Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Hàng hóa sức lao động và vấn đề tiền lương, cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.15 KB, 19 trang )

lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hoài Ngọc

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................ 2
LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG ............................................. 3

I.

II.

1.

Khái niệm hàng hóa sức lao động ....................................................................................... 3

2.

Sức lao động và hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa .................................... 3

3.

Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao đơng .......................................................................... 4
CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN CƠNG (TIỀN LƯƠNG) Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
7

1.

Thực tiễn quá trình cải cách chính sách tiền cơng ở Việt Nam hiện nay ................................ 7

2.



Những kết quả đạt được từ quá trình cải cách chính sách tiền cơng ở Việt Nam hiện nay... 11

3. Những hạn chế trong cải cách chính sách tiền cơng (tiền lương) ở nước ta những năm gần
đây – Nguyên nhân ....................................................................................................................... 12
4. Một số phương hướng, kiến nghị cơ bản để Nhà nước thực hiện có hiệu quả chính sách cải
cách tiền công ở Việt Nam hiện nay ............................................................................................. 14
KẾT LUẬN ...................................................................................................................................... 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 19

T r a n g 1 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hồi Ngọc

MỞ ĐẦU
Nguồn lực con người ln là vấn đề quan trọng quyết định sức mạng của
đất nước đặc biệt trong bối cảnh tồn cầu hóa như hiện nay. Nguồn tài nguyên
thiên nhiên ngày càng cạn kiệt đất nước muốn giàu mạnh thì phải dựa vào bản
thân, sức lao động sáng tạo của con người.
Lý luận về hàng hóa sức lao động, Chủ nghĩa Mác -Lênin đã có những
luận điểm khoa học, toàn diện và biện chứng. Trên cơ sở đó, tạo tiền đề vững
chắc cho việc lý giải và áp dụng vào thực tiễn xã hội những giải pháp nhằm cải
các chính sách tiền lương ở Việt Nam hiện nay.
Ở Việt Nam, thực tiễn cải cách chính sách tiền lương, nhất là từ giai đoạn
từ 1992 đến nay cho thấy những nỗ lực, cố gắng của cả hệ thống chính trị, cải

cách chính sách tiền lương của nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy
nhiên, chính sách tiền lương của Việt Nam vẫn cịn nhiều bất cập so với nhu
cầu của thực tiễn phát triển đất nước. Điều này đặt ra yêu cần một cuộc cải cách
chính sách tiền lương tồn diện, đồng bộ; dựa trên nhu cầu của thực tiễn, bằng
chứng khoa học thuyết phục, tạo ra động lực thực sự để người lao động trong
khu vực nhà nước và doanh nghiệp cống hiến, sáng tạo và phát triển đất nước
bền vững.
Từ đó, em xin chọn đề tài “Hàng hóa sức lao động và vấn đề tiền lương,
cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay” để làm sáng tỏ hơn vấn đề này.

T r a n g 2 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hồi Ngọc

I.

LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ HÀNG HĨA SỨC LAO ĐỘNG
1. Khái niệm hàng hóa sức lao động
Để tìm hiểu về một vấn đề cụ thể nào đó, trước hết ta phải hiểu khái niệm

của nó. Vậy “Hàng hóa sức lao động” là gì?
Sự biến đổi giá trị của số tiền cần phải chuyển hóa thành tư bản không
thể xảy ra trong bản thân số tiền ấy, mà chỉ có thể xảy ra từ hàng hóa mua vào
(T – H). Hàng hóa đó khơng thể là một hàng hóa thơng thường, mà phải là một
hàng hóa đặc biệt, hàng hóa mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc

sinh ra giá trị. Thứ hàng hóa đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên
thị trường.
2. Sức lao động và hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
Theo C. Mác, “Sức lao động, đó là tồn bộ các thể lực và trí lực ở trong
thân thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và
trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”.
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản
xuất. Nhưng không phải trong bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng
hóa. Thực tiễn lịch sử cho thấy, sức lao động của người nơ lệ khơng phải hàng
hóa, vì bản thân nơ lệ thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức
lao động của mình. Người thợ thủ công tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao
động của mình, nhưng sức lao động của anh ta cũng khơng phải hàng hóa, vì
anh ta có tư liệu sản xuất để làm ra sản phẩm ni sống mình chứ chưa buộc
phải bán sức lao động để sống. Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa trong
những điều kiện lịch sử nhất định sau đây:

T r a n g 3 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hồi Ngọc

Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ
được sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một
hàng hóa.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất,
để tồn tạo buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để sống.

Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động trở
thành hàng hóa. Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để
tiền biến thành tư bản . Tuy nhiên để tiền biến thành tư bản thì lưu thơng hàng
hóa và lưu thơng tiền tệ phải phát triển đến một mức độ nhất định.
Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của
lao động mới là hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một
mức độ nhất định nào đó, các hình thái sản xuất xã hội cũ (sản xuất nhỏ, phường
hội, phong kiến) bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những điều kiện để cho sức lao
động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động làm cho
sản xuất hàng hóa có tính chất phổ biến và đã báo hiệu cho sự ra đời của một
thời đại mới trong lịch sử xã hội – thời đại của chủ nghĩa tư bản.
3. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao đơng
Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai
thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
3.1. Giá trị hàng hóa sức lao động
Giá trị hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn
tại như năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người
cơng nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định về ăn, mặc, ở,
T r a n g 4 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hoài Ngọc

học nghề,... Ngoài ra, người lao động cịn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia
đình và con cái anh ta nữ. Chỉ có như vậy thì sức lao động mới được sản xuất

và tái sản xuất một cách liên tục.
Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ
được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt ấy; hay nói cách khác, giá trị hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp
bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân
và gia đình anh ta.
Là hàng hóa đặc biêt, giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa
thơng thường ở chỗ nó cịn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có
nghĩa là ngồi những nhu cầu về vật chất, người cơng nhân cịn có nhu cầu tinh
thần, văn hóa... Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi
nước trong từng thời kỳ, đồng thời nó cịn phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí
hậu của nước đó.
Tuy giá trị hàng hóa sức lao động bao hàm yếu tố tinh thần và lịch sử,
nhưng đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô
những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định,
do đó có thể xác định được lượng giá trọ hàng hóa sức lao động do những bộ
phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết
để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người cơng nhân.
Hai là, phí tổn đào tạo người cơng nhân.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho
con cái người công nhân.
T r a n g 5 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hoài Ngọc


Để biết được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất
định, cần nghiên cứu hai loại nhân tố tác động đối lập nhau đến sự biến đổi của
giá trị sức lao động. Một mặt, sự tăng nhu cầu trung bình của xã hội về hàng
hóa và dịch vụ, về học tập và nâng cao trình độ lành nghề đã làm tăng giá trị
sức lao động; mặt khác, sự tăng năng suất lao động xã hội sẽ làm giảm giá trị
sức lao động.
3.2. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
Hàng hóa sức lao động khơng chỉ có giá trị, mà cịn có giá trị sử dụng
như bất kỳ hàng hóa thơng thường nào. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao
động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình
lao động của người cơng nhân.
Tuy nhiên, q trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác
với quá trình tiêu dùng hàng hóa thơng thường ở chỗ: hàng hóa thơng thường
sau q trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều
tiêu biến mất theo thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động
lại là q trình sản xuất ra một hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình sáng tạo
ra giá trị mới. Mục đích của nhà tư bản là muốn giá trị mới được sáng tạo ra
phải lớn hơn giá trị sức lao động và thực tế việc nhà tue bản tiêu dùng sức lao
động (thông qua hoạt động lao động của người công nhân) đã hàm chứa khả
năng này. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm
đoạt. Nhu vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt,
nó là nguồn gốc sinh ra giá trị tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị
của bản thân nó. Đó là chìa khóa để giải thích mâu thuẫn của cơng thức chung
của tư bản (T – H – T’). Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng
hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
T r a n g 6 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()



lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hồi Ngọc

II.

CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN CƠNG (TIỀN LƯƠNG) Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY.
1.

