Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Thực trạng điều hành Nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.58 KB, 36 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng, giá cả
phản ảnh quan hệ cung cầu của thị trường. Nhà nước không thể, và cũng không nên can
thiệp trực tiếp vào thị trường bằng các mệnh lệnh hành chính để điều chỉnh các mức giá
cả và lãi suất - giá cả của việc sử dụng vốn. Ngân hàng Nhà nước, với vai trò là cơ quan
điều hành chính sách tiền tệ của một quốc gia, cần có những công cụ chính sách của mình
được sử dụng một cách hiệu quả nhằm định hướng hình thành một trạng thái thị trường
mà ở đó các NHTM có đủ vốn khả dụng, với mức giá vốn (lãi suất) hợp lý đáp ứng nhu
cầu của các chủ thể kinh tế.
Nghiệp vụ thị trường mở ( NVTTM ) là một trong những công cụ của chính sách
tiền tệ quan trọng được Ngân hàng trung ương các quốc gia sử dụng. Thông qua hoạt
động mua bán giấy tờ có giá, NHTW tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các
tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng và tác động gián tiếp đến lãi suất
thị trường. NVTTM là thị trường tiền tệ thứ cấp, nhằm bảo đảm hỗ trợ khả năng thanh
toán cho các tổ chức tín dụng và điều tiết thị trường tiền tệ, phục vụ mục tiêu phát triển
kinh tế.
Chính vì vậy, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang gặp nhiều khó khăn và biến
động như hiện nay, việc Ngân hàng Nhà nước có những chính sách thích hợp để tác động
đến thị trường mở nhằm ổn định lãi suất thị trường, kiềm chế lạm phát mà vẫn đảm bảo
ổn định phát triển kinh tế là vô cùng quan trọng và cấp thiết.
Dựa trên những yếu tố đã nêu trên, đề tài “Thực trạng điều hành Nghiệp vụ thị
trƣờng mở của Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam” đã được em chọn lựa và phân tích. Đề
tài này đưa ra một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường mở để vận dụng Nghiệp vụ
thị trường mở – một công cụ gián tiếp có hiệu qủa của chính sách tiền tệ – vào tình hình
thực tế ở Việt Nam, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề về Nghiệp vụ thị trường mở: Lịch sử hình thành,
thành phần tham gia, cơ cấu hoạt động và những tác động đến nền kinh tế


trong nền kinh tế Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng nhà
nước Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
- Đưa ra các đánh giá về quá trình hoạt động các giải pháp hoàn thiện Nghiệp vụ
thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam trong thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng
là phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê
Ngoài ra, trong đề án còn sử dụng một số biểu, bảng có rõ nguồn gốc để minh hoạ.
5. Kết cấu của đề án
Phần 1: Lý thuyết chung về thị trường mở
Phần 2: Thực trạng điều hành hoạt động Thị trường mở của NHNN Việt Nam
Phần 3: Đánh giá, định hướng hoạt động thị trường mở của NHNN

MỤC LỤC
Phần 1: Lý thuyết chung về thị trường mở - 1 -
1. Khái niệm chung về thị trƣờng mở - 6 -
2. Cơ chế tác động của Nghiệp vụ thị trƣờng mở - 7 -
2.1. Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng - 7 -
2.2. Về mặt giá - Tác động qua lãi suất - 8 -
3. Hàng hoá và chủ thể tham gia NVTTM - 9 -
3.1. Hàng hóa - 9 -
a. Tín phiếu kho bạc - 10 -
b. Tín phiếu ngân hàng trung ương - 10 -

c. Trái phiếu Chính phủ - 11 -
d. Trái phiếu Chính quyền địa phương - 11 -
e. Chứng chỉ tiền gửi - 11 -
3.2. Chủ thể tham gia NVTTM - 11 -
a. Ngân hàng trung ương - 11 -
b. Các ngân hàng thương mại - 12 -
c. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng - 12 -
d. Các nhà giao dịch sơ cấp - 12 -
4. Nội dung hoạt động thị trƣờng mở - 13 -
4.1. Phương thức mua bán trên thị trường mở - 13 -
a. Mua - bán hẳn: - 13 -
b. Mua bán có kỳ hạn (giao dịch có thời hạn): - 13 -
4.2. Phương thức đấu thầu trên thị trường mở - 14 -
a. Phương thức đấu thầu khối lượng - 14 -
b. Phương thức đấu thầu lãi suất - 15 -
5. Vai trò của nghiệp vụ thị trƣờng mở - 16 -
5.1. Đối với Ngân hàng trung ương - 16 -
5.2. Đối với các đối tác của NHTW - 17 -
5.3. Đối với nền kinh tế - 18 -
Phần 2: Thực trạng hoạt động nghiệp vụ Thị trưởng mở Viêt Nam giai đoạn từ năm 2000
đến nay - 19 -
1. Thời gian hoạt động từ năm 2000 đến tháng 11/2011 - 19 -
2. Thời gian hoạt động từ tháng 11/2007 đến nay - 21 -
Phần 3: Đánh giá, định hướng hoạt động thị trường mở của NHNN - 28 -
1. Đánh giá hiệu quả hoạt động Nghiệp vụ thị trƣờng mở của Ngân hàng
nhà nƣớc Việt nam: - 28 -
1.1. Kết quả đạt được: - 28 -
1.2. Một số hạn chế - 30 -
2. Định hƣớng phát triển - 31 -
2.1. Về cơ sở pháp lý - 31 -

2.2. Về vai trò của nghiệp vụ TTM trong điều tiết tiền tệ của NHNN - 31 -
2.3. Đa dạng hóa và tăng tính hấp dẫn của các hàng hóa giao dịch trên thị trường
mở. - 32 -
2.4. NHNN cần hoàn thiện công tác dự báo hiệu quả hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở.
- 32 -
2.5. Rà soát lại các lỗ hổng trong hệ thống thông tin của NHNN - 33 -
2.6. Phải có đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ giỏi để điều hành thị trường -
33 -
2.7. Định kỳ nên tổng kết, đánh giá tình hình hoạt động của các thành viên tham
gia thị trường mở. - 36 -


