Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.89 KB, 66 trang )

Đề tài : Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị
trường tài chính ở Việt Nam hiện nay
Lời nói đầu
Trải qua 6 tháng đầu năm 2008 với mức độ lạm phát và giá cả tiêu dùng tăng
vọt ảnh hưởng nghiêm trọng đến mục tiêu phát triển kinh tế trong năm.Sau
nhiều nỗ lực và chính sách kinh tế thành công , đà lạm phát và giá cả tiêu
dùng đã có chiều hướng chững lại và có giảm nhẹ trong 6 tháng cuối
năm.Đã qua cơn bão , việc cấp thiết hiện h là phải thúc đẩy con thuyền kinh
tế Việt Nam tiến lên trong năm 2009.Muốn vậy phải có vốn để đầu tư vào
sản xuất.Vốn ở đâu ??? Thị trường tài chính là 1 kênh cung cấp vốn và điều
tiết quan trọng nhất của 1 nền kinh tế.
Rất cấp thiết với tình hình kinh tế hiện tại , khi giá dầu giảm như dự báo
trước nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái trong năm 2009 , giá các mặt
hàng giảm mạnh , các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn , tỷ giá thay đổi liên tục
, v.v… cùng vô vàn khó khăn đối với các nhà đầu tư hiện tại.Để kinh tế phát
triển trong 1 thời buổi khó khăn gần như là nhiệm vụ bất khả thi , nhưng
không phải là không có cách nếu biết vận dụng tốt và linh hoạt các công cụ
tài chính , các chức năng mà thị trường tài chính mang lại.
1
Chương 1 Tổng quan về thị trường Tài chính
1.1 Vai trò của thị trường Tài chính :
1.1.1 Khái niệm :
- TTTC là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền
sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và
công cụ tài chính nhất định.
- Mọi nền kinh tế đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển vào
có thể được huy động từ nguồn Nhà nước, ngân hàng và cuối cùng là qua
trung gian TTTC – một công cụ hết sức quan trọng của nền kinh tế thị
trường về phương diện cung cấp và chuyển vốn.
- Như vậy, TTTC là một thực tế trừu tượng gắn liền với việc phân bố sử
dụng các nguồn lực tài chính với các loại hàng hóa đặc biệt, đó là vốn,


quyền sử dụng vốn. Các công cụ chủ yếu trên TTTC là các loại chứng khoán
có giá đưa lưu hành qua lại trong các hoạt động tài chính.
1.1.2 Chức năng :
Thị Trường Tài Chính là bộ phận dẫn vốn thực hiện chức năng truyền dẫn
vốn từ những người có vốn sang những người cần vốn thong qua hoạt động
tài chính trực tiếp. Hoạt động dẫn vốn trực tiếp được thực hiện bằng cách
những người cần vốn bán ra thị trường các công cụ nợ hoặc các cổ phiếu
đó ,như vậy vốn đã được chuyển từ người có vốn sang người cần vốn 1 cách
trực tiếp. với chức năng này, Thị Trường Tài Chính có tác dụng thu hút mọi
nguồn vốn cần thiết cho đầu tư phát triển kinh tế, làm nâng cao hiệu quả
chung của toàn bộ nền kinh tế cà cải thiện mức sống của người tiêu dung
ngay cả khi khả năng thực tế về tài chính của họ chưa cho phép.
2
Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng cung ứng
nguồn tài chính đến những chủ thể cần nguồn tài chính:
Thị trường tài chính là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu nguồn tài chính, là nơi
thu hút mạnh mẽ mọi nguồn tài chính nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi, chuyển
giao những nguồn này cho các nhu cầu đầu tư phát triển nhằm mở rộng sản
xuất kinh doanh, hoặc thoả mãn nhu cầu khác nhau của chủ thể cần nguồn
tài chính. Thị trường tài chính được xem như cầu nối giữa tích luỹ và đầu
tư,giữa người cùng nguồn tài chính và người cần nguồn tài chính. Nó giúp
họ gặp nhau, cung ứng nguồn tài chính cho nhau giữa hình thức mua bán các
chứng khoán.
Chức năng cung cấp khả năng thành khoản cho các chứng khoán:
Thị trường tài chính là nơi các chứng khoán được mua bán, trao đổi. Bởi
vậy, nhờ thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi
các chứng khoán họ sở hữu thành tiền hoặc các chứng khoán khác họ muốn.
Khả năng thành khoản ( khả năng chuyển đổi thành tiền) là một trong những
chủ yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với các nhà đầu tư.
Chức năng cung cấp khả năng thành khoản cho các chứng khoán bảo đảm

cho thị trường tài chính hoạt động năng động có hiệu quả.
Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá:
Chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có nhân tố nội tại của chủ thể
phát hành, tức là tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh của một doanh
nghiệp. Mặt khác, giá trị của doanh nghiệp có cổ phiếu trên thị trường tài
chính phụ thuộc vào tổng giá trị thực tế của các cổ phần đang lưu hành. Vì
3
vậy, thông qua giá cổ phiếu của một doanh nghiệp người ta có thể đánh giá
được giá trị của doanh nghiệp đó.
1.1.3 Vai trò :
Vai trò trong thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước
góp phần quan trọng tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, khuyến
khích tiết kiệm và đầu tư:
Để phát triển kinh tế xã hội cần huy động tối đa các nguồn tài chính cung
cấp cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, trong khi đó nền kinh tế luôn luôn
tồn tại các nguồn tài chính nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi với thời hạn
ngắn, dài và quy mô khác nhau. Sự hoạt động của thị trường tài chính với
các công cụ là các loại chứng khoán, đa dạng về hình thức, phong phú về
mệnh gía và thời hạn sử dụng kết hợp với cơ chế linh hoạt: mua bán chứng
khoán thuận lợi nhanh chóng, do đó thị trường tài chính đã thu hút, chuyển
giao các nguồn tài chính nhàn rỗi,bé nhỏ, phân tán trong xã hội thành nguồn
tài chính to lớn, tài trợ kịp thời cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế- xã hội.
Thị trường tài chính với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, bộ máy quản lý hữu hiệu
và sự phổ biến hướng dẫn rộng rãi về chứng khoán và đầu tư chứng khoán,
người dân sử dụng nguông tài chính tiết kiệm được của mình để mua chứng
khoán với niềm tin là khoản vốn và lãi của mình sẽ được đảm bảo. Nguồn
tiết kiệm này, nếu không có thị trường tài chính sẽ có khả năng tiếp tục nằm
yên dưới dạng tích trữ không sinh lợi cho bản thân người tiết kiệm và cũng
không đóng góp gì cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Hoạt động có hiệu quả
của thị trường tài chính đã giảm bớt được nhu cầu tiêu dùng cao, dành nguồn