Thực tiễn quá trình cải cách chính sách tiền cơng ở Việt Nam hiện

nay
Chính sách tiền công (tiền lương) là một bộ phận đặc biệt quan trọng của
hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến các cân đối lớn của
nề kinh tế, thị trường lao động và đời sống người lao động, góp phần xây dựng
hệ thống chính trị tinh gọn, trong sach, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng
chống tham nhũng, lãng phí.
Nước ta đã trải qua 4 lần cải cách chính sách tiền lương vào các năm
1960, năm 1985, năm 1993, năm 2003. Cụ thể như sau:
Cải cách tiền lương giai đoạn 1960-1984
Sau hịa bình lập lại, những yêu cầu đặt ra trong việc sửa đổi chế độ tiền
lương đối với người lao động tại miền Bắc Việt Nam lần đầu tiên được đưa ra
vào năm 1957 và chính thức được triển khai vào năm 1960, sau khi hoàn thành
cải tạo kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong đợt cải cách này, mức tiền lương cụ thể
cho từng loại cơng việc, thời gian trả, hình thức trả lương, nâng bậc lương và
các vấn đề khác liên quan đều do Nhà nước định sẵn thông qua hệ thống các
bậc lương và phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Vấn đề tiền lương tối thiểu

được Chính phủ giới hạn trực tiếp bằng việc quy định cụ thể các mức lương
trong các ngành.
Một trong những điểm nhấn của chính sách cải cách tiền lương ở Việt
Nam trong giai đoạn 1960-1984 là hướng tới mục tiêu chiếu cố toàn diện, cân
nhắc kỹ lưỡng giữa yêu cầu và khả năng, kết hợp nguyên tắc với thực tế để vận
dụng đúng đắn nguyên tắc phân phối theo lao động vào tình hình thực tế đất
T r a n g 7 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hồi Ngọc

nước (...), chống chủ nghĩa bình qn, phải chống xu hướng địi cơng bằng hợp
lý một cách tuyệt đối, khơng phù hợp với hồn cảnh thực tế của đất nước.
Cải cách tiền lương giai đoạn 1985-1992
Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị quyết của Hội
nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6-1985) và Nghị định số 235/HĐBT ngày
18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng Về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân,
viên chức và các lực lượng vũ trang đã dẫn đến một cuộc cải cách lớn về giá lương - tiền, mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước. Nghị định số 235 quy định
thang, bảng lương đối với công nhân, nhân viên, cán bộ quản lý xí nghiệp, cơng
ty và bảng lương chức vụ đối với cán bộ, viên chức trong các tổ chức sự nghiệp
và cơ quan quản lý nhà nước. Nguyên tắc hưởng lương là làm công việc gì,
chức vụ gì thì hưởng lương theo cơng việc, chức vụ đó
Mặc dù cịn nhiều hạn chế, tuy nhiên có thể khẳng định chính sách cải
cách tiền lương của Việt Nam trong giai đoạn 1985-1992 đã có tiến bộ đáng kể
trong việc quy định về tiền lương tối thiểu; đã có sự phân định về tiền lương tối
thiểu đối với các doanh nghiệp trong nước và các xí nghiệp có vốn đầu tư nước

ngồi, đảm bảo sự cơng bằng trong việc trả công cho người lao động.
Cải cách tiền lương giai đoạn 1993-2002
Giai đoạn này được đánh dấu bằng các văn bản: Nghị định số 26/CP quy
định tạm thời chế độ tiền lương mới trong các doanh nghiệp; Nghị định số
25/CP quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của cơng chức, viên chức hành
chính - sự nghiệp và lực lượng vũ trang của Chính phủ ban hành ngày
23/5/1993; Bộ luật Lao động (1994); Nghị định số 197/CP ngày 31/12/1994
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về

