Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Đặc trưng trong quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư tại việt nam giai đoạn 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.24 KB, 66 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ

Đề tài : Đặc trưng trong q trình hồn thiện cơ chế
quản lý đầu tư tại Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay

Hà nội, tháng 105 năm 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ

Hà nội, tháng 05 năm 2021
2


MỤC LỤC

3


MỞ ĐẦU
Đầu tư là một hoạt động không thể thiếu của bất cứ quốc gia nào. Đầu tư tạo cơ sở cho sự
tăng trưởng và phát triển cho tương lai. Điều này cịn đặc biệt có ý nghĩa đối với các nước đang
phát triển như Việt Nam.
Nền kinh tế nước ta đã trải qua những thời kỳ với cơ cấu nền kinh tế thay đổi ngày càng trở
lên phức tạp hơn. Trước những thay đổi và biến động đó nhà nước ta đã có những chính sách thay


đổi góp phần tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam được thực hiện nghiêm túc tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển. Tuy lịch sử còn tồn tại những hạn chế nhưng qua thời gian nhà
nước đã thực hiện điều chỉnh cơ chế cho phù hợp với quan điểm cơng bằng, tự do và bình đẳng.
Những thay đổi sau thời kỳ đổi mới đã đánh dấu bước ngoặt về sự phát triển kinh tế đất nước,
mang tính quyết định dần dần giúp Việt Nam xóa bỏ được lối quản lý bao cấp của thời kỳ trước.
Ở mỗi giai đoạn thay đổi đều có những Điểm tích cực tích cực và những hạn chế còn tồn tại.
Với mong muốn phân tích sâu thêm, đánh giá tồn diện thực trạng cơ chế đầu tư qua các năm qua
để từ đó tìm ra nguyên nhân, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư, nhóm 2 chọn đề tài
“Hồn thiện cơ chế quản lý đầu tư tại Việt Nam”.
Để giải quyết các vấn đề cơ bản nêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu các cơ chế quản lý đầu
tư, thực trạng qua các giai đoạn cùng các Nghị định, Quyết định, Quy chế, Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, …
Đề tài bao gồm :
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Q trình hồn thiện cơ chế quản lý đầu tư tại Việt Nam
Chương 3: Bài học kinh nghiệm từ q trình hồn thiện cơ chế quản lý đầu tư tại Việt Nam
thời gian qua

4


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Một số khái niệm về quản lý đầu tư
1.1 Đầu tư
Là quá trình sử dụng phối hợp các nguồn lực trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đạt
được kết quả hoặc tập hợp các mục tiêu xác định trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
1.2 Phân loại đầu tư:
Tùy theo tiêu chí phân loại mà có thể có nhiều loại đầu tư khác nhau.
Theo nguồn vốn và mục tiêu đầu tư, chia ra thành:
• Đầu tư cơng là hoạt động đầu tư của nhà nước vào các chương trình, dự án và đối tượng

đầu tư công khác theo quy định của pháp luật. Đầu tư công sẽ tạo ra tài sản cơng để cung
ứng các dịch vụ và hàng hóa cơng đáp ứng u cầu phát triển của xã hội.
• Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh thông
qua việc thành lập tổ chức kinh tế, đầu tư góp vốn, mua cổ phần, đầu tư theo hình thức
hợp địng hoặc thực hiện dự án đầu tư.
• Đầu tư theo hình thức thức đối tác công tư (PPP) là nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án ký
kết hợp đồng PPP với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện dự án đầu tư xây
dựng mới, cải tạo, mở rộng, nâng cấp, quản lý vận hành cơng trình kết cấu hạ tầng hoặc
cung ứng dịch vụ công.
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư:
• Đầu tư trực tiếp là phương thức đầu tư, trong đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản trị
vốn đã bỏ ra.
• Đầu tư gián tiếp là phương thức đầu tư, trong đó chủ đầu tư không trực tiếp tham gia
quản trị vốn đã bỏ ra.
1.3 Dự án đầu tư


Định nghĩa
Dự án là tập hợp những đề xuất để thực hiện một phần hay tồn bộ cơng việc, mục tiêu hay
một u cầu nào đó. Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án khơng có tính chất đầu tư.
Dự án đầu tư là tập hợp đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư
kinh doanh trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định. Dự án đầu tư là tổng thể các hoạt
động và các chi phí cần thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian và địa
điểm xác định để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm thực
hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Về hình thức, dự án đầu tư thường được thể hiện dưới hình thức một tập tài liệu kinh tế - kỹ
thuật về kế hoạch huy động tổng thể các hoạt động và chi phí liên quan được hoạch định một
cách hệ thống, khoa học nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong một thời hạn xác định.
Về nội dung: Thông qua tập tài liệu kinh tế - kỹ thuật nêu trên, nhu cầu sử dụng các nguồn
lực để đạt được mục tiêu đầu tư được xác lập. Nội dung của một dự án thường phải thể hiện được

4 vấn đề cơ bản sau: sự cần thiết và mục tiêu đầu tư, quy mô đầu tư và các giải pháp thực hiện,
chi phí và hiệu quả đầu tư, độ an tồn và tính khả thi của dự án.
Tóm lại, dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động và chi phí liên quan được hoạch định một
cách hệ thống, khoa học nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong một thời hạn xác định.