tài chính vào đầu tư thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Do chứng khoán
không có tính lỏng như tiền mặt, một khi đã mua chứng khoán, nguồn tài
chính đã vận động vào đầu tư, số tiền mặt trong tay người tiêu dùng giảm
4
xuống nên những nhu cầu tiêu dùng cao không thiết yếu sẽ được giảm xuống
. Những nhu cầu thiết yếu sẽ kịp thời được đáp ứng qua hoạt động bán
chứng khoán của người sử dụng chứng khoán. Như vậy tính thanh khoản cao
của chứng khoán trên thị trường tài chính đã thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư.
Thị trường tài chính là kênh huy động vốn đầu tư rất lớn. Nó không chỉ thu
hút huy động nguồn tài chính trong nước mà còn thu hút huy động nguồn tài
chính nước ngoài. Việc hình thành thị trường tài chính tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư nước ngoài có các nguồn tài chính với quy mô khác nhau có thể
bỏ vào đầu tư mua các chứng khoán trên thị trường tài chính một cách dễ
dàng, nhờ đó nguồn tài chính với các quy mô khác nhau được vận động từ
nước ngoài vào trong nước mà không cần phải qua các thủ tục phức tạp và
không cần số vốn lớn như các hình thức đầu tư trực tiếp. Thị trường tài
chính là nơi các nhà đầu tư nước ngoài theo dõi và nhận định hoạt động của
các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Nó là cầu nối giữa vốn đầu tư nước
ngoài với vốn đầu tư trong nước, góp phần thực hiện chính sách “mở cửa
nền kinh tế “. Như vậy, thị trường tài chính bổ xung thêm hình thức đầu tư
của nước ngoài vào trong nước, tận dụng được nguồn tài chính của nước
ngoài cung cấp cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nước.
Vai trò thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính:
Việc huy động và sử dụng nguồn tài chính trên thị trường tài chính diễn ra
trên cơ sở quan hệ cung cầu. Khi sử dụng bất kỳ nguồn tài chính cũng phải
trả giá. Điều đó buộc người cần nguồn tài chính phải quan tâm đến hiệu quả
sử dụng đồng vốn bằng việc lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu, lựa chọn
hình thức và thời điểm thích hợp để giảm giá của việc tài trợ. Mặt khác, thị
trường tài chính bắt buộc các doanh nghiệp phải công bố các vấn đề tài
chính, những thông tin về doanh nghiệp và phải đảm bảo tính chính xác của

5
các thông tin đó. Ban quản lý thị trường chỉ chấp nhận các chứng khoán của
doanh nghiệp có đủ điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có
doanh lợi và dân chúng chỉ mua chứng khoán của những doanh nghiệp thành
đạt, tương lai sáng sủa. Với sự tự do lựa chọn của người mua chứng khoán,
không còn cách nào khác hơn là các nhà quản lý doanh nghiệp phải tính toán
làm ăn đàng hoàng và sử dụng nguồn tài chính, cả tự có, cả đi vay phải có
hiệu quả .
Thị trường tài chính không chỉ thúc đẩy sự dụng có hiệu quả nguồn tài chính
trong từng doanh nghiệp mà còn thúc đẩy sử dụng có hiệu quả nguồn tài
chính trong tổng thể nền kinh tế. Sự đa dạng hoá về thời hạn sử dụng các
nguồn tài chính, vừa tận dụng được nguồn tài chính trong nền kinh tế, vừa
tạo điều kiện cho nguồn tài chính vận động từ nơi kinh doanh kém hiệu quả
sang nơi kinh doanh có hiệu quả hơn. với chức năng cung cấp thông tin
chính xác, thị trường tài chính giúp cho người có nguồn tài chính phân tích
và có quyết định đúng đắn, đảm bảo cho nguồn tài chính của mình vận động
đúng đến nơi mà chúng được sử dụng có hiệu quả.
Vai trò trong việc thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của
Nhà nước:
Thị trường tài chính hoạt động đã bổ sung thêm hình thức huy động nguồn
tài chính cho các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian bằng cách
phát hành cổ phiếu, trái phiếu , giải quyết khó khăn về mặt tài chính, phục
vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian. Thị
trường tài chính còn tạo điều kiện và thúc đẩy các chủ thể lựa chọn hướng
đầu tư đúng đắn và sử dụng vốn có hiệu quả nên đã góp phần thực hiện
chính sách huy động nguồn tài chính, sử dụng nguồn tài chính hay chính
sách tài chính. Một bộ phận quan trọng của chính sách tài chính là chính
6
sách ngân sách. Tận dụng các nguồn thu ngân sách, chi tiêu tiết kiệm có hiệu
quả, giải quyết bộ chi và cân đối thu chi ngân sách luôn luôn là vấn đề đặt ra

