ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
BÀI TẬP NHĨM SEMINAR
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Chủ đề: Vai trị của nhân tố chủ quan trong sự hình thành, phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
Trang
I.
Phẩm chất Hồ Chí Minh....................................................................
1
1. Lý tưởng cao cả, hồi bão lớn lao cứu nước và ý chí nghị lực to
2
lớn.....................................................................................................
2. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và
7
cách mạng.........................................................................................
3. Tận trung với nước, tận hiếu với dân...............................................
10
4. Lòng yêu thương con người.............................................................
13
5. Lối sống giản dị................................................................................
16
II.
Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận..................
19
III.
Tài liệu tham khảo.............................................................................
21
IV.
Bản nhận xét đánh giá thành viên nhóm...........................................
23
I. PHẨM CHẤT HỒ CHÍ MINH
“Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ
Người ngồi đó, với cây chì đỏ
Vạch đường đi, từng bước, từng giờ...”
“Sáng tháng năm” - Tố Hữu
Những vần thơ xúc động trong thi phẩm “Sáng tháng năm” của thi sĩ Tố Hữu đã
khắc họa chân thực chân dung của chủ tịch Hồ Chí Minh - một vị lãnh tụ vĩ đại,
người cha già kính yêu của dân tộc, người đã cống hiến cả cuộc đời vì sự tự do độc
lập của dân tộc, người luôn đau đáu nỗi niềm trăn trở về một cuộc sống hịa bình, ấm
no, hạnh phúc của nhân dân... Hình ảnh người cha già ngày đêm trăn trở về việc
nước, việc dân ấy còn được khắc họa rõ nét qua những vần thơ của nhà thơ Việt
Phương:
“Đầu bạc phơ trăm mối nước non nhà
Căn nhà nhỏ những canh khuya vời vợi
Vẫn lo toan tháo cởi những bất hoà
Trái tim lớn đêm ngày quên mệt mỏi
Dệt dải hồng chắp nối bạn gần xa.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có lý tưởng cao cả và hồi bão cứu dân cứu nước,
khát vọng cứu nước thốt khỏi xiềng xích nơ lệ, thốt khỏi cảnh lầm than, cơ cực để
theo kịp các quốc gia, các cường quốc năm châu trên thế giới. Ở Người, ta còn thấy
ánh lên tư tưởng tận trung với nước, tận hiếu với dân, thương dân như con cùng tư
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng. Chưa dừng
lại ở đó, Người cịn sở hữu tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận.
Chính những phẩm chất này là những nhân tố chủ quan vơ cùng quan trọng giúp hình
thành, phát triển hệ tư tưởng Hồ Chí Minh vơ cùng sâu sắc, là tài sản quý báu của dân
tộc ta.
4
1. Lý tưởng cao cả, hoài bão lớn lao cứu nước và ý chí nghị lực to lớn
Ý chí và lý tưởng của Bác sớm được hình thành và phát triển thông qua sự giáo
dục của đấng sinh thành, từ hồn cảnh gia đình và q hương. Người sinh ra trong
một gia đình nhà Nho yêu nước, lớn lên cùng với sự phát triển lâu đời của truyền
thống anh dũng của vùng quê địa linh nhân kiệt. Ngay từ khi còn nhỏ, cha của Người,
cụ Nguyễn Sinh Sắc đã còn truyền cho Người một lịng nhiệt huyết, chí khí mạnh mẽ
và động lực vượt qua mọi gian nan để vươn tới sự nghiệp lớn cứu nước, cứu dân, giải
phóng dân tộc. Tính cách, ý chí của người dân xứ Nghệ, lòng yêu nước, thương dân
của cụ Nguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng sâu sắc tới Nguyễn Tất Thành và theo suốt
cuộc đời Hồ Chí Minh sau này. Các anh chị của Người lớn lên đều chịu ảnh hưởng
của ông bà, cha mẹ, chăm làm việc và rất thương người, đều là những người yêu
nước, đã tham gia phong trào yêu nước và bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến
bắt bớ tù đày. Mới 11 tuổi Nguyễn Sinh Cung đã chịu nỗi đau mất mẹ và em. Trong
những năm sống ở kinh thành Huế, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều mới lạ.
So với quê hương xứ Nghệ, Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện uy nghiêm.
Nguyễn Sinh Cung cũng thấy ở Huế có nhiều lớp người, những người Pháp thống trị
nghênh ngang, hách dịch và tàn ác; những ông quan Nam triều bệ vệ trong những
chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn, nhưng khúm núm rụt rè; cịn phần đơng
người lao động thì chịu chung số phận đau khổ và tủi nhục. Đó là những người nông
dân rách rưới mà người Pháp gọi là bọn nhà quê, những phu khuân vác, những người
cu ly kéo xe tay, những trẻ em nghèo khổ, lang thang trên đường phố... Những hình
ảnh đó đã in sâu vào ký ức của Nguyễn Sinh Cung. Tại quê nhà, Nguyễn Tất Thành
được nghe nhiều chuyện qua các buổi bàn luận thời cuộc giữa các thầy với các sĩ phu
yêu nước. Nguyễn Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc
cha chú trước cảnh nước mất, nhà tan. Trong những người mà ông Sắc thường gặp gỡ
có ơng Phan Bội Châu. Giống như nhiều nhà Nho yêu nước lúc bấy giờ, Phan Bội
Châu cũng day dứt trước hiện tình đất nước và số phận của dân tộc. Con người nhiệt
huyết ấy trong lúc rượu say vẫn thường ngâm hai câu thơ của Viên Mai:
“Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương”.