5


1.4 Vai trò của dự án đầu tư
Dự án đầu tư là một trong những khâu đầu tiên thuộc giai đoạn chuẩn bị đầu tư và xây
dựng. Do được thiết lập dựa trên hệ thống các dữ liệu thực tế và theo một trình tự nhất đinh,
thơng qua các bước tính tốn, phan tích của quy trình thẩm định, phê duyệt một cách khá chặt chẽ
và toàn diện..., nên dự án đầu tư vừa mang tính khóa học, thực tiễn lại vừa có tính kế hoạch và
pháp lý cao, giữ vai trị trọng yếu đối với tồn bộ q trình hoàn thành dự án, cụ thể:
Dự án đầu tư là cơ sở nền tảng cho các quyết định đầu tư.
Dự án đầu tư, sau khi được phê duyệt, trở thành căn cứ pháp lý cho toàn bộ các khâu tiếp
theo của quá trình tiến hành thực hiện dự án;
Là cơ sở để doanh nghiệp quản lý đầu tư và xây dựng từ khâu hình chủ trương đầu tư, thực
hiện đầu tư… cho đến khâu nghiệm thu & bàn giao công trình đã hồn thành và đưa vào sử dụng.
a) Ngun tắc tổ chức và quản lý đầu tư và xây dựng
Quản lý đầu tư và xây dựng được thực hiện ở cả cấp vĩ mô và vi mô.
Quản lý vĩ mô đối với đầu tư và xây dựng được tiến hành một cách gián tiếp thơng qua hệ
thống chính sách, các công cụ, nguyên tắc tổ chức quản lý; các quy định định về trình tự, thủ tục
phê duyệt, thẩm định của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Hay nói một cách khác, đó là q
trình quản lý theo dự án.
Quản lý vi mơ là q trình quản lý trực tiếp và cụ thể đối với từng khâu của hoạt động đầu
tư và xây dựng. Quản lý vi mơ chính là quản lý của các chủ đầu tư đối với từng dự án.
b) Quản lý đầu tư và xây dựng theo dự án
Một dự án đầu tư bất kỳ nào dù là xây dựng một nhà máy mới, một hệ thống thiết bị, máy
móc, dây chuyền cơng nghệ mới, một nhà kho mới hay đơn giản là mua sắm và thay thế một máy

móc đơn lẻ… khi tiến hành thực hiện đều đòi hỏi phải sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao
động, kỹ thuật, vật chất và cả thời gian trong mối quan hệ hỗ tương với nhiều yếu tố khác về kinh
tế, kỹ thuật, công nghệ, xây dựng, tài nguyên, môi trường… kể cả các yếu tố xã hội và pháp lý.
Do vậy, quá trình sử dụng các nguồn lực này, đòi hỏi phải được quan tâm và phối hợp một cách
đồng bộ và đúng mức nhằm đảm bảo mục tiêu toàn diện của dự án: phục vụ hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cao đồng thời phải phù hợp với lợi ích của ngành, địa
phương, vùng lãnh thổ và cả quốc gia. Do tầm quan trọng như trên, các yếu tổ ảnh hưởng và liên
quan trong quá trình sử dụng các nguồn lực phải được xem xét, phân tích, tính tốn, so sánh,
đánh giá và lựa chọn một cách khoa học và thận trọng phù hợp với tính chất và đặc thù riêng của
từng dự án đầu tư. Việc tiến hành các cơng việc như vậy chính là lập và thực hiện dự án. Hay nói
cách khác, hoạt động đầu tư cần được tiến hành theo dự án.
c) Nguyên tắc quản lý của nhà nước về đầu tư và xây dựng
Quản lý đầu tư và xây dựng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Toàn bộ các dự án đầu tư và xây dựng trong cả nước phải được thực hiện theo dự án, quy
hoạch và pháp luật.
Riêng các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách nhà nước, thuộc tính dụng do nhà nước bảo
lãnh, vốn do doanh nghiệp nhà nước đầu tư … còn phải được quản lý chặt chẽ theo trình tự đầu
tư và xây dựng được theo quy định đối với từng loại nguồn vốn đầu tư.
Còn các hoạt động đầu tư xây dựng của nhân dân và các tổ chức khác, chỉ được quản lý
giới hạn tỏng phạm vi quy hoạch, kiến trúc và môi trường sinh thái.

6


d) Quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư và xây dựng
Nhằm đảm bảo cho các mục tiêu, ngoài các nguyên tắc nêu trên, bộ máy quản lý đầu tư và
xây dựng; phân định trách nhiệm, quyền hạn và sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý
nhà nước hữu quan các cấp,; giữa cơ quan quản lý nhà nước với các bên có liên quan như chủ
đầu tư, ban quản lý dự án, các tổ chứ tư vấn và các nhà thầu tham gia trong quá trình đầu tư và
xây dựng… cũng được quy định phù hợp theo từng nhóm đối tượng quản lý khác nhau… thông

qua hệ thống các văn bản pháp quy được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung một cách thường xuyên
để ngày càng sát hợp hơn với yêu cầu quản lý trong thực tiễn.
Quản lý của Nhà nước đối với các dự án là quản lý ở tầm vĩ mô. Thông qua hệ thống các
công cụ quản lý nhà nước như chính sách, chế độ về đầu tư, tài chính, thuế, hệ thống định mức,
tiêu chuẩn kỹ thuật, quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ…
Nhà nước tiến hành các biện pháp tác động và điều phối toàn bộ các khâu trong q trình
sử dụng nguồn lực có liên quan đến đầu tư và xây dựng. Do vậy, quản lý nhà nước về đầu tư và
xây dựng cũng chính là quản lý tồn bộ q trình của dự án, từ lúc có chủ trương đầu tư và xây
dựng cho đến khi hoàn thành dự án.
Quản lý của nhà nước về đầu tư và xây dựng được thực hiện nhằm các mục tiêu sau:
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh phù hợp với chiến lược
và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước; phù hợp với định hướng phát triển của ngành
và địa phương.
Sử dụng các nguồn vốn đầu tư từ NSNN hoặc do Nhà nước quản lý để đạt hiệu quả cao
nhất và chống tham ơ, lãng phí.
Bảo đảm chất lượng cơng trình, kiến trức, mỹ quan, bảo đảm tiến độ thời gian với chi phí
hợp lý và bảo vệ mơi trường sinh thái.
e) Đối tượng quản lý của nhà nước về đầu tư và xây dựng
Đối tượng quản lý đầu tư và xây dựng bao gồm các nhóm dự án sau:
Đầu tư và xây dựng mới, cải tạo, sửa chữa lớn hoặc nhâng cấp các dự án đã đầu tư và xây
dựng.
Đầu tư mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc khơng cần lắp đặt hay các sản phẩm công
nghệ khoa học.
Quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng đô
thị, nông thơn bằng nguồn vốn NSNN.
Các cơng trình sử dụng vốn nhà nước mà không cần phải lập dự án đầu tư (ví dụ như các
cơng trình an ninh, quốc phịng, phòng chống lụt bão cấp bách…)
Và kể cả các dự án đầu tư và xây dựng không sử dụng nguồn vốn nhà nước.
Như vậy có thể thấy, nhà nước đã quy định phạm vi đối tượng được quản lý bao quát hầu
hết tát cả các loại đầu tư và xây dựng của xã hội.


