Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Vận dụng lý thuyết để đánh giá thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam từ 2008 đến nay thông qua chính sách tái chiết khấu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.25 KB, 26 trang )

GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
VÀ ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
Các thành viên trong nhóm thảo luận lựa chọn tên đề tài và thống nhất nội
dung của bài thảo luận. Trên cơ sở đó các thành viên thống nhất phân công công
việc và thực hiện làm chi tiết các công việc được phân giao.
ST
T

Tên thành viên

Cơng việc thực

Đánh giá của

Đánh giá

hiện

nhóm

của giáo viên

Tính cấp thiết
của đề tài, Mục
1

Lê Minh Tiến

đích, đối tượng,
phạm vi nghiên


cứu

2

Nguyễn Sơn Tùng

Cơ sở lý luận
Tổng quan kinh

3

Nguyễn Thị Trang

tế Việt Nam từ
2007 đến nay

4

Lâm Thị Minh Thúy

Nhóm có sự đồn
kết, các thành viên
đều đóng góp ý
kiến cho bài thảo
luận. Cả nhóm

Diễn biến chính

thống nhất đánh giá


sách tái chiết

điểm cho tất cả các

khấu và hiệu

thành viên là điểm

quả của chính

A

sách từ 2007
đến nay
Tổng hợp, sửa
5

Hiệp, Tùng

chữa và thuyết
trình

LỜI MỞ ĐẦU

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

1

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)



GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nói đến tiền là nói đến sự ổn định của tiền, mà sự ổn định của tiền liên quan
mật thiết và chịu sự ràng buộc bởi hoạt động của tồn hệ thống ngân hàng. Thơng
qua các thao tác của mình, Ngân hàng Trung ương (NHTW) có thể làm thay đổi tiền
tệ trên tất cả các mặt: lưu lượng, chi phí, giá trị… Tồn bộ các thao tác có liên quan
đến tiền của NHTW luôn nằm trong hệ thống những ý đồ mang tính chiến lược mà
người ta gọi là chính sách tiền tệ. Nếu chính sách tài chính tập trung vào thành
phần, kết cấu các mức chi phí, thuế khố của Nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc
gia lại tập trung vào việc giải quyết khả năng thanh tốn cho tồn bộ nền kinh tế
quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thơng, điều
khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng đáp ứng vốn cho hoạt động kinh tế, tạo điều kiện
thúc đẩy thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát
hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tín dụng
khác, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh
tế đối ngoại, hướng tới mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của
đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá.
Nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền tệ là việc cung ứng tiền cho
nền kinh tế. Việc cung ứng tiền có thể thơng qua con đường tín dụng, cũng có thể
thơng qua hoạt động của thị trường mở (mua bán giấy tờ có giá), thị trường hối đoái
(mua bán ngoại tệ) và để điều tiết mức tiền cung ứng, NHTW các nước sử dụng các
công cụ khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc… Chính vì thế mà chính
sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển nhiên, bởi nó được sinh ra là
để điều tiết tiền tệ, mà sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế lại như máu lưu
thông trong cơ thể con người. Khơng khó khăn nếu muốn chứng minh về vấn đề
này, nhất là trong giai đoạn gần đây - chính phản ứng của thị trường đối với những
thay đổi của chính sách tiền tệ sẽ là biểu hiện rõ nhất về những tác động của chính
sách tiền tệ đối với nền kinh tế.
Tình hình kinh tế Việt Nam trong thời gian qua cũng đã có những dấu hiệu

bất ổn, ngồi những nguyên nhân khách quan, chủ quan; trong nước, ngoài nước thì
chính sách tiền tệ cũng đóng một vai trị không kém phần quan trọng đặc biệt là đối
với công cụ chính sách lãi suất tái chiết khấu. Chính vì thế, trong q trình học tập
mơn học, được sự hướng dẫn của cơ giáo, nhóm chúng em xin lựa chọn đề tài:
“Vận dụng lý thuyết để đánh giá thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN Việt Nam từ 2008 đến nay thơng qua chính sách tái chiết khấu” để phân

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

2

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
tích hiệu quả tác động của chính sách lãi suất tái chiết khấu với lượng cung tiền trên
thị trường.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu

Phân tích sự ảnh hưởng và hiệu quả tác động của cơng cụ chính sách lãi suất tái
chiết khâu của Ngân hàng Trung ương tới thị trường tiền tệ trong thời gian qua.
 Nhiệm vụ nghiên cứu.
Thứ 1: Phân tích làm rõ về sự tác động gián tiếp của chính sách lãi suất tái
chiết khấu tới lượng cung tiền trên thị trường tiền tệ, ưu nhược điểm của công cụ
này.
Thứ 2: vận dụng lý thuyết trên để đánh giá việc sử dụng cơng cụ chính sách
lãi suất tái chiết khấu của NHNN Việt Nam trong các thời kỳ để từ đó đánh giá về

hiệu quả và hiệu lực của cơng cụ có thỏa mãn được mục đích của NHNN trong việc
điều tiết thị trường tiền tệ.
 Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các chính sách tái chiết khấu của NHNN từ
năm 2007 đến nay
3. Cấu trúc bài thảo luận
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam
thơng qua chính sách tái chiết khấu
Chương 3: Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền
tệ của NHNN Việt Nam trong thời gian tới thơng qua chính sách tái chiết khấu.
Tuy nhiên, do thời gian còn hạn hẹp và sự hiểu biết các vấn đề chưa sâu sắc,
chắc chắn bài viết cịn có rất nhiều thiếu sót. Bởi vậy, chúng em mong được sự đánh
giá của cơ để có thể sửa chữa, khắc phục những mặt kiến thức cịn yếu của mình và
để bài viết có thể hồn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lê Thị
Kim Nhung đã tận tình giúp đỡ!

CHƯƠNG 1
Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

3

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ CƠNG CỤ TÁI CHIẾT KHẤU
1.1.

Chính sách tiền tệ:


1.1.1. Khái niệm:
Chính sách tiền tệ là hệ thống các quan điểm, các chủ trương và biện pháp của Nhà
nước nhằm tác động và điều chỉnh các hoạt động về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng,
ngoại hối, tạo ra sự ổn định của lưu thông tiền tệ để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân
phát triển.
1.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
-

Ổn định kinh tế, giá cả, lãi suất, thị trường tài chính.

-

Tăng trưởng kinh tế.

-

Tạo cơng ăn việc làm cho người lao động.

1.1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ:
-

Các cơng cụ gián tiếp:

+
Nghiệp vụ thị trường mở: NHTW sử dụng các nghiệp vụ mua bán chứng
khoán trên thị trường tiền tệ để thay đổi cơ số tiền, từ đó tác động đến lượng cung
ứng và mức lãi suất trên thị trường.
+
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định về việc cho vay của NHTW

đối với các Ngân hàng trung gian (NHTG), chủ yếu dưới hình thức chiết khấu lại
các giấy tờ có giá.
+
Dự trữ bắt buộc: là số tiền mà NHTG buộc phải duy trì trên tài khoản tiền
gửi tại NHTW.
+
Chính sách tỷ giá hối đoái: là sự can thiệp của NHTW vào tỷ giá làm cung
tiền thay đổi, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thay đổi
Các công cụ trực tiếp: hạn mức tín dụng, khung lãi suất, biên độ dao động tỷ
giá, chính sách quản lý ngoại hối.
1.2.

