Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Đánh giá hiệu quả của một số mô hình trồng keo lai (acacia mangium x acacia auriculiformis) tại huyện lệ thủy, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.88 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------------------

PHẠM THỊ VIỆT HÀ

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA MỘT SỐ MƠ HÌNH
TRỒNG KEO LAI (ACACIA MANGIUM X
ACACIA AURICULIFORMIS) TẠI HUYỆN LỆ
THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH
CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ : 8.62.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HD KHOA HỌC: TS. LÊ SỸ HỒNG

Thái Nguyên - 2020


1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề

Việt Nam đã và đang diễn ra nhu cầu lâm sản cho tái thiết và phát triển kinh
tế - xã hội tăng đã dẫn đến tài nguyên rừng bị tàn phá nặng nề. Nhu cầu sử dụng
gỗ nguyên liệu của nhiều ngành công nghiệp như: bột giấy, ván nhân tạo, đồ mộc
xuất khẩu, đặc biệt là nhu cầu nhập khẩu gỗ nguyên liệu của các nước trong khu
vực ngày càng tăng. Tuy nhiên khả năng cung cấp gỗ hiện tại không đáp ứng
được nhu cầu. Mặt khác, các sản phẩm từ gỗ phục vụ cho nhu cầu về xây dựng và
gia dụng ngày càng tăng gây nên hiện tượng tăng giá liên tục đối với các sản


phẩm từ gỗ trên toàn cầu.
Theo chiến lược phát triển Lâm nghiệp của Chính Phủ đến năm 2020 diện
tích rừng trồng cho sản xuất của Việt Nam tăng từ 1.38 triệu ha đến năm 2010 lên
2.65 triệu ha đến năm 2020 tăng lên 4.15 triệu ha. Do đó, nhu cầu về nguồn
giống có chất lượng cao, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng rừng
nhằm tăng năng suất, chất lượng và sản lượng rừng là cấp thiết trong những năm
tới.
Quảng Bình là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, có tổng diện tích rừng và đất
lâm nghiệp 647.794,61 ha, chiếm 80,09% diện tích đất tự nhiên. Diện tích rừng
trồng là 112.000 ha; diện tích rừng trồng thuộc quy hoạch sản xuất là 99.734 ha;
diện tích đất trống thuộc quy hoạch sản xuất là 28.900 ha. Đây là tiềm năng lớn
để phát triển rừng trồng. Trong những năm gần đây, thông qua việc trồng rừng
cung cấp nguyên liệu dăm gỗ, dăm giấy… đã giải quyết được rất nhiều việc làm,
tăng thu nhập, ổn định cuộc sống cho người dân, giảm đáng kể áp lực đối với
rừng tự nhiên. Đây là tiềm năng, lợi thế to lớn của tỉnh cần được phát huy, khai
thác có hiệu quả.
Huyện Lệ Thủy nằm về phía Nam tỉnh Quảng Bình, tổng diện tích tự nhiên
là 140.180,45 ha chiếm 17,56% diện tích tồn tỉnh. Lệ thủy là huyện rất có tiềm
năng để phát triển lâm nghiệp, diện tích đất rừng sản xuất cao nhất tỉnh,
59.786,70 ha, chiếm 23 % tồn tỉnh. Bên cạnh đó, nguồn lao động ở địa phương
tương đối lớn là một trong những thuận lợi phát triển kinh tế lâm nghiệp. Địa


2

phương xác định phát triển lâm nghiệp là hướng đi phù hợp, tiếp tục các chính
sách ưu tiên nhằm đẩy mạnh cơng tác trồng rừng, các loại cây có hiệu quả kinh tế
cao ở rừng sản xuất. Các tổ chức tín dụng tạo điều kiện cho các đơn vị chủ rừng,
các tổ chức, cá nhân hộ gia đình sử dụng đất lâm nghiệp được vay vốn ưu đãi để
trồng rừng và phát triển sản xuất; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia

phát triển rừng, xây dựng và phát triển các mơ hình liên kết, hợp tác sản xuất, mở
rộng quy mô trang trại lâm nghiệp, gắn trồng rừng nguyên liệu với chế biến tiêu
thụ lâm sản tại các đơn vị chủ rừng có điều kiện tổ chức.
Trong những năm gần đây, rất nhiều giống cây rừng được đưa vào trồng
nhằm phát huy được tính ưu việt là sinh trưởng, phát triển nhanh, chu kỳ kinh
doanh ngắn như: Keo lai, Bạch đàn Uro v.v..và được trồng ở hầu khắp cả nước,
đặc biệt các vùng nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy, như: Giấy, ván nhân tạo
v.v…Đặc biệt cây keo, ưu tiên cho giống Keo lai. Ở huyện lệ thủy, cây Keo lai
được đưa vào trồng với diện tích tương đối lớn (chiếm > 50% diện tích đất trồng
rừng của huyện)...
Thực tế, nghiên cứu hiệu quả của các mô hình rừng trồng Keo lai, đề xuất
và nhân rộng các mơ hình thành cơng cùng với các giải pháp nâng cao hiệu quả là
một nhu cầu cấp bách của sản xuất ở huyện Lệ Thủy, nhằm góp phần cải thiện và
nâng cao chất lượng rừng, nâng cao tính năng phịng hộ nguồn nước, giảm lũ lụt
đối với và góp phần cải thiện cuộc sống người dân sống bằng nghề rừng.
Xuất phát yêu cầu của thực tế sản xuất, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Đánh giá hiệu quả của một số mơ hình trồng Keo lai (Acacia mangium x

Acacia auriculiformis) tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu chung: Đánh giá hiệu quả rừng trồng Keo lai, để góp phần phát
triển bền vững công tác trồng rừng nguyên liệu trên địa bàn huyện Lệ Thủy nói
riêng, cũng như tỉnh Quảng Bình nói chung.
Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá được kỹ thuật trồng rừng tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình

trên cơ sở điều tra, đánh giá hiện trạng rừng trồng.


3


- Đánh giá được hiệu quả về kinh tế, xã hội. mơi trường của một số mơ hình

rừng tại huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm phát triển các mơ hình rừng trồng

phù hợp với điều kiện kinh doanh rừng bền vững trên địa bàn huyện.
3. Ý nghĩa của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài cung cấp một cách có hệ thống các cơ sở lý luận và thực tiễn trong

đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của rừng trồng tại địa điểm
nghiên cứu.
- Là tài liệu tham khảo cho việc đánh giá các mơ hình trồng rừng tại các địa

phương khác.
3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
- Các chỉ tiêu phân tích về hiệu quả kinh tế, xã hội và mơi trường của các

mơ hình trồng rừng ở khu vực nghiên cứu là cơ sở khoa học cho những đề xuất
có ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn trong việc phát triển rừng trồng Keo lai
cho tỉnh Quảng Bình nói riêng và các vùng có điều kiện khí hậu tương tự trên cả
nước nói chung.
.