2. Hệ thống Bộ máy quản lý đầu tư và xây dựng
-

-

Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đầu tư hiện nay gồm có:
Các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp, gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Xây dựng, Bộ Tài
chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Các bộ, ngành có liên quan khác cùng các cơ quan trực
thuộc; Ủy ban nhân dân các cấp.
Các doanh nghiệp, gồm cấp quyết định đầu tư, chủ đầu tư, các đơn vị chứ năng cũng như ban
quản lý dự án.
Các tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng với những chức năng như lập dự án đầu tư, khảo sát, thiết
kế, giám sát thi công, thanh toán vốn đầu tư… ể các tư vấn về mặt pháp lý trong đầu tư và xây
dựng.
7




Các doanh nghiệp xây dựng: là doanh nghiệp có đăng ký về kinh doanh xây dựng.
Tùy theo đặc điểm và yêu cầu mà nhiệm vụ và quyền hạn cũng như mối quan hệ phối hợp giữa
các đơn vị trong hệ thống được quy định khác nhau/
Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Theo quy định hiện hành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm và
các quyền hạn sau đây:
Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách về đầu tư, quản lý Nhà nước về lĩnh vực đầu tư
trong nước, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và đầu tư của người Việt Nam tại nước ngoài.
Xác định phương hướng và cơ cấu vốn đầu tư bảo đảm sự cân đối giữa đầu tư trong nước
và nước ngồi trình Chính phủ quyết định.
Trình chính phủ các dự án luật, pháp lệnh, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan

đến cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế, khuyến khích đầu tư trong và ngồi nước nhằm thực
hiện cơ cấu kinh tế phù hợp với chiến lược, quy hoaoachj, kế hoạch để ổn định kinh tế xã hội.
Cấp giấy phép đầu tư và hướng dẫn các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi triển khai
cơng tác chuẩn bị đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các quy chế có liên quan
của quy chế này.
Tổ chức thẩm định các dự án đầu tư thuốc nhóm A trình Tuhr tướng Chính phủ xem xét,
quyết định đầu tư hoặc đồng ý để bộ cấp đăng ký kinh doanh cho các dự án đầu tư thuộc nhóm A
khơng dùng vốn Nhà nước; theo dõi quyas tình đầu tư các dự án tỏng kế hoạch Nhà nước.
Tổng hợp trình Chính phủ kế hoạch đầu tư phát triển từng giai đoạn 5 năm và hàng năm.
Phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra giám sát việc thực hiện kế hoạch đầu tư các nguồn vốn do
Nhà nước quản lý.
Chủ trì phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa
phương hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện quy chế đấu thầu.
Quản lý Nhà nước về việc lập, thẩm tra, xét duyệt, thực hiện các dự án quy hoạch phát
triển kinh tế xã hội.





Bộ Xây dựng có trách nhiêm và quyền hạn về kỹ thuật xây dựng và kiến trúc, thể hiện cụ thể:
Nghiên cứu các cơ chế chính sách về quản lý xây dựng, quy hoach xây dựng đô thị và
nơng thơng trình thủ tướng chính phủ ban hành và được thủ tướng chính phủ ủy quyền ban hành.
Ban hành các tiêu chuẩn, quy phạm, quy chuẩn xây dựng, quy trình thiết kế xây dựng, các
quy định quản lý chất lượng cơng trình, hệ thống định mức, chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật xây dựng,
định mức chi phí tư vấn đầu tư và xây dựng; thỏa thuận để bộ có xây dựng chuyên ngành ban
hành các tiêu chuẩn, định mức, quy phạm, các quy định quản lý chất lượng cơng trình kỹ thuật
chun ngành.
Chủ trì cùng bộ chun ngành kỹ thuật tổ chức thẩm định thiết kế kỹ thuật và tổng dự
toán các dự án đầu tư thuộc nhốm A để cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thống nhất quản lý Nhà

nước về chất lượng cơng trình xây dựng, theo dõi, kiểm tra, phát hiện và kiến nghị xử lý chất
lượng các cơng trình xây dựng, đặc biệt về chất lượng cơng trình xây dựng thuộc dự án nhóm A.
Hướng dẫn hoạt động của các doanh nghiệp tư vấn xây dựng, doanh nghiệp xây dựng và
các tổ chức quản lý thực hiện dự án đầu tư xây dựng.
Phối hợp với Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các bộ, ngành
và các địa phương để thực hiện việc hướng dẫn và kiểm tra việc chấp hành Quy chế quản lý đầu
tư và xây dựng đối với các cá nhân và tổ chức có liên quan.
Bộ Tài chính có trách nhiệm quản lý đầu tư và xây dựng chủ yếu vè mặt tài chính cụ thể:
8








Nghiên cứu các chính sách, chế độ về huy động các nguồn vốn đầu tư để trình Thủ tướng
chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền.
Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc phân bổ kế hoạch cấp phát vốn đầu tư
cho các bộ, địa phương và các dự án quan trọng quốc gia sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Thống nhất quản lý vốn vay và viện trợ của Chính phủ dành cho đầu tư phát triển.
Cấp bảo lãnh Chính phủ cho doanh nghiệp (trừ các tổ chức tín dụng) vay vốn nước ngồi
theo Quy định của Chính phủ.
Thanh tra, kiểm tra tài chính đối với dự án của các đơn vị sử dụng nguồn vốn đầu tư của
Nhà nước; hướng dẫn, kiểm tra việc quyết toán vốn đầu tư các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà
nước và thực hiện quyết toán vốn đầu tư các dự án nhóm A sử dụng vốn Nhà nước.
Hướng dẫn việc cấp vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư, vốn sự nghiệp có tính chất đầu
tư và xây dựng đối với các dự án, chuwong trình theo kế hoạch đầu tư và theo chỉ đạo của Thủ
tướng Chỉnh phủ.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là có quan có chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ
và tín dụng. Đối với đầu tư và xây dựng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm và quyền
hạn ở phạm vi quy định sau:
Nghiên cứu cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng ngân hàng trong đầu
tư và xây dựng trình Thru tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền.
Giám sát các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính, tín dụng khác thực hiện nhiệm vụ:
Huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để cho vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn đối
với các dự án đầu tư phát triển và sản xuất kinh doanh.
Cho vay vốn đối với các dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, khả thi và có khả năng
trả nợ, phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn thực hiện được các cơ
hội đầu tư có hiệu quả.
Bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầy và các
hình thức bảo lãnh khác theo quy định của pháp luật.
Thực hiện bảo lãnh các khoản vốn vay nước ngồi của các tổ chức tín dụng để đầu tư và
xây dựng.
Các bộ, ngành khác có liên quan:
Ngoài các cơ quan kể trên, thực hiện quản lý nhà nước trong đầu tư và xây dựng còn có
các bộ, cơ quan ngang bơ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ khác. Nhiệm vụ và quyền hạn của
mỗi đơn vị nói trên trong quản lý đầu tư và xây dựng được quy định cụ thể như sau:
Các bộ có chức năng quản lý cơng trình xây dựng chun ngành có trách nhiệm xây dựng
và ban hành các quy phạm, tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật có liên quan đến xây dựng sau
khi có sự thỏa thuận của Bộ Xây dựng.
Các bộ quản lý ngành và các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực có liên quan thường xuyên
đến đầu tư và xây dựng như về đất đai, tài nguyên, sinh học, công nghệ, môi trường, thương mại,
bảo tồn, bảo tang di tích, di sản văn hóa, cảnh quan, quốc phòng, an ninh, phòng cháy và chữa
cáy… có trách nhiệm xem xét và có ý kiến bằng văn bản về các vấn đề liên quan của dự án đầu
tư trong thời gian quy đinh. Sau thời gian quy định, nếu không nhận được ý kiến trả lời của các
bộ quản lý ngành có liên quan thì được xem như các bộ, ngành và cơ quan đó đã thống nhất với
văn bản đề nghị.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Tỉnh & thành phố thuộc trung ương)