Cơng cụ lãi suất tái chiết khấu:

1.2.1. Chính sách tái chiết khấu:
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các qui định về việc cho vay của NHTW đối với
các NHTM. NHTW thường cho các NHTM vay dưới hình thức chiết khấu lại các
Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

4

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
giấy tờ có giá ngắn hạn (chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu) do các
NHTM đưa đến, bởi vậy chính sách cho vay của NHTW đối với các NHTM được
gọi là chính sách tái chiết khấu.
Các NHTM vay từ NHTW chủ yếu là nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt tiền mặt tạm
thời để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc để bù đắp thiếu hụt trong quỹ dự trữ bắt

buộc. Những thay đổi trong chính sách tái chiết khấu của NHTW sẽ tác động đến
khối lượng vay chiết khấu của các NHTM, từ đó ảnh hưởng tới lượng tiền cung
ứng.
NHTW thông qua việc thay đổi các qui định về hạn mức tái chiết khấu, lãi suất tái
chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động đi vay
chiết khấu từ NHTW của các NHTM trên hai phương diện: khối lượng và giá.
Khối lượng vốn khả dụng được bổ sung từ NHTW có thể bị giới hạn hoặc nới rộng
căn cứ vào hạn mức tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu, từ đó ảnh hưởng
đến khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM, làm cho lượng tiền cung ứng bị thay
đổi. Khi lượng vốn khả dụng thay đổi, quan hệ cung cầu vốn và do đó lãi suất trên
thị trường liên ngân hàng cũng thay đổi.
Sự thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu tác động trước hết vào chi phí đầu vào của
các NHTM, vì thế các ngân hàng này dần dần tăng (hoặc giảm) lãi suất cho vay, từ
đó làm giảm (hoặc tăng) nhu cầu tín dụng. Bên cạnh đó, khi lãi suất chiết khấu tăng
lên (hoặc giảm), các NHTM không thể vay NHTW một cách dễ dàng (hoặc là có
thể mở rộng khả năng vay). Điều này buộc các NHTM phải giảm bớt khả năng cung
ứng tín dụng để hồi phục dự trữ (hoặc mở rộng cho vay trong trường hợp ngược
lại).
1.2.2. Lãi suất tái chiết khấu:
Theo Điều 9, Luật NHNN/06/1997/QHX, lãi suất tái chiết khấu là lãi suất áp dụng
khi NHNN tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác (tín
phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi) cho các TCTD.
Lãi suất tái chiết khấu thực hiện trên cơ sở các giấy tờ có giá: người nắm giữ giấy tờ
có giá đem tới cầm cố tại ngân hàng để có được một khoản vay với giá trị nhỏ hơn
giá trị trên các giấy tờ cầm cố (phần chênh lệch chính là tỷ lệ chiết khấu) và ngân
hàng sẽ thu lại toàn bộ khoản tiền khi các giấy tờ này đáo hạn. Trong trường hợp
các giấy tờ đó chưa đến hạn thanh tốn mà ngân hàng lại đang cần vốn kinh doanh,
họ có thể đem các giấy tờ có giá này tới chiết khấu tại Ngân hàng Trung ương

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ


5

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
(NHTW) với lãi suất tái chiết khấu NHTW đã cơng bố trước đó để thu được nguồn
vốn phục vụ hoạt động kinh doanh.
1.2.3. Vai trò của lãi suất tái chiết khấu:
 Lãi suất tái chiết khấu đóng vai trị như mức lãi suất “sàn” trên thị trường.
Lý do rất đơn giản: các tổ chức tín dụng đã vay vốn từ NHNN để cung cấp tín dụng
cho khách hàng, nếu lãi suất cho vay khách hàng thấp hơn lãi suất huy động vốn từ
NHNN, các tổ chức tín dụng sẽ khơng có lãi. Do vậy, lãi suất tái chiết khấu NHNN
đưa ra cũng chính là mức lãi suất cho vay thấp nhất của các tổ chức tín dụng.
Việc NHNN tái chiết khấu các giấy tờ có giá cũng tương tự như động thái tăng cung
tiền trên thị trường. Tuy nhiên, lãi suất tái chiết khấu tăng cao sẽ hạn chế khả năng
tiếp cận nguồn vốn của các TCTD và ngược lại. Nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết
khấu được thực hiện theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng. Lãi suất chiết
khấu được NHNN xác định và công bố, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ. Tăng lãi suất tái chiết khấu được coi là một trong số các công cụ
thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát của NHTW các quốc gia.
 Lãi suất tái chiết khấu là phương thức để NHTW đưa tiền vào lưu thơng, thực
hiện vai trị người cho vay cuối cùng.
Thơng qua việc tái chiết khấu, NHTW đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống
NHTM thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thơng thanh tốn, kiểm sốt được
hoạt động của các NHTM, có thể tác động tới việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với
nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể. Tái chiết khấu là
đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh
hưởng trực tiếp đến q trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách

tiền tệ. Tùy theo tình hình từng giai đoạn, tùy thuộc yêu cầu của việc thực hiện
chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính sách nới lỏng hay thắt chặt
tín dụng mà NHTW quy định lãi suất thấp hay cao.
 Lãi suất tái chiết khấu có tác dụng chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế
của từng giai đoạn.
Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các NHTM cũng phải nâng lãi suất tín
dụng của mình lên để khơng bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, giảm cầu về tín
dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi).
1.2.4. Tác động của chính sách tái chiết khấu:

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

6

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
 Cơ chế tác động:
Đây là công cụ ảnh hưởng đến khả năng vay nợ của các NHTM, mà bản chất của nó
là lãi suất ngân hàng. NHTW cấp tín dụng dưới nhiều hình thức thơng qua đó tác
động đến cung tiền tệ, thơng dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu và
tái chiết khấu các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết khấu các
thương phiếu của các NHTM là NHTW đã làm tăng khối lượng tiền tệ. Đây là hình
thức phát hành tiền được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá và khi các giấy tờ có giá
đáo hạn NHTW sẽ địi được các món nợ cho vay.
Thơng qua lãi suất tái chiết khấu NHTW có thể khuyến khích giảm hay tăng mức
cung tín dụng đối với nền kinh tế ; đồng thời giảm hoặc tăng mức cung tiền tệ. Khi
thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, NHTW sẽ tăng lãi suất chiết khấu. Khi đó các
NHTM sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt cơ hội cho vayvà ngược lại.

