Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP phát triển nhà tp HCM chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.47 KB, 76 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động ngân hàng ngày nay giữ vai trò vô cùng quan trọng trong nền
kinh tế, sự phát triển của nó phản ánh thực trạng kinh tế của mỗi quốc gia.
Trong những năm gần đây, ngành ngân hàng đã đạt được những kết quả hết
sức khả quan và khẳng định là một trung gian tài chính quan trọng không thể
thiếu được của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm
lớn nhất, đóng vai trò thỷ quỹ của xã hội. Với đội ngỹ cán bộ giảu kinh
nghiệm, trang thiết bị hiện đại, ngân hàng còn là nhà tư vấn, lập kế hoạch tài
chính giúp doanh nghiệp.
Ngân hàng cung cấp rất nhiều các sản phẩm dịch vụ phong phú và đa
dạng, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng trong xã hội. Chính vì
tính đa dạng trong hoạt động, hoạt động ngân hàng có thể phải đối mặt với rất
nhiều rủi ro. Trong hoạt động ngân hàng, nghiệp vụ tín dụng là một nghiệp vụ
chính và đem lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng, đồng thời phục vụ lượng
khách hàng đông đảo đến từ mọi ngành nghề trong xã hội. Vì vậy, rủi ro tín
dụng cũng là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà ngân hàng phải
đối mặt, nó có thể ảnh hưởng tới thu nhập và đe dọa tín ổn định của ngân hàng.
Sau một thời gian thực tập tại phòng tín dụng chi nhánh HDB Hà Nội,
em nhận thấy một số vấn đề trong hoạt động điều hành, quản lí và xử lí rủi ro
tín dụng tại chi nhánh và quyết định chọn đề tài:
Hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP phát triển nhà tp HCM
chi nhánh Hà Nội.
Thông qua chuyên đề thực tập, em muốn đưa ra một cái nhìn tổng quan
về những vấn đề cơ bản nhất liên quan đến rủi ro tín dụng của NHTM và thực
trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh HDB Hà Nội. Sau cùng là một số những giải
pháp đưa ra nhằm khắc phục những hạn chế trong hoạt động quản lí RRTD của
chi nhánh, và một số kiến nghị đến những cơ quan liên quan.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành song chuyên đề của em còn nhiều hạn
chế, mong thầy cô chỉ ra các thiếu sót và giúp em hoàn thiện đề tài này.
1
CHƯƠNG 1


NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính có vai trò quan trọng nhất
trong nền kinh tế. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục
các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại hình, tùy thuộc và sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ
trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân
hàng được coi là nơi cung cấp và điều chuyển vốn cho nền kinh tế, là cầu nối
trong thị trường tài chính, giúp vốn trong nền kinh tế được lưu thông hiệu quả,
là công cụ thực hiện các chính sách kinh t, đặc biệt là chính sách tiền tệ, do vậy
là một công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Vai trò quan trọng của ngân hàng được hình thành từ các hoạt động phong
phú của mình. Các hoạt động của NHTM có thể được phân chia thành một số
hoạt động chính sau đây.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới nhiều hình thức như huy động, cho vay,
đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Trong đó, huy đọng vốn là hoạt động chủ
chốt tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại và đóng vai trò quan trọng, có
ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Để huy động vốn cho các hoạt động kinh doanh, ngân hàng thương mại
thường thực hiện dưới một số hình thức như hình thức tiền gửi thanh toán, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi và tiền gửi từ
các tổ chức tín dụng.
2

- Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi trong ngân hàng với mục đích tạo
một nguồn tiền sẵn có danh cho mục đích thanh toán, chi trả thông qua hoạt
động ngân hàng, do đó không có thời hạn cụ thể và có lãi suất thấp. Đây là
nguồn vốn mà người sử dụng có quyền sử dụng vốn bất cứ lúc nào và ngân
hàng phải đáp ứng nhu cầu đó, do vậy nguồn này không phải là nguồn ổn định
của ngân hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đây cũng là nguồn tiền gửi mà người
gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào, do vậy lãi suất rất thấp. Tuy nhiên, nguồn này
không thể được dung để thanh toán cho người khác như tiền gửi thanh toán.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là nguồn tiền gửi mà người gửi chỉ
được rút ra sau một khoảng thời gian nhất định đã được thỏa thuận từ ban đầu
và hưởng lãi suất cao hơn tiền gửi không kỳ hạn.Nếu người gửi phá vỡ thỏa
thuận ban đầu và rút tiền trước hạn thì ngân hàng sẽ đưa ra hình phạt, cụ thể là
phạt lãi suất. Do vậy, nguồn này tuy có chi phí cao hơn tiền gửi không kỳ hạn
nhưng tương đối ổn định và là nguồn vốn huy động chính tài trợ cho hoạt động
của các ngân hàng thương mại.
- Phát hành chứng chỉ có giá: ngân hàng có thể huy động vốn bằng cách
phát hành các loại chứng chỉ có giá, thường là chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu.
Chứng chỉ tiền gửi thường có thời hạn ngắn trong khi trái phiếu là giấy tờ có
giá dài hạn. Hai lọai phiếu nợ trên được ngân hàng phát hành theo từng đợt,
tùy theo mục đích sử dụng và sự chấp thuận của NHTW hoặc Hội đồng chứng
khoán quốc gia. Nghiệp vụ này có chi phí cao hơn huy động tiền gửi, và chỉ
huy động trong một thời gian nhất định đến khi ngân hàng thu được đủ lượng
vốn cần thiết.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của ngân hàng
thương mại, một hoạt động rất phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro, tuy nhiên
lại là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Đây là hoạt động
chủ yếu của ngân hàng, nó tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm.
Về cơ bản, hoạt động tín dụng của ngân hàng là việc ngân hàng chuyển