Trong phạm vi chức năng, quyền hạn đã được phân cấp, thực hiện trách nhiệm quản lý
Nhà nước đối với tất cả các tổ chức và cá nhân thực hiện dự án đầu tư trên địa bàn theo quy định
của pháp luật.
9


Ngoài quy định đối với các cơ quan quản lý nhà nước, cịn có các quy định về trách nhiệm
và quyền hạn của chủ đầu tư, tổ chức tư vấn và doanh nghiệp xây dựng..

3. Trách nhiệm và Quyền hạn chủ đầu tư

-

-

-

-

-

Chủ đầu tư là người chủ sở hữu vốn, người vay vốn hoặc người được giao trách nhiệm
trực tiếp quản lý và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật. Đối với hoạt
động đầu tư và xây dựng, chủ đầu tư có trách nhiệm và quyền hạn sau:
Tổ chức lập dự án, xác định rõ nguồn vốn đầu tư, thực hiện các thủ tục về đầu tư và trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
Tổ chức tự thực hiện đầu tư bao gồm: tổ chức đấu thầu để lựa chọn Nhà thầu, ký kết hợp đồng và
thực hiện hợp đồng đã ký theo quy định của pháp luật.
Các dự án đầu tư sử dụng một hay nhiều nguồn vốn khác nhau thì chủ đầu tư có trách nhiệm tồn
diện, liên tục về quản lý sử dụng các nguồn vốn đầu tư từ khi chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và

đưa dự án và khai thác sử dụng, thu hồi và hoàn trả vốn đầu tư.
Khi thay đổi chủ đầu tư, chủ đầu tư mới được thay thế phải chịu trách nhiệm kế thừa tồn bộ
cơng việc đầu tư của chủ đầu tư trước.
Trường hợp chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án, phải có bộ máy có đủ năng lực quản lý và đăng ký
tại cơ quan có thẩm quyền.
Chủ đầu tư có quyền yêu cầu các cơ quan hữu quan của Nhà nước công bố công khai các quy
định có liên quan đến cơng việc đầu tư như quy hoạch xây dựng đất đai, tài nguyên, nguồn nước,
điện, giao thơng vận tải, mơi trường sinh thái, phịng chống cháy, nổ, bảo vệ si tích văn hóa, lịch
sử, an ninh, quốc phòng để chủ đầu tư biết và thực hiện.
Chủ đầu tư trực tiếp quản lý thực hiện dự án và ban quản lý dự án có trách nhiệm sử dụng có hiệu
quả vốn đầu tư; thực hiện đầy đủ các nội dung quy định về quản lý tài chính; phải bồi thường
thiệt hại vật chất nếu gây lãng phí vốn đầu tư của Nhà nước hay của doanh nghiệp và bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Ban quản lý dự án là tổ chức thực hiện vai trò, trách nhiệm của chủ đầu tư, có nhiệm vụ trực tiếp
quản lý thực hiện dự án, chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư.
Ngoài ra, quá trình thực hiện dự án đầu tư, quy định hiện hành cịn có một số nghiêm cấm
hoặc hạn chế đối với chủ đầu tư như:
Trong giao nhận thầu, nghiệm thu và thanh quyết toán vốn đầu tư, nghiêm cấm chủ đầu tư có
hành vi yêu sách, nhận hối lộ của các nhà thầu (NĐ 07-CP);
Trong hồ sơ mời thầu, nghiêm cấm chủ đầu tư quy định nội dung để tạo ra sự cạnh tranh khơng
bình đẳng giữa các nhà thầu; nghiêm cấm việc dàn xếp thầu và áp đặt các điều kiện trái quy định
nhằm vụ lợi.
3.1 Trách nhiệm của các tổ chức hoạt động tư vấn đầu tư và xây dựng
Tổ chức tư vấn là các tổ chức nghề nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, có tư cách pháp
nhân, có đăng ký kinh doanh về tư vấn đầu tư và xây dựng theo quy định của pháp luật.
Nội dung hoạt động tư vấn đầu tư và xây dựng bao gồm cung cấp thông tin về văn bản
quy phạm pháp luật, về cơ chế chính sách đầu tư và xây dựng, lập các dự án đầu tư, quản lý dự án
đầu tư, thiết kế, soạn thảo hồ sơ mời thầu, giám sát và quản lý quá trình thi cơng xây lắp, quản lý
chi phí xây dựng, nghiệm thu cơng trình.
Các tổ chức tư vấn có thể ký hợp đồng lại với các tổ chức tư vấn đầu tư xây dựng khác để

thực hiện một phần nhiệm vụ của công tác tư vấn.
Khi tham gia tư vấn về đầu tư và xây dựng, tổ chức này phải:
10