Tạm dịch:
“Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử sách,
Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương”.
Câu thơ đã tác động nhiều đến Nguyễn Tất Thành và góp
phần định hướng cho người thiếu niên sớm có hồi bão lớn.
Lớn dần lên, càng đi vào cuộc sống của người dân địa phương,
Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của
người dân mất nước. Đó là nạn thuế khóa nặng nề cùng với việc
nhân dân bị bắt làm phu xây dựng đường trong tỉnh, làm đường
từ Cửa Rào, đi Xiêng Khoảng (Lào) nơi rừng thiêng nước độc.
Những cuộc ra đi khơng có ngày về, nhân dân lầm than, ai oán.
Khoảng tháng 9/1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt
được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị
(préparatoire) Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh.
Chính tại ngơi trường này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được
tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Những cụm
từ đầy hoa mỹ của người Pháp đã thôi thúc ước nguyện đến
xem nước Pháp và các nước khác của chàng trai trẻ. Trong một
lần trả lời phỏng vấn nhà báo Nga (1923), Bác Hồ từng nói:
“Khi tơi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tơi được nghe ba chữ
Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da
trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ
thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn
tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy… Tơi quyết định
tìm cách đi ra nước ngồi.”
Những
chuyến
này
đi
giúp
dân, Bác đã sớm “có chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng
bào”.
Tháng 4/1908, Người tham gia cuộc biểu tình chống thuế
Nguyễn
của nông dân tỉnh Thừa Thiên, khởi đầu cho cuộc tranh đấu suốt
Tất Thành
đời Người vì quyền lợi của nhân dân lao
mở
rộng
thêm
tầm
nhìn và tầm
suy
nghĩ.
Người
nhận thấy ở
đâu người
dân
cũng
lam lũ đói
khổ,
nên
dường như
trong
họ
đang âm ỉ
những đốm
lửa
muốn
thiêu cháy
bọn áp bức
bóc
lột
thực
dân
phong kiến.
Trước cảnh
thống khổ
của
nhân
động. Trong thời gian học tại Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành được tiếp
xúc nhiều với sách báo Pháp. Các thầy giáo của Trường Quốc học Huế có người Pháp
và cả người Việt Nam, cũng có những người yêu nước. Chính nhờ ảnh hưởng của các
thầy giáo yêu nước và sách báo tiến bộ mà anh được tiếp xúc, ý muốn đi sang phương
Tây tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi những thành tựu của văn minh nhân loại
từng bước lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành.
Tháng 2/1911, Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn.Ở Sài Gòn một thời
gian ngắn, anh thường đi vào các xóm thợ nghèo, làm quen với những thanh niên
cùng lứa tuổi. Ở đâu anh cũng thấy nhân dân lao động bị đọa đày, khổ nhục. Nguyễn
Tất Thành cũng hay đến những cửa hàng ở gần cảng Sài Gòn, nơi chuyên nhận giặt là
quần áo cho các thủy thủ trên tàu Pháp, để tìm cách xin việc làm trên tàu, thực hiện
ước mơ có những chuyến đi xa.
Nghị lực phi thường để vượt qua những sóng gió, và kiên định trên con đường
cứu nước cứu dân. Chứng kiến những phong trào yêu nước liên tiếp thất bại trong thế
kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc quyết định không đi theo con đường của cụ Phan Bội Châu
hay Phan Châu Trinh mà sẽ sang phương Tây. Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất
Thành sinh ra và lớn lên khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lăng và đã trở thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân bị nơ lệ, đói khổ, lầm than. Quê hương có
truyền thống đấu tranh anh dũng, chống giặc ngoại xâm. Thời gian 10 năm sống ở
Kinh đơ Huế - trung tâm văn hóa, chính trị của đất nước, tiếp xúc với nền văn hóa
mới, với phong trào Duy Tân, đã cho Nguyễn Tất Thành nhiều hiểu biết mới. Nhìn lại
các phong trào yêu nước như phong trào Cần Vương, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
Hương Khê do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo; Phong trào Đông Du của cụ Phan Bội
Châu; Phong trào Đông Kinh nghĩa thục; cuộc khởi nghĩa Yên Thế do cụ Hoàng Hoa
Thám lãnh đạo; cuộc vận động cải cách của cụ Phan Châu Trinh và phong trào chống
thuế của nông dân Trung Kỳ, Anh rất khâm phục và coi trọng các bậc tiền bối, nhưng
Nguyễn Tất Thành không đi theo con đường đó. Thực tiễn thất bại của các phong trào
yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến chí hướng của
Nguyễn Tất Thành, để rồi anh có một quyết định chính xác và táo bạo là xuất dương
tìm đường cứu nước. Mặc dù một người bạn Bác từ chối đi cùng, Người vẫn một mực
khẳng định sẽ làm mọi thứ từ đôi bàn tay trắng, “sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để
đi”. “Tơi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét
họ như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” - lời tâm sự của Bác với một
người bạn mà Bác rủ đi cùng.