nhượng tạm thời một lượng giá trị cho khách hàng trên nguyên tắc hoàn trả cả
3
gốc và lãi sau một khoảng thời gian thỏa thuận, và mối quan hệ này hình thành
dựa trên cơ sở lòng tin giữa ngân hàng và khách hàng.
Hoạt động tín dụng được ngân hàng chia ra làm nhiều loại, dựa trên những
chỉ tiêu khác nhau nhưng về cơ bản, có các loại tín dụng như sau:
• Theo thời gian, có 3 loại tín dụng:
- Tín dụng ngắn hạn: Loại hình tín dụng này bao gồm các khoản vay có kỳ
hạn ngắn, dưới một năm. Các khoản tín dụng ngắn hạn thường hạn chế được
rủi ro, do thời gian thu hồi và quay vòng vốn của ngân hàng nhanh. Tín dụng
ngắn hạn thường được cấp cho các hộ gia đình hoặc đơn vị kinh doanh nhằm
bổ sung nguồn vốn lưu động ngắn hạn.
- Tín dụng trung hạn: thường có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được cấp để mua
sắm tài sản cố định, đổi mới kĩ thuật mở rộng sản xuất, xây dựng các công
trình nhỏ có khả năng thu hồi vốn nhanh.
-Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm, sử dụng để cấp vốn cho các hoạt
động xây dựng cơ bản, xây dựng mới, cải tiến mở rộng với quy mô lớn. Đối
với các ngân hàng thương mại, loại tín dụng này thường không được khuyến
khích bằng hai loại trên, do thời gian thu hồi vốn lâu, khả năng kiểm soát vốn
có thể bị hạn chế và tốc độ quay vòng vốn chậm.
• Xét theo mục đích sử dụng, tín dụng được chia làm 2 loại:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: được cấp cho các doanh nghiệp
để tiến hành kinh doanh lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dung: tín dụng được cấp phục vụ cho mục đích tiêu dung
của các cá nhân hộ gia đinh.
• Theo đối tượng tín dụng, tín dụng được chia làm 2 loại:
- Tín dụng vốn lưu động: được sử dụng để tài trợ cho nguồn vốn lưu động
tạm thời bị thiếu hụt của các tổ chức kinh tế.
- Tín dụng vốn cố định: được sử dụng để hình thành tài sản cố định, thường
có thời hạn trung và dài.

• Tín dụng phân loại theo mức độ đảm bảo:
4
- Tín dụng có đảm bảo: Là hình thức tín dụng mà người sử dụng vốn phải
có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra, bảo đảm chịu trách nhiệm và bồi
thường cho ngân hàng trong trường hợp người vay không trả được nợ.
- Tín dụng không có đảm bảo: Là hình thức tín dụng hoàn toàn dựa trên
quan hệ và sự tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng, không có gì
cam kết người đi vay sẽ trả nợ, do vậy tín dụng không có đảm bảo thường chỉ
được cấp cho một số đối tượng đặc biệt hoặc trong một số trường hợp.
• Tín dụng xét theo xuất xứ của tín dụng:
- Tín dụng gian tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian tài
chính, một ngân hàng thương mại khác.
- Tín dụng trực tiếp: là hình thức mà tín dụng được cấp trực tiếp giữa ngân
hàng và người đi vạy, không qua một tổ chức trung gian nào khác.
Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì tín dụng càng đóng một
vai trò quan trọng trong việc lưu thông, điều chuyển vốn trong thị trường tài
chính.
1.1.2.3. Hoạt động đầu tư tài chính
Trên thị trường tài chính, các ngân hàng thương mại đóng vai trò là những
trung gian tài chính, hoạt động rất năng động và đa dạng. Ngoài nghiệp vụ tín
dụng là nghiệp vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng, còn một khoản
mục khác được đánh giá là nguồn quan trọng thứ hai, đồng thời có liên quan và
hỗ trợ, bổ sung cho khả năng sinh lời của các nghiệp vụ cho vây, đó là khoản
mục chứng khoán. Ngân hàng tham gia vào thị trường chứng khoán dưới nhiều
hình thức, thực hiện hoạt động đầu tư tài chính với mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận, nâng cao khả năng thanh toán và đa dạng hóa tài sản, hoạt động kinh
doanh nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại tiến hành nghiệp vụ đầu tư tài chính dưới 2 hình
thức cơ bản: đầu tư chứng khoán và liên doanh liên kết.
- Nghiệp vụ đầu tư chứng khoán: Trên thị trường chứng khoán có rất nhiều

chủ thể tham gia, trong đó ngân hàng thương mại với vai trò trung gian tài
chính hay chủ thể phát hành là một chủ thể hết sức quan trọng. Ngoài ra, ngân
5
hàng còn thực hiện nghiệp vụ đầu tư chứng khoán với tư cách là một nhà đầu
tư chuyên nghiệp, mua đi bán lại các chứng khoán để kiếm lời.
Trong nghiệp vụ đầu tư chứng khoán, ngân hàng thương mại thường đầu tư
vốn vào 2 loại chứng khoán chủ yếu có kỳ hạn dài là chứng khoán do chính
phủ hay chính quyền địa phương phát hành và chứng khoán do các công ty, xí
nghiệp phát hành.
Đầu tư vào chứng khoán do Nhà nước phát hành thường thu được lợi nhuận
thấp, song hầu như không có rủi ro, do Nhà nước luôn có nguồn đảm bảo khả
năng thanh toán lớn nhất là thuế và quyền lực phát hành, đồng thời có tính
thanh khoản cao. Trong khi đó, chứng khoán do các công ty phát hành thường
cho lợi nhuận cao hơn, nhưng mức độ an toàn thì thấp hơn. Các ngân hàng
thường giữ loại chứng khoán công ty này để hưởng thu nhập hàng năm.
- Liên kết liên doanh: Trên thị trường tài chính, khi thực hiện nghiệp vụ tài
chính, các ngân hàng thương mại ngoài việc đầu tư chứng khoán bằng cách
mua trái phiếu, cổ phiếu do các công ty và chính phủ phát hành, còn có thể
thực hiện các mục tiêu chung của mình thông qua hình thức liên doanh liên kết
vốn với các xí nghiệp, công ty.
Các công ty, xí nghiệp lớn khi mới thành lập thường phát hành cổ phiếu để
kêu gọi vốn, và trước hết là từ những cổ đông sáng lập. Với tư cách là một
thành viên hùn vốn, ngân hàng thương mại có thể đứng ra mua cổ phiếu cho
chính mình, trở thành thành viên sáng lập hay góp vốn kinh doanh. Cùng với
hoạt động đó, ngân hàng có thể cử người tham gia vào ban quản trị.
1.1.2.4. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Ngoài các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống, trong điều kiện cạnh tranh
gay gắt, các ngân hàng luôn cố gắng mở rộng và ngày càng chú trọng vào các
dịch vụ tiện ích nhằm thu hút khách hàng. Trong đó, dịch vụ thanh toán và
ngân quỹ là những lĩnh vực dịch vụ ngày càng được các ngân hàng chú trọng

phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng.
*) Dịch vụ thanh toán
Thông qua hệ thống thanh toán của ngân hàng, khách hàng đã có thêm một
phương tiện giao dịch nhanh gọn và an toàn. Ngân hàng đã không ngừng cải
6
tiến đưa ra ngày càng nhiều hình thức thanh toán thuận tiện cho khách hàng
như séc, thư tín dụng, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi và thanh toán qua thẻ…
- Séc là tờ lệch trả tiền vô điều kiện của chủ tài khoản ký phát, ra lệnh cho
ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người
được chỉ thị có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc.
- Thư tín dụng được dùng để thanh toán tiền hàng trong điều kiện bên bán
đòi phải có đủ tiền để chi trả ngay và phù hợp với tổng số tiền đã giao theo hợp
đồng hoặc đơn đặt hàng đã ký.
- Ủy nhiệm thu: là giấy đòi tiền do người thụ hưởng lập gửi cho ngân hàng
để nhờ ngân hàng thu hộ tiền hàng hóa dịch vụ đã cung ứng.
- Ủy nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng trích
tiền từ tài khoản của mình chi trả cho người thụ hưởng.
- Thẻ thanh toán: là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân
hàng phát hành phục vụ cho khách hàng chủ yếu trong lĩnh vức thanh toán phi
mậu dịch. Khách hàng có thể thanh toán qua thẻ, rút tiền tại máy, giao dịch…
Không chỉ dừng lại ở những dịch vụ thanh toán trong nước, ngày nay ngân
hàng đã mở rộng liên kết với các ngân hàng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu
thanh toán nước ngoài của khách hàng. Các phương tiện thanh toán cũng bao
gồm thương phiếu, séc, thẻ thanh toán và phương tiện thanh toán chủ yếu
thông qua thanh toán tín dụng chứng từ, nhờ thu, mở tài khoản và phương thức
chuyển tiền…
*) Dịch vụ ngân quỹ
Dịch vụ ngân quỹ của ngân hàng bao gồm dịch vụ thu tiền và dịch vụ phát
tiền. Dịch vụ này đảm bảo tính thanh khoản và sự lưu thông tiền trong ngân
quỹ của ngân hàng.

Dịch vụ thu tiền được thực hiện trên cơ sở khách hàng nộp tiền vào ngân
hàng, thông thường là khách hàng đến gửi tiền, trả nợ tiền vay, lãi vay hoặc
nộp tiền nhờ ngân hàng thanh toán…
Dịch vụ phát tiền tương ứng với việc lĩnh tiền của khách hàng. Thông
thường khách hàng đến lĩnh tiền trong trường họp rút vốn tiền gửi, lĩnh lãi tiền
gửi, nhận tiền vay, rút tiền mặt chi tiêu…
7
1.1.2.5. Các hoạt động khác
Bên cạnh những hoạt động chính như huy động vốn và tín dụng thì ngân
hàng còn cung cấp cho khách hàng một số dịch vụ khác đi kèm nhằm đa dạng
hóa các hoạt động của mình và đáp ứng được mọi yêu cầu cần thiết của khách
hàng. Có rất nhiều dịch vụ được ngân hàng cung cấp như:
- Dịch vụ ủy thác: là dịch vụ quản lý tài sản được thực hiện dưới nhiều hình
thức và cách sắp xếp khác nhau. Dịch vụ ủy thác có thể được chia thành 3 lĩnh
vực chính: việc ấn định tài sản, việc điều hành dịch vụ ủy thác, giám hộ tài sản
và hoạt động của các cơ quan đại diện.
- Dịch vụ tư vấn: là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng những lời khuyên
tốt nhất, những hiểu biết sâu sắc nhất về lĩnh vực mà khách hàng yêu cầu. Qua
đó họ xây dựng được những phương án kinh doanh tối ưu, có những quyết
định đúng, kịp thời trong đầu tư, sản xuất từ đó giảm thiểu được rủi ro và đạt
được lợi nhuận tối đa.
- Dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo quản ký gửi, nghiệp vụ ngân hàng trên thị
trường chứng khoán đây là những hoạt động phức tạp và đòi hỏi cần chuyên
sâu vì vậy các ngân hàng thường lập các công ty con hoạt động chủ yếu trong
lĩnh vực này.
1.1.3. Hoạt động tín dụng
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng nói riêng và của các
trung gian tài chính nói chung, nó chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản,
tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động chứa đừng nhiều rủi ro nhất.
Theo Luật các tổ chức tín dụng Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt

Nam điều 49 ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, các nhân
dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác,
bảo lãnh cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng
Nhà nước”.
Như vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế giữa người đi vay và ngân
hàng trong đó ngân hàng nhượng quyền sử dụng vốn cho người đi vay trên
nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.
Các hình thức cấp tín dụng truyền thống được ngân hàng cung cấp:
8
1.1.3.1. Hoạt động chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại, là một giấy nợ phát sinh
trong quan hệ thương mại, dùng để xác nhận cho người cầm nó một trái quyền
ngắn hạn về tiền đối với người thụ lệnh khi giấy nợ đến hạn.
Thương phiếu là giấy tờ có giá, là chứng chỉ công nhận quyền hạn về tìa
sản nhất định cho người sở hữu hợp pháp thương phiếu. Có khả năng chuyển
nhượng dễ dàng, có tính đảm bảo cao khả năng thanh toán của thương phiếu
tương đối chắc chắn.
Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân
hàng, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu
chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận về một khoản tiền bằng mệnh
giá trừ đi lợi tức và hoa hồng phí.
Số tiền ngân hàng cho khách hàng:
T = M – [ M*i*t +H1 +H2 ]
Trong đó: M: Mệnh giá của thương phiếu
i: Lãi suất chiết khấu
t: Thời hạn chiết khấu
H1: Hoa hồng phí phụ thuộc theo thời gian
H2: Hoa hồng cố định
Ngân hàng chỉ chấp nhận chiết khấu các thương phiếu:
- Còn thời hạn thanh toán theo quy định của ngân hàng Nhà nước

- Phải hợp lệ về mặt hình thức và nội dung.
- Đối với hối phiếu phải có chữ ký chấp nhận của người
- Khách hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình
thức ký hậu.
Đến thời hạn thanh toán thương phiếu ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ của
người có trách nhiệm thanh toán thương phiếu. Nếu người này không thanh
toán ngân hàng sẽ có 2 cách xử lý:
- Thu hồi tiền từ người xin chiết khấu, trả lại thương phiếu cho họ đòi nợ.
- Tiến hành thủ tục tố tụng để truy đòi số nợ.
Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu cũng có nhiều ưu điểm:
9
- Chiết khấu là nghiệp vụ ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ là khá chắc chắn.
- Là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức đối với ngân hàng.
- Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết
khấu thường ngắn dưới 90 ngày và ngân hàng có thể dễ dàng xin tái chiết khấu
thương phiếu ở ngân hàng Trung ương.
- Tiền của khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản
tiền gửi của khách hàng bởi vậy nó tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng.
Bên cạnh đó ngân hàng vẫn có thể gặp rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu
khi:
- Ngân hàng chiết khấu các thương phiếu giả mạo.
- Người chịu trách nhiệm thanh toán mất khả năng thanh toán trước khi
thương phiếu đến hạn.
1.1.3.2. Hoạt động cho vay
Đây được coi là hoạt động mạnh nhất, đa dạng nhất trong các nghiệp vụ tín
dụng được ngân hàng cung cấp. Với nhiều hình thức cho vay đa dạng phù hợp
với mọi đối tượng khách hàng.
*) Cho vay thấu chi
Thấu chi là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép người vay được
chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và

