh là Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh. Địa chỉ trụ sở chính: Phường Xuân Hoà - Thị xã Phúc yên - Tỉnh
Vĩnh Phúc. Công ty thành lập ngày 25/12/1980, tiền thân là xí nghiệp xe đạp
Xuân Hoà thuộc Bộ cơ khí luyện kim quản lý với sự giúp đỡ đầu tư về thiết
bị và công nghệ của Cộng hoà Pháp năm 1977.Căn cứ vào Quyết định số
103/QĐ-UB ngày 19/3/1980 của UBND thành phố Hà Nội, xí nghiệp xe đạp
Xuân Hoà được chuyển giao cho liên hiệp xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà quản
lý. Cũng trong thời gian này, xí nghiệp kéo ống thép Kim Anh từ Minh Trí,
Sóc Sơn chuyển vào sáp nhập vào thành một phân xưởng của xí nghiệp xe
đạp. Tháng 3/1989, xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà sáp nhập thêm xí nghiệp phân
khoáng Hà Nội.
Năm 1986, nước ta tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế - từ một
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị
trường có sự định hướng của Nhà Nước. Nhu cầu tiêu dùng của con người bắt
đầu tăng lên và đòi hỏi ngày càng cao, thị hiếu tiêu dùng cũng dần dần thay

đổi. Hoạt động với cơ chế đó, xí nghiệp hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản
xuất kinh doanh và do đó đã gặp không ít khó khăn trong việc tìm kiếm
nguyên vật liệu đầu vào và thị trường đầu ra.
Có thể tồn tại, đứng vững và phát triển trên thị trường, xí nghiệp
chuyển đổi sang sản xuất trang thiết bị nội thất bao gồm nội thất gia đình, nội
thất văn phòng, công sở, trường học, bệnh viện, đi sâu nghiên cứu, tìm tòi,
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
22
Chuyên đề tốt nghiệp
thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng sản
phẩm dựa trên thiết bị hiện có, đặc biệt luôn coi trọng chất lượng và lấy chất
lượng sản phẩm là thông điệp, là phương tiện đến với khách hàng.
Để phù hợp với quy mô, đăc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh và nâng
cao uy tín của sản phẩm trên thị trường, tháng 10/1993, xí nghiệp xe đạp
Xuân Hoà được đổi thành Công ty Xuân Hoà theo Quyết định số 5614/QĐ-
UB của UBND thành phố Hà Nội và công ty được cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh - số 109380. Cũng trong năm 1993, công ty đặt một chi nhánh
tại Hà Nội. Năm 1994, công ty đặt một chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 6/1996, công ty Xuân Hoà mỏ rộng đầu tư tham gia liên doanh với
công ty TAKANACHI và công ty MISU của Nhật Bản.Tháng 3/1998, UBND
thành phố Hà Nội giải thể xí nghiệp xuất khẩu đông lạnh Cầu Diễn và sáp
nhập vào công ty Xuân Hoà. Tháng 1/1999, công ty tiếp tục sáp nhập thêm
một công ty sản xuất kinh doanh ngoại tỉnh và vẫn lấy tên pháp nhân là Công
ty Xuân Hoà .
Cho tới năm 1997, Công ty đã có gần 70 đại lý và rất nhiều cửa hàng
trên khắp các tỉnh và thành phố trong cả nước. Ngoài ra Công ty còn mở rộng
thị trường tiêu thụ sang các nước khác như: các nước Bắc Âu, Bắc Mỹ và các
nước trong khu vực. Sau 1 năm thực hiện, doanh số xuất khẩu đã đạt hơn 2
triệu USD. Từ đó đến nay, mặc dù phải cạnh tranh gay gắt, thị trường vật tư
có nhiều biến động, nhưng công ty vẫn nỗ lực giữ vững thị trường, nhất là

những thị trường “khó tính” như Nhật Bản, đã thâm nhập thị trường Hàn
Quốc, Châu Âu và sẵn sàng hoà nhập WTO.
Năm 1999, ngay sau khi Việt Nam công nhận ISO là một tiêu chuẩn
của quốc gia (1996), công ty Xuân Hoà bắt tay ngay vào xây dựng và áp dụng
tiêu chuẩn ISO 9002:1994. Năm 2000, Công ty Xuân Hoà đã đạt chứng chỉ do
2 tổ chức đồng chứng nhận là Quacert và QMS. Nhận thức được tính ưu việt
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
23
Chuyên đề tốt nghiệp
hơn của phiên bản mới ISO 9001:2000. Năm 2002, mặc dù chưa hết hiệu lực
của phiên bản cũ công ty đã bắt tay ngay vào chuyển đổi theo phiên bản mới.
Chỉ sau 6 tháng chuyển đổi công ty đã hoàn thành và đạt chứng nhận theo
phiên bản mới của QMS và Quacert - chứng nhận ISO 9001: 2000.
Cũng vào năm 2002, công ty bắt tay vào xây dựng hệ thống quản lý
môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001: 1996 để đáp ứng yêu cầu: sản xuất đi
đôi với bảo vệ môi trường và công ty đã được Quacert cấp giấy chứng nhận
hệ thống quản lý môi trường phù hợp tiêu chuẩn ISO 14001: 1996 năm 2003.
Năm 2004, công ty chuyển mô hình hoạt động từ doanh nghiệp nhà
nước thành công ty TNHH nhà nước một thành viên Xuân Hoà theo Quyết
định số 132/2004/QD- UB ngày 23/8/2004 của UBND thành phố Hà Nội.
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Công ty TNHH nhà nước một thành
viên Xuân Hoà do Phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh
Vĩnh Phúc cấp số 1904000008 ngày 10/12/2004. Công ty TNHH nhà nước
một thành viên được tiếp nhận nguyên trạng: Vốn, quỹ, lao động, đất đai, hồ
sơ, tài liệu,…có liên quan của đơn vị. Đồng thời có biện pháp quản lý và sử
dụng có hiệu quả vốn và tài sản do UBND thành phố Hà Nội giao để thực
hiện sản xuất kinh doanh. Được kế thừa mọi quyền và nghĩa vụ của Công ty
Xuân Hoà khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế mới. Cùng với việc sắp
xếp, kiện toàn doanh nghiệp cho phù hợp với mô hình hoạt động mới, công ty
vẫn xác định sản xuất trang thiết bị nội thất là thế mạnh hàng đầu; đồng thời

mở rộng sản xuất kinh doanh lắp ráp xe đạp, xe máy, ống thép và phụ tùng xe
máy, xe đạp phục vụ nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu. Đặc biệt trong
những năm gần đây, công ty đã xây dựng được một thương hiệu hàng đầu về
sản xuất kinh doanh đồ nội thất của Việt Nam, uy tín của doanh nghiệp ngày
càng được nâng cao, tạo niềm tin cho khách hàng về sản phẩm của Công ty.
Nguyễn Thị Tuyết Nhung Lớp: Thương mại 46A
24

×