-

-

-

-

-

Đảm bảo đầy đủ các điều kiện, năng lực theo quy định của Bộ Xây dựng và chịu trách nhiệm
trước pháp luật và chủ đầu tư về các nội dung đã cam kết trong hợp đồng, đặc biệt là các nội
dung kinh tế kỹ thuật được xác định trong sản phẩm tư vấn của mình và phải bồi thường thiệt hại
cho chủ đầu tư nếu sản phẩm tư vấn của mình gây ra.
Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp (mức phí và quy định cụ thể do Bộ Tài chính chính quy
định). Phí bảo hiểm được tính vào giá sản phẩm tư vấn. Việc mua bảo hiểm nghề nghiệp tư vấn là
một điều kiện pháp lý trong hoạt động tư vấn đầu tư và xây dựng.
Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có yêu cầu phải thuê tư vấn nướ ngồi thì các tổ chức,
chun gia tu vấn nước ngoài được thuê phải liên doanh với tư vấn Việt Nam để thực hiện (trừ
trường hợp được Thủ tướng Chính phủ cho phép. Tư vấn trong nước được phép liên doanh, liên
kết hoặc thuê tổ chức, chuyên gia tư vấn nước ngoài trong hoạt động tư vấn đầu tư và xây dựng.
Ngoài ra, cũng như chủ đầu tư, để phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực, một số nghiêm
cấm và hạn chế đối với tổ chức tư vấn được quy định như sau:
Trong các sản phẩm tư vấn, nghiêm cấm các tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng chỉ định dùng các

loại vật liệu hay vật tư kỹ thuật của một nơi sản xuất, cung ứng nào đó mà chỉ được phép u cầu
chung về tính năng kỹ thuật của vật liệu hoặc vật tư kỹ thuật.
Nghiêm cấm các tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng mua, bán tư cách pháp lý để tham gia dự thầu
hoặc mua bán thầu hoặc tiết lộ thông tin về đấu thầu cho các nhà thầu tham dự đấu thầu.
3.2 Trách nhiệm của các doanh nghiệp xây dựng
Doanh nghiệp xây dựng là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập, có
đăng ký kinh doanh về xây dựng.
Khi hoạt động thi cơng xây lắp cơng trình, các doanh nghiệp này phải đảm bảo đầy đủ các
điều kiện và năng lực theo quy định của Bộ Xây dựng, chịu trách nhiệm thực hiện xây dựng
cơng trình hoặc lắp đặt máy móc thiết bị, gồm các quy định cụ thể sau:
Chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư về các nội dung đã cam kết trong hợp
đồng giao nhận thầu xây lắp và phải bồi thường thiệt hại phát sinh nếu do lỗi của mình gây ra.
Phải mua bảo hiểm cho vật tư, thiết bị, Nhà xưởng phục vụ thi công, bảo hiểm tai nạn đối
với người lao động, bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3. Phí bảo hiểm được tính
vào chi phí sản xuất. Việc mua bảo hiểm là một điều kiện pháp lý trong hoạt động xây dựng của
các doanh nghiệp xây dựng.
Đồng thời nghiêm cấm các doanh nghiệp xây dựng mua bán tư cách pháp lý để tham gia
dự thầu hoặc dàn xếp, mua, bán thầu hoặc thơng đồng, móc ngoặc với chủ đầu tư trong đấu thầu.
3.3 Yêu cầu và nội dung giám sát, đánh giá đầu tư
Để tổ chức quản lý tốt về đầu tư, NĐ 07-CP còn quy định hệ thống tổ chức bộ máy giám
sát và đánh giá đầu tư.
Hoạt động giám sát, đánh giá đầu tư có thể phân biệt theo hai góc độ:
Giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư là hoạt động giám sát, đánh giá các hoạt động đầu tư
mang tính chất vĩ mô của nền kinh tế hoặc các ngành, các lĩnh vực hay các địa phương.
Nội dung chủ yếu của Giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư là theo dõi, đánh giá về quy
môn, tốc độ, cơ cấu, hiệu quả đầu tư của nền kinh tế, các ngành, các địa phương trong từng thời
kỳ; theo dõi đánh giá việc thực hiện đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch, chương trình đã được phê
duyệt; giám sát, đánh giá mức độ phù hợp của việc ra quyết định đầu tư dự án của các Bộ, ngành
và cấp thẩm quyền so với quy hoạch, kế hoạch được duyệt, cũng như việc thực hiện dự án của
chủ đầu tư theo các nội dung đã được cáp có thẩm quyền phê duyệt và viecj chấp hành các quy

định của Nhà nước về đầu tư xây dựng.
11


-

-

-

-

Có giám sát, đánh giá đầu tư là hoạt động giám sát, đánh giá các dự án đầu tư do người có
thẩm quyền cho phép đầu tư hoặc quyết định đầu tư thực hiện. Thông qua hoạt động giám sát,
đánh giá đầu tư, tình hình thực hiện dự án sẽ được theo dõi và phân tích làm cơ sở kiến nghị đến
cơ quan quyết định đầu tư, chủ đầu tư hoặc các cơ quan liên quan xem xét, xử lý các vấn đề phát
sinh.
Theo quy định hiện hành, việc tổ chức thực hiện và phối hợp giữa các cơ quan chức năng
trong hoạt động giám sát, đánh giá đầu tư có thể khái qt như sau:
Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư và các dự án quan
trọng quốc gia, các dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư hoặc cho phép đầu
tư.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn công tác giám sát, đánh giá đầu tư trong toàn quốc; tổ chức
thực hiện giám sát, đánh giá tổng thẻ đầu tư và các dự án quan trọng quốc gia, các dự án nhóm A
do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư hoặc cho phép đầu tư; tổng hợp công tác giám sát,
đánh giá đầu tư trong toàn quốc, định kỳ hàng quý báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Các Bộ, tỉnh, thành phối trực thuộc Trung ương tổ chức thực hiện giám sát, đánh giá tổng thể các
dự án thuộc thẩm quyền quản lý; định kỳ 6 tháng báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Chủ đầu tư, ban quản lý dự án có nhiệm vụ giám sát, đánh giá dự án đầu tư theo quy định; định
kỳ ba tháng một lần tổng hợp báo cáo với cấp thẩm quyền quyết định đầu tư dự án (vốn, tiến độ,

đấu thầu, chất lượng) và kiến nghị các giải pháp khắc phục. Các cấp có thẩm quyền khơng được
phép điều chỉnh đầu tư với các dự án không qua giám sát, đánh gia đầu tư theo đúng thủ tục quy
định.
Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về chi phí cho cơng tác giám sát,
đánh giá đầu tư.
3.4 Quy chế đấu thầu