4

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trên Thế giới và Việt Nam

1.1.1.1. Tiến bộ kỹ thuật trồng rừng nguyên liệu trên thế
giới a. Nghiên cứu về giống cây trồng rừng
Giống là khâu quan trọng trong trồng rừng, là vấn đề quan trọng bậc nhất để
nâng cao năng suất rừng trồng, nhiều nước trên thế giới đã đi trước Việt Nam nhiều
năm về vấn đề cải thiện giống cây rừng và đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Điển hình như nghiên cứu của Pandey D. (1983) ở Brazin đã chọn được giống
3

Eucalyptus grandis đạt tới 55 m /ha/năm sau 7 năm trồng, ở Swaziland cũng đã
chọn được giống Pinus patula sau 15 năm tuổi đạt 19m3/ha/năm, giống
Paraserianthes falcataria trồng ở Malaysia được 7-10 năm tuổi cũng đạt
30m3/ha/năm. Ở Công Gô, bằng phương pháp lai nhân tạo đã tạo ra giống bạch đàn
3

lai (Eucalyptus hybrids) có năng suất đạt tới 35m /ha/năm ở giai đoạn tuổi 7.

b. Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất rừng trồng
Bón phân là một trong những biện pháp kỹ thuật cung cấp cho đất thêm
dinh dưỡng, đặc biệt đối với đất nghèo dinh dưỡng nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng rừng trồng, điển hình như cơng trình nghiên cứu của Mello (1976) ở
Brazil cho thấy Bạch đàn (Eucalyptus) sinh trưởng khá tốt ở cơng thức khơng
bón phân, nhưng nếu bón NPK thì năng suất rừng trồng có thể tăng lên trên 50%.
Đối với thông (P. Caribeae) ở Colombia, Bolstad và cộng sự (1988) cũng đã tìm
thấy một vài loại phân có phản ứng tích cực mang lại hiệu quả rõ rệt cho rừng
trồng như potassium, phosphate, boron và magnesium. Khi nghiên cứu bón phân
cho rừng thơng (P. Caribeae) ở Cu Ba, Herrero và cộng sự (1988) cũng cho thấy

bón phosphate đã nâng sản lượng rừng từ 56 lên 69m3/ha sau 13 năm trồng.
c. Nghiên cứu về ảnh hưởng mật độ đến năng suất rừng trồng
Mật độ trồng rừng ban đầu có rất nhiều cơng trình nghiên cứu với nhiều loài
cây khác nhau trên các dạng lập địa khác nhau, điển hình là cơng trình nghiên
cứu của Evans, J. (1992), tác giả đã bố trí 4 cơng thức mật độ trồng khác nhau


5

(2985; 1680; 1075 và 750 cây/ha) cho bạch đàn E. deglupta ở Papua New
Guinea, số liệu thu được sau 5 năm trồng cho thấy đường kính bình qn của các
cơng thức thí nghiệm tăng theo chiều giảm của mật độ, nhưng tổng tiết diện
ngang (G) lại tăng theo chiều tăng của mật độ, có nghĩa là rừng trồng ở mật độ
thấp tuy lượng tăng trưởng về đường kính cao hơn nhưng trữ lượng gỗ cây đứng
của rừng vẫn nhỏ hơn những công thức trồng mật độ cao.
Như vậy, mật độ trồng ảnh hưởng khá rõ đến chất lượng sản phẩm và chu kỳ
kinh doanh, vì thế cần phải căn cứ vào mục tiêu kinh doanh cụ thể để xác định
mật độ trồng cho thích hợp.
1.1.1.2. Nghiên cứu về áp dụng tiến bộ kỹ thuật trồng rừng Keo Lai ở Việt
Nam a. Tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng rừng
Trong khoảng hơn 10 năm gần đây, công tác nghiên cứu cải thiện giống đã
đạt được những thành tựu đáng kể, có nhiều giống đã được cơng nhận là giống
Quốc gia và tiến bộ kỹ thuật như các giống Keo lai: BV5; BV10; BV16; BV32;
BV33; TB03; TB05; TB06 và TB12 và các dòng bạch đàn E. urophylla U6, PN2;
PN14; GU8 và W5. Ngồi ra, cịn một số giống đề nghị đưa vào để mở rộng sản
xuất như các giống bạch đàn E. urophylla ở Phù Ninh, một số xuất xứ bạch đàn
caman, Keo lá tràm, Thơng caribê….
Bộ NN&PTNT (2001), trích dẫn “văn bản tiêu chuẩn kỹ thuật lâm sinh”:
thành tựu lớn nhất và được áp dụng rộng rãi trong trồng rừng sản xuất trước hết
phải nói đến cơng tác chọn và cải thiện giống cây trồng lâm nghiệp. Đây là một

lĩnh vực mũi nhọn được ưu tiên rất cao cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ
trong niều năm qua, mang lại những bước nhảy vọt góp phần nâng cao năng suất
và chất lượng rừng trồng, đặc biệt đối với các loài cây mọc nhanh cung cấp
nguyên liệu giấy như Keo lai, Bạch đàn. Các thành tựu và tiến bộ trong lĩnh vực
giống cây lâm nghiệp đã được đúc kết thành hệ thống quy trình, quy phạm và
tiêu chuẩn áp dụng có hiệu quả trong sản xuất.
Các cơng trình nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu cây nguyên liệu giấy
Phù Ninh cũng đã chọn lọc được một số giống bạch đàn uro (E. urophylla), sau
3

4-5 năm trồng có thể đạt năng suất từ 20-25m /ha/năm.


6

Lê Đình Khả và cộng sự (1997), đã chứng minh: Sau 4 năm tuổi giống Keo
3

lai có thể tích thân cây là 70 - 80 dm /cây trong khi những xuất xứ tốt nhất của
3

Keo tai tượng cũng chỉ có thể tích đạt 30 - 40 dm /cây, cịn những xuất xứ tốt của
3

Keo lá tràm chỉ đạt 17 - 27 dm /cây.
Theo Lê Đình Khả và cộng sự (2003), cơng tác cải thiện giống đã có nhiều
giống được cơng nhận là giống quốc gia như một số dòng Keo lai (BV10, BV16,
BV32), Bạch đàn urophylla (PN2, PN14, U6); các dòng Bạch đàn urophylla và
nhiều xuất xứ Bạch đàn camaldulensis, Keo lá tràm, Thơng caribaea, Phi lao và hàng
chục dịng Keo lai,... cũng đã được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật [20].


Lê Đình Khả và Hà Huy Thịnh (2005), đã có 67 giống cây rừng lâm nghiệp
được cơng nhận là giống tiến bộ kỹ thuật và giống quốc gia, trong đó có các dịng
Keo lai cao sản như: BV10, BV16, BV32, TB3, TB5, TB6, TB12, KL2; Các
dòng Bạch đàn cao sản như: U6, PN2, PN10, PN14, PN46, PN47 và các dịng
Phi lao có năng suất cao là 601 và 701 đã được gây trồng rộng rãi ở nhiều nơi
trong cả nước.
Tổng hợp nghiên cứu của Võ Đại Hải và cộng sự (2005), đã thống kê được
một số nghiên cứu sử dụng ưu thế lai đã đạt được những thành tựu đáng kể, cụ
thể: Đối với Bạch đàn: Các tổ hợp UC, UT, UM, SM, GM cho sinh trưởng bình
qn tăng từ 20 ÷ 30%, đặc biệt có tổ hợp trồng nơi lập địa tốt cho sinh trưởng
tăng 70 ÷ 80 % so với giống sản xuất hiện hành sau 5 năm khảo nghiệm; Đối với
Keo: Các tổ hợp AM1, AM2, MA1, MA2 cho sinh trưởng tăng bình quân 30% so
với giống sản xuất hiện hành.
Bộ NN & PTNT (2005) ban hành: danh mục các loài cây chủ yếu cho trồng
rừng sản xuất theo 9 vùng sinh thái lâm nghiệp. Trong đó hai lồi cây Keo lai và
Bạch đàn Urophylla đều có mặt ở hầu hết các vùng.
Như vậy, lĩnh vực nghiên cứu cải thiện giống đã đạt được những thành tựu
rất to lớn, đã tạo ra sự đột phá về năng suất trong trồng rừng, trữ lượng gỗ cây
đứng tăng gấp từ 2 - 3 lần so với các giống trước đây. Tuy nhiên nhiều nơi, nhiều
vườn ươm vẫn sử dụng giống kém chất lượng, giống chưa được công nhận, như
Trần Văn Con và cộng sự (2005) đã đề cập: mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong lĩnh
vực cải thiện giống, nhìn chung giống sử dụng trong trồng rừng vẫn rất xô bồ,