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Kí hiệu viết tắt
Ý nghĩa
NVTTM

Nghiệp vụ thị trường mở
TTM

Thị trường mở
CSTT

Chính sách tiền tệ
NHNN

Ngân hàng nhà nước
NHTW

Ngân hàng trung ương
NHTM
Ngân hàng thương mại
TCTD
Tổ chức tin dụng
GTCG
Giấy tờ có giá

Phần 1: Lý thuyết chung về thị trƣờng mở
1. Khái niệm chung về thị trƣờng mở
Thuật ngữ “thị trường mở” lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ, khi mà vào những năm 20
của thế kỷ XX khi cục dự trữ liên bang Mĩ-NHTW (viết tắt là FED) thiếu vốn nghiêm
trọng dưới tác động của cuộc Đại khủng hoảng kinh tê khiến đành phải buôn bán chứng
khoán kiếm lãi để tiếp tục hoạt động của mình. Tuy nhiên, trong quá trính buôn bán như
vậy, FED đã nhận ra việc mua bán chứng khoán sinh lãi có thể làm thay đổi cơ số tiền tệ
một cách nhạy bén nhất. Ở Anh nghiệp vụ TTM đóng vai trò quan trọng từ những năm
30. Ngân hàng Raykh Đức bắt đầu thi hành chính sách tiền tệ từ năm 1933.
Như vậy, để trả lời cho câu hỏi Thị trường mở là gì, ta xem xét một số quan điểm
về Nghiêp vụ thị trường mở như sau:
 Đối với các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới
Theo quan điểm của nước Anh: “NVTTM là việc NHTW mua bán trái phiếu dài
hạn của Chính phủ trên thị trường trái phiếu có bảo đảm để làm tăng hoặc giảm mức cho
vay của ngân hàng. Khi mua trên thị trường mở, NHTW sẽ thanh toán cho các cá nhân
và tổ chức đã bán trái phiếu cho nó. NVTTM về chứng khoán ngắn hạn cũng được thực
hiện trên thị trường tín phiếu. Nơi mà NHTW bán và mua trái phiếu chính phủ và kỳ
phiếu thương mại để tác động đến lãi suất và duy trì sự ổn định của thị trường”.
Theo quan điểm của Mỹ: “ NVTTM là việc mua và bán các loại chứng khoán trên
thị trường tài chính được thực hiện bởi FED “
Theo các quan điểm trên thì TTM là thị trường giao dịch các loại chứng khoán
ngắn hạn và dài hạn. Tuỳ vào mỗi nước mà các loại chứng khoán được giao dịch là khác

nhau về loại hình và thời hạn đồng thời việc quyết định chủ thể tham gia rộng hơn gồm
các tổ chức tín dụng, tổ chức phi tín dụng, doanh nghiệp và cả cá nhân. Còn ở các nước
NVTTM còn chưa phát triển thì mới chỉ có các NVTTM và các tổ chức tín dụng khác
tham gia.Tuỳ thuộc vào điều kiện hiện tại của mỗi nước mà chính phủ sẽ quy định khác
nhau về hàng hoá, chủ thể tham gia, quy chế hoạt động của thị trường mở. Chính sự khác
nhau này sẽ quyết định khái niệm NVTTM ở mỗi nước.

 Đối với nền kinh tế Việt Nam
Thị trường mở ở Việt Nam đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 12/07/2000,
đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành CSTT của NHTW theo phương
pháp gián tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển nền kinh tế đất nước. Do
vậy đây là công cụ rất mới cả về khái niệm và nội dung hoạt động. Trong điều kiện của
Việt Nam , NVTTM được hiểu như sau:
“NVTTM là nghiệp vụ NHTW thực hiện mua và bán ra các loại giấy tờ có giá
ngắn hạn nhằm thay đổi cơ số tiền tệ trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và
lãi suất ngắn hạn” (“Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ưng - Đại học KTQD” )
Theo điều 8, quyết định số 85/200/QĐ -NHNN14 ngày 9/3/2000 của Thống Đốc
ngân hàng Nhà nước Việt Nam về ban hành quy chế NVTTM, có quy định giấy tờ có giá
được giao dịch gồm:
+ Tín phiếu kho Bạc
+ Tín phiếu NHTW
+ Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do Thống Đốc NHNN quy định cụ thể
trong từng thời kỳ
Tóm lại thì “NVTTM là nghiệp vụ được thực hiện bởi NHTW mà nội dung cụ thể
của nó là mua vào và bán ra các loại chứng khoán – các loại chứng khoán này không bị
giới hạn về thời hạn trên TTM, thông qua đó NHTW tác động trực tiếp đến lượng tiền
cung ứng và gián tiếp tới lãi suất thị trường”.
2. Cơ chế tác động của Nghiệp vụ thị trƣờng mở
Thông qua hoạt động mua, bán các GTCG trên thị trường mở, NHTW đã tác động
trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các mức lãi suất trên

thị trường, từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá
và mặt lượng.
2.1. Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng



Sơ đồ 1. Cơ chế tác động của NVTTM tới dự trữ ngân hàng

 Đối với nghiệp vụ bán GTCG :
Khi NHTW thay mặt chính phủ đưa chứng khoán ra thị trường thứ nhất để phát
hành, nhân dân và các tổ chức đem tiền mặt đến mua. Đó là nghiệp vụ bán trên TTM của
NHTW. Như vậy với nghiệp vụ này NHTW đã hút bớt một lượng tiền ra khỏi lưu thông
hoặc làm cho dự trữ của các TCTD giảm làm giảm khối lượng cho vay tín dụng của các
TCTD; qua đó ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ, số nhân tiền tệ làm lượng tiền cung ứng MS
giảm.
Bên cánh đó, bản thân các tổ chức tín dụng cũng có chứng khoán riêng của nó do
tích lũy hoặc đơn vị khác thể chấp. Do vậy khi cần thu hẹp lượng tiền mặt ngoài lưu
thông, không cần đợi đến khi chính phủ nhờ phát hành, NHTW vẫn có thể trực tiếp thực
hiện nghiệp vụ bán như một hoạt động bình thường.
 Đối với nghiệp vụ mua GTCG:
Nếu NHTW muốn phát hành tiền vào lưu thông qua TTM, nó đơn giản dùng tiền
mặt mua chứng khoán trên thị trường thứ cấp hoặc của các TCTD. Khi cá nhân hay tổ
chức bán chứng khoán cho NHTW, chứng khoán về tay NHTW ngược lại tiền mặt trong
nền kinh tế tăng. Như vậy khi mua chứng khoán trên TTM, NHTW đã thêm một lượng
tiền vào lưu thông làm tăng lượng tiền cung ứng.
2.2. Về mặt giá - Tác động qua lãi suất
Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng gián tiếp
đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu vốn
NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung ương thay

đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông
Ngân
hàng nhà
nước bán
GTCG
Dự trữ
ngân
hàng
giảm
Dự trữ
mở rộng
cho vay
giảm
Khối
lượng tín
dụng
giảm
MS giảm
qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động tới
các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường
xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế, và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết
định.
Sơ đồ 2: Cơ chế tác động của NVTTM đến tổng cầu và lãi suất thị trƣờng












Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại
GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời
của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ trọng lớn trong các
giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại
lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu AD và sản lượng.

3. Hàng hoá và chủ thể tham gia NVTTM
3.1. Hàng hóa
Các loại GTCG được sử dụng trong các giao dịch NVTTM ở các nước có khác
nhau. Tại Anh, Mỹ, NVTTM được hiểu là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán Chính
phủ của NHTW nhưng chủng loại các GTCG của Chính phủ được sử dụng lại phong phú
hơn ở một số nước khác như Nhật Bản, Úc, Pháp. Hơn nữa, tại một số nước chỉ cho phép
các GTCG ngắn hạn được sử dụng trong NVTTM, nhưng tại một số nước khác thì các
Cung TPKB
tăng
NHTW bán
TPKB
Dự trữ NH
giảm
Đầu tư
giảm
Cung của
quỹ cho vay
giảm
Lãi suất
ngắn hạn

tăng
Lãi suất thị
trường tăng
Giá TPKB
giảm
LS thị
trường tăng
tăng
GTCG dài hạn cũng được sử dụng làm hàng hoá của NVTTM. Như vậy, NVTTM không
giới hạn cụ thể về chủng loại cũng như thời hạn các GTCG giao dịch, nhưng bao gồm
những loại chủ yếu sau:
a. Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán Chính phủ được phát hành nhằm mục đích
bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu kho
bạc thường dưới 12 tháng. Đây là loại hàng hoá chủ yếu của NVTTM ở hầu hết thị
trường mở các nước vì một số lý do sau: (i) Có tính thanh khoản cao, (ii) Được phát hành
định kỳ với khối lượng lớn và đáp ứng nhu cầu can thiệp của NHTW với mức độ và quy
mô khác nhau.
Việc sử dụng tín phiếu kho bạc trong NVTTM có một số ưu điểm nhất định. Khi
NHTW bán tín phiếu kho bạc thay cho việc phát hành tín phiếu NHTW để thực hiện
CSTT thắt chặt thì gánh nặng về thực hiện CSTT sẽ chuyển sang ngân sách và được thể
hiện rõ ràng trên số liệu ngân sách. Mặt khác khi thị trường tiền tệ chưa phát triển, số dư
tín phiếu kho bạc lại khá lớn thì việc sử dụng tín phiếu kho bạc để thực hiện CSTT sẽ
giảm rủi ro của việc phân tách thị trường.
b. Tín phiếu ngân hàng trung ương
Tín phiếu NHTW là loại GTCG ngắn hạn do NHTW phát hành để làm công cụ cho
NVTTM. Việc sử dụng tín phiếu NHTW làm hàng hoá trên thị trường mở có một số ưu
điểm như tăng cường tính độc lập của NHTW trong việc thực thi CSTT và là công cụ
linh hoạt cho việc quản lý vốn khả dụng
Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu NHTW để thực thi CSTT sẽ làm cho chi phí

hoạt động của NHTW tăng lên, mặc dù NHTW hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.
Việc sử dụng tín phiếu NHTW đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định với Bộ Tài chính.
Khi NHTW và Bộ Tài chính đồng thời phát hành tín phiếu NHTW và tín phiếu kho bạc,
nếu lãi suất chênh lệch thì các đối tác trên thị trường mở sẽ tập trung mua loại tín phiếu
có lãi suất cao hơn. Khi đó sẽ có sự phân khúc giữa thị trường tín phiếu kho bạc và thị
trường tín phiếu NHTW, làm cho mục đích phát hành các GTCG này không đạt được và
có thể làm giảm hiệu quả tác động của 2 loại hàng hoá này.
c. Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm mục
đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có thời hạn lên đến 10-30
năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao dịch NVTTM
ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định trong phát hành và khối lượng phát hành thường
lớn, có khả năng tác động trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính.
d. Trái phiếu Chính quyền địa phương
Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác
về thời hạn và các điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu và thường do các chính
quyền địa phương lớn phát hành. Sự can thiệp của NHTW thông qua việc mua bán loại
trái phiếu này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ.
e. Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi (CD) là giấy nhận nợ của ngân hàng hay tổ chức tài chính phi
ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng với một kỳ hạn
và lãi suất nhất định. Thời hạn của CD có thể từ 7 ngày đến 7 năm nhưng thường là ngắn
hạn. CD được sử dụng khá phổ biến trên thị trường tiền tệ do các nhà đầu tư có thể dễ
dàng chuyển đổi thành tiền khi cần thiết mà không phải rút tiền gửi trước hạn.
3.2. Chủ thể tham gia NVTTM
Thị trường mở là một thị trường có tính chất mở nên các thành viên thị trường rất đa
dạng với các mục đích khác nhau. Nhìn chung, mọi nhà đầu tư đều có thể là đối tác giao
dịch với NHTW trong các giao dịch NVTTM nếu thoả mãn những tiêu chuẩn cụ thể của
NHTW ở các nước. Các tiêu chuẩn này nhằm mục đích: (i) Các đối tác phải đảm bảo độ
tin cậy nhất định và (ii) Việc giao dịch với các đối tác phải có hiệu quả xét trên khía cạnh

