Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

tIỂU LUẬN nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong đảng bộ quân đội thời kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.54 KB, 42 trang )

Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở Đảng trong đảng bộ quân đội thời kỳ mới

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam và
Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn
luyện. Thực tiễn 60 năm xây dựng, chiến đấu của quân đội
đã khảng định sự lãnh đạo: “Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”
của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản quyết định sự
tồn tại, trưởng thành và chiến thắng của quân đội nhân dân
Việt Nam. Để lãnh đạo chặt chẽ quân đội ở tất cả các cấp,
Đảng thiết lập tổ chức đảng trong quân đội từ Đảng uỷ Quân
sự Trung ương đến các tổ chức cơ sở dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ
Chính trị và Ban Bí thư.
Đảng bộ quân đội là một bộ phận của toàn Đảng, do đặc thù
chức năng, nhiệm vụ của quân đội, Đảng bộ quân đội có vị trí
đặc biệt quan trọng, trực tiếp lãnh đạo một lực lượng chính trị
đặc biệt có liên quan đến sự mất còn và phát triển của đất
nước, của Đảng và chế độ xã hội chủ nghiã.
Theo quy định 74 của BCHTW về tổ chức đảng trong quân
đội nhân dân Việt Nam thì tổ chức cơ sở đảng được tổ chức
tại đơn vị cơ sở có chức năng là hạt nhân chính trị lãnh đạo
mọi hoạt động của đơn vị theo phạm vi, nội dung quyền hạn
được phân cấp. Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp đưa


2

đường lối, chính sách của đảng vào quần chúng và tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách ấy; là cầu nối liền Đảng và
các cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng với quần chúng, có


khả năng phản ánh tâm tư nguyện vọng của quần chúng,
khai thác trí tuệ sáng tạo của quần chúng để góp sức cùng
tồn Đảng xây dựng bổ xung phát triển đường lối chính sách;
là nơi trực tiếp tiến hành các mặt công tác xây dựng đảng,
trực tiếp quản lý giáo dục rèn luyện, phân công và kiểm tra
công tác của đảng viên; nơi kết nạp và sàng lọc và rèn luyện
đảng viên, nơi lựa chọn bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ
của đảng và là nơi xuất phát để cử ra các cơ quan lãnh đạo
của Đảng. Tổ chức cơ sở đảng cấu thành nền tảng của
Đảng. Khơng có tổ chức cơ sở đảng thì khơng có Đảng. Sự
vững mạnh của các tổ chức cơ sở đảng là điều kiện đảm bảo
chắc chắn cho sự vững mạnh của toàn Đảng và các cơ quan
lãnh đạo của Đảng.
Vì vậy, việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới không chỉ là vấn đề
cơ bản mà còn là vấn đề cấp thiết, một nhiệm vụ thường
xuyên quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng hiện
nay.
I. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong quân đội.


3

1. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng trong quân đội.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tố chức cơ sở
đảng trong quân đội bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nói

chung, nhất là sự nghiệp quốc phịng, qn sự; là kết quả
phấn đấu xây dựng, rèn luyện của mỗi tổ chức đảng, thể hiện
trong chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, cấp uỷ viên và
hoạt động công tác đảng, cơng tác chính trị ở các đơn vị
trong tồn quân.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là
tổng hợp những phẩm chất, năng lực, trình độ, kinh nghiệm,
khả năng nắm bắt và vận dụng đúng đắn sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực, nhất là
về chiến tranh nhân dân, quốc phịng tồn dân, những kiến
thức cần thiết về chính trị, quân sự... ; là năng lực tổ chức
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị; đáp ứng với yêu
cầu hoạt động lãnh đạo, bảo đảm cho hoạt động nhanh tróng,
kịp thời, chính xác đạt kết quả cao.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng được thể hiện rõ
ràng nhất ở trình độ, khả năng nắm vững mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước; các
nghị quyết chỉ thị mệnh lệnh của cấp trên; nắm chắc tình hình
mọi mặt của đơn vị để cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện


4

thực tiễn của đơn vị mình đề ra chủ trương, biện pháp lãnh
đạo đúng đắn, sáng tạo, khoa học có tính khả thi cao. Năng
lực lãnh đạo cịn được thể hiện ở khả năng giáo dục, động
viên và tổ chức quần chúng thực hiện những chủ trương,
biện pháp đã đề ra; thực hành tốt công tác kiểm tra để kịp
thời phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, không ngừng
nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác, hồn thành thắng

lợi trong mọi tình huống, đồng thời tích cực tham gia, xây
dựng bổ sung, hồn chỉnh đường lối chính sách của Đảng.
Sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội là
sự vững vàng về chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh. Mục tiêu lý tưởng của Đảng, nguyên
tắc lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của đảng đối với
quân đội; là khả năng huy động sức mạnh chính trị, tư tưởng
và tổ chức của đảng bộ, kiên quyết triệt để chấp hành chỉ thị,
nghị quyết, tích cực khắc phục mọi khó khăn trở ngại hồn
thành xuất sắc nhiệm vụ. Đó là bản lĩnh chính trị vững vàng
của mọi cán bộ đảng viên, của tổ chức đảng trước những
biến động của tình hình phức tạp trong nước và trên thế giới;
kiên quyết đấu tranh với những nhận thức mơ hồ lệch lạc,
những vi phạm nguyên tắc của Đảng, nhưng biểu hiện tiêu
cực trong nội bộ tổ chức đảng; đồng thời đấu tranh ngăn
chặn khắc phục những tác động tiêu cực trong nội bộ tổ chức
đảng; đồng thời đấu tranh ngăn chặn khắc phục những tác