Sơ đồ đơn giản mơ tả cơ chế tác động của chính sách tái chiết khấu như sau:

 Ảnh hưởng của chính sách tái chiết khấu tới lượng cung tiền trên thị
trường:
-

Khi NHTW tăng lãi suất tái chiết khấu, các NHTM không thể vay NHTW một
cách dễ dàng buộc các NHTM phải giảm bớt khả năng cung ứng tín dụng để
phục hồi dự trữ theo đó các NHTM cũng sẽ tăng lãi suất cho vay cao hơn lãi

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

7

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
suất tái chiết khấu, điều này làm giảm cầu về tín dụng tương ứng làm giảm
lượng cung tiền ra thị trường.
-

Khi NHTW giảm lãi suất tái chiết khấu, các NHTM có thể vay NHTW một
cách dễ dàng nên có thể mở rộng cho vay tín dụng , có thể giảm lãi suất cho vay
xuống, làm tăng cầu về tín dụng và từ đó tăng lượng cung tiền ra thị trường.

1.2.5. Ưu và nhược điểm của cơng cụ chính sách tái chiết khấu:
 Ưu điểm của công cụ này là các khoản cho vay của NHTW đều được đảm bảo
bằng các giấy tờ có giá. Do đó các khoản cho vay sẽ chắc chắn được thu hồi khi
đến hạn.

 Nhược điểm của cơng cụ chính sách tái chiết khấu: Chính sách chỉ có thể phát
huy khi các NHTM có nhu cầu vay từ NHTW. Với sự phát triển của thị trường
tài chính, các NHTM có thể tìm kiếm được các nguồn vay khác ngồi NHTW
làm cho sự phụ thuộc của chúng vào NHTW giảm đi, do đó làm giảm mức độ
phát huy hiệu quả của cơng cụ này. Hơn nữa, NHTW khó kiểm sốt được hồn
tồn những tác động của cơng cụ này bởi NHTW chỉ có thể thay đổi mức lãi
suất tái chiết khấu và các điều kiện chiết khấu mà không thể bắt các NHTM vay
từ mình. Đồng thời mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó, sai lệch
thơng tin về cung cầu vốn trên thị trường. Do vậy công cụ này cũng không dễ
đảo ngược như nghiệp vụ thị trường mở.

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

8

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VIỆT NAM
THƠNG QUA CHÍNH SÁCH TÁI CHIẾT KHẤU TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY
2.1. Tổng quan kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007 đến nay:
 Giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2007 – 2009
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, cộng với những nguyên
nhân chủ quan bên trong, lạm phát đã trở lại, chỉ số lạm phát đã tăng lên hai con số.
Dấu hiệu lạm phát cao đã bắt đầu từ tháng 6 năm 2007 khi CPI tháng 6 tăng đột biến
xấp xỉ 1%, và tỉ lệ lạm phát tăng tới 12,6% so với tháng 12 năm 2006 và đến 2008,
mức CPI lên tới 19,89% so với tháng 12 năm 2007. Giai đoạn lạm phát 2007 – 2009 đã
ảnh hưởng khơng nhỏ đến nền kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam

 Giai đoạn 2010 – 2011
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong cả năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng
tăng 11.75% so với tháng 12 năm 2009. Con số 11,75% tuy không quá bất ngờ
nhưng vẫn vượt so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hơi đầu năm gần 5%.
Nhờ những điều chỉnh chính sách kịp thời của Chính phủ theo hướng tăng
cường ổn định kinh tế vĩ mơ, nền kinh tế đã có những chuyển biến theo hướng ổn
định hơn nhưng nhìn chung vẫn cịn rất nhiều khó khăn. Tuy lạm phát có xu hướng
giảm trong nửa cuối của năm 2011 nhưng tính chung cả năm vẫn cao khi chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) tăng 18,13%, cao hơn mục tiêu cuối năm đề ra là 18%.
Điểm nhấn 2011: Mục tiêu ổn định vĩ mơ thay cho tăng trưởng kinh tế với 6
nhóm giải pháp tập trung vào chính sách tiền tệ và tài khóa. Do được thực hiện kiên
định và xuyên suốt trong năm 2011, CPI đã giảm dần từ tháng 4 cho tới nay chứ
không bị tăng trở lại như trong năm 2010.
Biểu đồ CPI theo tháng trong 2 năm 2010 và 2011

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

9

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
 Giai đoạn 2012 – 2014
Từ năm 2004 đến 2011, lạm phát ở nước ta có xu hướng gia tăng, cao điểm
đã lên mức 2 con số, do đó, chống lạm phát là một nhiệm vụ quan trọng cấp bách
trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô. Song, từ năm 2012 đến năm 2013, lạm
phát có xu hướng ổn định dưới mức 7%.
Ngay từ đầu năm 2014, Chính phủ đã tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định
kinh tế vĩ mơ, trong đó, kiểm soát lạm phát là một trong những trụ cột quan trọng.

Kết quả này lại tiếp tục được thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2014, chỉ
tăng 1,84% so với tháng 12/2013, chỉ bằng 26,2% chỉ tiêu mức lạm phát của Quốc
hội đặt ra (7%) và bằng 37% mức dự kiến lạm phát của Chính phủ (5%).
Nếu xét mức lạm phát bình quân, thì cả năm 2014 so với năm 2013 tăng
4,09%, dù xét theo chỉ tiêu nào, thì kết quả này cũng là điều đáng ghi nhận. Đây là
mức lạm phát thấp nhất trong 10 năm trở lại đây và khá bất ngờ đối với các dự báo
của nhiều cơ quan chức năng, các tổ chức và chuyên gia kinh tế. Có thể nhận định
rằng, kết quả này là một trong những sự kiện nổi bật nhất, một trong những thành
công đuợc ghi nhận của kinh tế Việt Nam trong năm 2014.
2.2.2. Tổng quan tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007 – 2014
Các số liệu thống kê cho thấy, GDP nước ta tăng liên tục từ năm 2000 đến
2007, đạt mức 8,44% sau đó sụt giảm năm 2008 ở mức 6,31% và 2009 là 5,32%,
năm 2010 lại tăng lên 6,78%, hai năm tiếp theo 2011 và 2012 lại tiếp tục sụt giảm
và ở mức 5,89% và 5,03%. Năm 2012 có tỷ lệ tăng GDP thấp nhất trong vòng nhiều
năm nhưng điều cần nhấn mạnh là sự “khơng bình thường” trong giai đoạn 2007
đến nay. Theo nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê, những chỉ tiêu liên quan trực
tiếp đến tăng trưởng trong thời kỳ 2007-2012 là:
Tỷ lệ tăng vốn đầu tư toàn xã hội/GDP luôn ở mức trên 40% (cao nhất năm
2007 đạt 46,5%), tuy nhiên, đến năm 2011-2012 giảm nhanh còn 34,6%. Trong đó,
tỷ lệ đầu tư của các khu vực kinh tế nhà nước dao động quanh mức 37 - 38%, khu
vực ngồi nhà nước trên 35% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xoay
quanh mức 26% trong khi tỷ lệ tích lũy nội bộ dưới 30%. Trong giai đoạn này, tốc
độ tăng của tổng sản phẩm (GO) xoay quanh mức 11 - 13% và tốc độ tăng giá trị
gia tăng (VA) dao động từ 6-8%.
Đóng góp của các yếu tố vốn, lao động và nhân tố năng suất tổng hợp (TFP)
trong tăng trưởng GDP tương ứng là 76, 16 và 7%, so với giai đoạn trước đó đã thay
đổi theo hướng xấu đi, giai đoạn 2000-2006 số liệu các yếu tố tương ứng là 51, 23
Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