7

kém chất lượng dẫn đến năng suất và chất lượng rừng còn thấp. Chúng ta vẫn còn
thiếu các vườn giống có chất lượng cao để cung cấp cho nhu cầu trồng rừng.
b. Tiến bộ kỹ thuật về lĩnh vực nhân giống và tạo cây con

Cơng nghệ nhân giống vơ tính là một tiến bộ kỹ thuật mới đã được áp dụng
mạnh mẽ trong thời gian vừa qua, đã góp phần quan trọng cho sự thành công của
hoạt động cải thiện giống nói trên, có nhiều nghiên cứu trong cơng tác nhân
giống và tạo cây con ở Việt Nam, nổi bật như: Nguyễn Hoàng Nghĩa (2001), việc
cung cấp giống tốt, năng suất cao, kháng sâu bệnh hại có ý nghĩa quyết định tới
năng suất rừng trồng trong tương lai... Với cây hom năng suất cao như hiện nay,
chi phí này cũng không phải quá cao, vào khoảng 10%... Các giải pháp bao gồm
quy trình cơng nghệ sản xuất cây hom cao sản bắt đầu từ khâu chọn giống, khảo
nghiệm dòng, nhân giống hom và quản lý rừng trồng dịng vơ tính.
Theo Trần Văn Con (2006), bên cạnh những thành tựu trong lĩnh vực chọn
và cải thiện chất lượng giống, kỹ thuật tạo cây con cũng đạt được những thành
tựu vượt bậc... Đặc biệt công nghệ sản xuất cây con bằng kỹ thuật cao như giâm
hom, nuôi cấy mô cũng được phát triển nhanh chóng, nhất là đối với các lồi cây
mọc nhanh như Keo lai, Bạch đàn urophylla, pelissta, Bạch đàn lai... không kể
các vườn ươm công nghệ cao quy mô nhỏ, đã có khoảng 10 vườn ươm nhân
giống bằng cơng nghệ cao (hom, mơ) có cơng suất hàng triệu cây giống/năm rải
rác trên các vùng Bắc Trung Nam để trồng rừng sản xuất tập trung đối với một số
loài cây chủ lực.
Lê Đình Khả và cộng sự (2003), ngày nay ở nước ta cũng đã có khoảng
10.000 ha Keo lai và hàng ngàn hecta các giống Bạch đàn U6, Phi lao 601, 701
được trồng bằng cây hom. Theo nhận định của Bộ NN & PTNT (2006), thì giai
đoạn 2010 - 2020, đưa tỷ lệ giống được cải thiện lên hơn 50%, tập trung thích
đáng cho chọn tạo giống một số loài cây bản địa và cây lâm sản ngoài gỗ, áp
dụng rộng rãi công nghệ sinh học vào chọn tạo giống và các phương pháp hiện
đại trong nhân giống và bảo quản hạt giống. Cuối giai đoạn đạt năng suất rừng
3

trồng bình quân 30m3/ha/năm đối với gỗ nhỏ và 15m /ha/năm đối với gỗ lớn.
Như vậy, công tác giống cây rừng hiện nay ở Việt Nam đang ngày càng đẩy
mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong công tác giống như chọn giống, lai giống,



8

vừa nhân giống vừa khảo nghiệm giống và cung cấp giống. Ngoài ra cần tận
dựng tối đa giống từ các rừng giống đã được Bộ NN & PTNT công nhận để nhân
giống đóng góp vào cơng tác giống cho trồng rừng, nhằm mục tiêu phủ xanh đất
trống đồi trọc, tăng năng suất chất lượng và sản lượng rừng đáp ứng nhu cầu về
gỗ ngày càng tăng lên trong nước và xuất khẩu.
c. Ảnh hưởng của biện pháp làm đất đến sinh trưởng của rừng trồng
Trong những năm gần đây, việc áp dụng cơ giới trong trồng rừng được coi
là tiến bộ kỹ thuật trong ngành Lâm nghiệp, nhất là trồng rừng nguyên liệu đã
được các nhà lâm học quan tâm, điển hình là cơng trình nghiên cứu của Đỗ Đình
Sâm và cộng sự (2001), thơng qua thí nghiệm cày ngầm để trồng Bạch đàn
urophylla trên đất thoái hoá ở Phù Ninh (Phú Thọ), tác giả đã cho thấy năng suất
của rừng bạch đàn được trồng trên đất cày ngầm cao hơn nhiều so với nơi làm đất
bằng thủ công, sau 8 năm tuổi ở nơi làm đất bằng cầy ngầm trữ lượng cây đứng
có thể đạt tới 16m3/ha/năm, nhưng nơi làm đất bằng thủ công chỉ đạt
3

5m /ha/năm.
Ngược lại, trên đất dốc chưa bị thối hố ở Đơng Nam Bộ, Phạm Thế Dũng
và cộng sự (2005) đã thử nghiệm 2 phương pháp làm đất là thủ công và cơ giới
để trồng rừng Keo lai, kết quả cho thấy khả năng sinh trưởng của Keo lai ở
phương pháp làm đất thủ công lại tốt hơn phương pháp cơ giới, sau 3 năm tuổi ở
công thức làm đất cơ giới chỉ đạt từ 8,74 - 8,87cm về đường kính và 9,82 - 9,92m
về chiều cao, nhưng ở công thức làm đất thủ công lại đạt với các trị số tương ứng
là 9,40 - 10,38cm và 11,33 - 11,71m.
Nghiên cứu của Lê Đình Khả và cộng sự (2003) áp dụng các biện pháp kỹ
thuật thâm canh như làm đất, bón phân, kết quả trong một số khảo nghiệm về

Keo lai năng suất đạt được trên 25m3/ha/năm; Bạch đàn urophylla trồng thâm
canh cũng cho năng suất từ 18 - 25m3/ha/năm; một số dòng Bạch đàn PN2 và
PN14 sau 8 năm trồng ở Tây Nguyên bình qn đạt 21m3/ha/năm. Đây chính là
những cơ sở, tiền đề cho việc nghiên cứu chọn giống và áp dụng các biện pháp
trồng rừng thâm canh.
Như vậy, làm đất trước khi trồng rừng bằng các phương pháp khác nhau,
tùy thuộc vào độ dốc, loại đất đã cho thấy sinh trưởng của cây trồng rừng tốt hơn,


9

tuy nhiên cần kết hợp giữa làm đất với các biện pháp khác, như mật độ trồng, bón
phân... thì mới phát huy hết được khả năng sinh trưởng tốt nhất của cây trồng.
d. Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất rừng trồng
Về kỹ thuật bón phân, đã có những thành tựu trong việc xác định lượng
phân hữu cơ vi sinh và NPK tổng hợp để bón lót và bón thúc cho các cây trồng.
Tuy nhiên, đối với từng loài cụ thể, trên từng lập địa và điều kiện đất đai cụ thể
và từng giai đoạn phát triển thì kỹ thuật bón phân từ việc chọn loại phân, lượng
phân, thời điểm bón vẫn chưa được xác định một cách hợp lý có căn cứ.
Việc bón lót trước khi trồng đã làm tăng tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của
các lồi keo. Trong một thí nghiệm, Nguyễn Huy Sơn (2006) đã chỉ ra rằng, sinh
trưởng của keo lai tốt nhất tại cơng thức bón 200g NPK (28g N, 8g P và 10g
K) và 100g phân vi sinh. Tăng trưởng bình qn tại cơng thức tốt nhất đạt
3