5

động tiêu cực và hành động chống phá của kẻ thù từ bên
ngoài nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ Quốc
XHCN. Đó là trong nội bộ tổ chức đảng ln đồn kết thống
nhất, mọi đảng viên luôn gương mẫu về đạo đức, lối sống,
tiền phong về trí tuệ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch vững làm hạt nhân xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là hai mặt gắn bó chặt
chẽ với nhau, tác động lẫn nhau trong sức mạnh tổng hợp

của các tổ chức cơ sở đảng, là nhân tố trực tiếp quyết định
đến sức mạnh chiến đấu, chất lượng tổng hợp của từng đơn
vị và tồn qn, có ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của toàn Đảng. Tổ chức cơ sở đảng nào có năng
lực lãnh đạo tốt, có trình độ kiến thức toàn diện, kinh nghiệm
thực tiễn phong phú sẽ nâng cao được sức chiến đấu; và
ngược lại, chỉ có tổ chức cơ sở đảng nào có sức chiến đấu
cao thì năng lực lãnh đạo mới tốt hơn, tồn diện hơn, sâu sắc
và triệt để hơn.
Như vậy, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng là tổng hợp những khả năng thực tế về năng lực tư
duy chính trị, tư duy lý luận, năng lực tổ chức thực tiễn, phẩm
chất, phương pháp tác phong công tác được thể hiện ở trên
tất cả các khâu, các bước trong chu trình lãnh đạo của tổ
chức cơ sở đảng đó; và được kết tinh ở kết quả hồn thành


6

thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị dù khó khăn gian khổ
đến đâu.
Chất lượng chính trị, hiệu lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng được khảng định ở năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
trước hết thể hiện các đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sở phải nâng
cao năng lực quán triệt, cụ thể hoá các nghị quyết, chỉ thị
mệnh lệnh của cấp trên phù hợp với tình hình thực tiễn của
đơn vị mình để quyết định các chủ trương biện pháp sát
đúng. Tổ chức cơ sở đảng được tổ chức ở các đơn vị trong
toàn quân với nhiều loại hình phong phú: tổ chức cơ sở đảng
ở đơn vị chiến đấu, ở cơ quan, trong các học viện nhà

trường, tại các doanh nghiệp sản xuất quốc phòng và kinh tế,
trong các bệnh viện ở các cơ sở nghiên cứu khoa học, ở đơn
vị cơ quan quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, tài chính. Từng
loại hình tổ chức cơ sở sở đảng trên có tính đặc thù riêng
biệt. Chính từ sự khác biệt như vậy mà các cấp uỷ cơ sở
trong quá trình lãnh đạo thực hiện toàn diện các nhiệm vụ
của đơn vị mình phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo
để quyết định vấn đề cho đúng. Quyết định đúng tức là phải
bám sát chỉ thị hướng dẫn của trên, nhưng phải phù hợp với
đặc điểm tình hình của đơn vị mình và đáp ứng được yêu cầu
nguyện vọng của quần chúng. Để có quyết định chủ trương
phương hướng lãnh đạo đúng tổ chức cơ sở đảng, mà trước
hết là cấp uỷ, người bí thư phải nâng cao hiểu biết và khả


7

năng vận dụng đúng đắn những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên
nắm vững quan điểm, đường lối tư tưởng của Đảng, hiểu rõ
tình hình của đơn vị, có trình độ kiến thức về mọi mặt và kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn. Điều này địi hỏi cán bộ đảng
viên phải có sự nỗ lực rất lớn, vượt qua mọi khó khăn thử
thách, biết vượt qua chính bản thân mình.
Thứ hai, phải nâng cao năng lực tổ chức triển khai thực hiện
trên thực tế. Phương thức lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo
bằng nghị quyết, lãnh đạo thông qua tổ chức và vai trò tiền
phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên. Vì vậy, sau khi đã
có chủ trương biện pháp đúng thì phải triển khai tổ chức việc
thi hành cho đúng. Đây là một khâu quyết định đến sự thành

công của nghị quyết. Việc phổ biến, quán triệt, triển khai thực
hiện nghị quyết phải được tiến hành đồng bộ, rộng khắp,
bằng nhiều hình thức tới từng tổ chức, từng cán bộ đảng
viên, từng quần chúng trong đơn vị thông qua hệ thống tổ
chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng. Căn cứ vào
nghị quyết của đảng uỷ, người chỉ huy đơn vị phải cụ thể hóa
thành kế hoạch, thành những chỉ thị, mệnh lệnh giao nhiệm
vụ cho các đơn vị, các lực lượng, các bộ phận thuộc quyền
triển khai thực hiện. Các tổ chức đảng cấp dưới theo phạm
vi, chức năng của mình qn triệt cụ thể hố nghị quyết của
đảng uỷ cơ sở, kế hoạch của người chỉ huy thành những chủ