trong chính sách tài chính của một quốc gia. Thị trường tài chính lại là nơi
Nhà nước tiên shành vay nợ dân chúng một cách dễ dàng nhất. Nhà nước
cũng có thể vay các tổ chức và cá nhân nước ngoài thông qua việc phát hành
trái phiếu bằng ngoại tệ. Ở hầu hết các nước, việc Nhà nước vay tiền của dân
đã trở thành thông dụng và tiền vay đã trở thành nguồn thu thường xuyên để
cân đối ngân sách. Đây cũng là giải pháp tích cực vì Nhà nước không phải
phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Điều này sẽ góp phần giải quyết
một trong những nguyên nhân chủ yếu của luật pháp, làm giảm áp lực của
lạm phát, kiềm chế lạm phát. Đồng thời, thị trường tài chính hoạt động có
hiệu quả cũng giảm tiêu dùng cao, tăng cung nguồn tài chính, khuyến khích
đầu tư. Như vậy sẽ góp phần làm giảm cầu kéo, giảm chi phí đẩy, tăng cung
hàng hóa, góp phần giải quyết lạm phát, thực hiện chính sách tiền tệ.
Thị trường tài chính còn là nơi cung cấp các dữ liệu giúp cho Nhà nước có
biện pháp điều hoà lưu thông tiền tệ. Việc dân chúng đầu tư vào thị trường
tài chính sẽ giúp Nhà nước điều tiết được lượng tiền trong lưu thông qua cơ
chế thị trường mở. Việc Nhà nước mua chứng khoán vào có tác dụng bơm
thêm tiền vào chu chuyển kinh tế và ngược lại việc bán chứng khoán ra sẽ
rút bớt lượng tiền khỏi chu chuyển kinh tế. Nhà nước cũng có thể thay đổi
lãi suất tiền gửi, tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu
để thực hiện điều hoà lưu thông tiền tệ.
Điều hoà nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh tế, nhằm thoả mãn nhu cầu
nguồn tài chính cho nền kinh tế đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
tài chính luôn luôn là mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia. Thông qua
sử dụng các công cụ trên thị trường và cơ chế hoạt động của thị trường, bằng
hoạt động phát hành và mua bán chứng khoán cả thị trường tập trung và phi
7
tập trung, dưới tác động của quy luật cung cầu, nguồn tài chính sẽ vận động
từ những ngành, những vùng thừa nguồn tài chính đến những ngành, những
vùng thiếu nguồn tài chính thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế nhằm đặt được
mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia.

Khi xem xét vai trò thị trường tài chính cũng cần thấy rằng: ngoài những vai
trò, những tác động tích cực, thị trường tài chính cũng có những hạn chế,
những khuyết tật thể hiện qua hoạt động đầu cơ, bán khống các chứng
khoán Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải nẵm vững cơ chế vận hành của thị
trường, có những biện pháp hữu hiệu kiểm soát các hoạt động của thị trường
làm cho thị trường hoạt động lành mạnh.
1.2 Các chủ thể của thị trường Tài chính :
Thị Trường Tài Chính là nơi diễn ra hoạt động dẫn vốn từ người cho vay-tiết
kiệm tới người vay-người chi tiêu nên Thị Trường Tài Chính có 2 chủ thể đó
chính là : chủ thể đi vay và chủ thể cho vay(đầu tư).
1.2.1 Chủ thể đi vay :
1.2.1.1 Chính Phủ:
Đi vay trên Thị Trường Tài Chính bằng cách phát hành trái phiếu kho bạc…
để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách nhà nước.
1.2.1.2 Các công ty:
Việc thiếu vốn sản xuất là điều thường xảy ra trong hoạt động của các doanh
nghiệp. Không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng có thể giải quyết vấn đề
này bằng cách vay ngân ha`ng. Hơn nữa khi muốn mở rộng sản xuất, đầu tư
thêm trang thiết bị, cơ sở vật chất, các doanh nghiệp thường cần vốn lớn với
thời hạn dài để đáp ứng yêu cầu như vậy. Cách phổ biến nhất là các doanh
8
nghiệp huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu trên Thị
Trường Tài Chính.
1.2.1.3 Các hộ gia đình:
Hộ gia đình cũng vay trên Thị Trường Tài Chính để đáp ứng nhu cầu sản
xuất kinh doanh và yêu cầu chi tiêu khác của mình.
1.2.2 Chủ thể cho vay hay đầu tư :
Khi 1 chủ thể đồng ý giao tiền hoặc tài sản để nhận lại 1 trái phiếu của người
khác, anh ta đã biến mình thành chủ thể cho vay. Bởi vì mọi khoản vay đều
được hoàn trả cả vốn và lãi, nên hoạt động cho vay đã làm cho tiền mặt, tài

sản tạo thêm ra những giá trị mới. chính quá trình tạo ra giá trị mới này đã
làm cho việc cho vay trở thành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Có các
chủ thể cho vay, đó là: Các hộ gia đình, các công ty bảo hiểm, các trung gian
tài chính, các công ty và Chính Phủ.
1.2.2.1. Các hộ gia đình:
Là những người cho vay chủ yếu thông qua việc mua trái phiếu hoặc gửi tiên
vào ngân ha`ng.
1.2.2.2. Các công ty bảo hiểm:
Nhận tiền bảo hiểm của dân chúng sau đó đem cho các ngân ha`ng, các công
ty vay hoặc mua trái phiếu. Các khoản cho vay của công ty bảo hiểm thường
là các khoản cho vau dài hạn.
1.2.2.3. Các trung gian tài chính:
Các ngân hàng sinh ra là đi vay để cho vay. Mặc dù các ngân hàng chỉ là
trung gian của việc vay và cho vay, không phải là chủ thể cuối cùng, no vẫn
đóng vai trò quan trọng nhất trong việc cho vốn chu chuyển từ chủ thể này
sang chủ thể khác.
1.2.2.4. Các công ty và Chính Phủ:
9
Các công ty và Chính Phủ khi có tiền nhàn rỗi họ đều tìm cách làm sinh lợi
dưới dạng mua trái phiếu hoặc gửi tiền vào ngân hàng.
1.3 Cấu trúc của thị trường Tài chính :
Có thể phân loại thị trường tài chính theo nhiều cách khác nhau
1.3.1 Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần :
- Thị trường nợ
Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên Thị
Trường Tài Chính là đưa ra 1 công cụ nợ, ví dụ như là trái khoán hay 1 món
vay thế chấp. Công cụ nợ là sự thoả thuận có tính chất hợp đồng, trong đó
người vay thanh toán cho người nắm giữ công nợ một khoản tiền lãi cố định,
và hoàn trả tiền vốn vào cuối kỳ hạn. Nếu kỳ hạn thanh toán của công nợ
dưới 1 năm, người ta gọi đó là công cụ nợ ngắn hạn, nếu từ1 năm trở lên gọi