36,7m/ ha/năm so với 28,8m3/ha/năm của cơng thức khơng bón phân.
Nguyễn Huy Sơn và cộng sự (2005), tại Thái Nguyên sinh trưởng tốt nhất
của Keo lai ghi nhận được tại cơng thức bón phân hỗn hợp 100g NPK (10,0g N,
4,37g P và 2,49g K), 400g phân vi sinh và 50g vôi bột (27,03g Ca). Sau 3 năm thí
nghiệm, đường kính ngang ngực bình quân đạt 9,4 cm và chiều cao đạt 12,6 m,

trong khi tại cơng thức khơng bón phân đường kính chỉ đạt 8,2 cm và chiều cao
đạt 11,2 cm.
Lê Đình Khả và cộng sự (1999) đã kết luận: thí nghiệm trồng rừng thâm
canh (cày tồn diện, bón phân mỗi hố 4 kg phân chuồng và 100 g NPK) và quảng
canh (không làm đất, bón phân mỗi hố 50 g NPK) cho Keo lai và các lồi keo bố
mẹ tại Đơng Hà cũng cho thấy sau khi trồng 32 tháng ở công thức trồng thâm
3

canh Keo lai có thể đạt năng suất 27 m /ha/năm, thì ở cơng thức trồng quảng
3

canh chỉ đạt năng suất 16 m /ha/năm.
Như vậy, về kỹ thuật bón phân, đã có những thành tựu trong việc xác định
loại phân, liều lượng phân, thời gian và phương pháp bón phân thích hợp cho các
lồi cây trồng cụ thể. Đối với các loài cây phân hữu cơ vi sinh và NPK tổng hợp
dùng để bón lót và bón thúc chăm sóc trong 3 năm đầu mang lại hiệu quả cao.


10

Tuy nhiên, cịn nhiều vấn đề về kỹ thuật bón phân cho từng loài cây cụ thể cần
được quan tâm tiếp tục nghiên cứu.
e. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất rừng trồng
Mật độ là yếu tố quyết định năng suất của rừng trồng, mật độ quá cao sẽ ảnh
hưởng xấu tới khả năng sinh trưởng của cây trồng, nhưng mật độ quá thấp sẽ lãng
phí đất và phải tốn cơng chăm sóc diệt cỏ dại. Hơn nữa, mật độ thấp cành nhánh
phát triển mạnh sẽ ảnh hưởng đến chất lượng gỗ nguyên liệu. Mật độ trồng ban
đầu như thế nào có hiệu quả nhất? Vấn đề này phải tuỳ thuộc vào mục đích trồng
rừng, đồng thời tuỳ thuộc vào điều kiện lập địa nơi gây trồng.
Tuy nhiên, vấn đề này ở trong nước cịn rất ít các cơng trình nghiên cứu,

theo kinh nghiệm ở một số cơng ty trồng rừng nguyên liệu hiện nay thường trồng
từ 1660 - 2500cây/ha đối với các loài cây mọc nhanh và trung bình, mật độ này
đã phải là tối ưu chưa? Câu hỏi này vẫn chưa được trả lời một cách có cơ sở khoa
học.
Khi đánh giá năng suất rừng trồng Keo lai ở vùng Đông nam bộ, Phạm Thế
Dũng và cộng sự (2004) đã khảo sát trên 4 mơ hình có mật độ trồng ban đầu khác
nhau là: 952; 1111; 1142 và 1666 cây/ha, kết quả phân tích cho thấy sau 3 năm
3

trồng năng suất cao nhất ở rừng có mật độ 1666 cây/ha (21m /ha/năm), năng suất
3

thấp nhất ở rừng có mật độ 952 cây/ha (9,7m /ha/năm). Tác giả cho rằng đối với
Keo lai ở khu vực Đông Nam Bộ nên trồng mật độ từ 1111-1666 cây/ha là thích
hợp nhất.
Như vậy, áp dụng tiến bộ kỹ thuật trồng rừng là vấn đề cấp thiết, như Võ
Đại Hải và cộng sự (2005), đã tổng kết từ kết quả nghiên cứu như: Các kỹ thuật
trồng rừng có nhiều thành tựu và tiến bộ trong nghiên cứu và thực tiễn, đặc biệt là
các thành tựu trong kỹ thuật trồng rừng thâm canh cây mọc nhanh với suất đầu tư
cao để nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng. Nhiều quy trình, quy phạm
và hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng sản xuất đã được ban hành và áp dụng rộng rãi
trong sản xuất thời gian qua. Tới nay hầu hết các loài cây trồng rừng chủ lực đều
đã có văn bản pháp quy ban hành.


11

1.1.2. Tổng quan về hiệu quả kinh tế
1.1.2.1. Các quan điểm về hiệu quả kinh tế
* Quan điểm 1:

Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong các hoạt động kinh tế. Ví dụ:
Năng suất cây trồng, trọng lượng xuất chuồng và gia súc…Đây là quan điểm đã
ra đời từ lâu, quan điểm này đánh giá đồng nhất giữa kết quả và hiệu quả mà
khơng tính tốn đến chi phí sản xuất.
* Quan điểm 2:
Quan điểm hiệu quả kinh tế xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm xã
hội (GNP, GDP). Tuy nhiên trong thực tế cũng có trường hợp GDP, GNP tăng
nhưng nhịp độ tăng chi phí cũng cao.
* Quan điểm 3:
Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng một loại sản phẩm hàng
hố mà khơng cắt giảm một lượng sản phẩm hàng hố khác. Một nền kinh tế có
hiệu quả phải nằm trong giới hạn khả năng của nó.
Quan điểm này được coi hiệu quả kinh tế là mức độ thoả mãn quy luật kinh
tế cơ bản đảm bảo nhu cầu con người. Đối với nước tai hiệu quả không phải mục
tiêu mà là phương tiện nâng cao mức sống của nhân dân, phải xác định bằng cách
lượng hoá, bằng các phương pháp đo lường trong kinh tế chứ không phải chỉ
quan tâm đến vai trị và tác dụng của nó.
* Quan điểm 4:
Hiệu quả là mức độ hữu ích của sản phẩm được sản xuất mà hữu ích của sản
phẩm được tạo ra chỉ phản ánh được một mặt nào đó của sản phẩm tạo ra. Quan
điểm này chưa toàn diện.
* Quan điểm 5:
Một nền kinh tế được gọi là có hiệu quả là nền kinh tế nằm trên đường giới
hạn khả năng sản xuất của nó mà giới hạn khả năng sản xuất được đặc trưng bởi
chỉ tiêu sản phẩm quốc dân tiềm năng, có nghĩa là tổng sản phẩm cao nhất có thể
đạt được ở mức nào đó tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.