-

-

-

-

Để quản lý tốt hơn về mặt tài chính, tạo sự cơng bằng trong việc tham gia vào các hạng
mục trong các dự án đầu tư, Nhà nước còn quy định thực hiện theo quy chế đấu thầu đối với các
dự án đầu tư.
Quy chế đấu thầu hiện hành được áp dụng cho các dự án đầu tư tại Việt Nam. Việc đấu
thầu này phải được tổ chức và thực hiện tại Việt Nam.
Theo quy định hiện hành, đối tượng bị bắt buộc phải áp dụng quy chế đấu thầu là:
Các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách hoặc vốn của các doanh nghiệp Nhà nước.
Các dự án liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc cổ phần có sự tham gia của các tổ chức
kinh tế Nhà nước (các DNNN) từ 30% trở lên vào vốn pháp định, vốn kinh doanh hoặc vốn cổ
phần;
Các dự án sử dụng vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc nước ngoài được thực hiện trên cơ sở
nội dung điều ước được các bên ký kết (các bên tài trợ và bên Việt Nam). Trường hợp có những
nội dung trong dự thảo điều ước khác với quy chế này thì cơ quan được giao trách nhiệm đàm
phán ký kết điều ước này giải trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định trước khi ký kết.
Đối với các dự án cần chọn đối tác thực hiện, bắt buộc phải áp dụng quy chế đấu thầu khi có từ

hai nhà đầu tư muốn tham gia dự án trở lên hoặc trong trường hợp có yêu cầu của Thủ tướng
chỉnh phủ (đối với dự án có vốn đầu tư nước ngồi)>
Đầu tư mua sắm đồ dùng, vật tư, trang thiết bị, phương tiện làm việc của cơ quan Nhà nước, đoàn
thể, doanh nghiệp Nhà nước; đồ dùng và phương tiện làm việc của lực lượng vũ trang. Bộ Tài
chính quy định chi tiết phạm vi mua sắm, giá trị mua sắm, trách nhiệm, quyền hạn của đơn vị
mua sắm theo luật ngân sách Nhà nước.
Ngoài các dự án kể trên, các đối tượng khác chỉ khuyến khích áp dụng quy chế đấu thầu.
12


3.5 Quản lý dự án đầu tư
Đây là hình thức quản lý vi mô – quản lý của cấp cơ sở đối với dự án đầu tư và xây dựng,
có tính chất trực tiếp và cụ thể đối với từng khâu của hoạt động đầu tư và xây dựng Nói cách
khác, quản lý vi mơ chính là quản lý của các chủ đầu tư đối với từng dự án.
Quản lý dự án đầu tư được thực hiện nhằm mục đích đảm bảo cho các dự án hoạt động
theo đúng quy định của luật pháp; kiểm sốt được các chi phí, tiến độ thực hiện kế hoạch; Bảo
đảm chất lượng, kiến trúc và mỹ quan của cơng trình xây dựng đồng thời đạt được các mục tiêu
hiện đại hóa cơng nghệ, máy móc thiết bị, bảo đảm mơi trường sinh thái, an tồn lao động phịng
chống cháy nổi mà dự án đã đề ra.
Với các mục tiêu này, yêu cầu đối với hoạt động quản lý dự án đầu tư đã được quy định
khá cao, như:
- Quản lý dự án phải đúng pháp luật và chính sách của Nhà nước, của các ngành, các địa phương

để hướng hoạt động cảu dự án đạt được mục tiêu đã đề ra.
- Quản lý một cách liên tục và toàn diện tất cả các khâu của quá trình đầu tư, từ chuẩn bị đầu tư,

thực hiện đầu tư và hồn thành, nghiệm thu cơng trình để đưa vào khai thác sử dụng.
- Quản lý dự án phải gắn liền với yêu cầu thực hiện đúng lịch trình và tiến độ đã đề ra trong dự án.

Vì dự án mang tính kế hoạch và khóa học rất cao, nên việc tuân thủ đúng tiến độ và kế hoạch

xây dựng sẽ bảo đảm tiêu tốn nguồn lực ít nhất.
- Quản lý dự án cịn địi hỏi phải quản lý cả hoạt động thẩm định dự án, bao gồm cả thẩm định
nghiên cứu và thẩm định thực hiện.
- Quản lý việc thẩm định nghiên cứu dự án bao gồm việc tổ chức các cơ quan thẩm định, xác định
thành phần của hội đồng thẩm định dự án; quy định nội dung và trình tự thẩm định; xem xét,
đánh giá toàn diện các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế xã hội của dự án như thị trường
sản phẩm, giải pháp công nghệ, kỹ thuạt… Quản lý thẩm định phải coi trọng và tuân thủ các chỉ
tiêu, định mức, các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật… Ngồi ra, quản lý thẩm định cịn phải bảo đảm
tính khách quan, khoa học, chính xác, trung thực và hướng đến mục tiêu cuối cùng là chất lượng
tốt nhất với chi phí hợp lý, tiết kiệm và thời gian thực hiện nhanh nhất.
a

Nội dung quản lý

Để việc theo dõi và quản lý được thuận tiện, căn cứ vào đặc điểm riêng của các cơng việc
tiến hành, người ta chia tồn bộ quá trình thực hiện dự án làm ba giai đoạn: chuẩn bị đầu tư,
thực hiện đầu tư và giai đoạn hoàn thành, đưa dự án vào khai thác sử dụng.
f) Giai đoạn chuẩn bị đầu tư
Chuẩn bị đầu tư là giai đoạn hình thành sản phẩm nghiên cứu. Chi phí trong giai đoạn này
thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng chi phí của dự án. Ở giai đoạn này mặc dù các nghiên cứu
chỉ mới mang tính sơ bộ, chưa đi sâu chi tiết, các kết luận chỉ ở dạng khái quát, nhưng đây là
giai đoạn hết sức quan trọng, mang ý nghĩa quyết định và là nền móng cho việc thành công hay
thất bại của một dự án đầu tư. Việc nghiên cứu một cách nghiêm túc và gần như đầy đủ mọi
thông tin cần thiết được tiến hành để có được thơng số kinh tế - kỹ thuật mang tính thuyết phục
làm cơ sở cho quyết định đầu tư của một sự án là không thể thiếu được để dự án đạt hiệu quả.
Thông thường, nội dung của việc nghiên cứu trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư phải tuần tự
trải qua 4 khâu chính là: nghiên cứu cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi và
thẩm định dự án đầu tư. Trong đó, 3 khâu đầu thuộc phần hành của lập dự án đầu tư còn thẩm
định dự án đầu tư khâu cuối cùng thuộc trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu
tư. Tùy theo quy mô và tính chất quan trọng của từng dự án mà các khâu trên có thể được vận