là công cụ nợ trung và dài hạn. Thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ
nợ kể trên được gọi là thị trường nợ.
- Thị trường vốn cổ phần
Phương pháp thứ 2 để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Nười
nắm giữ cổ phiếu sở hữu 1 phần tài sản của công ty và có quyền được chia
lợi nhuận từ thu nhập ròng của công ty sau khi trừ chi phí và thuế.Việc sở
hữu cổ phiếu khác với sở hữu công cụ nợ (trái phiếu) là ở chỗ người sở hữu
cổ phiếu chỉ nhận được tiền lãi sau khi công ty đã thanh toán cho chủ nợ
(người sở hữu công cụ nợ). Nhưng lợi ích củaviệc nắm giữ các cổ phần vốn
là ở chỗ,cổ đông được hưởng lợi trực tiếp do lợi nhuận hoặc do giá trị tài sản
của công ty tăng lên. Trong khi đó người nắm giữ công cụ nợ không nhận
được gì từ khoản lợi nhuận này.
10
1.3.2 Thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2 :
- Thị trường cấp 1 ( sơ cấp )
Là Thị Trường Tài Chính trong đó diễn ra việc mua bán chứng khoán đang
phát hành hay chứng khoán mới. Các loại hành hóa như cổ phiếu, trái phiếu
của công ty và của Chính Phủ khi mới được phát hành đều được đem bán ở
thị trường cấp này. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp một
thường được tiến hành thông qua trung gian tài chính đó là ngân hàng. Ngân
hàng này thường được xem như là ngân hàng đầu ttư hay ngân hàng bảo
hiểm cho việc phát hành thông qua việc bảo đảm giá cố định của chứng
khoán trong quá trình phát hành. Ngân hàng bảo hiểm thường trực tiếp bỏ
tiền để mua hết lô chứng khoán(với giá thấp hơn giá thông báo),sau đó bán
lại ngay trên thị trường với giá cao hơn(giá công bố) để kiếm lời.
- Thị trường cấp 2 ( thứ cấp )
Là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát hành (chứng khoán
cũ). Khi một cá nhân mua nó, nhận được tiền bán chứng khoán, nhưng công
ty người đã phát chứng khoán lần đầu tiên không thu được tiền nữa. Một
công ty thu được vốn chỉ khi chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên

thị trường cấp một. Việc mua bán ở thị trường cấp hai thường được thực
hiện thông qua công ty môi giới.
Thị trường cấp hai có thể được tổ chức theo hai cách:
- Thứ nhất, là tổ chức các sở giao dịch, ở đó người mua và người bán (hoặc
đại lý môi giới của họ ) gặp nhau tại vị trí trung tâm để tiến hành buôn bán.
- Thứ hai, là thị trường trao tay(Over the Counter Market),trong đó các nhà
buôn bán tại các địa điểm khác nhau có một danh mục chứng khoán và đứng
11
ra sẵn sàng mua và bán chứng khoán theo kiểu mua bán thẳng cho bất kỳ ai
đến với họ.
Vì vậy thị trường cấp hai thực hiện hai chức năng:
- Thứ nhất, nó tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm
thu tiền mặt, tứ là nó làm cho những công cụ tài chính này “lỏng” thêm.
Tính “lỏng” thêm của những công cụ tài chính sẽ khiến chúng được ưa
chuộng hơn và như thế làm dễ dàng hơn cho công ty phát hành bán chúng ở
thị trường cấp một.
- Thứ hai, thị trường cấp hai xác định giá của chứng khoán ma công ty phát
hành bán ra ở thị trường cấp một. Những hang mua các chứng khoán ở thị
trường cấp một sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà hj cho
rằng thị trường cấp hai sẽ chấp nhận nó. Giá chứng khoán ở thị trường cấp
hai càng cao thì giá công ty phát hành sẽ nhận được do phát hành chứng
khoán ở thị trường cấp một sẽ càng cao và vì vậy, công ty phát hành nhận
được tổng vốn đầu tư cao hơn. Chính vì lý do này mà khi nghiên cứu Thị
Trường Tài Chính, người ta thường tập trung nghiên cứu phương thức diễn
biến của thị trường cấp hai hơn là thị trường cấp một.
1.3.3 Thị trường tiền tệ và thị trường vốn :
Cách khác để phân biệt giữa các loại thị trường là dựa trên cơ sở kỳ hạn
thanh toán của các chứng khoán được mua bán trên thị trường đó.
- Thị trường tiền tệ
Là 1 thị trường tài chính, trong đó chỉ có những công cụ ngắn hạn (kỳ hạn