12


* Quan điểm 6:
Hiệu quả là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một kết quả hữu
ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ nhất định, nó góp phần làm
tăng lợi nhuận xã hội của nền kinh tế quốc dân. Quan điểm này gắn liền chi phí
với hiệu quả thu được, coi kết quả là nội dung phản ánh trình độ sản xuất. Bản
chất của hiệu quả là sự vận hành của quy luật tiết kiệm thời gian.
1.1.2.2. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Được sử dụng vào sản xuất trong những điều kiện cụ thể về kỹ thuật, công
nghệ được sử dụng trong sản xuất Nơng nghiệp nói riêng và trong sản xuất nói
chung. Hiệu quả phân phối: là giá trị sản phẩm tăng thêm trên một đơn vị chi phí
đầu vào hay nguồn lực.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt được cả
hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân phối, điều đó có nghĩa là hai yếu tố hiện vật
và giá trị đều được tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong sản
xuất… Như vậy hiệu quả kinh tế là mục tiêu xuyên suốt các hoạt động kinh tế.
Nó khơng phải là mục tiêu duy nhất mà trong nền kinh tế xã hội người ta còn
quan tâm đến cả hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
* Hiệu quả kinh tế
Là khâu trung tâm của tất cả các loại hiệu quả và nó có vai trị quyết định
đến tất cả các loại hiệu quả khác. Hiệu quả kinh tế có khả năng lượng hoá bằng
hệ thống các chỉ tiêu kinh tế.
Trong việc sử dụng đất trước hết phải sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm
càng nhiều hàng hoá với giá thành hạ, chất lượng của sản phẩm và năng suất lao
động cao, tích luỹ tái sản xuất mở rộng khơng ngừng.
* Hiệu quả xã hội
Có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế và nó thể hiện mục tiêu hoạt
động kinh tế của con người. Nó phản ánh trên các khía cạnh như các vấn đề việc
làm, thất nghiệp, tỷ lệ nghèo đói, trình độ dân trí…Đời sống của nơng thơn không
ngừng được nâng cao, thực hiện dân chủ công bằng văn minh xã hội, xoá dần các
tệ nạn xã hội, phát huy được những truyền thống tốt đẹp của cộng đồng.



13

* Hiệu quả môi trường sinh thái
Đây là chỉ tiêu hiệu quả được tất cả các nước cũng như nhiều người quan
tâm. Làm thế nào để trong hoạt động sản xuất kinh doanh không làm tổn hại đến
môi trường mà bảo vệ và cải thiện được môi trường sinh thái nông thôn. Sử dụng
đất đai không chỉ tăng tổng giá trị sản phẩm, tăng tổng sản phẩm hàng hoá, đem
lại nhiều lợi nhuận, nhưng nguồn tài nguyên không bị tàn phá, đất đai khơng bị
xói mịn, rửa trơi, rừng khơng bị chặt phá, nguồn nước không bị ô nhiễm, thuỷ
lợi, thuỷ văn không bị xấu đi.
Phải đảm bảo cả ba mặt hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái thì
việc sử dụng đất đai mới được bền vững lâu dài, nó phải bao trùm lên tồn bộ
phương hướng và sử dụng đất đai theo kế hoạch và quy hoạch chung của sử dụng
đất đai phù hợp với từng thời kỳ, từng vùng, từng nơi cụ thể.
Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường sinh thái có liên
quan chặt chẽ với nhau hỗ trợ cho nhau và không thể thay thế cho nhau. Không
thể coi nhẹ một vấn đề nào, tuy nhiên từng vùng cụ thể, từng thời gian cụ thể mà
xem xét giải quyết từng mặt hiệu quả có khác nhau.
1.2.3. Tổng quan về cây Keo lai (Acacia Hybrid)
1.1.3.1 Sơ lược về cây Keo lai
Keo lai (Acacia mangium x Acacia auriculiformis) là tên gọi để chỉ giống
lai tự nhiên giữa Keo tai tượng (Acacia mangium) và Keo lá tràm (Acacia
auriculiformis). Hai loài bố mẹ của Keo lai này được trồng ở nước ta từ vài chục
năm trở lại đây, hai loài keo bố mẹ đã được đánh giá và công nhận là những lồi
cây mọc nhanh cũng như có giá trị ở nhiều mặt (lấy gỗ, củi...và là loài cây cải tạo
đất). Hiện nay Keo tai tượng và Keo lá tràm vẫn đang được trồng phổ biến ở
nhiều nơi trong cả nước.
Giống Keo lai đã được phát hiện và khảo nghiệm ở Việt Nam, đợt một trong

các năm 1993 - 1995. Từ năm 1996 Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng đã
phối hợp với các đơn vị khác tiếp tục tiến hành nghiên cứu về Keo lai. Các
nghiên cứu này gọi là chọn lọc thêm các cây Keo lai tự nhiên, xây dựng các khảo
nghiệm dịng vơ tính, tiến hành đánh giá tiềm năng bột giấy của Keo lai, khả


14

năng cải tạo đất của Keo lai, cũng như tiến hành khảo nghiệm dòng Keo lai chọn
được ở các vùng sinh thái khác nhau.
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh nông lâm
nghiệp đều biết đến lồi Keo lai bởi những ưu thế của nó về sinh trưởng và một
số giá trị về kinh tế, cũng như khả năng cải thiện đất, nâng cao dộ phì của đất
trồng hơn hẳn so với một số loài cây mọc nhanh khác, Keo lai đã được đánh giá
trên cơ sở những nghiên cứu thực nghiệm cơ bản và cả trên mơ hình trồng thử
Keo lại tại một số vùng sinh thái ở nước ta.
Năm 1995 Keo lai đã được hội đồng khoa học Bộ Lâm nghiệp (trước đây)
đánh giá là giống tiến bộ kỹ thuật và cần tiếp tục nghiên cứu khảo nghiệm nhằm
đưa giống này vào sản xuất đại trà, trồng rừng phủ xanh đất trồng đồi núi trọc,
làm cây phù trợ cho trồng rừng đặc dụng, phòng hộ, trồng cây nguyên liệu cho
công nghiệp giấy, ván nhân tạo...phục vụ cho các chương trình trồng rừng như:
327, 5 triệu ha rừng, trồng cây nguyên liệu v.v... ở nước ta cho sản xuất nông
nghiệp lâu dài.
a) Sơ lược về sự phát hiện và nghiên cứu Keo lai trên thế giới
Theo FAO, 1982 Keo lai tự nhiên giữa A. mangium và A. auriculiformis
được phát hiện đầu tiên vào năm 1970 tại bang Sabah (Malaixia). Theo Rufelds,
1987 thì những cây này ở Ulu Kukul đã thấy có kích thước lớn hơn, dạng cành và
thân tròn đều hơn các cây Keo tai tượng đứng gần đó. Ngồi ra cịn có dấu hiệu
cho thấy tỷ trong gỗ và một số tính chất hơn cây mẹ Keo Tai tượng.
Theo Pinso và Nasi (1991) Keo lai giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm được

Messir Herbern và Shim phát hiện lần đầu tiên trong số các cây Keo tai tượng
trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang Sabah (Malaixia). Đến năm 1976,
Tham cũng coi là giống lai. Đến tháng 7 năm 1978 sau khi xem xét các mẫu tiêu
bản tại phòng tiêu bản thực vật ở Queensiand (Australia) được gửi tới từ tháng 1
năm 1977, Pegley đã xác nhận đó là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo
lá tràm.
Từ đó trở đi Keo lai đã được các nhà lâm nghiệp để ý đến và cũng được
phát hiện ở nhiều vùng khác như: phát hiện của Turnbull, 1986, Gun et al, 1987
và Griffin, 1988 thì vùng Balamuk và Old Tonda của Papua New Guinea. Theo