trong khoảng thời gian xác định. Hạn mức này được gọi là hạn mức thấu chi.
Trong quá trình hoạt động khách hàng có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi…
vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (vẫn nằm trong hạn mức thấu chi). Khi khách
hàng có tiền nhập về tài khoản ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Số tiền lãi mà khách hàng phải trả:
= lãi suất thấu chi * thời gian thấu chi * số tiền thấu chi
Ưu điểm của hình thức này
- Đây là hình thức vay tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá
trình thanh toán, chủ động, nhanh và kịp thời.
- Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt thủ tục đơn giản không gây
phiền hà nhiều cho khách hàng.
Bên cạnh đó nhược điểm của hình thức cấp tín dụng này:
10
- Ngân hàng luôn phải dự trữ vốn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng
khi họ còn hạn mức.
- Đây là hình thức cấp tín dụng không có đảm bảo, ngân hàng cũng không
kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng vì vậy rủi ro tín
dụng đối với khoản vay là rất lớn.
Vì vậy ngân hàng chỉ cấp tín dụng theo hình thức này với những khách
hàng quen thuộc, có uy tín và ngân hàng có ý muốn giúp đỡ.
*) Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay tưong đối phổ biến đối với các khách hàng không có
nhu cầu vay vốn thường xuyên, khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ
yếu, khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất thì mới vay vốn ngân hàng.
Mỗi lần vay khách hàng phải trình ngân hàng phương án sự dụng vốn, ngân
hàng sẽ xem xét có quyết định cho vay hay không. Theo từng kỳ hạn nợ trong
hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Lãi suất cho hình thức tín dụng này có
thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối
đơn giản, tuy nhiên mỗi lần xin vay khách hàng phải làm đơn và trình phương
án vay vì vậy ngân hàng dễ dàng có thể kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay

của khách và hạn chế rủi ro cho khoản tín dụng.
*) Cho vay theo hạn mức
Là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng
hạn mức tín dụng. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối
đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở nhu cầu vốn và
nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện với những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh, tốc độ luẩn chuyển vốn tín dụng nhanh.
Ngân hàng không xác định trước kỳ hạn nợ và thời hạn tín dụng, khi khách
hàng có thu nhập ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo tính chủ động trong quản lý
ngân quỹ của khách hàng. Tuy nhiên ngân hàng khó có thể kiểm soát được
hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn
đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút. Vì
11
vậy hình thức cấp tín dụng này chỉ cấp cho các khách hàng có tín nhiệm với
ngân hàng trong quan hệ tín dụng, vay vốn và trả nợ sòng phẳng.
*) Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp
khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ
thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Người vay cam kết mọi khoản thu bán hàng
đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi trả thanh toán cho nhà cung
cấp và lúc này các khoản phải thu, hàng hóa trong kho trở thành vật đảm bảo
cho khoản vay.
Rủi ro chỉ đến với ngân hàng khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc
tiêu thụ và khi đó kéo theo khó khăn trong việc thu hồi vốn của ngân hàng.
*) Cho vay trả góp
Là hình thức tín dụng, thoe đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm
nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Đây là hình thức tín dụng tài
trợ nhắm khuyến khích tiêu thụ hàng hóa. Thường áp dụng đối với khoản vay

trung và dài hạn tài trợ cho tài sản cố định, cho hàng hóa lâu bền.
Cho vay trả góp thường có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng
chính hàng hóa mua trả góp đó. Rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường
là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
*) Cho vay gián tiếp
Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho
vay thông qua các nhóm sản xuất, hội Nông dân, hội Cựu chiến binh, hội Phụ
nữ… Tổ chức trung gian này đứng ra tín chấp cho các thành viên vay vốn hoặc
bảo lãnh cho các thành viên. Điều này tạo thuận tiền cho những người vay khi
họ không có hoặc không đủ tài sản thế chấp.
Ngân hàng có thể nhờ các tổ chức trung gian này thực hiện vài khâu trong
quá trình cho vay như thu nợ hay phát tiền… Cho vay qua trung gian tài chính
thường áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ. Cho vay qua trung
gian nhằm giảm bớt rủi ro, cho phí cho ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ
nhiều yếu điểm như nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình để tăng lãi
suất cho vay, giữ tiền của các thành viên khác sử dụng cho mục đích của mình.
12
1.1.3.3. Hoạt động cho thuê tài chính
Là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng mua tài sản về cho
khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ giá trị của tài
sản cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Theo
phương thức này người thuê được sử dụng tài sản mà mình cần trên cơ sở đi
thuê, không phải bỏ vốn mua mà chỉ phải chi tiền thuê tài sản hàng kỳ cho
ngân hàng.
Đối với ngân hàng cũng giống như một khoản vay thông thường ngân hàng
xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau một thời hạn nhất định. Khách
hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kỳ. Ngân hàng cũng đối
đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không hiệu quả, không trả tiền thuê
đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên thuê có nhiều điểm khác so với vay. Tài sản
cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng.

Tài sản vốn dưới hình thức tín dụng cho thuê tài chính đối với bên thuê mặc
dù giá thường đắt hơn song có nhiều điểm thuận lợi:
- Nó cho phép bên thuê được nhận một khoản tài trợ là 100% các khoản
đầu tư và tiết kiệm được việc sử dụng vốn tự có của mình.
- Nó không đè nặng lên bảng tổng kết tài sản và nó cho phép duy trì hay ít
ra không làm năng thêm năng lực đi vay.
- Nhờ việc đi thuê doanh nghiệp có khả năng đổi mới thường xuyên hơn về
tài sản, tránh lạc hậu, thỏa mãn các cơ hội kinh doanh.
Ngân hàng phải có trách nhiệm cung cấp đúgn các tài sản àm khách hàng
cần và đảm bảo về chất lượng tài sản đó. Nó thường là tài sản đặc chủng, khó
bán, nếu khách hàng không thuê nữa ngân hàng khó có thể thu hồi được chi
phí. Đây là tài sản đi thuê do đó nhiều doanh nghiệp sử dụng không giữ gìn và
bảo tu cẩn thận làm hư hỏng tài sản của ngân hàng vì vậy để giảm thiểu rủi ro
trong bất cứ trường hợp nào ngân hàng cũng cần giữ quyền sở hữu đối với tài
sản cho thuê, thường xuyên kiểm tra và ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy
người thuê không thực hiện đúng hợp đồng.
13
1.1.3.4. Hoạt động bảo lãnh
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng
khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất
tiền ngay khi bảo lãnh, mà chỉ phải xuất tiền khi khách hàng không thực hiện
được cam kết. Bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng và khi ngân hàng
đứng ra trả nợ thay cho khách hàng thì khoản chi trả này được xếp vào tài sản
xấu trong nội bảng cấu thành nợ quá hạn. Vì vậy bảo lãnh cũng chứa đựng các
rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phân tích khách hàng như
khi cho vay.
Bảo lãnh ngân hàng là một mối liên kết trách nhiệm về tài chính giúp san sẻ
rủi ro cho khách hàng. Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên

thứ ba khi tổn thất xảy ra.
Có rất nhiều các hình thức bảo lãnh được ngân hàng cung cấp nhưng chủ
yếu bao gồm:
- Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu
tư về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu có vi phạm các
quy định trong hợp đồng dự thầu.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn
thất hộ khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam
kết, gây tổn thất cho bên thứ ba.
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng sẽ
hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua nếu bên cung cấp không hoàn trả.
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay: là cam kết của ngân hàng đối với
người cho vay về việc trả gốc và lãi thay nếu khách hàng của ngân hàng không
trả được.
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh
toán tiền theo hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của
ngân hàng không thanh toán đủ…
14
1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1. Các loại RR trong hoạt động tín dụng của NHTM
1.2.2. Rủi ro tín dụng của NHTM
Rủi ro tín dụng phát sinh khi mà ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc
và lãi của khoản vay hoặc việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn.
Rủi ro tín dụng là kết quả của việc ngân hàng cấp tín dụng cho kách hàng và
ngân hàng nhận được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với cam kết sẽ
thanh toán cả gốc và lãi đầy đủ đúng hạn cho ngân hàng. Nếu tất cả các khoản
đầu tư của ngân hàng được thanh toán đẩy đủ cả lãi và gốc đúng hạn thì ngân
hàng không chịu bất kỳ rủi ro tín dụng nào.
1.2.2.1. Khái niệm RRTD
Rủi ro tín dụng là rủi ro thường gặp nhất trong hoạt động của ngân hàng

thương mại, là rủi ro gắn liền với hoạt động quan trọng nhất có quy mô lớn
nhất của ngân hàng thương mại. Rủi ro tín dụng phát sinh khi một bên đối tác
không thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ hợp đồng đối với ngân hàng,
bao gồm cả việc không thực hiện thanh toán nợ cho dù đó là nợ gốc hay nợ lãi
khi khoản nợ đến hạn. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi là khách quan.
Ngân hàng chỉ có thể kiểm soát đề phòng, hạn chế làm giảm thiệt hại do nó gây
ra chứ không thể loại trừ vì vậy rủi ro tín dụng được coi là bạn đường trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hạn chế và kiểm soát rủi ro tín dụng luôn được ngân hàng quan tâm.
Không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các
vấn đề sẽ xảy ra, khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi
do nhiều nguyên nhân hoặc cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện
phân tích đúng. Vì vậy, ngân hàng luôn tìm cách chấp nhận rủi ro ở mức phù
hợp.
1.2.2.2. Ảnh hưởng của RRTD
*) Tới hoạt động của ngân hàng
- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu được huy động từ các tổ chưc, dân cư
trong nền kinh tế. Nguồn vốn này được sử dụng chính là tài trợ cho hoạt động
15
tín dụng. Khi rủi ro xảy ra nó ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn vốn của ngân
hàng. Lúc này ngân hàng sẽ phải bù tiền ra để trả cho các khoản tiền huy động
khi đến hạn. Đến một giới hạn nào đó ngân hàng sẽ thiếu hụt không còn đủ để
thanh toán vì vậy rủi ro tín dụng làm giảm tính thanh khoản của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng
Tín dụng là hoạt động tạo ra phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Lợi nhuận
của hoạt động này được tính bằng chênh lệch giữa thu nhập cho vay và chi phí
huy động. Khi rủi ro xảy ra ngân hàng sẽ không thu được lãi vay bên cạnh đó
khi phát sinh các khoản nợ xấu, nợ khó đòi ngân hàng phải trích lập dự phòng
rủi ro và nguồn của quỹ này được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Vì vậy rủi ro tín

dụng ảnh hưởng trực tiếp làm giảm doanh thu, kéo theo giảm lợi nhuận của
ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín, giảm khả năng huy động vốn của ngân
hàng
Là trung gian tài chính vốn được huy động chủ yếu từ nền kinh tế, vì vậy
uy tín của ngân hàng đóng vai trò quan trọng. Một ngân hàng muốn huy động
được nhiều vốn hơn thì cần tạo sự tín nhiệm của khách hàng nhiều hơn nữa.
Nếu một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ quá lớn, vốn tự có nhỏ sẽ
gây sự nghi ngờ mất lòng tin của khách hàng. Và khi rủi ro tín dụng xảy ra
hình ảnh ngân hàng sẽ bị giảm sút không một cá nhân, tổ chức nào muốn gửi
tiền của mình tại ngân hàng. Họ không cảm thấy an toàn cho nguồn vốn của họ
và lúc này kéo theo nhiều rủi ro không mong muốn đến với ngân hàng. Do đó
trong hoạt động của mình ngân hàng cần xây dựng một hình ảnh, uy tín tốt.
- Rủi ro tín dụng dẫn đến phá sản ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng ở mức độ nhẹ sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng,
nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và nếu không kiểm
soát được thì hậu quả cuối cùng là sự phá sản của ngân hàng. Khi rủi ro liên
tiếp xảy ra ngân hàng không còn kiểm soát được, các khoản tiền lấy ra bù đắp
dần làm giảm tính thanh khoản của ngân hàng, làm giảm dần vốn chủ sở hữu,
giảm uy tín của ngân hàng các nguồn huy động bị hạn chế mọi hoạt động của
ngân hàng bị ảnh hưởng. Ngân hàng lúc này đứng trước nguy cơ phá sản gây
16
hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng cho hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn bộ
nền kinh tế nói chung.
*) Tới toàn bộ nền kinh tế
Là một trung gian tài chính, một kênh dẫn vốn cho toàn bộ nền kinh tế.
Ngân hàng là chủ thể chính đáp ứng mọi nhu cầu về vốn trong sản xuất kinh
doanh, giúp vòng quay vốn trên thị trường diễn ra nhanh hơn, có vai trò dẫn
vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, giúp các doanh nghiệp kịp thời cho quá
trình tái sản xuất. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng còn là cầu nối giữa