thanh toán dưới 1 năm) được mua bán. Chứng khoán của thị trường tiền tệ
thường được mua bán rộng rãi hơn với chứng khoán dài hạn và như vậy có
xu hướng lỏng hơn. Hay nói cách khác, hàng hoá mua bán trên thị trường
12
tiền tệ có tính thanh khoản rất cao. Ngoài ra, chứng khoán ngắn hạn có giao
động giá trị nhỏ hơn với các chứng khoán dài hạn, do vậy chúng là những
khoản đầu tư an toàn hơn.Doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng
thương mại thường là các tác nhân tham gia mua bán chủ yếu trên thị trường
này. Khi ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng, nó phát hành ra các loại
phiếu nợ như: sổ tiền gửi có kỳ hạn,chứng chỉ tiền gửi(CD),hoặc nó vay tiền
bằng cách bán ra trái phiếu,tín phiếu… Quá trình như vậy làm xuất hiện các
hàng hoá,dễ dàng cho việc mua bán, thanh toán, chuyển dịch hoặc cất trữ để
sinh lời.
- Thị trường vốn
Là thị trường trong đó diễn ra việc mua bán các công cụ vay nợ dài hạn như
cổ phiếu, trái phiếu.Thị trường vốn lại được phân thành ba bộ phận: thứ nhất
là thị trường cổ phiếu,chiếm tỷ lệ rất lớn trong thị trường vốn;bộ phận lớn
thứ 2 của thị trường vốn là các khoản cho vay thế chấp; và nhóm thứ ba của
thị trường vốn là thị trường trái phiếu dài hạn của các công ty.
Để hiểu rõ, đầy đủ về việc làm cách nào Thị Trường Tài Chính thực hiện
được vai trò quan trọng trong việc dẫn vốn từ người cho vay-tiết kiệm tới
người vay-người chi tiêu,chúng ta cần nghiên cứu các loại chứng khoán
được mua bán trong Thị Trường Tài Chính. Trước hết chúng ta tập trung vào
những công cụ được mua bán trong thị trường tiền tệ và sau đó đến những
công cụ được mua bán ở thị trường vốn.
1.4 Các công cụ trên thị trường Tài chính :
1.4.1 Các công cụ trên thị trường tiền tệ :
13
Do kỳ hạn thanh toán ngắn những công cụ vay nợ được mua bán trên thị
trường tiền tệ chịu mức dao động giá tối thiểu và do đó nó là loại đầu tư ít

rủi ro nhất.
- Tín phiếu kho bạc (Bills)
Những công cụ vay nợ ngắn hạn này của ngắn hạn này của Chính Phủ
thường được phát hành với kỳ hạn thanh toán 3,6 và 12 tháng. Chúng được
trả lãi với mức lãi suất cố định và được hoàn trả vốn khi đến hạn thanh toán
hoặc chúng được tahnh toán lãi do việc bán lần đầu có giảm giá. Tức là, với
giá thấp hơn so với khoản tiền đã định được thanh toán khi hết hạn. Đây là
loại lỏng nhất trong tất cả các công cụ trên thị trường tiền tệ, do vậy, chúng
được mua bán nhiều nhất, chúng cũng là loại công cụ an toàn nhất trong tất
cả các loại công cụ ở thị trường tiền tệ.
- Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng (CDs)
Là một công cụ vay nợ do ngân hàng thương mại bán cho người gửi tiền.
Người gửi được thanh toán lãi hàng năm theo 1 tỷ lệ nhất định và khi đến kỳ
hạn tahnh toán thì hoàn trả gốc theo giá mua ban đầu. Trước năm 1961, CD
là không thể bán lại được, tức là chúng không thể bán lại hoặc không được
hoàn trả trước kỳ hạn nếu không chịu một khoản phạt đáng kể. Năm 1966,
nhằm làm cho CD lỏng và hấp dẫn những người đầu tư hơn, Citibank đã lần
đầu phát hành CD bán lại được đối với những loại có mệnh giá cao (trên
100.000 đô la). CD có thể được bán lại ở thị trường cấp hai. Hiện nay công
cụ này được hầu hết các ngân hàng thương mại lớn phát hành và thu được
thành công to lớn, với tổng số dư gần đây vượt quá tổng số dư của tín phiếu
kho bạc. Chúng là tổng nguồn vốn dặc biệt quan trọng mà những ngân hàng
thương mại thu hút được từ các công ty, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ,
các tổ chức từ thiện va các cơ quan của Chính Phủ.
14
- Thương phiếu (Commercial Papers)
Là công cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng lớn và các công ty nổi tiếng
phát hành. Trước đây các công ty thường vay vốn ngắn hạn ở các ngân hàng
thương mại, nhưng sau đó họ dựa chủ yếu vào việc buôn bán thương phiếu
cho các trung gian tài chính và các công ty khác để vay vốn tức thời;tức là

họ đã thực hiện hoạt động tài chính trực tiếp.
- Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận (Banker’s Acceptance)
Là một hối phiếu ngân hàng (hứa hẹn thanh toán tương tự một tấm séc), do
một công ty phát hành, được thanh toán trong thời hạn sắp tới và được ngân
hàng bảo đảm với một khoản lệ phí bằng cách ngân hàng đóng dấu “đã chấp
nhận” lên hối phiếu. Công ty phát hành hối phiếu phải gửi món tiền bắt buộc
vào tài khoản của mình tại ngân hàng đủ để trả cho hối phiếu. Nếu công ty
không có khả năng thanh toán, thì ngân hàng buộc phải thanh toán theo số
tiền đã ghi trong hối phiếu. Công ty phát hành hối phiếu có thêm khả năng
được chấp nhận khi mua hàng hoá ở nước ngoaifvif nhà sản xuất ngoại quốc
biết rằng ngay cả trường hợp công ty đã phá sản, thì hối phiếu vẫn được
ngân hàng thanh toán đầy đủ. Những hối phiếu này thường được bán ở thị
trường cấp hai, vì vậy nó có tác dụng tương tự tín phiếu kho bạc.
1.4.2 Các công cụ trên thị trường vốn :
Các công cụ trên thị trường vốn là các công cụ nợ và cổ phiếu, với kỳ hạn
trên một năm hay vô hạn. Khác với các công cụ trên thị trường tiền tệ, các
công cụ trên thị trường vốn có độ lệch tiêu chuẩn lớn hơn nhiều, do vậy mức
độ rủi ro lớn và lợi tức thường cao.
- Cổ phiếu
15
Cổ phiếu là trái quyền về vốn đối với thu nhập ròng và tài sản của một công
ty; tức là nó chứng thực quyền sở hữu một phần của công ty và quyền được
chia cổ tức:
+ Cổ phiếu thông thường: là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, lợi
tức biến động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị
giá cổ phiếu lại rất nhạy camtreen thị trường, không chỉ phụ thuộc vào lợi
nhuận công ty mà còn rất nhiều nhân tố khác như môi trường kinh tế, thay
đổi lãi suất, hay nói cách khác là tuân theo quy luật cung cầu.
+ Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định
theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty.

Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu này phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái
phiếu kho bạc và tình hình tài chính của công ty.
- Vay thế chấp
Là những món tiền cho các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh vay để đầu
tư vào những công trình kiến trúc, nhà, đất đai dùng làm vật thế chấp cho
các món vay. Hình thức này chiếm một phần lớn trong nguồn tài trợ của các
công ty, thậm chí còn chiếm một tỷ trọng lớn trong nguồn tài của các công
ty.
- Trái khoán công ty
Là loại trái khoán dài hạn, do các công ty phát hành với lãi suất cao, giúp
công ty huy động khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn. Ngoài ra,
trái khoán công ty cón có khả năng chuyển đổi, và một số loại, có thể
chuyển thành cổ phiếu. Do vậy, trái khoán công ty là một công cụ được lưu
hành rộng rãi trên thị trường vốn.
16
- Chứng khoán chính phủ
Là các loại công cụ vay nợ do Chính Phủ phát hành như trái phiếu kho bạc
Nhà nước,tín phiếu kho bạc Nhà nước, công trái quốc gia…
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường Tài chính :
Qua việc tìm hiểu ở trên đặc biệt là các đặc điểm của từng loại công cụ
tài chính đã chịu ảnh hưởng của các nhân tố tự thân nó đã là chủ thể phát
hành, mục đích phát hành, quy định của nhà nước áp dụng đối với từng loại
công cụ hay đó là những nhân tố hiện tại của công cụ tài chính. Và xét
trong thời gian dài thì tại mỗi thời điểm thì lãi suất thực của công cụ tài
chính sẽ khác nhau. Trong rất nhiều các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội ảnh
hưởng nên xem xét dưới góc độ những nguyên nhân thay đổi, chúng có thể
phân chia làm 4 nhóm nhân tố lớn: nhóm thứ nhất là các yếu tố nội tại kể
trên, nhóm thứ hai là tác động của các nhân tố chính trị xã hội, và cuối cùng
là tác động của công ty và tình hình tài chính công ty chủ thể quan trọng
trong tạo ra hàng hóa cho thị trường tài chính. Việc phân chia này chỉ có tính

chất tương đối bởi vì các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau đó là mối quan hệ “đa cộng tuyến”.Các nhân tố ảnh hưởng và
các cơ chế ảnh hưởng đến lãi suất như thế nào?. Xét dưới góc độ cung cầu
thì mọi nhân tố trên có thể quy về ảnh hưởng tới đường cầu trái khoán hay
đại lượng quyết định đến lãi suất của các công cụ tài chính.
1.5.1 Các yếu tố nội tại của công cụ tài chính :
- Độ rủi ro của các công cụ tài chính
Trong thị trường tài chính , các công cụ tài chính được sử dụng nhưng
công chúng cũng không hào hứng tham gia nếu nó chứa đựng nhiều yếu tố
17
rủi ro ở bên trong. Do đó nó sẽ là hàng hóa không được mọi người ưa thích
tức là cầu về công cụ đó giảm dẫn đến đường cầu về trái khoán sẽ dịch trái
kết quả là làm tăng lãi suất
i : Lãi suất của trái khoán
Q: số lượng của trái khoán
Đường cầu trái khoán dịch chuyển
từ Dj >Dv làm cho lãi suất tăng
từ i
1
> i
2
Với các chủ thể tham gia thị trường tài chính hay cũng giống như bất
cứ chủ thể kinh doanh trên các thị trường khác, câu hỏi đặt ra là sau một thời
gian nhất định số của cải rời khỏi tay họ có quay trở về với quy mô lớn hơn
hay chi ít cũng còn nguyên vẹn giá trị hay không? Như vậy là họ có thể tìm
kiếm được một đối tác có thể tin cậy được, có nguồn lực đủ mạnh để thanh
toán khoản tiền đã chuyển cho anh ta trong việc phát hành các công cụ tài
chính, chủ thể phát hành có vị trí quan trọng. Thông thường nhà nước được
coi là đối tác làm ăn tin cậy nhất vì đó là người nắm pháp luật trong tay và
có nguồn ngân sách khổng lồ. Nhưng có ai dám mua trái phiếu chính phủ

của những nước mà tình hình chính trị hoặc kinh tế luôn xảy ra bất ổn và
đình trệ. Tuy vậy với những nước kinh tế vững mạnh, chính trị ổn định như
Mỹ, Anh, Nhật Bản, Đức thống nhất thì khả năng chính phủ không thanh
toán các khoản nợ là không xảy ra.
Với từng công cụ tài chính cụ thể, coi là người phát hành có tính chất
quyết định đến lãi suất, thông thường thì lãi suất của các công cụ tài chính
do chính phủ phát hành sẽ thấp hơn các công cụ do công ty phát hành.
18
i%
D
b’
D
b
I
2
E
2
E
1
I
1
S
b
0
QQ
1
Q
2
- Kỳ hạn của các công cụ tài chính
Xét về kỳ hạn thì các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ có kỳ hạn