15

Rufelds. Theo Kijkar, 1992 thì Keo lai cùng được phát hiện ở Thái Lan. Ở đây
Keo lai được gây trồng thành đám khoảng 30 cây tại trụ sở của Trung tâm nghiên
cứu giống cây rừng ASEAN - Canada ở Muak - Lek, Saraburi.
Ngoài ra, từ năm 1992 ở Indonesia đã bắt đầu có thí nghiệm trồng Keo lai từ
ni cấy mô phân sinh, cùng Keo tai tượng và Keo lá tràm. Keo lai tự nhiên cịn
tìm thấy trong vườn ươm Keo tai tượng (lấy giống từ Malaysia) của Trạm nghiên
cứu Jon-pu của Viện nghiên cứu lâm nghiệp Đài Loan và ở khu trồng Keo tai
tượng tại Quảng Châu (Trung Quốc).
b) Sự phát hiện và các đặc điểm của Keo lai Ở Việt Nam
Theo Lê Đình Khả, 1999 thì ở nước ta Keo lai được Trung tâm nghiên cứu
giống cây rừng (Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam) phát hiện tại Ba Vì (Hà
Tây trước đây), Đơng Nam Bộ và Tân Tạo (thành phố Hồ Chí Minh), có những
nghiên cứu đầu tiên. Keo lai đã được phát hiện lác đác tại nhiều nơi như Nam Bộ
(Tân Tạo, Trảng Bom, Sông Mây, Trị An), ở Trung Bộ (Thanh - Nghệ - Tĩnh,
Bình - Trị - Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng), ở Bắc Bộ (chủ yếu ở vùng Ba Vì (Hà
Tây cũ) và một số nơi khác như Hồ Bình, Phù Thọ, Tuyên Quang, v.v.... Các
cây lai này đã xuất hiện trong các rừng trồng Keo tai tượng, được lấy giống từ

các khu khảo nghiệm Keo tai tượng trồng cạnh Keo lá tràm tại Đơng Nam Bộ và
Tại Ba Vì. Vì thế có thể biết mẹ của chúng là Keo tai tượng (Acacia mangium)
và bố của chúng là Keo lá tràm (A. auriculiformis).
Giống lai vùng Ba Vì được lấy từ khu khảo nghiệm giống Keo trồng năm
1982 tại Lâm trường Ba Vì. Cây mẹ là Keo tai tượng, xuất xứ Daintree (thuộc
0

0

bang Queensland của Australia) ở vĩ độ 16 17’N, kinh độ 145 31’Đ, với lượng
mưa hàng năm khoảng 800 - 1200 mm/năm. Cây bố là Keo lá tràm, xuất xứ
0

Darwin (thuộc bang Northern Territory của Australia) có vĩ độ 12 26’N, kinh độ
0

132 16’Đ, với lượng mưa khoảng 1500 - 1900 mm/năm.
Giống lai vùng Đông Nam Bộ được lấy từ khu khảo nghiệm giống keo trồng
1984. Cây mẹ là Keo tai tượng xuất xứ Mossman (thuộc bang Queensland của
0



0



Australia) có vĩ độ là 16 20 N, kinh độ 145 24 Đ với lượng mưa hàng năm là
800 - 1200 mm/năm. Cây bố là Keo lá tràm được đưa vào gây trồng trước đây


không rõ xuất xứ hoặc thuộc xuất xứ Oenpelli (thuộc bang Northern Territory


16

0

0

của Australia) ở 12 20’N, kinh độ 133 04’Đ, với lượng mưa khoảng 1500 - 1900
mm/năm.
Như vậy, các giống Keo lai ở nước ta dù được phát hiện hoặc được lấy
giống ở miền Bắc hoặc miền Nam về cơ bản đều có cây mẹ thuộc cùng những
vùng sinh thái giống nhau, do đó có khả năng phát triển như nhau trên các vùng
sinh thái chính ở nước ta. Tuy nhiên do đặc điểm sinh trưởng và phát triển riêng
biệt của chúng nên các giống này có thể có ưu thế lai khác nhau khá rõ rệt.
1.1.3.2. Đặc điểm lâm học của cây Keo lai
* Hình thái
Theo Nguyễn Hồng Nghĩa, 2003 cho thấy: Chương trình phát triển cây
Keo lai dựa vào việc sử dụng hạt lai hoặc cây hom Keo lai bắt đầu từ keo lai tự
nhiên hay nhân tạo. Lai Keo có một khó khăn là hoa Keo nhỏ, việc khử đực trước
khi lai khá phiền tối, nên đơi khi người ta xây dựng vườn giống hỗn giao hai
loài bố mẹ để sản xuất hàng loạt hạt lai cho trồng rừng đại trà hoặc cho sản xuất
cây hom.
Năm 1988, Rufelds đã đưa ra phương pháp xác định cây con Keo lai tại
vườn ươm để các cán bộ kỹ thuật có thể dễ dàng nhân biết và tách riêng chúng ra
khỏi các lô hạt Keo tai tượng hoặc Keo lá tràm. Sau này, Edmun Gan and Sim
Bun Liang, 1991 [55] đã đưa ra các bảng đơn giản để đánh giá Keo lai ở vườn
ươm (bảng ..). Có hai nhóm đặc trưng của cây con được dùng để phân biệt Keo
tai tượng, Keo lá tràm và Keo lai ở vườn ươm là:

- Các đặc trưng phân loại của lá,
- Hình mẫu phát triển của lá.

Khi ta sử dụng đồng thời hai bảng này thì có thể phân biệt và nhóm các cây
con cùng nhóm phân loại vào với nhau. Việc đánh giá cần được thực hiện hàng
tuần cho 8 đến 10 tuần.


17

Bảng 1.1: Phương pháp đánh giá đơn giản (Gan and Sim Bun Liang, 1991)

Lô hạt
cây mẹ

A. mangium

A.
auriculiformis

Chú ý: (1) Cây con được giữ dưới dàn che 50 - 70%
(2) Lá kép (pinnate) chỉ tất cả các dạng lá trừ lá giả đầy đủ và lá mầm

Bảng 1.2: Các đặc trưng phân loại của lá (Gan and Sim Bun Liang, 1991)

Đặc trưng của lá
Lá lông chim
Màu mép lá
Lông trắng mép lá
Màu mặt dưới lá

Lá kép
Màu mép lá kép
Lông trắng mép lá
Màu mặt lá dưới
Lá giả + Lá kép
Màu mép lá kép
Lông trắng mép lá



18

kép
Lá giả
Hình dạng lá giả
Tỷ lệ dài/rộng
Kết cấu
* Vùng phân bố
Theo Pinso và Nasi (1991) Keo lai giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm được
Messir Herbern và Shim phát hiện lần đầu tiên trong số các cây Keo tai tượng
trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang Sabah (Malaixia). Đến năm 1976,
Tham cũng coi là giống lai. Đến tháng 7 năm 1978 sau khi xem xét các mẫu tiêu
bản tại phòng tiêu bản thực vật ở Queensiand (Australia) được gửi tới từ tháng 1
năm 1977, Pegley đã xác nhận đó là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo
lá tràm.
Từ đó trở đi Keo lai đã được các nhà lâm nghiệp để ý đến và cũng được
phát hiện ở nhiều vùng khác như: phát hiện của Turnbull, Gun et al, 1987 và
Griffin, 1988 thì vùng Balamuk và Old Tonda của Papua New Guinea.. Theo
Kijkar, 1992 thì Keo lai cùng được phát hiện ở Thái Lan. Ở đây Keo lai được gây
trồng thành đám khoảng 30 cây tại trụ sở của Trung tâm nghiên cứu giống cây

rừng ASEAN - Canada ở Muak - Lek, Saraburi.
Ngoài ra, từ năm 1992 ở Indonesia đã bắt đầu có thí nghiệm trồng Keo lai
từ nuôi cấy mô phân sinh, cùng Keo tai tượng và Keo lá tràm. Keo lai tự nhiên
cịn tìm thấy trong vườn ươm Keo tai tượng (lấy giống từ Malaysia) của Trạm
nghiên cứu Jon-pu của Viện nghiên cứu lâm nghiệp Đài Loan và ở khu trồng Keo
tai tượng tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Ở nước ta giống Keo lai ở Ba Vì có nguồn gốc cây mẹ là Keo tai tượng có

xuất xứ Pain-tree bang Queensland - Australia. Cây bố là Keo lá tràm xuất xứ
Darwin bang Northern Territory – Australia. ở Đông Nam Bộ hạt giống lấy từ
cây mẹ Keo tai tượng xuất xứ Mossman và cây bố Keo lá tràm cũng ở Australia
nhưng không rõ xuất xứ. Về cơ bản các giống Keo lai đã phát hiện ở nước ta đều