doanh nghiệp với thị trường, ngân hàng giúp các doanh nghiệp nâng cao chất
lượng về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị
trường, từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh
giữa một nền kinh tế ngày càng phát triển. Sự trợ giúp của ngân hàng tới mọi
hoạt động của nền kinh tế là rất lớn vì vậy khi ngân hàng gặp rủi ro hay phá
sản tác động xấu tới tình hình sản xuất của các doanh nghiệp. Nó sẽ làm nền
kinh tế suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm nền kinh tế rơi vào biến động.
*) Tới khách hàng
Nếu rủi ro xảy ra ảnh hưởng tới ngân hàng thì cũng gây ảnh hưởng trực tiếp
tới khách hàng. Lúc này khách hàng phải đối mặt với nguy cơ mất vốn, mất
nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, mất quyền được sử
dụng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp.
Khách hàng là những người trực tiếp gửi tiền vào ngân hàng, những người
vay vốn, những người đang sử dụng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Họ tin
tưởng vào uy tín của ngân hàng, họ gửi tiền không đòi hỏi vật thế chấp, họ tin
tưởng cung cấp thông tin dự án nhờ ngân hàng tài trợ, họ thế chấp tài sản, họ
sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng và khi rủi ro xảy ra họ là người
thiệt hại nhiều nhất. Vì vậy sự sụp đổ của bất kỳ một ngân hàng nào cũng gây
hoang mang mất lòng tin của khách hàng đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng.
1.2.2.3. Các nguyên nhân của RRTD
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
*) Nguyên nhân chủ quan thuộc về ngân hàng
17
- Chính sách và quy trình tín dụng của ngân hàng còn nhiều hạn chế, chưa
chặt chẽ.
Hiện nay hệ thống ngân hàng thương mại chưa đưa ra một chính sách và
quy trình tín dụng chung áp dụng cho toàn hệ thống, dẫn đến chưa có quy trình
quản trị rủi ro tín dụng một cách hữu hiệu. Chưa chú trọng đến khâu phân tích
khách hàng ban đầu. Xếp loại rủi ro tín dụng để tính toán điều kiện và khả
năng trả nợ chưa thực sự chính xác. Đối voiứ cho vay doanh nghiệp vừa và

nhỏ, cá nhân, hộ gia đình quyết định cho vay của ngân hàng chủ yếu dựa trên
kinh nghiệm và tài sản đảm bảo chưa áp dụng công cụ chấm điểm tín dụng.
- Ngân hàng còn chưa chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện
cấp tín dụng.
Đôi khi ngân hàng quá theo đuổi mục tiêu lợi nhuận nên coi nhẹ chỉ tiêu
đảm bảo an toàn dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao, cho vay vượt mức cho phép theo
quy định của ngân hàng Nhà nước dẫn đến làm giảm khả năng thanh khoản,
giảm vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Đối với các khách hàng tiềm năng, khách
hàng trung thành ngân hàng cố gắng tạo mọi điều kiện đôi khi gạt bỏ những
rào cản, bỏ qua những bước thẩm định tạo thuận lợi giữ khách hàng ở lại vay
vốn tại ngân hàng. Vì vậy đôi khi ngân hàng đã tự đẩy mình đối mặt với rủi ro
tín dụng.
- Thiếu thông tin về khách hàng, thông tin tín dụng tin cậy, kịp thời, chính
xác trước khi ra quyết định cấp tín dụng.
Hiện nay các ngân hàng vẫn chưa xây dựng được kênh thông tin riêng về
khách hàng một cách đầy đủ, chưa có kênh kiểm tra chéo thông tin. Ngân hàng
chỉ có thể thẩm định thông tin của khách hàng từ hệ thống thông tin tín dụng
(CIC) của ngân hàng Nhà nước và chủ yếu thông tin vẫn do khách hàng tự
cung cấp. Vì vậy việc phân tích tín dụng vẫn còn hạn chế và chưa thực sự
chính xác. Do thông tin không đầy đủ số liệu có thể đã bị chỉnh sửa vì vậy việc
phân tích trên những con số không chính xác sẽ cho kết quả không chính xác,
ảnh hưởng tới việc ra quyết định, dẫn đến rủi ro tín dụng ngày càng tăng.
18
- Các hình thức cấp tín dụng chưa đa dạng, hạn mức tín dụng cho khách
hàng còn hạn chế, thời hạn tín dụng chưa phù hợp, tình trạng đảo nợ và giãn nợ
sử dụng không đúng mục đích.
- Năng lực, phẩm chất cán bộ tín dụng cũng là một nguyên nhân dẫn đến
rủi ro tín dụng.
Chất lượng cán bộ tín dụng yếu kém không đủ trình độ đánh giá khách
hàng hoặc đánh giá sai khách hàng thậm chí cố tình làm sai là một trong những

nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Nhân viên tín dụng phải là những người có
trình độ và vốn kiến thức xã hội tốt, phải am hiểu nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh
vực và đặc biệt để cho vay tốt họ phải am hiểu khách hàng của mình, am hiểu
lĩnh vực và môi trường kinh doanh của khách hàng. Bên cạnh đó cũng tồn tại
những cán bộ tín dụng thiếu phẩm chất, dễ bị cám dỗ, sẵn sàng tiếp tay cho
khách hàng rút ruột của ngân hàng vì vậy nhân viên ngân hàng phải là những
người có trình độ, có đạo đức nghề nghiệp mới có thể làm giảm và hạn chế rủi
ro cho ngân hàng.
*) Nguyên nhân khách quan
- Từ phía người vay
Có rất nhiều nguyên nhân cố ý hoặc không cố ý từ phía người vay gây ra
rủi ro cho ngân hàng. Cũng có nguyên nhân do trình độ yếu kém của người vay
trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, sự yếu kém trong quản lý, rất nhiều
người vay sẵn sàng mạo hiểm không lượng sức mình với mục đích thu được
lợi nhuận cao. Một số khác ngay từ khi bắt đầu vay vốn ngân hàng họ đã có ý
định lừa gạt. Nhiều khách hàng sau khi được vay vốn đã dùng vốn không đúng
mục đích như đã trình bày trong phương án xin vay. Việc chây ỳ khi đến hạn
trả nợ mà không chịu trả hay cố tình vay vốn để đảo nợ cũng là những nguyên
nhân dẫn đến khách hàng không trả được nợ đúng hạn cho ngân hàng, gây rủi
ro tín dụng.
- Do môi trường pháp lý, môi trường chính trị
Trong nền kinh tế khi mà tình hình chính trị không ổn định, Nhà nước can
thiệp quá sâu vào hoạt động của nền kinh tế sẽ gây ra những biến động không
đúng theo quy luật kinh tế học và không thể lường trước được những hậu quả,
19
tổn thất mà doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung phải gánh chịu.
Bên cạnh đó một môi trường pháp lý thiếu chặt chẽ, có nhiều thay đổi đột ngột
cũng gây những tổn thất ngoài dự đoán cho doanh nghiệp.
Hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ bản thân ngân hàng đã chứa đựng nhiểu rủi
ro hơn các lĩnh vực kinh doanh khác vì vậy ngân hàng cần hoạt động trong một