dụng tồn bộ hay lược bỏ bớt.
13


Nghiên cứu cơ hội đầu tư là quá trình tìm kiếm và đánh giá một cách khái quát nhưng khá
toàn diện các yesu tố thuận cũng như bất lợi và đánh giá một cách khái quát nhưng khá toàn diện
các yếu tố thuận cũng như bất lợi đối với việc thục hiện mục tiêu mà dự án đầu tư nhắm đến.
Nói chung giai đoạn này phải tiến hành điều tra, nghiên cứu nhiều mặt có liên quan như thị
trường, cơng nghệ sản xuất, máy móc thiết bị, chất lượng sản phẩm, khả năng cung ứng đầu ra
cũng như các yếu tố đầu vào cần thiết khác… để trên cơ sở đó, đánh giá được cơ hội và kể cả
các yếu tố rủi ro sẽ mang đến nếu dự án được thực hiện.
Nghiên cứu tiền khả thi và khả thi. Đây là bước quan trọng nhằm đưa ra các số liệu, các
luận cứ khoa học và pháp lý để chứng minh cho dự cần thiết và hiệu quả dự án đầu tư. Trong
bước này, nghiên cứu tiền khả thi thì địi hỏi mức độ không chỉ tiết bằng nghiên cứu khả thi. Kết
quả của bước nghiên cứu khả thi là căn cứ cho quyết định dự án có được tiếp tục thực hiện ở
bước tiếp theo hay không.
Thẩm định dự án đầu tư là đánh giá kết quả đã nghiên cứu ở các khâu trươc. Kết quả của
quá trình thẩm định này không những chỉ là các nhận định về nội dung, hình thức và phương
pháp đã nghiên cứu, mà cịn phải đưa ra được kết luận dự án có được đầu tư hay không. Nội
dung thẩm định hiện hành được quy định rất rõ trong nghị định 52-CP. Như vậy, khâu thẩm định
cũng là khâu quan trọng vì chính khâu này sẽ cho câu trả lời là thực hiện tiếp hay ngưng dự án.
Nội dung trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư thường bao gồm các bước cụ thể sau:
Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mơ đầu tư;
Tiến hành tiếp xúc, thăm dị thị trường trong nước và ngoài nước để xác định như cầu tiêu
thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm; tìm nguồn cung ứng thiết bị, vật tư cho sản xuất; xem
xét khả năng nguồn vốn và lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp.
Tiến hành tiếp xúc, thăm dị thị trường trong nước và ngoài nước để xác định nhu cầu tiêu
thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm; tìm nguồn cung ứng thiết bị, vật tư cho sản xuất; xem
xét khả năng nguồn vốn và lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp’
Tiến hành điều tra khảo sát và chọn địa điểm xây dựng;

Lập dự án đầu tư;
Trình hồ sợ dự án đến các cơ quan có thẩm quyền quyết định và thẩm định dự án đầu tư
đầu tư cũng như các tổ chức hco vay vốn đầu tư và cơ quan.
Tóm lại, giai đoạn chuẩn bị đầu tư rát quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành
công hay thất bại của dự án. Đây là giai đoạn liên quan đến tồn bộ việc tính tốn và huy động
các nguồn lực đầu vào cho dự án. Nếu sự tiên liệu và tính tốn về nguồn lực (thiết bị cơng nghệ
tốt, ngun liệu, chi phí hợp lý, nhân lực, chi phí tài chính thấp…) trong giai đoạn này chính xác
sẽ tạo cơ sở cho dự án đạt có hiệu quả cao hoặc ngược lại.
Do vậy, yêu cầu đối với người quản lý ở giai đọn này là phải có đủ năng lực và trình độ
chun mơn để tổ chức công việc và phân công hợp lý, bảo đảm cho việc thu thập, tính tốn và
phân tích các số liệu trong quá trình lập dự án được tiến hành một cách thận trọng, đầy đủ, cập
nhật chính xác và khách quan, làm cơ sở khoa học cho quyết định đầu tư của dự án.
g) Giai đoạn thực hiện đầu tư
Đầu tư được tiến hành sau khi có quyết định đầu tư. Đây là giai đoạn tạo cơ sở vật chất kỹ
thuật cho dự án. Tổng chi phí trong giai đoạn này thường chiếm tỷ trọng cao, khoảng từ 80%
đến 90% trong tổng chi phí của dự án. Trọng tâm của giai đoạn này là tổ chức thực hiện tất các
mục tiêu của quyết định đầu tư. Đây là giai đoạn có tính chất quyết định trực tiếp đến chất lượng
cơng trình và máy móc thiết bị cũng như hiệu quả khai thác của dự án về sau. Do vậy, yêu cầu
quan trong của giai đoạn này sự phối hợp trong tổ chức, điều phối và kiểm tra các hoạt động
theo đúng tiến độ và kế hoạch đã đề ra.
Nội dung của giai đoạn thực hiện dự án đầu tư bao gồm các bước:
14


Xin giao đát hoặc thuê đất (đối với dự án có sử dụng đất);
Xin giấy phép xây dựng (nếu yêu cầu phải có giấy phép xây dựng) và giấy phép khai thác
tài nguyên (nếu có khai thác tài nguyên);
Thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, thực hiện kế hoạch tái định cư và phục hồi
(đối với các dự án có yêu cầu tái định cư và phục hồi) và chuẩn bị mặt bằng xây dựng;
Mua sắm thiết bị công nghệ;