8

trương biện pháp lãnh đạo của đơn vị mình. Hướng dẫn các
tổ chức quần chúng như đoàn thanh niên, hội phụ nữ, cơng
đồn xây dựng chương trình hành động để quán triệt và tổ
chức thực hiện nghị quyết của đảng uỷ.
Bằng công tác tư tưởng và công tác tổ chức, người cán bộ
đảng phải làm cho các quyết nghị của đảng uỷ thấm sâu vào
nhận thức của mọi người, biến nó thành tình cảm, trách
nhiệm, thành ý thức quyết tâm trong thực hiện nhiệm vụ.
Thông qua hoạt động của các tổ chức, phát động phong trào
thi rộng khắp, khơi dậy tinh thần cách mạng, ý chí tiến cơng
nhằm tạo ra sức mạnh vật chất to lớn biến những tư tưởng
của chủ trương, nghị quyết thành hiện thực sinh động trên
thực tế.
Nâng cao năng lực kiểm tra, kiểm soát việc tổ chức thực hiện
nghị quyết của đảng uỷ. Đây là một nội dung thuộc quy trình

cơng tác lãnh đạo của đảng, là biện pháp quan trọng nhằm
đảm bảo cho chủ trương, nghị quyết của tổ chức cơ đảng
được thực hiện triệt để, có hiệu quả góp phần nâng cao hiệu
lực lãnh đạo của tổ chức đảng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này
đòi hỏi các cấp uỷ viên phụ trách từng mặt cơng tác theo
phân cơng, đặc biệt là bí thư, người chỉ huy phải thường
xuyên theo dõi, bám sát các hoạt động thực tiễn của đảng bộ
và đơn vị để nắm chắc tình hình mọi mặt, diễn biến và những
phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết ở đảng


9

bộ. Thông qua hoạt động kiểm tra để động viên khuyết khích
những bộ phận những lực lượng thực hiện tốt những chỗ
hợp lý để phát huy; kịp thời bổ sung, hồn thiện những điểm
cịn bất hợp lý trong chủ trương lãnh đạo.
Nâng cao năng lực sơ kết, tổng kết thực hiện nghị quyết của
đảng uỷ. Đây là một nội dung quan trọng của nâng cao năng
lực lãnh đạo của đảng. Làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, giúp
cho các tổ chức cơ sở đảng, cho cấp uỷ phát hiện những
điểm chưa hoàn chỉnh trong chủ trương, những biện pháp
thiếu hiệu quả trong tổ chức thực hiện để sửa đổi, bổ sung và
phát triển cho hồn thiện nhằm khơng ngừng nâng cao hơn
nữa phẩm chất, năng lực của chính tổ chức cơ sở đảng đó,
đảm bảo chu trình lãnh đạo sau đạt kết quả cao hơn, chất
lượng tốt hơn.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được thấm sâu trong
tất cả các khâu, các bước của quy trình lãnh đạo. Nó được
thể hiện ở khơng khí dân chủ, cởi mở, trong sinh hoạt nghị

quyết có hàm lượng trí tuệ cao và thái độ trách nhiệm, nhiệt
tình tạo nên sức mạnh tổ chức hoạt động thực tiễn của đảng
bộ; ở việc thường xuyên kiện toàn bộ máy các tổ chức, thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Đó là
sự đồn kết nhất trí trong nội bộ tổ chức đảng, là mối quan
hệ chặt chẽ với quần chúng. Cịn là sự đồn kết nhất trí
thống nhất trong nội bộ tổ chức đảng, là mối quan hệ chặt


10

chẽ với quần chúng. Đội ngũ cán bộ đảng viên trong tổ chức
cơ sở đảng luôn kiên định với mục tiêu lý tưởng, nêu cao tính
tiền phong gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, có phẩm
chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực tồn
diện, nhất là năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo
cương vị cơng tác, có ý chí chiến đấu, kiên quyết đấu tranh
làm trong sạch nội bộ và chống lại mọi quan điểm, tư tưởng
sai trái. Như vậy nâng cao sức chiến đấu là huy động tối đa
sức mạnh chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng để tạo nên
sức mạnh bền vững vượt qua mọi trở ngại khó khăn chiến
thắng những cản trở từ bên trong, cũng như những lực cản
từ bên ngoài, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ.
2. Thực trạng tình hình hiện nay.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 10/1986) đến
nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế,
trong nước và sự phát triển của nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc,
quán triệt đường lối đổi mới của Đảng tổ chức cơ sở đảng
trong quân đội đã lãnh đạo các đơn vị trong toàn quân kiên
định vững vàng, nỗ lực vươn lên vượt qua khó khăn thử

thách, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tổ chức cơ sở đảng trong quân Đội thường xuyên được
củng cố, kiện toàn phù hợp với việc chấn chỉnh tổ chức lực
lượng quân đội, đội ngũ cán bộ đảng viên trước hết là đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị


11

vững vàng, có thái độ kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng
tư tưởng, quan điểm nguyên tắc của đảng, khơng có biểu
hiện thối hố về chính trị, thực sự là hạt nhân lãnh đạo các
đơn vị trong toàn quân vững mạnh về chính trị, tư tưởng, góp
phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị của đất nước.
Trước thách thức mới đại đa số cán bộ, đảng viên giữ vững
được phẩm chất đạo đức, có lối sống cách mạng, đề cao
được trách nhiệm chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc
và tham gia xây dựng đất nước, đặc biệt là ý chí vươn lên,
tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn hồn thành
nhiệm vụ được giao, góp phần

cùng tồn dân thực hiện

thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đấu tranh làm thất bại chiến lược
“diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ và âm mưu của kẻ thù
muốn vơ hiệu hố lực lượng vũ trang. Đội ngũ đảng viên
trong quân đội giữ vững và phát huy được vai trị tiền phong
gương mẫu, trách nhiệm chính trị đối với nhiệm vụ, kiên
quyết chống suy thối về chính trị , cơ hội thực dụng, khả
năng tư duy và hành động thực tiễn tốt hơn đáp ứng yêu cầu,

nhiệm vụ, chức trách.
Năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các cấp uỷ,
tổ chức đảng được nâng lên, nhất là năng lực lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng cơ quan, đơn vị vững toàn
diện. Cấp uỷ các cấp đã thường xuyên quán triệt, nắm vững,
cụ thể hố các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,


12

pháp luật nhà nước vào tình hình thực tiễn của đơn vị, xác
định chủ trương biện pháp lãnh đạo toàn diện, tập trung vào
nhiệm vụ trọng tâm, đề ra chương trình kế hoạch cụ thể trong
tổ chức thực hiện nhằm đưa nghị quyết vào cuộc sống; đã đề
cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình làm rõ đúng
sai, rõ quy trình trách nhiệm của tập thể, cá nhân và từng
cấp; đồng thời duy trì trì tốt chế độ sơ kết, tổng kết rút kinh
nghiệm để bổ xung biện pháp lãnh đạo. Nhờ đó năng lực
lãnh đạo tồn diện, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng được nâng lên rõ nhất là:
Đã chủ động khắc phục khó khăn và khả năng sáng tạo trong
triển khai tổ chức thực hiện các nhiệm vụ. Tinh thần cảnh
giác cách mạng và trình độ sẵn sàng chiến đấu được nâng
lên; gắn việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị với việc
xây dựng cơ quan đơn vị vững mạnh toàn diện, những đơn vị
làm nhiệm vụ nơi khó khăn gian khổ; tham gia giải quyết
“điểm nóng”, giúp dân xố đói, giảm nghèo, phòng chống
khắc phục hậu quả thiên tai đã thể hiện rõ bản chất truyền
thống “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần quan trọng cùng các lực
lượng trên địa bàn giữ vững an ninh chính trị, tăng cường

sức mạnh quốc phòng, tạo mội trường thuận lợi để xây dựng
đất nước. Các tổ chức cơ sở đảng đã triển khai thực hiện
nghiêm túc cuộc vận động “xây dựng và chỉnh đốn Đảng”
lãnh đạo chặt chẽ đợt sinh hoạt tự phê bình và phê bình theo


13

Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), thể hiện trách nhiệm chính
trị cao của cán bộ, đảng viên trong quân đội trước toàn Đảng,
tạo được chuyển biến bước đầu trong các tổ chức cơ sở
đảng về nâng cao nhận thức, trách nhiệm, ngăn ngừa những
việc làm sai trái, củng cố đoàn kết nội bộ và chấp hành
nguyên tắc của Đảng, có tiến bộ về sửa chữa khuyết điểm
sau tự phê bình và phê bình; gắn với nâng cao chất lượng
xây dựng cấp uỷ, tổ chức cơ sở đảng TSVM, đơn vị VMTD.
Các tổ chức cơ sở đảng đã chú trọng xây dựng và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trước yêu cầu mới: Làm tốt công
tác quy hoạch cán bộ theo phạm vi chức năng của từng cấp;
xếp được nguyồn kế cận, kế tiếp, bảo đảm tính ổn địn; sắp
xếp cán bộ chủ trì đã gắn được với kiện tồn cấp uỷ.
Cơng tác quản lý cán bộ có nhiều tiến bộ, nề nếp chặt chẽ
hơn, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ và các chế độ
công tác cán bộ. Tích cực đổi mới việc đánh giá, lựa chọn, sử
dụng cán bộ, trên cơ sở tiêu chuẩn nhưng lấy hiệu quả cơng
tác là chính; thống nhất được nội dung, phương pháp, quy
trình quản lý cán bộ, đánh giá nhận xét đúng cán bộ. Từng
bước khắc phục mọi biểu hiện cá nhân, cục bộ khép kín trong
cơng tác cán bộ. Các tổ chức cở sở đảng đã thực tốt các
quyết định bảo đảm cơ bản đủ cán bộ cho các đơn vị sẵn

sàng chiến đấu, đơn vị trọng yếu, coi trọng nâng cao chất
lượng cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị, thực hiện