19

o



o

có cây mẹ cùng vùng sinh thái giống nhau: Vĩ độ 12 20 ÷ 16 20’Bắc, kinh độ
o



o




132 16 ÷145 30 Đơng, lượng mưa 800 ÷1900mm.
* Sinh trưởng và tái sinh
Keo lai có sức sinh trưởng nhanh hơn rõ rệt so với loài keo bố mẹ. Với một
số loài Keo lai đã chọn lọc trồng thâm canh 3 tuổi đạt trung bình 8,6 – 9,8 m về
3

chiều cao, 9,8 ÷ 11,4 cm về đường kính, 19,4 ÷ 27,2 m /ha/năm, về lượng sinh
3

trưởng và 50 ÷ 70 m về sản lượng gỗ. Rừng Keo lai 7 ÷ 8 tuổi đạt 150 ÷ 200 m

3

gỗ/ha, nhiều hơn 1,5 ÷ 2 lần rừng Keo tai tượng và Keo lá tràm.
Keo lai có nhiều hạt và khả năng tái sinh tự nhiên bằng hạt rất mạnh.
Rừng trồng 8 ÷ 10 tuổi sau khi khai thác trắng, đốt thực bì và cành nhánh, hạt
nảy mầm và tự tái sinh hàng vạn cây/ha. Khi cây con được 0,5 ÷ 1 tuổi, chặt tỉa
cây xấu chọn để lại khoảng 2000 cây/ha, chăm sóc tạo rừng mới. Tuy nhiên
không trồng rừng Keo lai bằng cây con từ hạt mà phải bằng cây hom.
Trên cơ sở phân biệt hình thái cây con để chọn cây lai, Nguyễn Hồng
Nghĩa, 2003 [32] trích dẫn từ Edward Chia (1993) ở Sabah, Malaixia đã so sánh
chiều cao bình quân các cây mẹ và Keo lai 1 năm tuổi và cho thấy triển vọng lớn
của cây Keo lai có mẹ là Keo tai tượng (Am) và mẹ là Keo lá tràm (Aa) ở bảng
sau:
Như vậy từ bảng 3.4 trên cho ta thấy Keo lai có khả năng sinh trưởng nhanh
hơn so với keo bố mẹ của chúng là Keo tai tượng và Keo lá tràm.
Bảng 1.3: Khả năng sinh trưởng của Keo lai so với bố mẹ (Keo tai tượng
và Keo lá tràm)
Lặp lại

1
2
Bình quân
Ở Việt Nam đặc điểm nổi bật của Keo lai ưu thế lai hết sức rõ rệt về sinh

trưởng. Nghiên cứu của Lê Đình Khả, 1999 cho thấy ưu thế lai này đã được thể
hiện rõ ở Ba Vì lẫn Đông Nam Bộ và nhiều nơi khác. Đo đếm sinh trưởng chiều
cao và đường kính ngang ngực (D1.3) theo phương pháp do tất cả các cây Keo lai


20

rồi lấy những cây Keo lai này làm chuẩn hai đầu để đo các cây Keo tai tượng
được gặp trên đường nối giữa hai cây Keo lai một cách ngẫu nhiên, cứ bốn cây
đo một cây. Thể tích thân cây được tính theo cơng thức:

V

=π.D.2.H.f
4

Trong đó: - π = 3,1416
- D: đường kính ngang ngực (D1.3)
- H: chiều cao vút ngọn (Hvn)
- f: hệ số hình dạng hoặc hình số (được giả định bằng 0,5)

1.1.3.3. Công dụng của Keo lai
Keo lai là một trong các loài cây chủ lực cung cấp gỗ nguyên liệu giấy. Tỷ
trọng gỗ 0,542, hàm lượng xenlulô 45,36%, tổng các chất sản xuất bột giấy
95,2%, hiệu xuất bột giấy 52,8%, độ nhớt của bột 36,6%, độ chịu gấp, chịu đập

cao hơn hoặc trung gian giữa hai lồi keo bố mẹ. Ngồi ra keo lai cịn dùng làm
gỗ dán, ván dán cao cấp dùng trong xây dựng và xuất khẩu.
Keo lai mọc nhanh, cành lá phát triển mạnh, xanh quanh năm , sau khi trồng
1 ÷ 2 năm rừng đã khép tán, cải thiện được tiểu khí hậu, đất đai nơi trồng, che

chắn hạn chế dòng chảy, trả lại một lượng cành khô lá dụng cho đất. Cây con 3
tháng tuổi có 40 ÷ 80 nốt sần cộng sinh, chứa hàng triệu Vi khuẩn cố định đạm,
nhiều gấp 3 ÷ 12 lần so với Keo tai tượng và Keo lá tràm. Trong một gam đất
dưới tán rừng Keo lai 5 tuổi có lượng vi sinh vật gấp 5 đến 17 lần các loài keo bố
mẹ và gấp 96 lần ở nơi đất trống.
Từ nghiên cứu về Keo lai cho thấy Keo lai nổi trội hơn hẳn Keo tai tượng và
Keo Lá tràm về sinh trưởng phát triển. Thực tế trồng các loài Keo ở Việt Nam
trong thời gian qua cho thấy, khả năng sinh trưởng nhanh hơn của Keo lai so với
các loài Keo khác, đã giúp người trồng rừng rút ngắn được chu kỳ kinh doanh
nguyên liệu công nghiệp, tăng năng suất và sản lượng gỗ trên một ha rừng trồng.
Tuy nhiên để thấy được tiềm năng bột giấy của Keo lai so với các loài Keo bố mẹ
như thế nào, đã có nhiều nhà khoa học đề cập đến.


21

Theo Lê Đình Khả và Lê Quang Phúc, 1995 cho thấy việc xác định tiềm
năng bột giấy cho cây Keo lai có so sánh với các lồi bố mẹ đã được tiến hành
lần đầu tiên vào cuối năm 1994. Tiềm năng bột giấy và các tính chất cơ bản của
Keo lai cao hơn các lồi cây bố mẹ (các dịng Từ Ba Vì) hoặc có tính trung gian
giữa hai lồi bố mẹ.
Một nghiên cứu mới đây của Lê Đình Khả và các cộng tác viên, 2003 dẫn
chứng việc xác định tiềm năng bột giấy vẫn do Viện Công nghiệp giấy và xenlulo
tiến hành. Mẫu gỗ được lấy cho cây 4 tuổi và cây năm tuổi của các dòng Keo Lai
được lựa chọn, có so sánh với các lồi bố mẹ là Keo tai tượng và Keo lá tràm

cùng như Bạch đàn trắng caman (Eucalyptus camaldulensis) được trồng cùng
khoảng cách 3m x 2m và cùng một cơng thức bón phân... quan phân tích được
biết:
Về tỷ trọng gỗ của Keo lai cho thấy nó biến động từ 0,511 - 0,629 (trung
bình là 0,574). Trong khí đó tỷ trọng gỗ của Keo lá tràm là 0,555 (xuất xứ Coen
River) đến 0,590 (xuất xứ More head River). Tỷ trọng gỗ gỗ khô tự nhiên của
Bạch đàn trắng caman (xuất xứ Petford) là 0,633, cao hơn khá rõ so với các dòng
Keo lai và các lồi Keo bố mẹ. Xác định tỷ trọng khơ kiệt sau khi sấy ở nhiệt độ
0

105 C cho thấy các dịng Keo lai có tỷ trọng (0,491) trung gian giữa Keo tai
tượng (0,474) và Keo lá tràm (0,493 - 0,541).
Bên cạnh đó nghiên cứu cịn chỉ thêm một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá gỗ
khi phơi khô là mức độ nứt mặt cắt ngang của các đoạn gỗ dài 30 cm. Mức độ nứt
thể hiện tính co rút của gỗ khi phơi khơ. Gỗ càng có nhiều vết nứt và vết nứt rộng thì
tính co rút càng mạnh. Mức độ nứt gỗ được tính theo trị số trung bình của ố vết nứt
và độ rộng vết nứt ở cả hai đầu của đoạn gỗ dài 30 cm sau khi phơi khơ 3 tháng. Kết
quả cho thấy: Các dịng Keo lai được lựa chọn có trung bình 1,2 vết nứt trên một
mặt cắt ngang với chiều rộng ngoài cùng của vết nứt là 2,46 mm. Cịn Keo tai tượng
có trung bình là 1,22 số vết nứt; chiều rộng vết nứt là 3,39
am.