Trước khi đặt chân lên chuyến tàu Latouche Tréville, Bác đã đi bộ từ Phan Thiết
tới Sài Gịn vì trong đầu chỉ nghĩ về việc đi tìm con đường cứu nước. Nghĩ đến cuộc
hành trình lênh đênh trên biển hàng vạn dặm, anh không khỏi băn khoăn. Anh quyết
định bộc lộ tâm trạng của mình với một người bạn:
- Tơi đi ra ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế
nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có
điều mạo hiểm. Anh muốn đi với tơi không?
- Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?
- Đây, tiền đây... chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi.
Nguyễn Tất Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay của mình một cách tự tin và kiên
quyết. Ngày 5/6/1911, một thủy thủ dẫn Nguyễn Tất Thành, với tên mới là Văn Ba,
lên tàu gặp thuyền trưởng Mai Xen và được nhận vào làm phụ bếp trên tàu. Ngày
5/6/1911, tàu Ami Rau La Tu Sơ Tơ Rê Vin rời bến cảng Sài Gòn đi Mác-xây (Pháp),
mang theo một người thanh niên Việt Nam đầy lòng yêu nước, thương dân, ơm ấp
một hồi bão lớn lao: Tìm hiểu nền văn minh của thế giới, ra sức học hỏi để trở về
giúp nước. Một giai đoạn mới, một bước ngoặt mới mở ra trong cuộc đời Nguyễn Tất
Thành. Công việc trên tàu ln rất cực khổ, đói rét ln đeo bám Văn Ba. Có lần
Người st chết đuổi vì một lần sóng to, nhưng sau tất cả gian truân, anh Văn Ba đã
lần lượt tới Pháp, Anh, Mỹ, Nga... để tiếp tục làm thuê kiếm sống. Nhà thơ Chế Lan
Viên đã từng viết rất xúc động về những tháng năm khó khăn vất vả của Người:
“Có nhớ chăng, hỡi gió rét thành Ba Lê?
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Ln Ðơn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hơi Người nhỏ giữa đêm khuya?
Ðời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi,
Những đất tự do, những trời nô lệ,
Những con đường cách mạng đang tìm đi.
Ðêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lịng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa.”
Những ngày ở Pháp (1917), trước mỗi buổi sáng đi làm Bác đều đặt một viên
gạch vào bếp lò của bà chủ nhà. Đến chiều về, Người lấy viên gạch đó ra, bọc vào
những báo cũ rồi mang về giường cho đỡ rét. Không chỉ có cái đói, cái rét xứ người
ln thường trực, Nguyễn Ái Quốc còn nhiều lần bị giám sát, đe dọa tính mạng từ
những kẻ thù. Đó là bản án tử hình vắng mặt (1929) và những ngày bị thực dân Anh
bắt giam tại Hồng Kông (1931),...
Suốt 30 năm bôn ba qua gần 30 nước Á, Âu, Phi, Mĩ, Bác tranh thủ vừa học hỏi,
vừa nghiên cứu để tìm ra con đường phù hợp nhất để cứu nước nhà. Trong tâm
nguyện của Người luôn là ý niệm “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, nỗi
trăn trở ấy cũng khiến Người thao thức nhiều đêm...
“Đêm nay Bác ngồi đó
Đêm nay Bác khơng ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh.”
“Đêm nay Bác không ngủ” - Minh Huệ
2. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng
Có thể thấy rằng, nét độc đáo trong phong cách tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo,
giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng của Hồ Chí Minh được coi là cơ sở cho
việc hình thành những luận điểm, tư tưởng đặc sắc mang dấu ấn Hồ Chí Minh, tạo
nên sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với nhiều nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo tiền bối và
đương thời.
Với Hồ Chí Minh, các tư tưởng có một sự kết nối chặt chẽ với nhau tạo nên một
sự thống nhất, phù hợp với quy luật của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật
phát triển chung của nhân loại. Đầu tiên, độc lập là không phụ thuộc, không bắt
chước, không theo đi, giáo điều, tránh lối cũ, đường mịn và tự mình phải ln tìm
tịi, suy nghĩ. Tiếp theo, tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ, làm chủ bản thân và cơng
việc của mình, tự mình thấy trách nhiệm trước đất nước và dân tộc. Sáng tạo trong Hồ
Chí Minh là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù; sẵn
sàng từ bỏ những cái cũ, lạc hậu, tìm tịi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được
những địi hỏi của thực tiễn cuộc sống đặt ra. Phê phán đối với Người chính là đưa ra
những quan điểm và lập luận nhận định phản bác những tư duy, lối mòn về mặt lý
thuyết quá xa rời với thực tiễn; đối với Hồ Chí Minh, học ln với đi đơi với hành.