can thiệp của NHTW. Thông thường, thành viên NVTTM bao gồm:
a. Ngân hàng trung ương
NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của thị trường mở theo
các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọn sử dụng các loại NVTTM và
tần suất sử dụng NVTTM. NHTW tham gia thị trường thông qua việc mua bán các
GTCG nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh
toán và gián tiếp tác động đến các lãi suất thị trường theo mục tiêu CSTT. NHTW cũng là
người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua thực hiện chức năng người cho vay
cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ phương tiện thanh toán cho các TCTD
cũng như nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà để
quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo các mục tiêu
xác định của nó.
b. Các ngân hàng thương mại
Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia NVTTM của NHTW và là đối tác quan
trọng của NHTW xét trên 2 phương diện độ tin cậy và tính hiệu quả. Các NHTM tham
gia thị trường nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán và đầu tư
các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi.
Sự tham gia của các NHTM trong các giao dịch NVTTM có ý nghĩa quan trọng xét
trên góc độ hiệu quả CSTT do: (i) NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, có mạng lưới
hoạt động rộng. NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế,
nhất là ở các nước đang phát triển; (ii) Hơn nữa NHTM vừa là người đi vay, vừa là người
cho vay trên thị trường tiền tệ.
c. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Tại một số quốc gia, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được tham gia
NVTTM. Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, hội tiết kiệm … coi thị
trường mở như là nơi kiếm thu nhập thông qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua bán các
GTCG.
d. Các nhà giao dịch sơ cấp
Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào NVTTM với tư cách là người trung gian

trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác. Các nhà giao dịch sơ cấp
có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính. Thực tế ở nhiều nước, 70%
giao dịch can thiệp của NHTW trên thị trường mở được thực hiện thông qua các nhà giao
dịch sơ cấp. Khi đó, NHTW chỉ thực hiện mua bán GTCG với các nhà giao dịch sơ cấp.
Và để thực hiện được vai trò này, các nhà giao dịch sơ cấp phải có nguồn vốn đủ mạnh
đáp ứng yêu cầu quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò người tạo lập thị
trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc.

4. Nội dung hoạt động thị trƣờng mở
Để hiểu được nội dung hoạt động thị trường mở ta sẽ tìm hiểu nó trên các khía cạnh:
phương thức mua bán giấy tờ có giá và phương thức đấu thầu.
4.1. Phương thức mua bán trên thị trường mở
a. Mua - bán hẳn:
- Là việc mua bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ bên bán cho bên
mua và không kèm theo thoả thuận mua, bán lại.
Với phương thức này, chỉ được thực hiện với các loại hàng hoá mà thời hạn còn lại
(tức thời gian thanh toán còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn tính từ ngày giấy tờ có giá
được mua, bán thông qua nghiệp vụ TTM đến hạn thanh toán ) tối đa theo quy định trong
từng thời kỳ(ở Việt Nam hiện nay là 90 ngày).
 Điều kiện áp dụng: Khi NHTW dự báo thấy cung tiền tệ cần được tiếp tục điều
chỉnh thì NHTW ngay lập tức mua vào hoặc bán ra chứng khoán theo hình thức mua đứt
bán đoạn (mua bán hẳn).
b. Mua bán có kỳ hạn (giao dịch có thời hạn):
- Là việc bên bán bán và chuyển giao giấy tờ có giá cho bên mua đồng thời cam kết
mua lại và nhận lại quyền sở hữu giấy tờ có giá đó sau thời gian nhất định.
 Điều kiện áp dụng: Nếu dấu hiệu về trạng thái khối lượng thị trường chỉ cần tạm
thời thay đổi dự trữ tiền tệ, hoặc dự trữ trong thời gian tới là thiếu ổn định thì NHTW
thực hiện các giao dịch tác động lên cung tiền tệ bằng các hợp đồng mua lại đối với
trường hợp muốn tăng dự trữ tạm thời hoặc bằng các giao dịch mua bán đảo ngược khi
muốn giảm dự trữ tam thời.