Keo lá tràm có trung bình là 0,80 vết nứt, chiều rộng vết nứt trung bình là

1,75 mm. Gỗ Bạch đàn trắng caman có trung bình là 0,94 vết nứt, chiều rộng vết
nứt là 1,44 mm.


22


Như vậy, Keo lai có số vết nứt tương đương Keo tai tượng và cao hơn Keo
lá tràm, còn chiều rộng vết nứt lại nhỏ hơn Keo tai tượng nhưng lại cao hơn Keo
lá tràm, Keo lai có tính chất trung gian giữa hai loài bố mẹ.
1.1.3.4. Sơ lược về hiệu quả trồng rừng Keo lai ở Việt
Nam a) Về hiệu quả kinh tế
Đỗ Đình Sâm và các cộng sự (2001), đã nghiên cứu áp dụng các biện pháp
kỹ thuật lâm sinh vào trồng rừng công nghiệp tại các vùng Trung Tâm, Đơng
Nam Bộ và Tây Ngun, đồng thời tính toán hiệu quả kinh tế của rừng trồng Keo
lai. Kết quả cho thấy ở vùng Trung Tâm các chỉ tiêu NPV và IRR (9%) đều thể
hiện kinh doanh có lãi; ở các tỉnh Đông Nam Bộ chỉ tiêu IRR đạt khá cao khoảng
từ 17%- 19%. Tác giả nhận định, với chi phí trồng rừng như thời điểm nghiên
3

cứu, nếu năng suất rừng trồng bình qn khơng đạt được trên 15 m /ha/năm thì tỉ
suất nội tại của vốn đầu tư sẽ khơng đạt được các mức như đã tính tốn.
Kết quả nghiên cứu của Đoàn Hoài Nam (2004) ở vùng Đông Bắc; Bắc
Trung Bộ; Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cho thấy: việc áp dụng các biện pháp
kỹ thuật lâm sinh (chọn giống, làm đất, bón phân, chăm sóc và mật độ trồng) đã
3

cho năng suất rừng trồng Keo lai bình qn đạt trên 20 m /ha/năm. Kết quả tính
tốn hiệu quả kinh tế cho thấy, tỷ lệ lãi suất nội tại (IRR= 16%), đây là hiệu quả
kinh tế cao trong sản xuất lâm nghiệp, tác giả khẳng định năng suất cây trồng là
yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh tế của quá trình đầu tư.
Đánh giá hiệu quả kinh tế của rừng trồng Keo lai ở Thái Nguyên và Bắc
Kạn, Trần Công Quân (2012) đã điều tra, khảo sát trực tiếp các diện tích rừng
trồng keo lai và tập hợp các số liệu về chi phí và thu nhập để tính tốn hiệu quả
kinh tế. Kết quả cho thấy, năng suất của rừng trồng Keo lai bình quân đạt
3


20m /ha/năm và lợi nhuận thu được cao, trong 7 năm bình quân mỗi năm lãi
được hơn 2 triệu đồng/năm, tỷ lệ lãi suất nội tại (IRR= 24%).
Theo Võ Đại Hải và các cộng sự 2005, khi nghiên cứu các mơ hình rừng
trồng sản xuất thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc cho thấy hiệu quả kinh tế xã hội
các mơ hình rừng trồng sản xuất được tổng hợp và trích một phần vào bảng sau:
Đối với nhóm lấy gỗ thì tỷ suất thu nhập và chi phí BCR dao động không lớn lắm
và đều lớn hơn 1 ở tất cả các mơ hình, nghĩa là kinh doanh lâm nghiệp hiện nay


23

đều có lãi, trong đó giá trị BCR cao là ở các rừng trồng Keo tai tượng, Keo Lai,
Keo lá tràm, Mỡ với trị số BCR đạt từ 1,9 - 2,5 tại các điểm khảo sát. Cũng cần
lưu ý một điểm rằng, cùng một loài cây những ở những lập địa khác nhau, điều
kiện cơ sở hạ tầng và khả năng chế biến sản phẩm khác nhau giá trị BCR cũng
rất khác nhau vì năng suất rừng, giá bán sản phẩm khác nhau.
Cần chú ý rằng Mỡ và Keo tai tượng giá trị thu nhập tính cho gỗ nhỏ những
thực tế ít ra 1/3 nguyên liệu được bán tính theo giá trị gỗ lớn 1,2 - 1,3 triệu
3

đồng/m , nên thực tế BCR sẽ cao hơn nữa. Mặt khác, đây cũng là cây có khả
năng cung cấp gỗ lớn kết hợp gỗ nhỏ với chu kỳ 15 - 20 năm nên khơng chỉ suất
thu nhập được tăng , mà tính bền vững về môi trường sinh thái cũng tốt hơn cho
nên cần có chuyển hướng về mục tiêu kinh doanh 2 lồi cây này theo hướng đó
thay vì chỉ đáp ứng cung cấp gỗ nhỏ.
Keo lai mọc nhanh kinh doanh gỗ nhỏ chu kỳ ngắn, khả năng cải tạo đất và
phòng hộ bị hạn chế cần thực hiện phương thức ln canh giữa 2 lồi đó sau khi
chặt chính. Quan trọng hơn nữa là phải sử dụng nguồn giống từ các dịng đã được
chọn lọc cải thiện và cơng nhận với kỹ thuật nhân giống bằng hom, mô và thâm
cạnh.

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Huy Sơn, Nguyễn Xuân Quát và Đoàn
Hoài Nam, 2006 đã đề xuất rằng: Trồng rừng thâm canh và thâm canh rừng trồng
tuy đã đạt được những thành tựu nhất định về năng suất, những hiệu quả kinh tế
của các mơ hình rừng trồng thâm canh như thế nào cũng là vấn đề thời sự đáng
được quan tâm. Các thông số kinh tế - kỹ thuật sử dụng trong tính tốn hiệu quả
kinh tế được các tác giả đưa ra như:
- Chu kỳ kinh doanh 8 năm đối với Keo lai và Keo tai tượng.
- Mật độ trồng ban đầu bình quân là 1660 cây/ha, mật độ.
- Phương thức trồng thâm canh với kỹ thuật làm đất bằng cơ giới một số

khâu hoặc làm đất thủ cơng tốn bộ tuỳ địa kiện địa hình cụ thể;
- Chăm sóc liên tục 4 năm đầu;
- Bảo vệ từ năm thứ 5 đến hết chu kỳ kinh doanh;
- Tỷ lệ lãi suất vay vốn đầu tư trồng rừng từ quỹ hỗ trợ đầu tư là 5,4%/năm;
- Thuế sử dụng đất lâm nghiệp là 2 % giá trị gỗ thương phẩm;


×