Cuối cùng là đổi mới, chính là việc khơng chỉ luôn học tập, kế thừa và phát huy
những điều quý giá của những người đi trước mà luôn cập nhập những gì mới nhất,
để đem lại những tư duy, những làn gió mới góp phần đưa dân tộc tiến gần hơn đến
quốc tế.
Chính đặc điểm này trong phẩm chất của Người đã giúp Người có thể kế thừa,
phát triển và đổi mới sáng tạo nhiều hệ thống tư tưởng tốt đẹp và tạo nên hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh, là tài sản quý giá của dân tộc ta. Cụ thể, với chủ nghĩa yêu nước
- động lực, sức mạnh giúp dân tộc ta tồn tại vượt qua mọi khó khăn trong quá trình
dựng, giữ nước và phát triển đất nước, Người đã chú ý kế thừa, phát triển truyền
thống này, đặc biệt là tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập, tự do của Tổ
quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng kế thừa phát triển những giá trị truyền
thống tốt đẹp và phong tục tập quán quý báu của dân tộc Việt Nam nhưng cũng cố
gắng xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, lỗi thời, khơng cịn phù hợp với sự phát triển của
con người, của đất nước. Bên cạnh việc gìn giữ, phát huy những truyền thống tinh
hoa của dân tộc, Người cũng học hỏi những tinh hoa của nhân loại. Cụ thể, với Nho
giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị đức để quản lý xã
hội, kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã hội lý
tưởng trong đó cơng bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để
có thể đi đến một thế giới đại đồng với hịa bình khơng có chiến tranh các dân tộc của
quan hệ hữu nghị và hợp tác. Người cũng kế thừa đổi mới phát triển tinh thần trọng
đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức của con người trong
công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Đối với phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa
phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con người, khuyến khích làm việc thiện,
chống lại điều ác, đề cao quyền bình đẳng của con người và chân lý khun con
người sống hịa đồng gắn bó và đất nước của đạo Phật. Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo để đoàn kết đồng bào theo đạo Phật đồn kết tồn dân vì nước Việt Nam hịa
bình thống nhất độc lập dân chủ và giàu mạnh. Với Lão giáo, Hồ Chí Minh kế thừa
phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con người sống gắn bó với thiên nhiên, hòa
đồng với thiên nhiên và phải bảo biết bảo vệ mơi trường sống. Người khun cán bộ
Đảng viên ít lòng tham về vật chất, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Với Chủ nghĩa Mác Lê-nin, Người có nói: Học Chủ nghĩa Mác - Lênin khơng phải
học thuộc lòng câu chữ như một con vẹt, mà cốt là nắm được nội dung tư tưởng và
phương pháp để ứng xử với con người và công việc đạt kết quả cao. Trên lập trường,
quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế
thừa, đổi mới, phát triển giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa
nhân loại để kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình thành nên
một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về Cách Mạng Việt Nam. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng những đã vận dụng
sáng tạo mà còn bổ sung phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác Lênin trong
thời đại mới trong các
vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, chủ nghĩa xã hội và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, các vấn đề xây dựng Đảng Nhà nước Văn hóa con người
đạo đức Hồ Chí Minh đều có những lý luận điểm bổ sung phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước để có trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam.
Việc đổi mới sáng tạo cũng được thể hiện trong cách lựa chọn đường lối giải
phóng dân tộc của Người. Khác với các nhà cách mạng đi trước, Hồ Chí Minh không
lựa chọn sang phương Đông mà quyết định đường lối phương Tây, cụ thể là người đã
sang nước Pháp để tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là sự lựa chọn hết sức táo bạo
trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Cũng với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc,
nếu như Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp giành độc lập dân tộc,
Phan Chu Trinh chủ trương giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, cứu nước
bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền, thì Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
tán thành Quốc tế Cộng sản, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con đường
Cách mạng Tháng Mười Nga. Cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh và Lênin chính là cuộc
gặp gỡ đi vào lịch sử, tạo bước ngoặt tiền đề lớn trong tư duy đổi mới và cách mạng
của Người. Nhờ có học thuyết của V.I.Lênin, người cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã nhìn
thấy con đường rõ rệt để giải phóng các dân tộc thuộc địa, trong đó có dân tộc Việt
Nam. Ngày 27/1/1924, báo Sự Thật Liên Xô đăng bài của Nguyễn Ái Quốc “Lênin và
các dân tộc thuộc địa” nói lên niềm khao khát tự do, độc lập của các dân tộc thuộc địa
khắp năm châu được ánh sáng học thuyết Lênin vạch đường, chỉ lối. Tại Đại hội
Quốc tế cộng sản lần thứ V, tham luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa tháng 7/1924,
Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh cần tập trung sức lực để thực hiện những di huấn của V.I.