14

tốt chức năng tham mưu giúp cấp uỷ về công tác xây dựng
Đảng và làm nòng cốt trong tiến hành CTĐ, CTCT.
Phương pháp tác phong lãnh đạo của cấp uỷ đảng được đổi
mới, chất lượng công tác kiểm tra Đảng và xây dựng các tổ
chức quần chúng được nâng lên.
Các cấp uỷ đã có tiến bộ trong việc ra nghị quyết toàn diện,
nghị quyết chuyên đề đi sâu lãnh đạo nhiệm vụ trong tâm,
khắc phục những khâu yếu, mặt kém, tập trung làm chuyển
biến tình hình đảng bộ, đơn vị. Trong sinh hoạt tự phê bình và
phê bình, các cấp uỷ và từng cấp uỷ viên đã luôn lắng nghe ý
kiến của quần chúng, nghiêm túc tiếp thu sửa chữa khuyết
điểm, khắc phục thiếu sót trong tổ chức thực hiện, xây dựng
bổ xung quy chế, quy định của cấp uỷ trong mọi hoạt động
của đơn vị, nhất là các mặt công tác quan trọng và nhạy cảm.
Do vậy, các tổ chức đảng đã có tiến bộ về phong cách lãnh
đạo, đáp ứng được tình hình thực tiễn đặt ra.
Cơng tác kiểm tra Đảng được triển khai tích cực, đạt hiệu quả
thiết thực. Đã chú trọng kiểm tra việc lãnh đạo thực hiện nghị
quyết, vai trò của hệ thống chỉ huy trong việc đề ra kế hoạch,
chương trình thực hiện nghị quyết, trong giải quyết khâu yếu,
mặt yếu, trong chấp hành Điều lệ Đảng, thực hiện nhiệm vụ
đảng viên, chức trách của cán bộ chủ trì và thực hiện những
điều đảng viên khơng được làm. Qua đó tăng cường tổng kết
nội bộ, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cấp uỷ



15

viên, cán bộ chủ trì. Đã quan tâm chỉ đạo kiện toàn, xây dựng
các tổ chức quần chúng, đổi mới các nội dung hình thức hoạt
động, phát huy vai trị của đồn viên, hội viên trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị của đơn vị và tham gia xây dựng Đảng.
Mối quan hệ giữa đảng uỷ và thường vụ, người chỉ huy được
thực hiện tốt hơn theo quy chế, quy định. Các tổ chức đảng
đã giải quyết tốt hơn mối qun hệ với cấp uỷ, chính quyền địa
phương cùng phối hợp thực hiện có hiệu quả việc xây dựng
cơ sở chính trị điạ bàn; quản lý rèn luyện đảng viên ở nơi cư
trú và thực hiện chính sách hậu phương quân đội.
Các tổ chức cơ sở đảng đã nắm vững chủ trương xây dựng
tổ chức đảng TSVM gắn với xây dựng đơn vị VMTD; xây
dựng cấp uỷ trong sạch vững mạnh gắn với kiện tồn đội ngũ
cán bộ chủ trì; xây dựng đội ngũ đảng viên gắn với xây dựng
đội cán bộ là những vấn đề then chốt của công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của các tổ chức đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính
trị của quân đội trong thời kỳ mới. Mặt mạnh của các tổ chức
đảng những loại hình trọng điểm được thể hiện trên những
nội dung chủ yếu sau:
- Tổ chức đảng ở đơn vị chiến đấu đã thực hiện có hiệu quả
chức năng nhiệm vụ lãnh đạo tồn diện; có trọng tâm, trọng
điểm là lãnh đạo chính trị tư tưởng, huấn luyện, sẵn sàng
chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, chăm lo đời



16

sống vật chất, tinh thần bộ đội... củng cố quan hệ cán binh,
tăng cường công tác dân vận, củng cố quan hệ quân dân...
nên đã góp phần làm chuyển biến chất lượng huấn luyện
chính trị, qn sự chun mơn kỹ thuật và xây dựng chính
quy theo yêu cầu nhiệm vụ và cách đánh của ta, thúc đẩy xây
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Qua kiểm tra, khảo sát
hàng năm của các cơ quan chức năng cho thấy các đơn vị
đều có sự tiến bộ đồng đều, từng bước vững chắc.
- Tổ chức đảng ở các nhà trường đã tập trung trí tuệ lãnh đạo
và đổi mới tồn diện cơng tác giáo dục, tập trung vào đổi mới
nội dung, phương pháp giảng dậy và xây dựng đội ngũ giáo
viên, gắn mục tiêu đào tạo của nhà trường với việc rèn luyện
phấn đấu của đảng viên, các trường sĩ quan đã coi trọng lãnh
đạo nâng cao chất lượng thi tuyển đầu vào, nhìn chung đội
ngũ cán bộ các loại và nhân viên chuyên môn kỹ thuật được
đào tạo trong hệ thống nhà trường quân đội đã bước đầu
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
- Tổ chức đảng ở doanh nghiệp của quân đội đã tập trung
lãnh đạo bảo đảm sản xuất phục vụ quốc phịng theo kế
hoạch, đồng thời tích cực tham gia sản xuất nhiều mặt hàng
kinh tế, nhiều doanh nghiệp được đầu tư phát triển theo
hướng dài hạn để đảm bảo việc làm và đời sống cho cán bộ,
công nhân viên kỹ thuật có tay nghề cao và năng lực cơng
nghiệp quốc phịng.