10


Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
và 26%. Trong giai đoạn 2006 -2012, nước ta ln có tỷ lệ nhập siêu, năm cao nhất
là 2008 lên đến 20,1% và năm 2011 là 8%. Từ năm 2012 đến nay con số này đang
giảm, theo nhận định của nhiều nhà kinh tế là "khơng bình thường". Tỷ lệ thu – chi
ngân sách với thu đạt 27,2% - chi 36,3% tiếp tục mất cân đối hơn so với giai đoạn
2000-2005, với tỷ lệ thu - chi ngân sách tương ứng là 24,6% và 32,6%. Các tỷ lệ nợ
cơng, nợ nước ngồi và nợ cơng nước ngồi, theo đánh giá của Bộ Tài chính, trong
giai đoạn từ 2007 đến nay tiếp tục gia tăng nhưng vẫn ở ngưỡng an toàn.
Những số liệu nêu trên chỉ ra rằng, trước năm 2007 nền kinh tế nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu như: tốc độ phát triển kinh tế tương đối cao (khoảng
7,2%/năm); GDP bình quân đầu người tăng gấp 2 lần năm 2001 (nếu tính giá hiện
hành thì khoảng 3,4 lần); thu ngân sách, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng khoảng 4
lần và quan trọng là Việt Nam đã bước đầu thành công trong hội nhập kinh tế quốc
tế. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế hiện tai đang bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt khi có
biến động.

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế dựa trên thâm dụng vốn đầu tư là cơ bản. Điều
này thể hiện ở chỗ sự tăng trưởng kinh tế những năm qua vẫn theo chiều rộng là
chính, dựa trên khai thác nguồn lực sẵn có, nghĩa là dựa trên lợi thế tĩnh, chứa chưa
dựa trên khai thác tối ưu lợi thế động. Để khai thác lợi thế tĩnh Việt Nam phải đẩy
mạnh thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước với nhiều hình thức khác nhau. Sự
phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư để tăng trưởng dẫn đến hệ quả là muốn duy trì mức
tăng trưởng cao, phải tiếp tục tăng vốn thêm nữa.
Thứ hai, bất cập trong đầu tư công ở nước ta là tập trung vào đầu tư cho kinh
tế rất cao (chiếm 73% tổng vốn đầu tư của Nhà nước) trong khi đầu tư vào các lĩnh
vực xã hội có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của con người (khoa học, giáo

dục, đào tạo, y tế, cứu trợ xã hội, văn hoá, thể thao…) lại rất thấp và đang có xu
hướng giảm dần trong những năm gần đây. Hơn nữa, vì nhiều ngun nhân, trong
đó có tham nhũng, lãng phí làm cho đầu tư cơng có hiệu quả thấp.
Thứ ba, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chưa dựa nhiều vào tri thức,
khoa học - cơng nghệ; Năng suất lao động tồn xã hội thấp tăng chậm so với tiềm

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

11

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
năng. Mức tiêu tốn năng lượng để tạo ra một đơn vị GDP của nước ta cao so các
nước trong khu vực. Nguồn lực phân bổ khơng hợp lý cho các lĩnh vực…
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế nước ta trong thời gian vừa qua chủ yếu theo
chiều rộng (về số lượng) và chứa đựng những yếu tố không ổn định.

Vốn đầu tư xã hội/GDP năm 2011 đạt 33,3% thấp hơn kế hoạch đã đặt ra
40% là nguyên nhân góp phần làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm. Cùng
với đó, lãi suất chưa giảm nhiều; nhu cầu ngoại tệ và sức ép tỷ giá cuối năm còn
lớn; nhiều doanh nghiệp (DN) cịn rất khó khăn... Hệ quả là mức tăng trưởng kinh tế
của cả năm 2011 chỉ đạt 5,89%, thấp hơn so với chỉ tiêu điều hành là 6%.
Từ năm 2012, chính sách kinh tế nước ta đã chuyển hướng sang mục tiêu ưu
tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, sức mua chung của nền
kinh tế suy giảm tạo nên vòng luẩn quẩn: sức mua giảm - tồn kho tăng - sản xuất
giảm - nợ xấu tăng - tín dụng giảm…
Điều này dẫn tới tăng trưởng GDP bình quân 4 năm 2011-2014 chỉ đạt
5,7%/năm, khá thấp so với mục tiêu Đại hội XI đề ra bình quân 7-7,5%/năm và thấp

hơn mức điều chỉnh theo theo Nghị quyết của Quốc hội 6,5-7%/năm (tốc độ tăng
GDP bình quân giai đoạn 2006-2010 là 7%/năm). Có thể nói giai đoạn 2011-2014 là
thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng dưới tiềm năng và mục tiêu quan trọng nhất của
chính sách Nhà nước là ổn định vĩ mơ, khắc phục tình trạng bất ổn kéo dài.
Trong 3 năm 2012-2014, hệ quả của các biện pháp giảm tổng cầu đã tác động
kiềm hãm sức mua của thị trường và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Số lượng doanh
nghiệp (DN) ngưng hoạt động, phá sản, giải thể có xu hướng tăng nhanh từ đầu năm
2012 và kéo dài sang năm 2014.

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

12

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
Vì thế, trong suốt 2 năm 2013 và 2014 nền kinh tế vẫn đối diện với 4 thách
thức: (i) Nguy cơ tái lạm phát cao kèm theo sự trì trệ của thị trường đã thu hẹp dư
địa của các chính sách tài khóa và tiền tệ.
(ii) Tình hình nợ xấu chưa được cải thiện nên dịng tín dụng vẫn bị tắc
nghẽn, nền kinh tế khơng hấp thụ được vốn. Tình trạng thừa tiền thiếu vốn còn kéo
dài. Khả năng tiếp cận vốn của DN vẫn cịn khó khăn, nhất là DNNVV.
(iii) Do lạm phát kỳ vọng cả năm 6,5-7%, nên việc kéo giảm lãi suất tiết
kiệm tiền gửi bị hạn chế và lãi suất cho vay dù đã kéo giảm nhiều lần nhưng vẫn
còn khá cao, đặc biệt lãi suất vay trung - dài hạn, nên khơng kích thích được DN
đang có thị trường mở rộng đầu tư và vẫn là nguy cơ làm tăng nợ xấu đối với những
DN đang nỗ lực phục hồi sản xuất.
(iiii) Những nỗ lực để làm ấm thị trường bất động sản chưa mang lại nhiều
kết quả, nên thanh khoản của thị trường này ít được cải thiện.