Lênin về vấn đề thuộc địa cũng như những vấn đề khác.
Sinh thời, Bác thấy chúng ta thường tách rời lý luận với thực tiễn. Đây là nhược
điểm không chỉ trong tư duy mà cả trong hành động. Chính vì vậy, Bác đã để lại cho
chúng ta những luận điểm vô giá: Thực hành sinh ra hiểu biết; hiểu biết tiến lên lý
luận; lý luận lãnh đạo thực hành. Đây không chỉ đặc sắc trong diễn đạt mà là kết quả
của hành động khoa học, hiện đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là những dẫn
chứng nói lên phong cách độc lập, tự chủ, không giáo điều, đề cao đề cao sự đổi mới,
sáng tạo trong cách mạng của Hồ Chí Minh.
Phong cách tư duy của Hồ Chí Minh cịn là sự gắn bó giữa, sự kết hợp hài hịa,
sáng tạo giữa sự nhận thức của ý chí, tình cảm với đồng bào, với nhân dân, tình cảm
yêu đất nước, yêu quê hương. Bác có thể nói là một người giàu tình cảm, giàu trí tuệ,
cả cuộc đời Bác đã dành hết tư duy, tình cảm cho đất nước, cho nhân dân.
3. Tận trung với nước, tận hiếu với dân
“Tận trung với nước, tận hiếu với dân” - đó chính là phẩm chất hàng đầu trong
chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh. Với Người, “trung” là trung với nước, trung thành
với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về chữ
“hiếu”, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân - “dân” ở đây không chỉ là cha mẹ, là gia
đình mà là nhân dân, tồn thể dân tộc, vì nước lấy dân làm gốc, dân là “gốc” của
nước. Người cho rằng trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Trung với nước, là
phải yêu nước, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho
cách mạng, phải làm cho “dân giàu nước mạnh”. Bác Hồ từng chỉ rõ “Trong bầu trời
khơng gì q bằng nhân dân. Trong xã hội khơng có gì vẻ vang, tốt đẹp bằng phục vụ
lợi ích của nhân dân”. Người từng khẳng định: “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu/
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ
Chí Minh không những kế thừa giá trị yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn
vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân... Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Nói tóm lại, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đảng và Chính phủ là “đầy tớ nhân dân” chứ
không phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, thì quan niệm về đất nước
và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước đây; chính điều này đã làm cho tư tưởng Hồ
Chí Minh vượt xa lên phía trước. Chính vì lý tưởng cao cả ấy mà Bác đã dành hết
cuộc đời vì sự nghiệp chung, vì lợi ích chung của dân tộc.
Quả thực, Hồ Chí Minh là một người con yêu nước và trọn cuộc đời “vì nước vì
dân”. Sinh ra trong bối cảnh nước nhà lầm than, lại sớm ý thức được nỗi nhục mất
nước, nên từ khi quyết chí ra đi tìm được cứu nước đến khi phải từ giã cõi đời, Bác
luôn đau đáu một nỗi niềm, một “ham muốn tột bậc là làm cho nước nhà được độc
lập, nhân dân được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Và, trên thực tế, Người đã làm tất cả, và đánh đổi tất cả để thực hiện mục tiêu
nhân văn, cao cả đó. Chúng ta có thể thấy rõ những điều này từ những ngày đầu tiên,
khi Người quyết chí ra đi tìm đường cứu nước.
“Đất nước đẹp vơ cùng
Nhưng Bác phải ra đi...”
“Người đi tìm hình của nước” - Chế Lan Viên
Dấu chân Người đã in đậm trên những nẻo đường ở khắp Châu Âu, Châu Á, Châu
Phi đến Mỹ-Latin. Cuộc hành trình vạn dặm ấy đã giúp Người tìm ra được cội nguồn
khổ đau của nhân loại, tìm ra con đường giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vơ sản, tìm ra “ánh sáng soi đường” chủ nghĩa Mác - Lênin, mà Người đã từng
reo lên như nói cùng dân tộc “Cơm áo là đây, hạnh phúc đây rồi!” (Chế Lan Viên).
Trong suốt những năm “phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác”, lịng
trung, hiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện hữu trong từng cơng việc. Dù ở đâu, làm
gì, Người cũng chỉ nhằm một mục đích là “phụng sự đồng bào, phụng sự Tổ quốc”.