17


Các doanh nghiệp quốc phòng kinh tế và doanh nghiệp
chuyên làm kinh tế của quân đội đã xác định được nhiệm vụ,
từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, một số đồn kinh
tế quốc phịng đã triển khai trên các địa bàn chiến lược, có
nhiều khó khăn, thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế với quốc
phịng, góp phần tích cực vào việc tăng cường tiềm lực quốc
phòng ở các địa phương vùng sâu, vùng xa. Chấn chỉnh tổ
chức, giải quyết được việc làm, bảo đảm được đời sống cho
người lao động trên cơ sở kinh doanh có lãi và từng bước đổi
mới quy trình sản xuất góp phần giải quyết chế độ chính
sách, cải thiện thêm đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ,
chiến sỹ, công nhân viên quốc phịng, người lạo động, Đồng
thời ln sẵn sàng chuẩn bị làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu,
sẵn sàng chiến đấu.
- Tổ chức đảng ở các cơ quan đã có nhiều tiến bộ trong lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, giáo dục chính
trị tư tưởng, cơng tác cán bộ, công tác quần chúng và xây
dựng cơ quan vững mạnh toàn diện, các chi bộ cơ quan đều
coi trọng giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trách nhiệm chính trị
và năng lực nghiên cứu quán triệt đường lối, chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước, chỉ thị mệnh lệnh
của cấp trên để tiến hành công tác theo chức trách. Do đó đã
phát huy được tính năng động sáng tạo của cán bộ đảng
viên, chất lượng công tác nghiên cứu tham mưu đề xuất với


18

cấp trên có nhiều tiến bộ, tác phong sâu sát trong kiểm tra
hướng dẫn, giúp đỡ cấp dưới. Đã chú trọng xây dựng, bồi

dưỡng phẩm chất năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ quan,
quản lý sử dụng đúng và phát huy được sức mạnh tổng hợp
của đội ngũ cán bộ trong cơ quan, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ, bảo đảm phát triển có tính vững chắc và tính kế thừa liên
tục.
Từ những kết quả trên có thể khẳng định: Trong những năm
qua, nhất là từ sau Đại hội Đảng IX và Đại hội Đảng bộ quân
đội lần thứ VII, các tổ chức đảng trong quân đội đã có sự
chuyển biến tiến bộ về năng lực lãnh đạo toàn diện và sức
chiến đấu, rõ nhất là: chủ động khắc phục khó khăn, sáng tạo
trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, kiên định với nền
tảng tư tưởng và đường lối quan điểm của Đảng, nhiệm vụ
quân sự quốc phòng, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của đảng đối với quân đội, lãnh
đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Tuy nhiên, trước sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và
những vấn đề phức tạp nảy sinh, năng lực lãnh đạo toàn
diện, sức chiến đấu của một số cấp uỷ, tổ chức cơ sở đảng
còn bộc lộ những hạn chế, nhất là trong tổ chức thực hiện và
kiểm tra thực hiện nghị quyết; có chủ trương nhưng chưa rứt
điểm được khâu yếu mặt yếu: cơng tác tư tưởng cịn biểu
hiện chủ quan, giản đơn, thiếu chiều sâu và độ bền vững;


19

một số cán bộ, đảng viên còn biểu hiện mơ hồ, mất cảnh
giác, lúng túng trong sử lý những vấn đề phức tạp nảy sinh.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác học tập, tu
dưỡng rèn luyện, năng lực chỉ huy, quản lý điều hành và thực

hiện chức trách còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ,
trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình tính chiến đấu còn
chưa cao. Một số tổ chức cơ sở đảng cịn yếu kếm kéo dài
nhưng lại chưa có những biện pháp khắc phục dứt điểm.
Cơng tác kiểm tra có nơi còn thiếu chủ động, chưa kết hợp
thường xuyên kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng với kiểm tra lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện quy định về những điều đảng viên không
được làm và giải quyết khiếu nại tố cáo.
Một số cấp uỷ chưa chủ động khắc phục khó khăn, chưa tích
cực kiểm tra, chỉ đạo cấp dưới, cá biệt có nơi cịn biểu hiện
trơng chờ ở trên, việc đánh giá phân tích chất lượng đảng
viên, tổ chức đảng ở một số tổ chức cơ sở đảng còn biểu
hiện chạy theo thành tích, chưa gắn xây dựng cấp uỷ trong
sạch vững mạnh với với xây dựng đảng bộ trong sạch vững
mạnh và đơn vị vững mạnh tồn diện, tính chiến đấu trong
sinh hoạt của một bộ phận cán bộ, đảng viên cịn hạn chế.
Chất lượng cấp uỷ và đội ngũ bí thư nói chung, nhất là vai trị
bí thư và cán bộ chủ trì tuy có tiến bộ trưởng thành, nhưng
một số đồng chí trách nhiệm và tính đảng chưa cao, thiếu