T r a n g 8 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hồi Ngọc

tiền lương; Thơng tư số 11/LĐTBXH-TT ngày 3/5/1995 hướng dẫn Nghị
định số 197/ CP...
Mục tiêu của cải cách chính sách tiền lương của Việt Nam trong giai đoạn
1993-2002 là phải làm cho tiền lương trở thành thước đo giá trị sức lao động,
áp dụng ở mọi thành phần kinh tế có quan hệ lao động theo thị trường. Đặc biệt,
tiền lương tối thiểu phải thực sự là “lưới an toàn” cho người lao động, đảm bảo
cho họ duy trì được mức sống tối thiểu cần thiết và tái sản xuất sức lao động;
đáp ứng yêu cầu tiền tệ hóa tiền lương, dần thay thế và tiến tới xóa bỏ chế độ
phân phối hiện vật có tính chất tiền lương. Những thành công và hạn chế của
cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 1993-2002 đặt nền móng cho việc hoàn
thiện các quy định về tiền lương dựa trên cơ sở có quan hệ giữa chủ sử dụng lao
động và người lao động; tạo sự cạnh tranh giữa những người lao động và điều

kiện cho sự phát triển thị trường lao động; tách chế độ tiền lương của cán bộ,
công chức, viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước với tiền lương của
người lao động trong doanh nghiệp; tách dần chính sách tiền lương với chính
sách bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công. Việc Quốc hội ban hành
Bộ luật Lao động, (1994) đã xác lập: tiền lương tối thiểu đã được ghi nhận một
cách đầy đủ, toàn diện trong văn bản pháp lý có hiệu lực cao là Bộ luật. Bộ Luật
Lao động góp phần tạo nên trật tự cho các quan hệ xã hội trong lĩnh vực lao
động thay đổi theo hướng tích cực và hội nhập với thế giới.
Cải cách tiền lương giai đoạn 2003-2020
Điểm nhấn của cải cách chính sách tiền lương giai đoạn này là từ năm
2009, Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng dựa trên mức lương tối
thiểu chung dành riêng cho khu vực doanh nghiệp tư nhân. Đặc biệt, thực hiện
Kết luận số 23-KL/TW ngày 29/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 và Kết luận
số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI , nước ta
T r a n g 9 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hoài Ngọc

đã từng bước hoàn thiện cơ chế quy định mức lương tối thiểu vùng và chế độ
tiền lương của khu vực doanh nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước; đã thực hiện nguyên tắc chỉ điều chỉnh mức lương
cơ sở và ban hành chính sách, chế độ mới đối với khu vực cơng khi đã bố trí đủ
nguồn lực; không ban hành mới các chế độ phụ cấp theo nghề, triển khai xây
dựng danh mục vị trí việc làm tạo cơ sở cho việc trả lương. Đồng thời từ năm
2013, tiền lương tối thiểu để tính lương cho người lao động ở khu vực công

được đổi thành mức lương cơ sở. Ngày 9/11/2016, Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết về kế hoạch tài chính 5 năm, trong đó có nội dung tăng mức lương cơ sở
tối thiểu trung bình 7%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Tính đến ngày 1/7/2018,
mức lương cơ sở của người lao động trong khu vực công đạt 1.390.000
đồng/tháng. Đối với khu vực doanh nghiệp, mức lương tối thiểu vùng I là
3.980.000 đồng/tháng; vùng II là 3.530.000 đồng/tháng; vùng III là 3.090.000
đồng/tháng; vùng IV là 2.760.000 đồng/tháng. Đây là một trong những nội dung
nổi bật của chính sách cải cách tiền lương giai đoạn 2003-2020.
Có thể khẳng định từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã liên tục hoàn thiện
chế độ tiền lương trên cơ sở mở rộng quan hệ tiền lương, thu gọn một bước hệ
thống thang, bảng, ngạch, bậc lương, đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp cơng lập. Với quy trình thực hiện cải cách theo nhiều
bước, các quy định về tiền lương của giai đoạn 2003-2020 có xu hướng đảm
bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ; vừa khơng tạo ra gánh nặng
cho quỹ lương của Nhà nước và người sử dụng lao động, đảm bảo tính hợp lý
và hài hịa lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ lao động. Tuy nhiên, thực chất
của cải cách chính sách tiền lương trong giai đoạn này vẫn dựa trên cách tính
lương năm 1993, chỉ điều chỉnh tăng mức lương cơ sở, mở rộng quan hệ tiền
lương, tách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực chi từ ngân
T r a n g 10 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hồi Ngọc

sách nhà nước... Vì vậy, chính sách tiền lương của Việt Nam vẫn còn nhiều bất
cập so với nhu cầu của thực tiễn phát triển đất nước. Điều này đặt ra yêu cần

một cuộc cải cách chính sách tiền lương toàn diện, đồng bộ; dựa trên nhu cầu
của thực tiễn, bằng chứng khoa học thuyết phục.
2.