Trước lúc về với thế giới người hiền, trong Di chúc thiêng liêng, Người tự vấn lịng
mình và thấy rằng: “Suốt đời tơi hết lịng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có gì phải hối
hận, chỉ tiếc là tiếc rằng khơng được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Ít ai ngờ
rằng một con người luôn đau đáu về đất nước, về hạnh phúc ấm no của nhân dân như
thế lại hi sinh hạnh phúc của riêng mình. Sau nhiều năm xa cách, Người chỉ trở lại
quê hương, thăm làng Sen được hai lần. Khi cả ba người ruột thịt thân u mất,
Người khơng về được vì mải lo việc nước. Nghe tin anh Nguyễn Sinh Khiêm mất,
Bác đã viết trong bức điện gửi về làng Kim Liên rằng “Nghe tin anh cả mất, lịng tơi
rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách mà lúc anh đau yếu, tôi
không thể trông nom, lúc anh tạ thế, tôi không thể lo liệu. Tôi xin chịu tội bất đễ
trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình
nhà vì phải lo việc nước”. Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta - Người khơng có gia
đình riêng, khơng có tài sản riêng - lại là trở nên một bậc vĩ nhân như thế ấy. Người
coi đất nước ta, dân tộc ta là gia đình của Người, nhân dân ta là con, cháu của Người.
Người dành tất cả cuộc đời mình cống hiến cho dân, cho nước. Cuộc đời Hồ Chí
Minh là một bản anh hùng ca, hóa thân vào Tổ quốc, non sơng.
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
“Cảnh khuya” - Hồ Chí Minh
Chính lịng tận trung, tận hiếu với nước, với dân đã giúp người hình thành nên hệ
tư tưởng về Đảng, về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Với Người, Đảng là đạo đức,
là văn minh. Theo Người, mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, làm cho
dân tộc được độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thực sự đoàn
kết, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới. Đảng phải ln ln trung thành với lợi
ích của tồn dân tộc vì sự ra đời và phát triển của Đảng đều vì mục đích làm cho đất
nước hùng cường đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa lại quyền lợi cho nhân dân. Với đội
ngũ Đảng viên, Đảng viên phải luôn luôn thấm nhuần đạo đức Cách Mạng, ra sức tu
dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của đất của dân ăn của nước. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh Đảng viên cần phải là những người có lịng nhân ái, phải có tình
đồng chí thương u lẫn nhau, trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, có bốn
đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính và ln ln chí cơng vơ tư, có tinh thần quốc tế trong
sáng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, nghĩa là những người thợ thuyền dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất,
hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự tổ quốc và nhân dân, là
những người “Giàu sang không thể quyến rũ/ Nghèo khó khơng thể chuyển lay/ Uy
lực không thể khuất phục”. Người đặc biệt nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính chí cơng vơ
tư. Phải giữ gìn Đảng ta trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”. Bên cạnh đó, Người cũng từng nói: “Các cơng việc
của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu cầu tự do hạnh
phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi
dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì tránh”.
Trong “Bác ơi!”, Tố Hữu đã viết:
“Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng tiếng súng xa.
Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hịa bốn biển
Nâng niu tất cả chỉ qn mình.”
Thật hiếm có vị lãnh tụ nào lại có tình thương mênh mơng, dành cho bao số
phận, mọi kiếp người như Bác. Chính nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng thốt lên:
“Ơi lịng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa
Chỉ biết qn mình cho hết thảy
Như dịng sơng chảy nặng phù sa.”
4. Lòng yêu thương con người
“Bác ơi! Tim Bác mênh mơng thế. Ơm cả non sơng mọi kiếp người.” - Tố Hữu
Bên cạnh hình ảnh một Hồ Chí Minh tận trung với nước - người anh hùng giải
phóng dân tộc - là hình ảnh một Hồ Chí Minh hết mực u thương con người. Hai
hình ảnh đó hịa quyện làm một, bổ sung cho nhau làm sáng lên phẩm chất, đạo đức
Hồ Chí Minh. Tình cảm ấy, khơng đơn thuần là do truyền thống “yêu nước, thương
dân” được thừa hưởng từ dân tộc, nó cịn là sự lắng đọng sâu sắc của tất cả những gì
Người đã trải qua, chứng kiến và cảm nhận trong những năm tháng bơn ba tìm đường
cứu nước cũng như trong cả sự nghiệp giải phóng dân tộc của Người. Tình u
thương đó đã vượt qua mọi giới hạn để trở thành phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
“Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.”
“Bác ơi!” - Tố Hữu
Tình thương u của Bác là vơ cùng rộng lớn và dành cho tất cả mọi tầng lớp nhân
dân. Bác thương từ cụ già để “xuân về gửi biếu lụa” cho đến các em nhỏ “trung thu
gửi cho quà.” Từ các “đồn dân cơng đêm nay ngủ ngồi rừng” đến “người chiến
sĩ đứng gác ngoài biên cương.”
Khi Bác bị Tưởng Giới Thạch bắt giam. Trong “Mười bốn trăng tê tái gơng cùm”
ấy, bao lần bị giải đi trong gió lạnh, nhưng Người vẫn nặng lòng thương trước những
số phận lao động khổ cực:
“Phu đường vất vả lắm ai ơi
Dãi nắng dầm mưa chẳng nghỉ ngơi
Ngựa xe hành khách thường qua lại
Biết cảm ơn anh được mấy người.”