môi trường kinh doanh lành mạnh và hành lang pháp lý chặt chẽ, nhằm giảm
thiểu rủi ro và thuận lợi trong việc thu hồi nợ.
- Do môi trường kinh tế
Các yếu tố kinh tế như chu kỳ kinh tế, lãi suất thị trường, tỷ giá, lạm phát,
thất nghiệp… cũng tác động gián tiếp gây nên rủi ro tín dụng. Khi nền kinh tế
hưng thịnh mọi hoạt động kinh tế đều diễn ra tích cực, hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp diễn ra tốt, nguồn tài trợ đảm bảo trả nợ đầy đủ và đúng
hạn vì vậy rủi ro tín dụng của các ngân hàng được hạn chế. Nhưng khi nền
kinh tế rơi vào suy thoái, khủng hoảng, cả sản xuất và tiêu dùng đều giảm sút.
Doanh thu của các doanh nghiệp lúc này đều giảm, lợi nhuận bị ảnh hưởng và
gián tiếp ảnh hưởng tới nguồn trả nợ cho ngân hàng. Lúc này rủi ro tín dụng
xảy đến với ngân hàng là rất lớn.
- Do môi trường xã hội
Phong tục tập quán thói quen tiêu dùng, trình độ văn hóa của khách hàng
cũng gây nên rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Khi các doanh nghiệp có nhu cầu
vay vốn, họ đề xuất phương án, ngân hàng thẩm định phương án của họ nếu
khả thi sẽ ra quyết định cho vay. Tuy nhiên tính khả thi của phương án kinh
doanh còn chịu ảnh hưởng lớn của phong tục tập quán thói quen tiêu dùng và
thị trường mà sản phẩm nhằm tới. Các yếu tố này có thể thay đổi bất thường,
các yếu tố này đôi khi làm sai lệch các tính toán và khi thực hiện dự án lợi
nhuận thu được sẽ không như dự tính. Việc thực hiện dự án không như kế
hoạch điều này ảnh hưởng tới khả năng trả nợ vay cho ngân hàng. Đẩy ngân
hàng đối mặt với rủi ro tín dụng.
Bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân khác đó là những nguyên nhân bất
khả kháng, ngân hàng không thể kiểm soát và dự tính được như thiên tai, hỏa
20
hoạn, chiến tranh… nó cũng là những nguyên nhân gây mất khả năng thanh
toán của người vay làm tăng nợ xấu cho ngân hàng.
1.2.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh RRTD
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lý rủi ro tín

dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những
nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng có thể cụ thể hóa thành một
số chỉ tiêu để phản ánh và nhận biết rủi ro tín dụng được sớm hơn.
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thỏa
thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn
nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
Chỉ tiêu này thường nói lên chất lượng tín dụng của một ngân hàng.
Thông thường chỉ số này ở mức dưới 5% thì hoạt động kinh doanh của ngân
hàng là bình thường. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 5% thì chất lượng tín dụng của
ngân hàng tại thời điểm đó kém và rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể gặp
phải là cao.
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn / tổng dư nợ *100%
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như
quá một kỳ gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán
được, con nợ thua lỗ chiền miên, phá sản…
Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng, hy vọng thu lại tiền của
ngân hàng lúc này trở nên mong manh. Ngân hàng cần có những biện pháp
hữu hiệu hơn để giải quyết tình trạng này. Tỷ lệ này càng lớn thì rủi ro xảy đến
với ngân hàng càng cao.
Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi / tổng dư nợ *100%
- Dự phòng rủi ro
Tỷ lệ trích dự phòng là tỷ lệ áp dụng cho từng đối tựong và từng loại tài
sản. Tài sản nào ít rủi ro thì tỷ lệ trích lập dự phòng thấp có 5 loại đối tượng
cần trích dự phòng cụ thể theo Quyết định 493 của ngân hàng Nhà nước nợ
nhóm 1 trích lập 0%, nợ nhóm 2 trích lập 5%, nhóm 3 trích lập 20%, nhóm 4
21
trích lập 50%, nhóm 5 trích lập 100% và trích dự phòng chung cho các khoản
nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 là 0.75%. Lượng trích dự phòng phản ánh chi phí

vốn mà ngân hàng phải bỏ ra vì lượng trích dự phòng này ngân hàng phải dự
trữ, nó không được sử dụng để quay vòng vốn. Lượng trích dự phòng càng cao
thì chi phí vốn ngân hàng bỏ ra càng lớn. Điều này là điều các ngân hàng
không mong muốn.
Tỷ lệ trích dự phòng = Trị giá trích dự phòng / tổng dư nợ *100%
- Lãi treo và tỷ lệ lãi treo
Lãi treo là các khoản lãi mà khách hàng khi đến hạn trả lãi không trả được
hoặc không trả đủ. Lãi treo làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Tỷ lệ lãi treo = Lãi treo phát sinh / tổng thu nhập * 100%
Tỷ lệ này càng lớn thể hiện trong kỳ ngân hàng bị giảm thu nhập nhiều vì
vậy đối với hoạt động ngân hàng tỷ lệ này càng thấp càng tốt.
- Hiệu suất sử dụng vốn
Thể hiện khả năng sử dụng tối ưu nguồn vốn mà ngân hàng huy động
được. Hiệu suất này càng cao cho thấy ngân hàng đã quay vòng vốn nhanh
song kéo theo ngân hàng cũng phải đối mặt với rủi ro tiềm ẩn lớn.
Hiệu suất sử dụng vốn = Tổng dư nợ / tổng thu nhập /100%
- Các chỉ tiêu khác
Bên cạnh những chỉ tiêu truyền thống trên ngân hàng còn đánh giá rủi ro
tín dụng thông qua một số chỉ tiêu như tính đa dạng hóa của tài sản, tình hình
tài chính phương án vay của khách hàng, hay ngày nay các ngân hàng còn
thường dùng mô hình xếp hạng tín dụng người vay, đánh giá qua tài sản đảm
bảo, quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng để đánh giá thêm trước
khi cấp tín dụng.
1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của NHTM
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Chính sách tín dụng và quy trình tín dụng
*) Chính sách tín dụng
Mỗi ngân hàng thương mại đều xây dựng cho mình những chính sách tín
dụng riêng. Song một chính sách tín dụng tốt phải thể hiện được chiến lược
22