Những kết quả đạt được từ q trình cải cách chính sách tiền công ở

Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, công cuộc cải cách chính sách tiền cơng ở nước
ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Chính sách tiền lương được cải cách đã bãi bỏ hệ thống bảng lương được
cho là quá phức tạp, chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ
lãnh đạo mang tính bình qn, cào bằng hiện nay bằng các bảng lương mới đơn
giản và phù hợp hơn. Quy định bảng lương chuyên môn theo ngạch, bậc đối với
công chức, viên chức, các chức vụ lãnh đạo hưởng lương chuyên môn nghiệp
vụ và phụ cấp lãnh đạo tạo thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ
trong hệ thống chính trị và thực hiện được nguyên tắc bổ nhiệm, miễn nhiệm có
lên – có xuống, có vào – có ra khi thay đổi chức danh.
Nhờ đó, tiền lương trong khu vực công của cán bộ, công chức và lực
lượng vũ trang đã từng bước được cải thiện, nhất là ở những vùng, lĩnh vực đặc
biệt khó khắn, góp phần nâng cao đời sống người lao động. Trong khu vực
doanh nghiệp, chính sách tiền lương từng bước được hồn thiện theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước.
Bên cạnh đó, chính sách tiền lương đã thể hiện sự ưu đãi của Nhà nước
đối với điều kiện lao động, lĩnh vực và ngành nghề làm việc. Đã cí các loại phụ
cấp, từ phụ cấp thu hút, phụ cấp theo điều kiện làm việc, phụ cấp ưu đãi nghề,
phụ cấp thâm niên, phụ cấp theo lĩnh vực công tác... Đã từng bước đổi mới và
T r a n g 11 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()



lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hoài Ngọc

tách riêng cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập của cơ quan hành chính và khu
vực sự nghiệp công lập để tăng thêm thu nhập cho cơng chức, viên chức, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ quan Nhà nước và chất lượng cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công.
Tiền lương khu vực doah nghiệp đã từng bước thực hiện theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Mức lương tối thiểu được luật hóa tại Bộ
luật Lao động, được hình thành trên cơ sở thương lượng tại Hội đồng Tiền lương
quốc gia với thành phần cân bằng của ba bên là đại diện của người lao động,
đại diện của doanh nghiệp và đại diện của Nhà nước thay vì Nhà nước đơn
phương định đoạt, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.
Những hạn chế trong cải cách chính sách tiền cơng (tiền lương) ở

3.

nước ta những năm gần đây – Nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách tiền lương hiện hành vẫn
cịn nhiều hạn chế, bất cập. Chính sách tiền lương trong khu vực cơng cịn phức
tạp, thiết kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh
và chức vụ lãnh đạo; cịn mang nặng tính bình qn, không bảo đảm được cuộc
sống, chưa phát huy được nhân tài, chưa tạo được động lực để nâng cao chất
lượng và hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang.
Quy định mức lương cơ sở nhân với hệ số không thể hiện rõ giá trị thực
của tiền lương. Có quá nhiều loại phụ cấp, nhiều khoản thu nhập ngoài lương
do nhiều cơ quan, nhiều cấp quyết định bằng các văn bản quy định khác nhau

làm phát sinh những bất hợp lý, không thể hiện rõ thứ bậc hành chính trong hoạt
động cơng vụ. Chưa phát huy được quyền, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan,