Nếu không phải là người có trái tim rộng mở thì làm sao có thể vượt qua sự đau
khổ của bản nhân, mà thấu hiểu cho những gian khổ của người khác như vậy.
Đối với nông dân, những người phải “năm nắng mười mưa” chống chọi với thiên
tai, với bom đạn của kẻ thù để làm ra hạt lúa, Bác tận tình thăm hỏi:
“Bác vẫn đi kia giữa cánh đồng
Thăm từng ngọn lúa, hỏi từng bơng
Ghé từng hợp tác, qua thơn xóm
Xem mấy trường tươi, mấy giếng trong.”
Đối với tầng lớp công nhân ngày đêm tất bật trên dây chuyền sản xuất, hăng hái
thi đua lập chiến công, Bác cũng thường xuyên thăm hỏi, động viên:
“Bác vẫn về kia những sớm trưa
Hỏi lò than, xưởng máy, giàn tơ
Hỏi anh, hỏi chị công nhân ấy
Vàng ngọc thi đua được mấy giờ.”
Bác vô cùng đau xót khi thấy đồng bào bị áp bức, kìm kẹp và vui mừng khi được
tin thắng lợi.
Đặc biệt hơn cả là tình yêu của Bác đối với thiếu niên nhi đồng. Bác luôn nhắc
nhở các cán bộ chiến sỹ và đồng bào: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho các
em có cơm ăn, có áo ấm, được đi học.”
Bác cũng dành tình yêu thương, sự tin tưởng cho thanh niên, những chủ nhân
tương lai của nước nhà. Bác coi thanh niên là người thân trong gia đình, sự hy sinh
của thanh niên cho cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc là nỗi đau trong cơ thể
Bác.
Thật hiếm có vị lãnh tụ nào lại có tình thương mênh mông, dành cho bao số phận,
mọi kiếp người như Bác. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Ơi lịng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa
Chỉ biết qn mình cho hết thảy
Như dịng sơng chảy nặng phù sa”
Theo Hồ Chí Minh người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách
mạng mới đi làm cách mạng, vì yêu thương nhân dân yêu thương con người mà Hồ
Chí Minh sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân tộc tự
do hạnh phúc cho con người. Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái, sâu sắc
rộng lớn trước hết dành cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền,
những người bị áp bức bị bóc lột, khơng phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng
nếu không có tình u thương như vậy thì khơng thể mở đến cách mạng càng khơng
thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tình thương người, yêu đồng loại
yêu đồng bào, yêu đất nước là tư tưởng lớn, là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh,
điều này đã được thể hiện ở sự ham muốn tột bậc của Người: “Tơi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây là
yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đó cũng là lý
tưởng chính trị lý tưởng đạo đức và lý tưởng nhân văn của Người.
5. Lối sống giản dị
“Nhà gác đơn sơ một góc vườn
Gỗ thường mộc mạc chẳng mùi sơn
Giường mây, chiếu cói, đơn chăn gối
Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn”
“Theo chân Bác” - Tố Hữu
Những vần thơ trên đã khắc họa lối sống rất đỗi giản dị của vị lãnh tụ kính yêu
Hồ Chí Minh. Tấm gương giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong
cuộc sống sinh hoạt hằng ngày - đó là đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và
thanh bạch. Dù là chủ tịch, lãnh tụ quốc gia, Người vẫn rất u thích những món ăn
mang đậm quê nhà như cá kho, cà muối... Người ăn uống rất thanh đạm. Sau khi xong
bữa, Người luôn tự tay thu dọn bát đũa gọn gàng để người phục vụ chỉ việc mang đi.
Quần áo Người mặc thường ngày cũng chỉ là bộ bà ba màu nâu với đôi dép cao su,
khi tiếp khách hay đến những sự kiện quan trọng cũng chỉ bộ kaki với đôi giày vải.
Lúc ở chiến khu, Người sống chung với cán bộ, nhân viên, cùng ăn ở, sinh hoạt như
mọi người. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Người cùng Trung ương Đảng trở về Hà
Nội.
Khơng chỉ thể hiện trong lối sống, đức tính khiêm tốn, giản dị của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cịn được thể hiện thơng qua cách nói, cách viết, cách làm việc của Người.
Người mang tri thức uyên bác Đông Tây kim cổ, thơng thạo nhiều ngoại ngữ, là nhà
chính trị tài ba, nhà ngoại giao sắc sảo, nhà báo, nhà thơ lớn của dân tộc, nhưng
Người tuyệt nhiên không cao đạo, không hàn lâm bác học. Trái lại, Người suy nghĩ,
cảm xúc, nói và viết như lời ăn tiếng nói của người dân bình thường. Người truyền tải
những tư tưởng lớn một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên, đơn giản, không triết lý dài
dịng, khơng vịng vo khn sáo, từ đó đi thẳng vào lịng dân chúng như những lẽ
phải thơng thường. Dù là lãnh tụ tối cao nhưng khi tiếp xúc với nhân dân, cử chỉ, lời
nói của Người vẫn hết sức mộc mạc, dân dã. Ngay cả khi đứng trên lễ đài đọc Bản
tuyên ngôn độc lập lịch sử, trước hàng nghìn dân chúng, Người cũng dừng lại để hỏi:
“Tơi nói đồng bào nghe rõ khơng?”