- Các loại hợp đồng mua bán có kỳ hạn
 Hợp đồng mua lại: khi cần bổ sung tăng dự trữ tạm thời NHTW tham gia trực tiếp
vào việc ký hợp đồng mua lại chứng khoán của nhà môi giới, tức là NHTW mua chứng
khoán của nhà môi giới; còn nhà môi giới đồng ý mua lại chứng khoán đó vào một ngày
nhất định với một mức giá nhất định. Vì dự trữ bổ sung này sẽ dừng lại một cách tự động
khi hợp đồng mua lại đến hạn nên nghiệp vụ này chỉ là cách bơm thêm dự trữ vào hệ
thống tiền gửi tạm thời mà thôi. Thời gian thực hiện hợp đồng mua lại thường là 7 ngày.
 Bán- mua đảo ngược: khi cần giảm khối lượng tiền tệ NHTW thực hiện giao dịch
theo hình thức bán- mua đảo ngược với các nhà môi giới, bằng một hợp đồng bán ngay
chứng khoán cho nhà môi giới và một hợp đồng đảo ngược để mua lại tiếp theo các
chứng khoán từ nhà môi giới đó. Thời hạn thực hiện hợp đồng thường là 7 ngày.
4.2. Phương thức đấu thầu trên thị trường mở
Các hình thức mua bán trên thị trường mở là mua bán hẳn và mua bán có thời hạn
đều được thực hiện trên phòng giao dịch thông qua phương thức đấu thầu. Có hai phương
thức mà NHTW áp dụng để đấu thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng.
a. Phương thức đấu thầu khối lượng
Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp
vụ TTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá
mua hoặc bán và lãi suất do NHTW thông báo cụ thể như sau:
- NHTW thông báo cho các TCTD mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá
cần mua hoặc cần bán (NHTW có thể không thông báo khối lượng cần mua hoặc cần
bán).
- Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ cần mua hoặc cần
bán theo mức lãi suất do NHTW công bố.
Việc phân bổ thầu được tiến hành thực hiện như sau: Trước hết toàn bộ số lượng
đăng ký dự thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc
bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì toàn bộ các đơn dự thầu đều được phân
bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu tổng khối lượng đặt thầu lớn hơn khối lượng NHTW
chào mua/chào bán thì khối lượng trúng thầu của từng thành viên được phân bổ tỷ lệ
thuận với khối lượng đặt thầu của thành viên đó. Các đơn dự thầu sẽ được phân bổ như

sau:

Tỷ lệ % phân bổ thầu: k = A/
1
n
i
i
b


trong đó:
- A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- n: là tổng số thành viên tham gia dự thầu
- b
i
là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i
- k là tỷ lệ phân bổ thầu
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i (W
i
)
được xác định như sau:
W
i
= k x b
i

b. Phương thức đấu thầu lãi suất
- Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia NVTTM trên cơ sở khối
lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng giấy tờ có giá mà NHTW cần mua hoặc cần
bán.

Theo phương thức đấu thầu lãi suất thì các thành viên tham gia tự đăng ký số tiền
ứng với mỗi mức lãi suất do tự mình lựa chọn.
- Trường hợp NHTW cần cung ứng tiền thêm vào lưu thông thông qua việc mua
GTCG, các đơn dự thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân bổ theo các mức lãi suất
từ cao xuống thấp. Nghĩa là những đơn dự thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân
bổ trước cho đến khi khối lượng phân phối được sử dụng hết. Nếu tại mức lãi suất thấp
nhất được chấp nhận, khối lượng đăng ký dự thầu lớn hơn khối lượng được phân phối thì
quá trình phân bổ như sau:
Gọi: - A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- r
t
: là mức lãi suất thứ t được đăng ký
- b(r
t
)
i
là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i ứng với mức lãi suất r
t

- b(r
t
) là tổng khối lượng đặt thầu của các thành viên ứng với mức lãi suất r
t

- r
m
là mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận.
Đối với trường hợp NHTW đấu thầu để bơm thêm vốn khả dụng cho hệ thống ngân
hàng thì: r
1



r
t


r
m

- k(r
m
) là tỷ lệ % trúng thầu được phân bổ tại mức lãi suất cuối cùng

k(r
m
) =
A -
1
1
()
m
t
t
br




B(r
m

)
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k(r
m
), khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i
(W
i
) tại mức lãi suất r
m
được xác định như sau:
W(r
m
) = k(r
m
) x b(r
m
)
- Trường hợp NHTW cần hút tiền từ lưu thông về thông qua việc bán GTCG thì các
quy trình diễn ra ngược lại.
Trên thế giới có hai phương thức đấu thầu lãi suất là đấu thầu theo kiểu Mỹ và đấu
thầu theo kiểu Hà Lan. Nếu đấu thầu theo kiểu Mỹ thì tất cả các mức lãi suất đã đăng ký
trong phạm vi đặt thầu đều thực hiện theo đúng mức lãi suất đã đăng ký. Nếu đấu thầu
theo kiểu Hà Lan thì tất cả lượng đặt thầu được xác định cùng mức lãi suất đạt thầu.

5. Vai trò của nghiệp vụ thị trƣờng mở
5.1. Đối với Ngân hàng trung ương
Để thực hiện nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền, NHTW đã xây dựng và thực thi các
công cụ CSTT nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo tín hiệu thị trường. Trong
đó, NVTTM là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng nhất tại nhiều quốc gia làm thay đổi
cung - cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ. Thông qua việc mua
bán GTCG tại thị trường mở, NHTW có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ

trong hệ thống ngân hàng và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung
ứng. Như vậy, NVTTM đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công cụ mang
tính trực tiếp trong điều hành CSTT.
Bên cạnh mục đích điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, thông qua mua
bán GTCG trên thị trường mở, NHTW còn cấp tín hiệu cho thị trường về định hướng
điều hành CSTT trong tương lai là nới lỏng hay thắt chặt. Đặc biệt khi thực hiện NVTTM
thường xuyên và hiệu quả, lãi suất thị trường mở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
định hướng, chỉ đạo lãi suất thị trường và qua đó NHTW có thể hạn chế những biến động
của lãi suất thị trường.
NVTTM là một công cụ CSTT có tính chủ động cao. NVTTM do NHTW chủ động
khởi xướng, khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của NHTW thường do các
ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. Như vậy, NHTW có thể chủ động
thực hiện NVTTM theo định kỳ hoặc vào các thời điểm cần thiết. NVTTM có thể được
thực hiện linh hoạt xét trên góc độ về khối lượng cũng như thời gian giao dịch. NHTW có
thể thực hiện NVTTM ở quy mô lớn/nhỏ (khối lượng mua bán GTCG lớn/nhỏ) với thời
hạn dài/ngắn tuỳ theo quyết định mua/bán GTCG.
NVTTM có thể khắc phục được những hạn chế của các công cụ kiểm soát tiền tệ
trực tiếp và các công cụ gián tiếp khác. Các giao dịch NVTTM có tính hai chiều, qua đó
NHTW có thể bơm thêm tiền vào lưu thông hoặc rút tiền từ lưu thông, trong khi công cụ
TCV chỉ có thể bơm thêm tiền vào lưu thông. Mặt khác, với công cụ NVTTM, NHTW có
thể chủ động hơn trong việc điều tiết lưu thông, không phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ
quan của NHTM như trong công cụ TCV. Qua việc tính toán và dự báo vốn khả dụng
cũng như lượng tiền cung ứng, NHTW có thể biết chính xác được khối lượng tiền cần
bơm thêm hoặc rút về từ lưu thông.
5.2. Đối với các đối tác của NHTW
Thị trường mở là nơi các đối tác của NHTW được chủ động tham gia mua bán
GTCG với NHTW và lãi suất thực sự là mang tính thị trường. Thông qua thị trường mở,
các ngân hàng có thể sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để đầu tư vào các GTCG
để thu được lợi tức và đáp ứng nhu cầu dự trữ thứ cấp. Khi cần thiết, các ngân hàng có
thể bán lại các GTCG này trên thị trường mở để giải quyết khó khăn về nguồn vốn. Các