T r a n g 12 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hoài Ngọc

đơn vị trong việc đánh giá và trả lương, thưởng, gắn với năng suất lao động,
chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
Hiện trạng bất cập trong cải cách chính sách tiền lương ở nước ta hiện
nay bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Những hạn chế, bất cập nêu trên có nguyên
nhân khách quan từ nội lực nền kinh tế còn yếu, chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh cịn thấp; tích luỹ cịn ít, nguồn lực
nhà nước cịn hạn chế... nhưng ngun nhân chủ quan là chủ yếu. Nhận thức
của người lao động còn chưa đầy đủ về giá trị của hàng hóa sức lao động. Trong
cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chúng ta không coi sức lao động là hàng hóa
trong cả khu vực sản xuất, kinh doanh cũng như khu vực Nhà nước. Thêm vào
đó, việc thể chế hố các chủ trương của Đảng về chính sách tiền lương cịn
chậm, chưa có nghiên cứu căn bản và tồn diện về chính sách tiền lương trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị cịn cồng kềnh, chức năng, nhiệm
vụ còn chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao. Số đơn vị sự nghiệp
công lập tăng nhanh, số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước còn
quá lớn. Trong khu vực kinh tế Nhà nướ, Nhà nước bao cấp tiền lương, việc trả
lương trong doanh nghiệp khơng gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh, chính

sách biên chế suốt đời được áp dụng. Việc xác định vị trí việc làm cịn chậm,
chưa thực sự là cơ sở để xác định biên chế, tuyển dụng, sử dụng, đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức và trả lương.
Kết quả là, biên chế lao động ngày càng lớn, ngân sách thâm hụt nặng nề do
phải bao cấp tiền lương mà tiền lương lại không đủ tái sản xuất sức lao động.
Sản xuất – kinh doanh mất động lực nên hiệu quả sút kém.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mặc dù chúng ta đã có những
thay đổi lớn trong nhận thức về tính chất hàng hóa sức lao động, cũng như về
T r a n g 13 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hoài Ngọc

bản chất của tiền lương, nhưng trên thực tế, việc cải cách tiền lương không đồng
bộ với việc đổi mới các lĩnh vực có liên quan nên hiệu quả khơng cao. Cải cách
hành chính trong khu vực Nhà nước diễn ra chậm, đặc biệt việc tinh giảm biên
chế còn thiếu cương quyết. Tiền lương chưa thực sự được coi là đầu tư cho
người lao động, đầu tư cho nguồn nhân lực mà chỉ coi đó là khoản chi cho tiêu
dùng cá nhân. Khi tiến hành cải cách tiền lương chưa có cơ chế để tạo nguồn
mà chỉ nặng nề về cân đối ngân sách. Chính vì thế khi xay dựng mức lương tối
thiểu, Nhà nước dường như bị ràng buộc nặng nề bởi sự eo hẹp của ngân sách
nên thường đưa ra những mức giá tư liệu sinh hoạt thấp xa so với mức thực tế.
Do đó, tiền lương luôn đứng trước mâu thuẫn là thấp so với nhu cầu của người
lao động nhưng lại cao so với khả năng của ngân sách.
Trong quá trình thực hiện chính sách, chưa kết hợp được việc cải cách
hành chính với đổi mới phương thức hoạt động, cơ chế trả lương cho các ngành.

Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong hoạch định và thực hiện chính
sách cịn hạn chế. Công tác quản lý tiền lương và thu nhập cịn nhiều bất cập.
Những bất cập của chính sách tiền lương đã gây nên những hệ lụ, như
chất lượng lao động của công chức nhà nước thấp, tham nhũng trở thành “quốc
nạn”..., cản trở công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước.
4.

Một số phương hướng, kiến nghị cơ bản để Nhà nước thực hiện có

hiệu quả chính sách cải cách tiền công ở Việt Nam hiện nay
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm cải cách,
sửa chữa, bổ sung nhiều lần, góp phần cải thiện đời sống của người lao động
hưởng lương, thúc đẩy người lao động sáng tạo, hăng say lao động sản xuất.
Tuy nhiên tính đến nay, mức lương tối thiểu chung còn thấp, cơ chế áp dụng
tiền lương tối thiểu chung còn thấp, cơ chế áp dụng tiền lương tối thiểu giữa các
T r a n g 14 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hồi Ngọc

đối tượng hưởng lương khác nhau cịn chưa phù hợp với thể chế thị trường. Do
đó, vận dụng lý luận giá trị hàng hóa sức lao động của C.Mác, em xin đề xuất
một số giải pháp cải cách tiền công ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, nâng cao nhận thức
về quan điểm, nơi dung của cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công
chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp.