cho vay của ngân hàng trong giai đoạn cụ thể là cơ sở để hình thành nên thủ
tục cho vay. Chính sách tín dụng phải vạch ra cho cán bộ tín dụng phương
hướng hoạt động và một khung tham chiếu rõ ràng làm căn cứ để xem xét nhu
cầu vay vốn của khách hàng. Tuy nhiên chính sách tín dụng cũng không nên
quy định quá chặt chẽ sẽ bóp nghẹt tính sáng tạo của cán bộ tín dụng. Chính
sách tín dụng cho phép cán bộ tín dụng quyết định các khoản tín dụng an toàn
và hiệu quả.
*) Quy trình cấp tín dụng
Quy trình tín dụng là trình tự các bước mà ngân hàng thực hiện cho vay
đối với khách hàng. Quy trình tín dụng phản ánh nguyên tắc tín dụng, phương
pháp tín dụng, trình tự giải quyết các công việc thủ tục hành chính, thẩm quyền
giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động cấp tín dụng.
Một quy trình tín dụng gồm 4 khâu cơ bản theo trình tự:
- Thiết lập hồ sơ tín dụng
- Phân tích tín dụng
- Quyết định cấp tín dụng
- Giám sát và quản lý tín dụng
Áp dụng một quy trình tín dụng chặt chẽ được tuân thủ nghiêm ngặt sẽ
giúp ngân hàng ra các quyết định cấp tín dụng đúng đắn, tiết kiệm thời gian chi
phí và đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh của ngân hàng, giảm thiểu rủi ro
không mong muốn.
1.3.1.2. Cách thức quản lý
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn ngân hàng tập trung vào hình thức tín
dụng nào cho phù hợp với điều kiện, hoản cảnh tình hình kinh tế thời kỳ đó.
Trước và sau khi cấp tín dụng ngân hàng cần đưa ra nhiều hình thức kiểm tra
giám sát khoản tín dụng như thế nào, cách thức xử lý đối với các khoản vay
một cách linh hoạt đúng đắn ảnh hưởng rất nhiều tới hạn chế rủi ro tín dụng
xảy ra với ngân hàng. Trong trường hợp người vay gặp khó khăn về tài chính
tạm thời song vẫn có khả năng và điều kiện trả nợ ngân hàng có thể hỗ trợ
khách hàng bằng cách cấp tín dụng thêm, gia hạn nợ hoặc giảm lãi… Song đối

với những khoản cho vay khách hàng không có khả năng trả nợ, có ý định lừa
23
đảo ngân hàng, ngân hàng cần phong tỏa, bán tài sản thế chấp, thu hồi nợ càng
nhanh càng tốt. Trong thời kỳ kinh tế có nhiều biến động hình thức cho vay
của ngân hàng cũng cần thay đổi, trong thời kỳ này ngân hàng cần chú trọng
vào cho vay ngắn hạn để giảm thiểu được những rủi ro không lường trước
được đối với khách hàng cũng như đối với ngân hàng.
Với hình thức quản lý cho vay linh hoạt, thích ứng theo từng thời kỳ và có
hình thức quản lý khoản cấp tín dụng chặt chẽ sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế
được rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó đa dạng các hoạt động tín dụng là một nhân
tố giúp ngân hàng phân tán rủi ro. Ngân hàng không nên tập trung cấp tín dụng
một đối tượng khách hàng, một ngành nghề, một thị trường mà cần đa dạng
hóa, cung cấp nhiều hình thức tín dụng phù hợp với nhiều đối tượng khách
hàng. Nó tránh hiện tượng bỏ trứng vào cùng một giỏ. Nếu một ngành nghề,
một đối tượng khách hàng hay một thị trường gặp biến động nó cũng không
gây ảnh hưởng lớn, rủi ro đến hoạt động của ngân hàng.
1.3.1.3. Chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng
Là nhân tố con người nhân tố quan trọng trong bất kỳ hoạt động nào. Một
hệ thống ngân hàng khi đã có một quy trình cấp tín dụng chặt chẽ song đội ngũ
cán bộ không có chuyên môn nghiệp vụ, không nhạy bén chỉ dập khuôn máy
móc, không biết nắm bắt tình hình, cập nhật thông tin thì chất lượng quy trình
cấp tín dụng sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Vì vậy, chất lượng
đội ngũ cán bộ ngân hàng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hạn chế rủi
ro tín dụng của ngân hàng.
1.3.1.4. Hệ thống thông tin
Ngày nay khi mà công nghệ thông tin ngày càng phát triển thông tin không
những được phổ biến rộng rãi mà ngân hàng còn có thể thu thập thông tin từ
nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh hệ thống thông tin nội bộ về khách hàng của
ngân hàng thì ngân hàng Nhà nước đã xây dựng trung tâm thông tin tín dụng
liên ngân hàng. Nó nhằm cung cấp thông tin chéo nhau giữa các ngân hàng về

tình hình tín dụng của khách hàng trên toàn hệ thống liên ngân hàng. Đây là
một kênh thông tin giúp các ngân hàng có thể kiểm tra đánh giá khách hàng
đầy đủ hơn nhằm đưa ra các quyết định cấp tín dụng đúng về hạn mức cho vay,
24
thời hạn tín dụng, cách thu hồi nợ nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân
hàng. Kênh thông tin này cũng giúp các ngân hàng có thông tin chính xác hơn
về các khách hàng lần đầu đến với ngân hàng. Nó khắc phục được nhược điểm
của hệ thống thông tin nội bộ chỉ có các dữ kiện về các khách hàng quen thuộc
đã từng giao dịch với ngân hàng.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
1.3.2.1. Môi trường kinh tế, chính trị
Với một nền chính trị ổn định, nền kinh tế phát triển bền vững là cơ sở để
các doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng có điều kiện ổn
định hoạt động. Các ngân hàng có điều kiện phát huy hết khả năng của mình,
xây dựng nền kinh tế ngày càng tăng trưởng bền vững. Một xã hội ngày càng
ổn định dân trí ngày càng cao, đội ngũ nhân viên với trình độ ngày càng lành
nghề, trình độ quản lý và hiểu biết của khách hàng ngày càng chặt chẽ, kéo
theo hoạt động ngân hàng ít chịu ảnh hưởng từ bên ngoài, vì vậy rủi ro không
mong muốn sẽ được hạn chế.
1.3.2.2. Hành lang pháp lý và các CS của Nhà nước
Với hệ thống pháp luật và chính sách quy định chặt chẽ là cơ sở để các
doanh nghiệp và ngân hàng hoạt động, phát triển theo đúng quy định. Đặc biệt
ngày nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển hoạt động của các doanh nghiệp
không chỉ bó hẹp trong phạm vi trong nước mà còn tham gia kinh doanh với
đối tác nước ngoài, không chỉ kinh doanh các ngành nghề đơn giản như trước
đây mà để đáp ứng yêu cầu của thị trường nhiều ngành nghề mới đã ra đời. Vì
vậy chính sách và các quy định của Nhà nước càng đòi hỏi chặt chẽ và mở
rộng hơn nữa, đi sâu vào từng ngành nghề, từng lĩnh vực, đưa ra những tiêu
chuẩn, điều kiện và quy định cách thức hoạt động. Nó không những giúp các
doanh nghiệp có định hướng đúng, tuân thủ pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho

doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh mà nó còn quy định trách nhiệm của
doanh nghiệp với Nhà nước, với các đối tác của doanh nghiệp.
Có thể coi hành lang pháp lý và các chính sách quản lý, giám sát chặt chẽ là
rào cản đầu tiên hạn chế các sai phạm xảy ra, gây hậu quả không mong muốn
25

×