20

gương mẫu, thiếu dũng khí đấu tranh, chưa tương xứng với
vị trí đảm nhiệm...
Như vậy, bên cạnh những mặt mạnh rất cơ bản, năng lực
lãnh đạo sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong
quân đội đang bộc lộ những khuyết điểm, hạn chế và có sự
bất cập. Mặt khác, trước bối cảnh quốc tế, trong nước, yêu

cầu nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng và chiến
đấu của quân đội trong thời kỳ mới đang đặt ra sự tất yếu
phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
II. Một số giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng trong Quân đội nhân dân Việt
Nam.
1, Sự cần thiết phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng trong quân đội.
Như trên đã trình bày, tổ chức cơ sở đảng có một vị trí vơ
cùng quan trọng trong hệ thống tổ chức đảng cũng như trong
sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của đảng. Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do đảng viên
đều tốt”1, “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt mọi việc
sẽ tốt”2, “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần chúng. Chi
bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi
1
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội. 2000, t.12, tr.92
Hồ Chí Minh, sđd, t.12, tr.210


21

việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì
cơng việc khơng trơi chảy”3.
Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta
nói chung và Đảng bộ qn đội nói riêng ln thường xuyên
chăm lo củng cố, tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến

đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Chính vì vậy, năng lực lãnh
đạo sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong quân
đội đã có bước phát triển mới, đúng hướng, trực tiếp đưa
quân đội ta vững vàng vượt qua mọi khó khăn thử thách,
hồn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, trưởng thành về nhiều
mặt, đảm bảo cho quân đội ta luôn là quân đội nhân dân,
qn đội kiểu mới của giai cấp cơng nhân.
Tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng cũng như của
quân đội đang đặt ra những thử thách mới đối với năng lực
lãnh đạo sức chiến đấu của các tổ chức đảng, mà trực tiếp là
các tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy, việc nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng là một vấn đề cơ
bản cấp bách hiện nay, đảm bảo cho tổ chức cơ sở đảng có
khả năng tích cực chủ động lãnh đạo đơn vị ứng phó có hiệu
quả mọi biến động phức tạp ở cơ sở; thực sự là cầu nối trực
tiếp tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa đảng với quần
chúng, giữa quân đội với nhân dân, giáo dục những con
người mới xã hội chủ nghĩa cho quân đội cho đất nước.
3

Hồ Chí Minh , sđd, t.11, tr.161


22

Trước hết, từ sau 1991 khi hệ thống CNXH ở Liên Xô và các
nước Đông Âu sụp đổ. CNXH lâm vào thối trào, cục diện thế
giới có những biến đổi sâu sắc, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu
là đế quốc mỹ với những ưu thế tuyệt đối tạm thời, bất chấp
luật pháp và những thông lệ quốc tế can thiệp và đe doạ các

quốc gia có chủ quyền khơng theo cái gậy chỉ huy của chúng,
và thực tế chúng đã tiến hành gây chiến tranh lật đổ nhiều
chính phủ hợp pháp trên thế giới như: Nam Tư; Irắc, can
thiệp lật đổ bằng “cách mạng nhung” ở các nước thuộc Liên
Xô trước đây. CNXH cung như nền tảng tư tưởng của nó bị
các thế lực thù địch điên cường tấn cơng, xuyên tạc, phủ
nhận và bị suy giảm nghiêm trọng.
Sau chiến tranh lạnh, cuộc đối đầu Đơng Tây có phần dịu bớt
nhưng thế giới không hề nguội đi. Xung đột dân tộc, sắc tộc,
li khai đang là điều nhức nhối của hàng loạt quốc gia. Vấn đề
tôn giáo nhân quyền là cái cớ để chủ nghĩa đế quốc nhúng
tay can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhiều nước có chủ
quyền. Từ sau sự kiện 11/09/2001, nạn khủng bố và cuộc
chiến chống khủng bố lôi kéo hàng loạt nước tham gia với
những âm mưu và mục tiêu khác nhau đang làm cho thế giới
trở nên phức tạp hơn bao giờ hết. Xu thế tồn cầu hố bị các
thế lực phản động quốc tế lợi dụng mưu toan nhất thể hố về
chính trị, mà thực chất là áp đặt CNTB đối với các quốc gia.
Khu vực Đông Nam á với sự phát triển năng động nhưng