thành viên tham gia thị trường mở thường là các đối tác có độ tin cậy cao, nên việc mua
bán GTCG trên thị trường mở có độ an toàn rất cao. Bên cạnh đó, những điều kiện về
chủng loại và chất lượng các GTCG được giao dịch trong NVTTM sẽ gián tiếp làm thay
đổi danh mục đầu tư GTCG của các ngân hàng, từ đó cải thiện theo hướng tích cực cơ
cấu sử dụng vốn của ngân hàng, làm giảm dự trữ không sinh lợi và cải thiện bảng tổng
kết tài sản của ngân hàng.
Ngoài ra, NVTTM góp phần đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD.
Các TCTD không chỉ đơn thuần thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống như
cho vay, bảo lãnh, dịch vụ… mà còn sử dụng một nguồn vốn nhất định để thực hiện
nghiệp vụ kinh doanh mới là mua bán các GTCG. NVTTM cũng thúc đẩy các mối quan
hệ mang tính kinh doanh giữa các thành viên tham gia thị trường.
NVTTM do các ngân hàng tự nguyện tham gia thực hiện theo các nguyên tắc thị
trường, không mang tính chất bắt buộc như DTBB và cũng không có tác động như một
hình thức "đánh thuế" đối với hoạt động của các ngân hàng như DTBB. Lãi suất trên thị
trường mở cũng mang tính chất thị trường chứ không bị áp đặt như trong công cụ chiết
khấu GTCG của NHTW.
Như vậy, thị trường mở tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi hiệu quả hơn và đa dạng hoá thêm các nghiệp vụ kinh doanh của các ngân
hàng.
5.3. Đối với nền kinh tế
Mặc dù thành viên của NVTTM chủ yếu là các tổ chức tín dụng, tài chính và
NHTW nhưng NVTTM cũng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.
Thông qua việc phát hành, mua bán GTCG trên thị trường mở, các chủ thể của thị
trường mở đã làm tăng thêm tính thanh khoản cho các GTCG này. Điều này góp phần
thúc đẩy các thị trường tài chính phát triển. Từ đó, tạo điều kiện cho các trung gian tài
chính thu hút vốn trong nền kinh tế và thay đổi thói quen tiết kiệm, tiêu dùng của các hộ
gia đình trong nền kinh tế.
Thị trường mở có sự gắn kết chặt chẽ với các thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị
trường nội tệ liên ngân hàng. Sự phát triển của thị trường mở tác động mạnh đến sự hoàn
thiện và phát triển của thị trường liên ngân hàng.

Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh
tế thế giới. Việt Nam phải thực hiện các cam kết yêu cầu của các tổ chức tài chính, tiền
tệ, thương mại quốc tế hay các quốc gia phát triển, trong đó có yêu cầu về cải cách hệ
thống ngân hàng và nâng cao tính minh bạch trong các hoạt động của NHTW. Tại các
quốc gia phát triển hay các quốc gia trong khu vực Đông Nam á đều sử dụng NVTTM
trong điều hành CSTT để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, việc sử
dụng NVTTM là một điều kiện cần thiết để hội nhập nền kinh tế vào khu vực và thế giới.
Phần 2: Thực trạng hoạt động nghiệp vụ Thị trƣởng mở Viêt
Nam giai đoạn từ năm 2000 đến tháng 3/2012
1. Thời gian hoạt động từ năm 2000 đến tháng 11/2011
Có thể nói, đây là giai đoạn khó khăn đối với các cán bộ làm công tác nghiệp vụ
TTM khi nghiệp vụ này mới bắt đầu triển khai và phát triển tại Việt Nam. Ngay khi
Thống đốc NHNN phê duyệt Đề án triển khai nghiệp vụ TTM theo Quyết định số
340/1999/QĐ-NHNN14 ngày 30/9/1999, Sở Giao dịch đã triển khai nhiệm vụ liên quan
tới hoạt động nghiệp vụ TTM tại Sở Giao dịch như việc mở tài khoản lưu ký cho thành
viên, xây dựng văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ TTM, phối hợp với Cục Công
nghệ tin học xây dựng và đưa vào sử dụng phần mềm giao dịch phục vụ công tác xét
thầu, phân bổ thầu và báo cáo kết quả các phiên đấu thầu…
Trong giai đoạn này, do điều kiện về công nghệ ứng dụng trong công tác xét thầu,
phân bổ thầu… chưa hiện đại nên một số khâu vẫn còn phải thực hiện thủ công như việc
thông báo kết quả trúng thầu hay hợp đồng mua, bán lại GTCG… vẫn còn phải thực hiện
bằng văn bản, do đó, để đảm bảo việc hạch toán của thành viên được nhanh chóng, bộ
phận nghiệp vụ thường phải gửi qua đường FAX cho thành viên, bản chính gửi qua
đường bưu điện…; việc in ấn, lưu trữ số liệu lịch sử từ cách chiết xuất các bảng biểu
thống kê của các phiên cũ cũng chưa thuận lợi do khó truy cập khi xuất hiện thông báo
đấu thầu của phiên hiện thời; việc tổng hợp số liệu báo cáo còn phải thực hiện bằng thủ
công, tổng hợp số liệu từng phiên qua bảng Excel rất bất tiện,…
Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật chưa hoàn thiện, hệ thống thông tin
phục vụ cho nghiệp vụ còn rất đơn giản, một số thao tác vẫn phải thực hiện theo hình
thức bán thủ công, số lượng thành viên tham gia chưa nhiều, chủ yếu tập trung là các

NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần lớn,do lượng GTCG năm giữ còn ít, khối lượng
giao dịch chưa nhiều.
Tuy vậy, trong giai đoạn này, Sở Giao dịch đã thực hiện được 700 phiên giao dịch
nghiệp vụ TTM, khối lượng trúng thầu đạt 324.977 tỷ đồng, chiếm hơn 73% khối lượng
dự kiến của NHNN. Trong đó, khối lượng trúng thầu của các phiên mua kỳ hạn chiếm tới
68%/tổng khối lượng giao dịch.
BẢNG 1: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG THỊ TRƢỜNG MỞ
( Từ năm 2000 đến năm 2007)

Theo như số liệu bảng 1 ta có thể thấy, nghiệp vụ thị trường mở ở nền kinh tế Việt
Nam đã có những bước phát triển hết sức nổi trội. Trên cả phương diện phương thức giao
dịch và khối lượng trúng thầu, các con số đã có xu hướng gia tăng mạnh mẽ qua từng
năm. Khối lượng trúng thầu năm 2000 mới chỉ đạt mức 1.904 tỷ đồng, thì 7 năm sau đã
tăng lên thành 417.977 tỷ đồng, tức là tăng gấp hơn 219 lần. Đây là con số gia tăng ấn
tượng mà không phải nền kinh tế nào cũng có thể đạt được trong những năm phát triển
đầu tiên của thị trường mở.
Trong vòng 7 năm (2000 - 2007), NHNN đã bơm tiền ra lưu thông qua việc mua kỳ
hạn và mua hẳn GTCG là 281.389 tỷ đồng, hút tiền về từ lưu thông qua việc bán kỳ hạn
và bán hẳn GTCG là 461.406 tỷ đồng. Trong đó, phần chủ yếu vẫn được đầu tư vào hình
thức mua bán hẳn. Điều này có thể được lý giải bởi tính ổn định của nền kinh tế Việt
Nam chưa cao, nên các thành phần kinh tế không thực sự tin tưởng vào mua bán kì hạn,
ngoài ra cũng chưa thực sự quen thuộc với hình thức này.
Căn cứ vào hoạt động của nghiệp vụ TTM trong thời gian này, Sở giao dịch phối
hợp với các bên liên quan đã ban hành các văn bản pháp luật, các quy định tạo hành lang
pháp lý thuận lợi và thông thoáng theo quy định của pháp luật trong các giao dịch nghiệp
vụ TTM giữa NHNN và các thành viên thị trường, từ khâu cấp giấy phép công nhận
thành viên tới tiếp nhận đơn dự thầu, phân bổ thầu, thông báo kết quả đấu thầu…. Nhờ
vậy mà số lượng thành viên tham gia vào TTM đã tăng từ 18 thành viên (năm 2000) lên
đến 48 thành viên (năm 2007).


2. Thời gian hoạt động từ tháng 11/2007 đến tháng 3/2012
Tháng 11 năm 2007 đánh dấu mốc sự ra đời của chương trình giao dịch trực tuyến
nghiệp vụ Thị trường mở giữa Sở giao dịch và thành viên trên thị trường. Đến nay,
chương trình đã đáp ứng được quy mô giao dịch ngày càng tăng cả về số lượng thành
viên cũng như khối lượng GTCG tham gia giao dịch của mỗi phiên.
a. Về cơ cấu thành viên
Trong hơn 4 năm, tổng số lượt thành viên tham gia các phiên nghiệp vụ TTM đạt
16.924 lượt và số thành viên tham gia tăng mạnh qua từng năm (năm 2008 là 3.208; năm
2009 là 3.121; năm 2010 là 6.106; 9 tháng đầu năm 2011 là 3.906).
Tham gia vào các phiên giao dịch, bên cạnh các thành viên là NHTM Nhà nước hay
NHTM cổ phần lớn ra thì số thành viên là các NHTM cổ phần và ngân hàng liên doanh,
ngân hàng nước ngoài tăng mạnh. Đặc biệt từ năm 2010 đến nay, còn có sự tham gia của
các thành viên thuộc khối ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài.
Khối lượng GTCG của các thành viên trong mỗi phiên giao dịch ngày càng đa dạng
gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính quyền địa phương (TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh), tín phiếu NHNN, trái phiếu của các ngân hàng chính sách (Ngân hàng Phát triển,
Ngân hàng Chính sách xã hội)


BIỂU ĐỒ 1: CƠ CẤU THÀNH VIÊN THAM GIA CÁC PHIÊN GIAO DỊCH
NGHIỆP VỤ TTM 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2011

.
b. Về hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của NHNN
 Về khối lượng giao dịch
Từ những tháng cuối năm 2008, đầu năm 2009 đến nay, chịu ảnh hưởng của
những biến động nền kinh tế thế giới, NHNN đã thực hiện cung một số tiền đáng kể để
hỗ trợ cho tính thanh khoản cũng như hoạt động chung của các ngân hàng. Có thời điểm,
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới hơn 40%/năm, NHNN kịp thời can thiệp
thông qua nghiệp vụ TTM bằng việc tăng lượng cung tiền và áp dụng phương pháp đấu

thầu khối lượng, dường như ngay lập tức, lãi suất liên ngân hàng giảm quanh mức
20%/năm.
BẢNG 2: KẾT QUẢ GIAO DỊCH THỊ TRƢỜNG MỞ
GIAI ĐOẠN 2008 - 2011