Cho đến thời điểm cuối năm 2014, có thể nói những khó khăn của nền kinh
tế đã được cải thiện phần nào. Theo đó, GDP năm 2014 tăng 5,93%; lạm phát được
kiểm soát (tăng 1,86%), thấp nhất trong 10 năm qua. Đặc biệt hàng tồn kho ngành
công nghiệp chế biến chỉ tăng 9,4% so với mức tăng 21,5% cùng kỳ 2013; thanh
khoản ngân hàng thương mại (NHTM) có sự ổn định hơn so với các năm trước;
thành quả nổi bật là kinh tế vĩ mô ổn định hơn, lạm phát được kiểm soát, lãi suất
giảm, tỷ giá ổn định…
2.2. Diễn biến lãi suất tái chiết khấu của Việt Nam từ 2007 đến nay và
mức độ ảnh hưởng của lãi suất này tới các lãi suất khác trên thị trường:
Trong giai đoạn từ 2007 đến 2014, NHNN đã có 32 lần ra quyết định điều
chỉnh lãi suất tái chiết khấu trong vòng 7 năm (trong đó có 8 lần ra quyết định điều
chỉnh nhưng không làm thay đổi giá trị lãi suất tái chiết khấu). Điều này đã cho thấy
NHNN đã sử dụng triệt để công cụ tái chiết khấu trong điều hành chính sách tiền tệ
của mình với mục tiêu kiểm sốt lượng cung tiền trên thị trường từ đó ổn định kiềm
chế lạm phát. Chi tiết tại Biểu đồ số 01: Diễn biến lãi suất tái chiết khấu từ 2007
đến 2014.

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

13

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG

Đồ thị số 01: Diễn biến lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cơ bản và lãi suất huy động,
cho vay từ 2007 đến 2014 (Nguồn NHNN và reuter).
Từ biểu đồ trên có thể thấy, trong giai 7 năm đã diễn ra hai lần biến động lớn
về chính sách lãi suất tái chiết khấu, nguyên nhân là do có hai đợt khủng hoảng diễn

ra là cuộc khủng hoảng của năm 2008 – 2009 và cuộc khủng hoảng 2010 – 2011.Và
tương ứng với những lần điều chỉnh lãi suất tái chiết khẩu của NHNN, mức lãi suất
huy động và cho vay trên thị trường ngân hàng cũng có những biến động nhất định
tuy nhiên mức biến động của từng lần có khác nhau.
Để hiểu rõ hơn về sự tác động của chính sách lãi suất tái chiết khấu tới lượng
cung tiền và nền kinh tế, Nhóm nghiên cứu xin đi vào nghiên cứu từng giai đoạn cụ
thể :
2.2.1 Diễn biến lãi suất tái chiết khấu từ 2007 – 2009 và tác động của nó:
Trong giai đoạn trước năm 2007, để đạt mục tiêu tăng trưởng, chính sách tiền
tệ đã được nới lỏng liên tục theo hướng: lãi suất ổn định (từ 01/12/2005 01/02/2008, lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức 8,25%/năm), lãi suất tái chiết khấu ở
mức 4,5%/năm. Trong khoảng thời gian 10 năm, từ năm 1998 đến hết năm 2007,
bình quân tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khoảng 25%, riêng năm 2007, con
số này đạt kỷ lục (cao nhất trong 10 năm) là 37,8%. Bên cạnh họat động tín dụng,
tiền cịn được đưa vào lưu thông qua đường chi tiêu ngân sách, thu mua ngoại tệ…
Vì vậy, đã đẩy tổng phương tiện thanh toán mỗi năm tăng thêm hơn 25% số tiền của
năm trước trong khi bình quân mỗi năm GDP chỉ tăng lên khoảng 7,2% trước (từ
1996 đến hết năm 2007 tổng phương tiện thanh tốn tăng thêm bình qn năm là
26,2%, riêng năm 2007 con số này là 37%). Suốt khoảng thời gian dài, khoảng cách
giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng GDP ln ở mức trên
Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

14

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
dưới 20%, mà trong đó, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh tốn ln ở biên độ cao
hơn so với GDP. Qua đó cho thấy, cũng trong suốt thời gian ấy, rất nhiều tiền đã
được đưa vào lưu thông nhưng đã không tạo ra một lượng GDP tương ứng. Mà có lẽ

thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán trong những năm 2006, 2007 đã trở
thành kênh dẫn cho lượng tiền đó và vì thế, cho đến khi hai thị trường này bị thắt
lại, lượng tiền thừa thực sự phát huy tác dụng – gây nên hiện tượng lạm phát.
Sang năm 2008, chỉ số lạm phát ở mức cao nhất so với nhiều năm trước
(2,14%). Để kiềm chế lạm phát Chính Phủ đã chủ trương thực hiện chính sách thắt
chặt tiền tệ, ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng
đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất
động sản… đã tác động mạnh đến thị trường. Cụ thể lãi suất tái chiết khấu được
điều chỉnh 8 lần, tăng từ mức 4,5% lên mức 12%:

Đồ thị số 02: Diễn biến lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cơ bản và lãi suất huy động,
cho vay từ 2006 đến 2009 (Nguồn NHNN và reuter).
Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thơng thì việc sử dụng các cơng cụ
chính sách tiền tệ trong đó có cơng cụ lãi suất tái chiết khấu để giảm lượng tiền thừa
là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy được chính kiến cũng như sự quyết tâm của tồn
hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, với việc điều hành
chính sách sốc như vậy, các NHTM đã phải trải qua những tháng ngày (đặc biệt là
trong tháng 2, tháng 3,6/2008) cực kỳ khó khăn về thanh khoản và ln nằm trong
tình trạng “nguy cơ”. Chiến dịch lãi suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo
nên một dấu ấn khá sâu đậm. Có lẽ mãi sau này người ta cũng không thể quên được
cảnh tượng “tháo chạy” của khách hàng khỏi ngân hàng có lãi suất thấp và dòng
người xếp hàng bất chấp thời gian trước những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền
Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

15

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)



GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
vào. Chỉ trong khoảng thời gian vài ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ
15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa
21%/năm ở hầu hết các ngân hàng.
Như vậy trước chính sách lãi suất tái chiết khấu của NHNN thì thị trường
cung có những phản ứng thật mạnh mẽ: hoạt động cho vay gần như co cụm lại, huy
động vốn của NHTM gặp khó khăn lãi suất tăng vọt, luồng tiền gửi trở nên bất ổn,
thị trường bất động sản đang ở trong cơn sốt bỗng đóng băng và trở nên lạnh giá, thị
trường vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá thì tăng vọt… Chính sách tiền
tệ bộc lộ thật rõ sức mạnh của nó. Đến cuối năm 2008, chỉ số lạm phát ngày càng có
xu hướng giảm dần, tháng 8 là 1,56%; đến tháng 9 chỉ còn 0,18%; tháng 10 giá cả
bắt đầu có xu hướng giảm (âm 0,19%); sang tháng 11, chỉ số giá cả giảm với mức
độ sâu hơn (âm 0,76%) và tháng 12/2008 - tháng cuối cùng năm 2008, chỉ số giá cả
vẫn tiếp tục giảm. Trước dấu hiệu tích cực của thị trường, NHNN vào cuối năm
2008 đã hạ lãi suất tái chiết khấu, điều chỉnh giảm về mức 5%/năm. Bên cạnh đó,
tín hiệu cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản cũng được phát
ra… Tất cả những quyết định trên đều hướng đến việc tăng thêm khả năng cho các
NHTM trong việc cho vay đối với nền kinh tế. Ngay sau đó, mặt bằng lãi suất mới
được thiết lập, các NHTM đồng loạt giảm lãi suất. Tháng 12/2008, lãi suất cho vay
phổ biến ở mức 13-14%/năm. Động thái giảm lãi suất của các ngân hàng là một giải
pháp tích cực cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp các
doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn để duy trì và mở rộng sản xuất. Tác động
của chính sách tiền tệ - dư âm còn đọng lại cho đến cuối tháng 12/2008, tình hình
kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, hoạt động ngân hàng đang khởi sắc trở lại, huy
động vốn và cho vay đang bắt đầu trở về với nhịp độ bình thường, lãi suất khơng
cịn đóng vai trò gần như tuyệt đối trong việc hướng dẫn khách hàng có nguồn tiền
gửi… Tuy nhiên, hoạt động của các thị trường vẫn trong tình trạng chưa có dấu hiệu
cải thiện, luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế đang có hiện tượng chậm lại, tiến
độ cho vay của các ngân hàng cũng như khả năng tiếp cận vốn vay từ phía các
doanh nghiệp tuy đã phần nào được giải tỏa song vẫn là vấn đề nan giải. Hãy điểm

qua những hệ lụy mang lại cho các NHTM để thấy được mặt trái của việc vận hành
các công cụ chính sách tiền tệ. Điều chỉnh giảm lãi suất cho vay - một khó khăn của
các NHTM. Mặc dù hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh và thu lãi từ hoạt
động tín dụng hiện vẫn là nguồn thu chủ yếu của các NHTM Việt Nam, song hoàn
toàn khơng phải vì thế mà các ngân hàng muốn nâng lãi suất cho vay. Bởi lẽ, ngay
cả trong điều kiện mọi hoạt động trong nền kinh tế diễn ra bình thường thì việc
nâng lãi suất cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng, khách hàng tốt
Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

16

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
sẽ bỏ đi - vì cách xử sự của ngân hàng khơng tốt, khách hàng xấu thì ở lại - vì đã
xấu thì đến vay ở ngân hàng nào cũng thế thôi.
Sang đầu năm 2009, khi hệ thống tài chính ngân hàng đã trở lại ổn định,
doanh nghiệp được tiếp cận vốn qua chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ (4%)
thì NHNN lựa chọn thực hiện chính sách nới lỏng, điều hành chính sách tiền tệ bớt
“sốc” so với năm 2008. Tuy nhiên đến cuối năm 2009, tình hình lãi suất có nhiều
biến động, NHNN lại điều chỉnh tăng lãi suất tái chiết khấu lên 6%/năm.
2.2.2 Diễn biến lãi suất tái chiết khấu từ 2010 – 2012 và tác động:
Trong giai đoạn này, NHNN đã 8 lần điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu trong
đó năm 2011 điều chỉnh 3 lần theo hướng tăng nhằm giảm lượng cung tiền ra thị
trường kiềm chế lạm phát và năm 2012 điều chỉnh 5 lần theo hướng giảm lãi suất tái
chiết khấu nhằm tăng lượng cung tiền, tạo cơ hội tăng trưởng nền kinh tế . Cụ thể:

Đồ thị số 03: Diễn biến lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cơ bản và lãi suất huy động,
cho vay từ 2010 đến 2012 (Nguồn NHNN và reuter).

Trong giai đoạn 2010 đến hết Quý 1/2011, NHNN duy trì mức lãi suất tái
chiết khấu ổn định. Tuy nhiên mặt bằng lãi suất trong nửa đầu năm 2011 có nhiều
biến động, nguy cơ lạm phát bùng nổ trở lại cao khi CPI tăng lên đến 12%. Trước
tình hình đó, để kiểm soát lạm phát, NHNN đã điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu tư
7% tăng lên 13% vào tháng 5/2011. Với động thái này của NHNN, các NHTM phải
đối mặt lớn với rủi ro thanh khoản; do đó, biện pháp đơn giản các NHTM áp dụng là
tăng lãi suất huy động để bù đắp thiếu hụt về nguồn vốn. Các cuộc đua lãi suất lại bắt
đầu dưới các hình thức: Khuyến mãi, tặng thưởng, huy động lãi suất linh hoạt… mức
Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

17

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
lãi suất thực huy động sau khi cộng các % tiếp thị, khuyến mại lên tới
18,5-19,5%/năm dù đã có cam kết giữa các ngân hàng về trần lãi suất huy động là
14%/năm . Song song với đó lãi suất cho vay lên đến 21%. Để tránh tình trạng cạnh
tranh lãi suất khơng lành mạnh giữa các ngân hàng, NHNN đã có nhiều giải pháp
mạnh mẽ, quyết liệt để giảm mặt bằng lãi suất nhằm hỗ trợ sản xuất phát triển, góp
phần chống suy giảm kinh tế, khống chế tốc độ tăng trưởng dư nợ và dư nợ cho vay
đối với lĩnh vực phi sản xuất trong năm 2011 lần lượt là 20% và 16% đồng thời thực
hiện quy định trần lãi suất huy động tiền gửi. Cùng với nỗ lực giảm lãi suất huy
động, NHNN đã triển khai nhiều biện pháp để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, đặc
biệt là đối với 5 lĩnh vực ưu tiên. Riêng trong thời gian từ tháng 6/2012 đến 6/2013,
NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất đối với lĩnh vực, ngành nghề sản xuất
ưu tiên. Hiện nay, lãi suất cho vay đối với những lĩnh vực này dao động trong
khoảng 9%/năm từ mức cho vay 13%/năm trước đây. Đồng thời NHNN cũng 5 lần
điều chỉnh giảm lãi suất tái chiết khấu đưa từ mức 13% ở giữa năm 2011 về mức

7%/năm ở cuối năm 2012. Với mức độ và tần suất điều chỉnh giảm lãi suất như trên,
mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm đáng kể, gây tác động tích cực cho
nền kinh tế, cụ thể là:
- Mặt bằng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế giảm nhanh, từ 18,2% năm
2011 xuống 15,4% năm 2012 và 10,5% trong 6 tháng đầu năm 2013.
- Nhờ giám sát và xử lý cương quyết những trường hợp vi phạm trần lãi
suất huy động, đồng thời với các biện pháp hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM yếu
kém, tình trạng một số NHTM phải vay mượn lẫn nhau với lãi suất rất cao trên thị
trường liên ngân hàng đã được khắc phục;
- Giảm nhanh lãi suất cho vay, giúp doanh nghiệp tiết giảm chi phí sản xuất,
đồng thời ngăn chặn được nguy cơ tái lạm phát.
- Lạm phát đã giảm từ 18,6% vào năm 2011 xuống còn 6,8% trong năm
2012 và dự kiến chỉ còn 6,5% trong năm nay.
Kết quả chống lạm phát của Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao,
củng cố lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
2.2.3 Diễn biến lãi suất tái chiết khấu từ 2012 – 2014:
Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

18

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
Trong giai đoạn này, NHNN đã 10 lần điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu theo
chiều hướng giảm nhằm tăng lượng cung tiền ra thị trường tạo cơ hội đầu tư để tăng
trưởng kinh tế.