ngắn nhất chỉ trên dưới một năm, còn trên thị trường vốn thì kỳ hạn dài hơn.
Kỳ hạn của công chúng có rất nhiều loại tùy theo từng đợt phát hành
với trái phiếu công ty kỳ hạn thông thường là 5,10,20 năm hay thậm chí đến
30 hay 50 năm.
Trong thực tế lãi suất của các công cụ tài chính có kỳ hạn khác nhau thì
mang lại lãi suất khác nhau và các công cụ ngắn hạn thường có lãi suất cao
hơn các công cụ ngắn hạn như hình vẽ trên.
Nhân tố kỳ hạn ảnh hưởng tới lãi suất của công cụ tài chính như thế
nào?
Đã có một số lý thuyết được đưa ra để giải thích vấn đề này. Các lý
thuyết đưa ra thường gặp trở ngại: Nếu giải thích được đường cong lãi suất
thì không giải thích được tại sao lãi suất các công cụ ngắn hạn thay đổi khi
các công cụ dài hạn có xu hướng thay đổi theo.
Theo lý thuyết về “giả thuyết dự tính” đưa ra quan điểm: “lãi suất của
một trái khoán dài hạn sẽ bằng trung bình của lãi suất ngắn hạn mà dân
chúng dự tính trong thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó”. Do vậy lý
19
Lãi suất
hoàn vốn
Theo kỳ thanh toán
0
thuyết này đã thành công trong việc giải thích tại sao lãi suất các công cụ
ngắn hạn, dài hạn lại thay đổi phụ thuộc lẫn nhau.
Theo “lý thuyết thị trường phân cách” cho rằng lãi suất xác định cho
một công cụ nào đó được xác định bằng cung cầu với trái khoán kỳ hạn đó
và không chịu tác dụng của những kỳ hạn đó, tức là những trái khoán không
phải là những hàng hóa thay thế cho nhau. Lý thuyết này được bổ sung thêm
một giả thiết nữa là người ta thường ưu tiên cho những khoản đầu tư ngắn
hạn hơn, lý thuyết này đã thành công trong giải thích đường cong lãi suất
thường dốc lên phía trên.

Lý thuyết “ môi trường ưu tiên “ đã khắc phục được nhược điểm của
hai lý thuyết trên bằng cách cho rằng “lãi suất của một trái khoán dài hạn sẽ
bằng trung bình của những lãi suất ngắn hạn được trông đợi xuất hiện trong
thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó cộng với mức bù hạn kỳ, mức bù
này ứng với hạn kỳ trái khoán đó”.
Do đó chúng ta thấy rằng lý thuyết môi trường ưu tiên là tổng hợp của
2 lý thuyết trên và nó cũng đã đưa ra các giải thích tại sao trong thực tế các
đường lãi suất lại có các chiều dốc khác nhau:
Cơ sở của việc giải thích dựa vào hai giả thiết: Dân chúng dự đoán rằng lãi
xuất của các trái khoán ngắn hạn trong tương lai có trung bình thấp hơn mức
20
Lãi suất
hoàn trả
vốn
Hạn kỳ thanh toán
0
lãi suất ngắn hạn hiện hành nhưng lại lớn hơn cả mức bù kỳ hạn. Do đó
đường lãi suất có dạng như trên.
- Khả năng chuyển đổi
Tính linh động của một tài sản phản ánh khả năng và mức độ thuận tiện
để chuyển tài sản đó thành tiền.
Với các công cụ tài chính lỏng của mỗi loại là khác nhau. Trên thị
trường tài chính người ta dễ dàng quyết định mua một trái phiếu của chính
phủ và băn khoăn khi quyết định mua một lô cổ phiếu của một công ty nào
đó. Lý do là vì với trái phiếu chính phủ khoản lợi họ nhìn thấy rõ ràng hơn
so với cổ phiếu bởi vì trong thương trường không có sự giám chắc rằng năm
nay công ty đó làm ai đó lãi hay không.
Tính lỏng của công cụ tài chính còn thể hiện ở chỗ thị trường của công
cụ đó có lớn hay không? Hoạt động có nhộn nhịp hay không? Nếu có thì
chúng ta dễ dàng bán công cụ trong tay người khác trên thị trường rộng lớn

đó đang có nhu cầu cần loại công cụ này. Và với một nhà đầu tư, có những
lúc họ cần chuyển một số công cụ mà họ nắm giữ sang tiền để lo liệu một
công việc đang cần thiết mặc dầu trái khoán của họ đang sinh lợi.
21
Lãi suất
i%
D
b’
D
b
E
2
E
1
i
1
S
b
i
2
Số lượng trái khoán
Q
2
Q
1
0
Để xử lý những trường hợp như thế rõ ràng là các trái khoán trong tay
họ phải có “tính lỏng” do vậy sẽ được ưa thích hơn.
Và cái giá phải trả cho sự ưa thích của họ là họ sẽ nhận được một lãi
suất thấp hơn do đường cầu dịch sang phải do số người ưa thích tăng lên

(như hình vẽ). Đường cầu dịch từ D
v
-> D
j
làm cho lãi suất giảm từ i
1
->i
2
- Thuế thu nhập
Đứng dưới góc độ này thì nhà nước giữ vai trò quan trọng trong các
nhân tố ảnh hưởng. Nếu xem xét các yếu tố khác là như nhau thì quyết định
mua công cụ nào chưa hẳn đã phụ thuộc vào lãi suất mà người sở hữu đó thu
được. Chúng ta sẽ chọn loại công cụ này hàng năm đem lại cho ta 100$ tiền
lãi nhưng ta phải nộp 30$ hay sẽ chọn 90$ với khoản nộp vào ngân sách
10$.
Kết quả là chính sách thuế của nhà nước trong một số trường hợp sẽ
làm công chúng ưa thích hay tẩy chay một loại công cụ nào đó do vậy cầu sẽ
tăng hay giảm làm cho lãi suất thay đổi.
- Sức hấp hẫn của các công cụ tài chính khác
Cũng giống như các loại hàng hóa khác cầu của một trái khoán nhất
định sẽ phụ thuộc vào sức hấp dẫn của các loại trái khoán khác, tức là sẽ chịu
ảnh hưởng của hàng hóa thay thế. Hiệu ứng của việc các công ty đổ bể sẽ chuyển
nguồn vốn của công chúng vào việc mua sắm các trái khoán của chính phủ có độ
tin cậy cao hơn.
Trong phân tích các nhân tố nội tại nếu xét chi tiết từng loại công cụ
riêng biệt thì mỗi đặc điểm riêng của nó cũng gây ra mức lãi suất khác nhau.
Nhất định là người mua trái phiếu của công ty có tài sản làm đảm bảo sẽ được
nhận mức lãi suất thấp hơn loại không có tài sản đảm bảo, trái phiếu có khả năng
22
chuyển đổi và trái phiếu thông thường của công ty sẽ nhận được lãi suất tương