23

ln chứa đựng những mâu thuẫn, những nhân tố có khả
năng tiềm ẩn gây mất ổn định. Tình hình trên tác động mạnh
đến tư tưởng, tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân
dân và chiến sĩ.
Thứ hai, các thế lực thù địch vẫn tăng cường điên cuồng
chống phá nước ta bằng chiến lược “diễn biến hồ bình” bạo
loạn lật đổ hết sức thâm độc. Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu

là Mỹ xác định Việt Nam là một trọng điểm thực thi chiến lược
xố bỏ CNXH. Chúng khơng từ một thủ đoạn nào, từ “chiến
lược chi phối đầu tư”, “ngoại giao thân thiện” đến “chiến lược
khoét sâu nội bộ” nhằm phá hoại ta trên tất cả các mặt: chính
trị, tư tưởng, tổ chức, kinh tế, văn hoá, tâm lý nhằm làm tan
rã niềm tin, phai nhạt lý tưởng, chuyển hoá dần ý thức hệ
trong cán bộ, đảng viên, và nhân dân, làm cho ta mất ổn
định, suy yếu, dần dần loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng,
giành “chiến thắng không cần chiến tranh”. Đồng thời với sử
dụng “biện pháp mền” kẻ thù cũng không từ các thủ đoạn gây
áp lực, răn đe sử dụng sức mạnh quân sự, tiến hành các
hoạt động lật đổ, xâm lược vũ trang khi cần thiết và có điều
kiện. Thực tế xảy ra các điểm nóng ở Tây Nguyên, Tây Bắc,
Tây Nam Bộ và những vụ gây mất ổn định chính trị - xã hội ở
một số địa phương trong nước thời gian qua ngoài những
nguyên nhân chủ quan đều xuất hiện rõ có sự can thiệp rất
sâu của chủ nghĩa đế quốc.


24

Thứ ba, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra
trên thế giới với tốc độ phi thường, tạo ra những tiến bộ to
lớn, làm xuất hiện nhiều nhân tố mới trong kinh tế và trên các
mặt đời sống xã hội. Điều đó đặt ra yêu cầu mới về năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; về
năng lực của đội ngũ đảng viên. Có thể thấy hiện nay người
cán bộ, đảng viên ngồi kiến thức tồn diện thì cần phải có
hiểu biết sâu về chun ngành của mình, nếu khơng thơng
thạo chun ngành đó thì lãnh đạo, chỉ huy rất khó khăn.

Chiến tranh trong thời đại khoa học - công nghệ là chiến
tranh vũ khí cơng nghệ cao, điều này sẽ làm thay đổi cả quan
điểm chiến tranh cũng như nghệ thuật quân sự, đòi hỏi phải
giải quyết mỗi quan hệ giữa con người với vũ khí có sự khác
biệt với chiến tranh thơng thường. Chiến tranh với địn đánh
phủ đầu từ xa bằng hoả lực mạnh, độ chính xác cao đặt ra
vấn đề giữ vững tinh thần, ý chí chiến đấu cho bộ đội, bảo
tồn lực lượng, phịng tránh đánh trả, đảm bảo thông tin liên
lạc. Mặt khác, với sự phát triển của khoa học nói chung, mặt
bằng dân trí ở nước ta đã có sự phát triển vượt bậc trong
những năm vừa qua. Trình độ văn hố khoa học kỹ thuật,
trình độ nhận thức của đối tượng lãnh đạo của đảng được
nâng lên nhiều. Vì vậy, trong cơng tác lãnh đạo phải giải thích
một cách rõ ràng thuyết phục, có căn cứ và phương pháp
khoa học. Trình độ dân chủ trong sinh hoạt ngày càng được
mở rộng. Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi cần phải nâng cao


25

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng hơn nữa.
Thứ tư, sự phát triển của đất nước trong quá trình đổi mới
gần 20 năm qua cùng với sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện
đại hố đang đặt ra cho nhiệm vụ lãnh đạo của các tổ chức
cơ sở đảng có sự phát triển mới. Nền kinh tế thị trường
XHCN với những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực đã
đưa nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng và vững bước vào
thời kỳ quá độ xây dựng CNXH. Bản thân nó cùng với những
mặt trái và tốc độ đơ thị hố nhanh, việc phát triển hàng loạt

các khu cơng nghiệp địi hỏi chức năng lãnh đạo của các tổ
chức cơ sở đảng phải có sự phát triển so với trước đây. Sự
tham gia của nhiều thành phần trong nền kinh tế quốc dân
làm xuất hiện nhiều loại hình tổ chức cơ sở đảng mới với
những tính chất đặc thù khác nhau. Vì vậy, cần hoàn chỉnh
quy chế, chức năng, nhiệm vụ, nội dung, phương thức lãnh
đạo cho từng loại hình cho phù hợp, nhất là đối với các tổ
chức đảng trong các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài,
các doanh nghiệp tư nhân. Trong Đảng bộ quân đội cần chú
ý tới các tổ chức cơ sở đảng trong các binh đoàn làm kinh tế,
các khu kinh tế quốc phòng, các liên doanh quốc phòng.
Ngay trong nội bộ giai cấp công nhân hiện nay cũng khơng
thuần nhất, thậm chí có bộ phận khác nhau cả về tư tưởng,
tâm lý, tình cảm cho nên vấn đề phát triển đảng viên trong


×