Đồ thị số 04: Diễn biến lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cơ bản và lãi suất huy động,
cho vay từ 2010 đến 2012 (Nguồn NHNN và reuter).

NHNN điều chỉnh giảm lãi suất tái chiết khấu từ mức 7%/năm ở năm 2012
về mức 5% năm 2013 và 4.5% năm 2014 (bằng với mức lãi suất tái chiết khấu năm
2005, trước đợt khủng hoảng tài chính 2008). Việc điều hành chính sách này của
NHNN phù hợp với chỉ đạo của Chính Phủ trong giai đoạn này là tăng trưởng kinh
tế.Với chính sách điều hành của NHNN như vậy, lạm phát đã được kiềm chế, diễn
biến theo xu hướng giảm và khá ổn định. Nếu lạm phát của năm 2012 là 6,81% thì
lạm phát của năm 2013 chỉ ở mức 6,04% - mức thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại
đây (xem Đồ thị 05).
Diễn biến lạm phát 2011 - T12/2013

Diễn biến lãi suất 2008 - T11/2013

Đồ thị 05: Diễn biến lạm phát và lãi suất từ 2011 đến nay (Nguồn: NHNN và
Tổng cục Thống kê)
Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

19

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
2.3. Đánh giá hiệu quả của chính sách tái chiết khấu từng thời kỳ của
NHNN Việt Nam từ 2007 đến nay:
2.3.1. Giai đoạn 2007-2009:
Trong giai đoạn này, chính sách lãi suất tái chiết khấu của NHNN cơ bản đã
phát huy tác dụng kiểm soát lượng cung tiền, đáp ứng được đúng mục đích của
NHNN. Với động thái tăng lãi suất tái chiết khấu năm 2008, lượng cung tiền ra thị
trường giảm rõ rệt, chỉ số lạm phát ngày càng có xu hướng giảm mạnh. Vào năm
2009, Chính phủ đã nỗ lực điều hành chính sách tiền tệ, giảm lãi suất tái chiết khấu

nhằm tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế, kích cầu đầu tư nhằm ngăn chặn suy
giảm kinh tế và duy trì tăng trưởng trong bối cảnh khủng hoảng tài chính tồn cầu
và suy thoái kinh tế thế giới.
Tuy nhiên trong giai đoạn này, chính sách tái chiết khấu vẫn cịn những
nhược điểm nhất định. Do việc
2.3.2. Giai đoạn 2010-1012:
Trong giai đoạn này, mặc dù NHNN liên tục điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu
theo hướng tăng lên làm giảm đáng kể lượng cung tiền ra thị trường qua các kênh
chứng khoán và bất động sản kiềm soát được lạm phát nhưng cũng dẫn đến nguy cơ
không phát triển được kinh tế do hoạt động đầu tư sản xuất đình chệ, thiếu vốn trầm
trọng đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thiết yếu của nền kinh tế.
Lãi suất tái chiết khấu tăng 3 lần, buộc các NHTM phải tìm đến nguồn vốn
từ khu vực dân cư. Các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động nhằm cạnh tranh
thị trường dẫn tới xuất hiện tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh, có một số ngân
hàng thực hiện tăng lãi suất theo hình thức chi thêm bên ngồi cho người gửi tiết
kiệm. Lãi suất huy động VND tăng cao khiến lãi suất cho vay không chỉ giữ ở mức
20- 23%/năm như thống kê từ NHNN mà có thể đã vượt cao hơn. Do vậy trong suốt
thời kỳ 2011-2012, NHNN quyết định trực tiếp các mức lãi suất huy động cho vay
của TCTD đối với khách hàng đối với từng kỳ hạn và đối tượng khách hàng(trừ lãi
suất huy động trên 12 tháng theo Thông tư 19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012 và
lãi suất cho vay thỏa thuận theo Thông tư số 12/2010/TT-NHNN và Thông tư
14/2012/TT-NHNN ngày 4/5/2012);Cơ chế điều hành trực tiếp quyết các mức lãi

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

20

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)



GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
suất kinh doanh của các TCTD đã làm vơ hiệu hóa các mức lãi suất điều hành chủ
chốt của NHNN( lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu).
Lãi suất cho vay cao làm các ngân hàng ở vào thế tiến thoái lưỡng nan bởi
các doanh nghiệp sản xuất cần vốn thì lại khó tiếp cận vì lãi suất cho vay q cao,
cịn các hoạt động chịu được mức lãi suất cao đó lại hầu hết là đầu tư ngắn hạn, phi
sản xuất. Chính việc cho vay ở mức lãi suất cao mà doanh nghiệp vẫn vay dẫn đến
tình trạng nợ xấu ngân hàng tăng mạnh.
Những biến động của lãi suất trên thị trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi
nhuận của doanh nghiệp. Với mức lãi suất cho vay cao của NHTM như hiện nay thì
doanh nghiệp phải đạt mức lãi cao hơn nữa trong điều kiện thị trường khó khăn. Bởi
vậy đã có doanh nghiệp phải tạm ngưng các kế hoạch mở rộng quy mơ sản xuất,
thậm chí đình trệ SXKD.
Cả từ phía khách quan lẫn chủ quan đều cho thấy, để thực hiện có hiệu quả
chính sách kiềm chế lạm phát, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài chính
và chính sách tiền tệ. Lãi suất cao, thanh khoản yếu và nợ xấu gia tăng đang là gánh
nặng quá lớn đối với hệ thống ngân hàng.
2.3.3. Giai đoạn 2012 – 2014:
- Với chính sách điều hành của NHNN trong giai đoạn 2010 - 2014, lạm phát
đã được kiềm chế, diễn biến theo xu hướng giảm và khá ổn định. Nếu lạm phát của
năm 2012 là 6,81% thì lạm phát của năm 2013 chỉ ở mức 6,04% - mức thấp nhất
trong vòng 10 năm trở lại đây (xem Đồ thị 05).
Diễn biến lạm phát 2011 - T12/2013

Diễn biến lãi suất 2008 - T11/2013

Đồ thị 05: Diễn biến lạm phát và lãi suất từ 2011 đến nay (Nguồn: NHNN và
Tổng cục Thống kê)