Như ta có thể thấy trên bảng 2, tổng khối lượng trúng thầu tăng dần qua các năm
trong giao đoạn 2008-2011. Từ con số 1.036.066 tỷ đồng năm 2008, khổi lượng trúng
thầu đã tăng lên thành 2.440.045 tỷ đồng, tức là tăng gấp gần 2.4 lần. Khối lượng trúng
thầu mua kỳ hạn GTCG là 6.455.551 tỷ đồng, chiếm tới 98,5%/tổng khối lượng trúng
thầu trong giao dịch nghiệp vụ TTM; tần xuất giao dịch các phiên tăng đáng kể bình quân
NHNN đã tổ chức gần 384 phiên/năm.
 Về lượng cung tiền
BẢNG 3: LƢỢNG TIỀN CUNG ỨNG RÒNG QUA CÁC
NGHIệP VỤ THỊ TRƢỜNG MỞ

Qua bảng 3 cho thấy từ năm 2008, NHNN đã bơm ròng 100.685 tỷ đồng; năm 2009,
cũng bơm ròng tới 122.830 tỷ đồng; năm 2010, bơm ròng 294.304 tỷ đồng, trong khi đó,
6 tháng đầu năm 2011, chỉ bơm ròng 13.056 tỷ đồng. Điều này thể hiện NHNN quyết tâm
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, nhằm mục đích kiềm chế lạm phát.





BIỂU ĐỒ 2: LƢỢNG TIỀN CUNG ỨNG RÒNG QUA CÁC
NGHIỆP VỤ THỊ TRƢỜNG MỞ
< Đơn vị: Tỷ đồng >

Nhìn vào biểu đồ 2 ta có thể thấy lượng tiền NHNN bơm ra giảm dần trong 6
tháng đầu năm 2011. Lãi suất NVTTM (hay lãi suất OMO) tính đến hết tháng 6/2011,

vẫn được giữ nguyên ở mức 15%/năm. Việc thắt chặt tiền tệ thông qua hút ròng trên
nghiệp vụ thị trường mở của NHNN cùng các chính sách điều tiết vĩ mô khác đã có
những kết quả bước đầu khi CPI tháng 6/2011 CPI tăng 1,09%, giảm so với mức tăng
2,21% của tháng 5/2011 đã mang lại tín hiệu khả quan cho nền kinh tế.
Diễn biến đáng chú ý tiếp theo của thị trường mở, diễn ra vào ngày 4/7/2011, khi
mà NHNN quyết định giảm mức lãi suất NVTTM về mức 14% sau khi duy trì mức 15%
kể từ tháng 11/2011. Đồng thời trong cùng tuần từ ngày 4 – 8.7.2011 ngân hàng Nhà
nước (NHNN) bơm ròng thêm gần 1.000 tỉ trên thị trường mở. Đây là động thái thể hiện
NHNN sẽ sử dụng thị trường mở nhiều hơn để điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt
nhưng linh hoạt hơn.





 Diễn biến lãi suất thị trƣờng mở
BẢNG 4: DIỄN BIẾN LÃI SUẤT NGHIỆP VỤ TTM
Thời
gian
áp
dụng
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
1/2011
22/02/
2011

01/04/2
011
04/05/
2011
04/07/
2011 -nay
LS thị
trƣờng
mở
12.82%
7.23%
8.35%
10%
12%
13%
15%
14%

Lãi suất trên thị trường mở cũng có nhiều biến động: nếu năm 2008, mua có kỳ hạn
7 ngày lãi suất bình quân là 12,82%/năm, 14 ngày là 13,12%/năm, thì năm 2009, đã giảm
xuống tương ứng là 7,23%/năm và 7,51%/năm và năm 2010 tương ứng 8,35%/năm và
7,69%/năm. Trong tháng 1/2011, lãi suất mua có kỳ hạn 7 ngày đã tăng lên 10%/năm, từ
ngày 22/2, tăng lên 12%, 1/4 là 13%, ngày 4/5, đã được đẩy lên mức 14%/năm, không
dừng ở đó, ngày 17/5, NHNN đã nâng lãi suất trên thị trường mở lên 15%. Đây là lần thứ
8, NHNN điều chỉnh mức lãi suất trên thị trường mở kể từ tháng 1/2010. Ta có thể thấy,
bước sang năm 2011, NHNN liên tục thực hiện các biện pháp nâng cao lãi suất TTM với
cường độ mạnh và liên tục, nhằm thắt chặt chính sách tiền tệ, giữ vững chỉ tiêu kiềm chế
lạm phát cho nền kinh tế.
Từ ngày 4/7/2011, lãi suất trên nghiệp vụ thị trường mở đã giảm nhẹ xuống
14%/năm. Điều này cho thấy năm 2008 và 2011 nền kinh tế có lạm phát cao, NHNN thực

hiện chính sách tiền tệ thắt chặt dẫn đến tình hình thanh khoản của các NHTM khó khăn,
đặc biệt là các NHTM cổ phần quy mô nhỏ. Trước diễn biến đó, NHNN sử dụng linh
hoạt thị trường mở, kết hợp với cho vay tái cấp vốn để hỗ trợ thanh khoản cho các
NHTM có khó khăn về thanh khoản.
Từ tháng 9, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng lên 15%/năm và lãi suất cho
vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng lên 16%/năm; nghiệp vụ thị
trường mở được sử dụng linh hoạt hàng ngày phù hợp với diễn biến vốn khả dụng của hệ

×