tự.
Có thể coi lãi suất do nhà nước công bố với các trái khoán của mình
cũng là một loại hàng hóa thay thế.
Mặt khác thì nó cũng chịu ảnh hưởng của hàng hóa bổ sung. Trong một
số trường hợp khi phát hành cổ phiếu, công ty sẽ khuyến khích người mua
sách bán cho họ một chứng quyền đặt mua (Rights). Đó là một quyền ưu đãi
mà công ty cho các cổ đông của mình được hưởng để mua cổ phiếu mới tỷ lệ
thuận với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Khi phát hành họ sẽ được mua
với giá ưu đãi. Rõ ràng là kỳ vọng thu được nhiều lợi tức hơn trong nghiệp
vụ này của công chúng sẽ làm cho cầu của trái phiếu tăng lên và lãi suất sẽ
giảm.
1.5.2 Các yếu tố kinh tế chung :
Hoạt động mua bán trao đổi các công cụ tài chính xét về bản chất thìnó
hoạt động đáp ứng và điều hòa vốn cho nền kinh tế. Trong điều kiện nào thì
nền kinh tế mới hấp thụ tốt được nguồn vốn, có nhà kinh doanh nào dám bỏ
vốn ra trong thời kỳ nền kinh tế đang suy thoái, sản phẩm đang ế thừa trên
thị trường. Nói tóm lại là hoạt động của thị trường tài chính phải phụ thuộc
vào cả nhu cầu về vốn đầu tư và khả năng cung ứng. Vậy trong tổng thể nền
kinh tế có những nhân tố nào ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài
chính.
- Các biến số vĩ mô
Lạm phát là một khái niệm của kinh tế học chỉ sự tăng giá trung bình
của hàng hóa theo thời gian. Khái niệm lạm phát thuần túy là trường hợp tất
23
cả các giá cả của hàng hóa và các yếu tố sản xuất tăng theo cung f một tỷ lệ
phần trăm. Tuy nhiên đây là trường hợp hiếm khi xảy ra.
Lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế xảy ra trầm trọng trong
thời kỳ có khủng hoảng. Trong quá khứ và cả hiện tại đều cho chúng ta nhận
xét “ Lạm phát là kẻ thù số 1 của phát triển kinh tế “.Năm 2007-2008 đã cho
chúng ta trải nghiệm khi chứng kiến giá cả hàng hóa đội lên ở mức 2 con số

phần trăm.
Với một nhà đầu tư trên thị trường tài chính hay nói đúng hơn là người
cho vay, người ta quan tâm đến lãi suất thực của các công cụ tài chính chứ
không phải là các lãi suất được công bố, lãi suất thực là lãi suất đã tính đến
yếu tố lạm phát và được xác định bởi:
r = (i- f)
i: lãi suất danh nghĩa
r: lãi suất thực
f: tỉ lệ lạm phát
Mặc dầu được mời chào với lãi suất hấp dẫn là 15% một năm nhưng
không ai muốn mua công cụ tài chính đó nếu lãi suất hiện tại là 20% năm và
có nguy cơ ngày càng tăng cao.
Từ phương trình trên để cho r >0 thì i>f. Do vậy để hấp dẫn khách hàng
thì lãi suất danh nghĩa khi phát hành là một loại công cụ phải lớn hơn tỷ lệ
lạm phát hiện hành.
Do vậy có thể khẳng định rằng trong các biến số vĩ mô thì lạm phát là
nhân tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến lãi suất.
- Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp
24
Các nhà kinh tế tham dự cuộc hội thảo do ngân hàng châu Á (ADB) tổ
chức tại Manina (Philipin) tháng 10 năm 1997 đã đi đến kết luận là khủng
hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh
tế của các nước trong 3 năm hay cũng đồng thời dự báo với quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF) cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông nam Á sẽ chỉ
đạt từ 3-4% trong 2 năm 1997 và 1998. Kết quả đã làm cho một ố dòng đầu
tư dự định vào khu vực này đã đổi hướng sang Mỹ La tinh đang được coi là
khu vực kinh tế mới nổi. Dự đoán này làm cho thị trường tài chính khu vực
kém sôi động, giá cả các loại cổ phiếu, trái phiếu sụt giảm mặc dầu còn
nhiều nguyên nhân khác.
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng quy mô của sản xuất và

dịch vụ trong nền kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng là mức tăng % hàng năm của biến số này. Như vậy
tốc độ phản ánh diễn biến kinh tế của giai đoạn hiện tại và dự đoán sức khỏe
của nền kinh tế trong tương lai. Nếu tốc độ tăng trưởng cao thì cơ hội thu lợi
nhuận sẽ lớn các nhà đầu tư tin vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế và mở
rộng đầu tư nhu cầu về vốn sẽ lớn nâng lãi suất lên cao.
Câu hỏi đặt ra là tại sao trong thời gian qua từ 1991 đến 2007 ở Việt
Nam tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng lên đến 8-9% mà lãi suất
không ngừng được điều chỉnh theo xu hướng giảm xuống. Câu hỏi này có
thể được trả lời dưới nhiều góc độ trước hết là lạm phát phi mã được đẩy lùi,
mặt khác là từ khi ngân hàng nước ta thực hiện chế độ ngân hàng hai cấp
vào năm 1991 với chính sách mở của nền kinh tế xuất hiện một số chi nhánh
ngân hàng nước ngoài làm cho thị trường tài chính nước ta bước đầu tiếp cận
được với thị trường tài chính quốc tế làm lãi suất của ta gần với lãi suất quốc
tế hơn (hiện nay khoảng 8,2%/năm).
25

×