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ


21

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
- Chính sách lãi suất được điều hành phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô,
đặc biệt là diễn biến của lạm phát. Tính chủ động của cơng cụ lãi suất trong việc
truyền dẫn tín hiệu tới thị trường đã được cải thiện rõ nét. Trong năm 2013, các mức
lãi suất điều hành của NHNN được điều chỉnh giảm hai lần, lãi suất tái chiết khấu từ
7%/năm xuống còn 5%/năm. Diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng theo
sát với lãi suất chỉ đạo của NHNN và giảm mạnh. Lãi suất huy động giảm liên tục
khoảng từ 2 - 4%, lãi suất cho vay giảm từ 3 - 5% so với mức lãi suất cuối năm
2012. Điều này không những phản ánh tính thanh khoản của các TCTD ngày càng
ổn định, mà cịn biểu hiện tính dẫn dắt thị trường của NHNN ngày càng tăng.
- Hoạt động trên thị trường tiền tệ nhìn chung diễn biến khá tích cực, phản
ánh sự chủ động của NHNN trong cơng tác kiểm sốt khối lượng tiền cung ứng.
Trong năm 2013, khối lượng giao dịch (KLGD) trên thị trường liên ngân hàng diễn
ra khá ổn định và đồng đều qua các quý so với năm 2012, đồng thời hoạt động bơm,
hút tiền trên thị trường mở cũng rất nhịp nhàng, gần như là lượng cung tiền được dự
báo phù hợp với nhu cầu và diễn biến của nền kinh tế và KLGD cũng giảm đáng kể
so với năm 2012 (xem Đồ thị 06).

Đồ thị 06: Quy mô giao dịch thị trường liên ngân hàng năm 2012- 2013

KẾT LUẬN

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ


22

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
Qua quá trình nghiên cứu chính sách lãi suất tái chiết khấu của NHNN tại
Việt Nam, chúng ta đã thấy rõ được vai trò và ý nghĩa của nó trong nền kinh tế bởi
chính sách lãi suất tái chiết khấu là một trong những cơng cụ của chính sách tiền tệ
được NHNN sử dụng để điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Trong giai đoạn 2007 – 2014, chúng ta đã thấy chính sách lãi suất tái chiết
khấu đã phát huy triệt để tác dụng của mình trong điều tiết lượng cung tiền trên thị
trường, có tác động gián tiếp giúp Chính Phủ kiểm soát lạm phát.
Bằng sự nỗ lực hiện tại và trong trong tương lai, sự kế thừa và phát huy
những thành tựu của công cụ lãi suất tái chiết khấu của chính sách tiền tệ, chắc chắn
chính sách tiền tệ của Việt Nam sẽ đóng góp vai trị quan trọng trong việc xây dựng
một đất nước Việt Nam giầu mạnh mà đảng nhà nước đã đề ra. Từ đó chính sách
tiền tệ khắc phục được những yếu kém bất cập trong điều kiện nền kinh tế vĩ mô,
từng bước nâng cao vai trò điều tiết nền kinh tế nhằm đưa nền kinh tế đi đúng
hướng, sánh vai với bè bạn quốc tế .
Nghiên cứu vấn đề này không chỉ cho học viên có một cách nhìn khách quan
mà quan trọng hơn cả là phục vụ cho việc học tập, hiểu rõ vai trị và ngun tắc tác
động của chính sách lãi suất tái chiết khấu tới nền kinh tế. Vấn đề về phân tích các
chính sách lãi suất tái chiết khấu tạo tiền đề vững chắc cho những môn học chuyên
nghành sau này, giúp ích cho việc học tập và tương lai.

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

23


Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Tạp trí tài chính (2015), “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2011- 2015: Một
chặng đường, nhiều giải pháp”, truy cập ngày 01/02/2015
/> PGS.TS Ngơ Trí Long (2015), “Lạm phát năm 2015 và những vấn đề đặt ra”,
truy cập ngày 01/02/2015, /> Tạp chí Tài chính số 8 (2013), “Tăng trưởng kinh tế và lạm phát ở Việt
Nam”, truy cập ngày 01/02/2015, /> Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ….
 Bài viết: “Chính sách tiền tệ 2013 và định hướng 2014” Nguyễn Thị Kim
Thanh - Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng – NHNN
 Nhìn lại chính sách tiền tệ 2011-2012 – Nhóm nghiên cứu Học viện chính
sách phát triển.
 Trang Web NHNN: ,
 Trang webTổng cục thống kê:

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

24

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


GVHD: PGS. TS LÊ THỊ KIM NHUNG
PHỤ LỤC
BẢNG 1: Tổng hợp diễn biến các lần điều chỉnh chính sách lãi suất của NHNN
từ 2006 - 2014
Ngày
1/12/2006

1/10/2007
1/2/2008
19/5/2008
11/6/2008
21/10/2008
5/11/2008
21/11/2008
5/12/2008
22/12/2008
1/2/2009
10/4/2009
1/10/2009
1/12/2009
5/11/2010
21/1/2011
22/2/2011
21/4/2011
1/28/2011
2/28/2011
3/31/2011
4/29/2011
5/31/2011
6/30/2011
7/29/2011
8/31/2011
9/30/2011
10/31/2011
11/30/2011
12/30/2011
1/31/2012

2/29/2012
3/30/2012
4/27/2012
5/31/2012
6/29/2012
7/31/2012
8/31/2012
9/28/2012
10/31/2012

LS Cơ bản
8.75%
8.75%
8.75%
12%
14%
13%
12%
11%
10%
8.50%
7%
7%
7%
8%
9%
9%
9%
9.00%
9.00%

9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%
9.00%

LS Chiết khấu
4.50%
4.50%
6.00%
11%
13,0%
12.00%
11%

10%
9,0%
7.50%
6,0%
5%
5,0%
6%
7%
7.00%
7.00%
7.00%
7.00%
7.00%
12.00%
12.00%
13.00%
13.00%
13.00%
13.00%
13.00%
13.00%
13.00%
13.00%
13.00%
13.00%
12.00%
11.00%
10.00%
9.00%
8.00%

8.00%
8.00%
8.00%

Bài thảo luận Tài chính tiền tệ

25

LS Tiền gửi VND
8.50%
10%
11.00%
16.42%
18.67%
16%
13%
12.57%
12.57%
8.01%
7.15%
7.85%
8.65%
9.90%
12.50%
12.44%
13.04%
13.41%
15%
15%
16%

17%
17%
16%
16%
16%
14%
14%
14%
14.50%
14%
14%
13%
12%
12%
9%
9%
10%
11%
11%

LS Cho vay VND
11%
12%
20.85%
21%
21%
19.50%
17%
16.50%
16.45%

12.75%
9.25%
9.25%
10%
10.50%
16%
15.74%
16.23%
17%
18.50%
18.50%
19.50%
20%
21.50%
20%
21%
21%
20%
20%
20%
20%
18%
18%
18%
17%
16%
15%
14%
14%
13%

13%

Nhóm 04 - Lớp: CH20B – QLKT (Tối)


×