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống vị trí việc làm, coi đây là giải
pháp căn bản mang tính tiền đề để thực hiện cải cách tiền lương. Các cơ quan,
tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ mấy,
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang để thực
hiện trả lương theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo.
Thứ ba, xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới. Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý Nhà nước sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức,
viên chức, lao động, doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội và pháp luật có liên quan
đến chính sách tiền lương trong khu vực công và khu vực doanh nghiệp...
Thứ tư, quyết liệt thực hiện các giải pháp tài chính, ngân sách, coi đây là
nhiệm vụ đột phá để tạo nguồn lực cho cải cách chính sách tiền lương. Thực
hiện quyết liệt và có hiệu quả các nghị quyết của Trung ương về cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng; về hồn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về phát triển kinh tế tư nhân; về đổi mới,
nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; Nghị quyết của Bộ
Chính trị về cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công nhằm phát triển
nguồn thu bền vững, tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương.
Triển khai các nhiệm vụ cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm
tổng nguồn thu và cơ cấu thu bền vững. Sửa đổi, bổ sung, hồn thiện các chính
T r a n g 15 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hoài Ngọc

sách thu theo hướng mở rộng cơ sở thuế, bao quát nguồn thu mới. Tăng cường
quản lý thu, tạo chuyển biến căn bản trong việc chống thất thu, xử lý và ngăn

chặn các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất kinh doanh hàng giả,
chuyển giá, trốn thuế. Thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong
sử dụng ngân sách nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản. Quyết liệt thu hồi tài
sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
Thứ năm, triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết Trung ương 6
khoá XII và các đề án đổi mới, cải cách trong các ngành, lĩnh vực có liên quan
là cơng việc rất quan trọng để cải cách chính sách tiền lương một cách đồng bộ.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới, tinh giản, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ sáu, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Sửa đổi, hồn
thiện pháp luật về cán bộ, cơng chức, viên chức, lao động, doanh nghiệp, bảo
hiểm xã hội và pháp luật có liên quan đến chính sách tiền lương trong khu vực
công và khu vực doanh nghiệp; đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ cho các
cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, bổ nhiệm,
kỷ luật, trả lương và quản lý đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động trong doanh nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của cơ
quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp.
Thứ bảy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; phát huy vai trò của nhân
dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở quan điểm,
chủ trương của Đảng, các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương lãnh đạo triển khai
thực hiện đồng bộ các giải pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn
vị mình bảo đảm thực hiện cải cách chính sách tiền lương đạt kết quả, mang lại
hiệu ứng tích cực cho nền kinh tế.
T r a n g 16 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195


Dương Thu Hoài Ngọc

T r a n g 17 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195

Dương Thu Hoài Ngọc

KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên, ta có thấy được tầm quan trọng của hàng hố sức
lao động. Sự kết hợp hài hòa giữa lý luận về hàng hóa sức lao động và tiền cơng
trong chủ nghĩa tư bản của C.Mác với thực tiễn thị chính sách tiền cơng ở Việt
Nam. Cải cách chính sách tiền lương vừa là nhiệm vụ hàng đầu của nền kinh tế
lại vừa là mục tiêu quan trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm mức
sống tối thiểu của người lao động đang làm việc cũng như người đã nghỉ việc
hưởng chế độ hưu trí, nâng cao dân trí, phát triển lực lượng lao động có đủ năng
lực để thực hiện chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đóng góp
tích cực nhằm hình thành và phát triển kinh tế của Việt Nam.

T r a n g 18 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()


lOMoARcPSD|9881195


Dương Thu Hoài Ngọc

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “ Những ngun lí cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin” , NXB
Chính trị Quốc gia, 2013
2. Giáo trình “ Kinh tế chính trị Mác – Lê nin”, NXB Chính trị Quốc gia,
2004
3. “ Hỏi – đáp mơn kinh tế chính trị Mác- Lênin”, An Như Hải, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2005
4. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ( />5. Tạp chí Tổ chức Nhà nước ( />6. Toàn

văn

Nghị

quyết

số

27-NQ/TW

ngày

19/5/2018

( />
T r a n g 19 | 19

Downloaded by Diem Quynh ()




×