Khơng chỉ trong lời ăn tiếng nói, Bác ln quan tâm, gần gũi nhân dân bằng
những hành động cụ thể thiết thực. Bác đến với các chiến sĩ trên mặt trận, cùng chiến
sĩ hành quân; Bác đi thăm chỗ ở, nhà bếp, nhà vệ sinh của các gia đình, tập thể; Bác
trực tiếp xuống ruộng làm việc, hướng dẫn bà con về sâu bệnh, về thủy lợi; Bác đến
thăm các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, trường học; Bác viết thư thăm hỏi người già,
trẻ em…Bác ln chủ động tiếp xúc, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ
đó đi vào lịng dân bằng trái tim nhân hậu, đồng cảm. Sự giản dị đó hết sức tự nhiên,
ở ngay trong lịng dân, trong cuộc sống của nhân dân, do đó ai cũng có thể học tập và
làm theo đức tính giản dị của Người. Người thanh cao, giản dị chứ không hề giản
đơn, bởi suốt đời, Người không màng danh lợi, mà chỉ theo đuổi một mục tiêu cao cả:
“Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”.
Chính nét sống giản dị, thanh cao đó đã hình thành nên những quan điểm về
chuẩn mực đạo đức Cách Mạng sau này. Người khẳng định, Cần, Kiệm, Liêm, Chính,
Chí cơng vơ tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, là phẩm chất gắn với hoạt
động hàng ngày của mỗi người. Hồ Chí Minh cho rằng các đức tính cần, kiệm, liêm,
chính có quan hệ chặt chẽ với nhau; ai cũng phải thực hiện, song cán bộ đảng viên
phải là người thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người thường nhắc nhở cán
bộ cơng chức những người trong các cơng sở đều có nhiều hộ ít quyền hạn, nếu
khơng giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại biến thành sâu mọt của
dân. Hồ Chí Minh quan niệm một dân tộc biết Cần, Kiệm, biết Liêm là một dân tộc
giàu về vật chất mạnh về tinh thần là một dân tộc văn minh tiến bộ. Cần, kiệm, liêm,
chính cịn là nền tảng của đời sống mới của các phong trào thi đua yêu nước để trở
thành người có phẩm chất đạo đức tốt phải hội đủ các yếu tố cần kiệm liêm chính Hồ
Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của con người giống như
bốn mùa của trời bốn phương của đất thiếu một đức thì khơng thành người.
II.
TÀI NĂNG HOẠT ĐỘNG, TỔNG
KẾT THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN LÝ
LUẬN
Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi
thường. Giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết, quan điểm
khác nhau, giữa biết bao tình huống phức tạp, Hồ Chí Minh ln chăm chỉ tích cực
tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát; từ đó phát triển được những luận điểm đúng
đắn và sáng tạo. Khơng chỉ qua tìm hiểu trên các loại tài liệu sách báo radio, chính
bản thân Người đã trải qua q trình hoạt động cơng tác ở 30 nước trên thế giới, vì
vậy, người hiểu sâu sắc chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân.
Đồng thời, Người đặc biệt xác định rõ bản chất thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc Thực
dân.
Qua nghiên cứu lý luận cùng vốn kinh nghiệm dày dặn dặn tích lũy được trong
thời gian tham gia sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp, hoạt động trong đảng cộng sản
Trung Quốc, tham gia phong trào cộng sản quốc tế ở nhiều nước, nghiên cứu đời sống
xã hội ở Liên Xô - nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, Bác mang trong mình
sự thấu hiểu sâu sắc về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội,
về xây dựng Đảng Cộng sản,...
Chưa dừng lại ở đó, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh cũng là một trong những
yếu tố được đánh giá là quan trọng thể hiện tài năng vượt trội trong việc hoạt động,
tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận của người. Với một người tay khơng ra đi tìm
đường cứu nước như Bác, việc thích nghi với một đất nước hồn tồn xa lạ đã là một
điều rất khó. Vậy mà, Bác lại có thể tìm được cơng việc, phát hành sách báo, tham gia
vào việc sáng lập Đảng tại nước bạn,... phải chăng một phần cũng là do bác quá sắc
sảo trong các mối quan hệ xã hội của mình. Thật vậy, Bác ln biết cách vận dụng
những phương pháp, phong cách ứng xử nhạy bén, sáng tạo mang lại hiệu quả cao
trong hoạt động đối ngoại đồng thời thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc, lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương. Bác rất rất am hiểu và vận dụng nhuần nhuyễn