Thực hiện khảo sat, thiết kế xây dựng
Thẩm định, phê duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán cơng trình;
Tiến hành thi cơng xây lắp;
Kiểm tra và thực hiện các hợp đồng;
Quản lý kỹ thuật, chất lượng đối với cơng trình xây lắp.
h) Giai đoạn được cơng trình đã hoàn thành vào khai thác sử dụng
Đây là giai đoạn kết thúc quá trình xây lắp. Mục tiêu của giai đoạn này là nghiệm thu toàn
bộ các hạng mục cơng trình đã hồn thành, đánh giá hiệu quả khai thác cơng suất của máy móc
thiết bị, tiến hành nghiệm thu, bàn giao đưa cơng trình vào sử dụng và quyết tốn vốn đầu tư.
Tóm tại, với nội dung và nhiệm vụ của toàn bộ các khâu trong 3 giai đoạn kể trên địi hỏi
nhà quản lý khơng chỉ có kiến thức chun mơn nghiệp vụ giỏi mà cịn có cả kinh nghiệm dày
dặn và tư duy quản lý nhạy bén. Người quản lý phải hiểu rõ nội dung yêu cầu nhiệm vụ đối với
từng công việc, trong mỗi giai đoạn của dự án đầu tư, để từ đó có sự phân công, quản lý các
nhân viên thực hiện các công việc một cách khoa học và hợp lý.
i) Phân loại dự án đầu tư
Để thuận lợi hơn trong tổ chức và phân công quản lý, dự án đầu tư được phân loại theo
đặc điểm của các ngành kinh tế và theo tổn mức đầu tư.
Với các phân loại này, dự án đầu tư trong nước được phân làm 3 nhóm: A, B, C theo các
tiêu thức cụ thể sau:
Thuộc nhóm A gồm, Khơng phân biệt tổng mức đầu tư: Dự án tại địa bàn có di tích quốc
gia đặc biệt, Dự án tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh theo
quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh. Dự án thuộc lĩnh vực bảo vệ quốc phịng, an
ninh có tính chất bảo mật quốc gia. Dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ. Dự án hạ tầng khu
công nghiệp, khu chế xuất. Không phân biệt tổng mức đầu tư.
Cịn các dự án khác, chỉ được xếp vào nhóm này nếu có tổng mức vốn đầu tư đạt một mức
độ tối thiểu. Mức này hiện này được quy định từ trên 800 tỷ đồng đến trên 2300 tỷ đồng tùy theo
từng ngành.
Nhóm B gồm có các dự án cịn lịa với tổng mức vốn đầu tư thấp hơn ngưỡng quy định của
nhóm A kể trên, từ 45 tỷ đến 2300 tỷ đồng tùy theo ngành.
Thuộc nhóm C là các dự án cịn lại, có tầm quan trọng và mức vốn đầu tư nhỏ.

3.6 Về quản lý nguồn vốn đầu tư phát triển của DNNN
Một trong những đặc điểm quản lý có ảnh hưởng lớn đến phương thức quản lý dự án là cơ
cấu nguồn vốn đầu tư tham gia vào dự án. Theo NĐ 52-CP, nếu một dự án có nhiều loại nguồn
vốn đầu tư, như vốn từ Ngân sách nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước
và các nguồn vốn khác,… cùng tham gia, thì việc quản lý sẽ được thực hiện riêng đối với từng
hạng mục và cho từng loại nguồn vốn, hoặc theo loại nguồn vốn có tỷ trọng cao nhất.
15


Vốn đầu tư phát triển của DNNN được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và vốn huy
động
Vốn chủ sở hữu của DNNN được hình thành từ các nguồn:
Quỹ đầu tư phát triển
Vốn khấu hao tài sản cố định
Vốn có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước
Vốn ngân sách Nhà nước cấp ban đầu
Quỹ phúc lợi (sử dụng cho đầu tư các cơng trình phúc lợi);
Các khoản thu của Nhà nước để lại doanh nghiệp đầu tư.
Việc sử dụng quỹ dự phịng tài chính chỉ để bù đắp tổn thất tài sản của DNNN do mất mát,
hư hỏng, giảm giá bởi các nguyên nhân khách quan hay chủ quan gây ra.
Vốn huy động được hình thành từ các nguồn:
-

Vốn đầu tư từ NSNN: Việc sử dụng nguồn vốn này phải theo đúng quy định của luật NSNN và
quy chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành.

-

Vốn tính dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh: chi phối
việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư này hiện nay là Nghị định số 43/1999/NĐ-CP của Chính phủ

về tín dụng đầu tư phát triển cùng các quy định khác về quản lý đầu tư.

-

Vốn tín dụng thương mại: nguồn vốn này ngoài việc phải tuân thủ đúng theo các quy định hiện
hành về đầu tư và xây dựng của Nhà nước cịn bị chi phối bởi các tổ chức tín dụng thơng qua các
điều khoản trong hợp đồng vay vốn.

-

Ngồi các nguồn kể trên, vốn đầu tư phát triển của DNNN cịn có thể được huy động từ nhiều
nguồn khác như phát hành trái phiếu doanh nghiệp, liên doanh, liên kết… và cũng phải thực hiện
đúng theo quy định hiện hành của Nhà nước.
a

Mục đích sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNN là nhằm thực hiện:
- Các dự án đầu tư và xây dựng mới hoặc cải tạo nâng cấp các cơng trình đã được đầu tư.

- Các dự án đầu tư mua sắm tài sản, máy móc thiết bị hoặc các sản phẩm công nghệ khoa
học mới.
- Mục cổ phiếu, góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh và các hình thức đầu tư khác.
Thẩm quyền quyết định đầu tư đối với từng loại nguồn vốn khác nhau được quy định thực
hiện theo những trình tự và thủ tục khác nhau.
16


j) Quy định thẩm quyền quyết định đầu tư
Thẩm quyền quyết định đầu tư đối với nguồn vốn đầu tư phát triển của DNNN trong các
dự án, hiện nay được quy định như sau:



Các dự án có tầm quan trọng quốc gia mà chủ trương đầu tư do Quốc hội quyết định và được tổ
chức thẩm định bởi Hội đồng Nhà nước về các dự án đầu tư thì Thủ tướng Chính phủ ra quyết
định đầu tư.



Đối với các dự án khơng thuộc diện kể trên thì doanh nghiệp đầu tư có quyền tự thẩm định và ra
quyết định đầu tư nhưng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định cũng như đảm bảo
cho dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch đã được duyệt.
Riêng đối với dự án nhóm A, trước khi quyết định đầu tư doanh nghiệp phải được thủ
tướng chính phủ, Bộ trưởng hay Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (do Thủ tướng Chính phủ ủy
quyền) cho phép đầu tư và được Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm tra.
Các đơn vị này tổ chức thẩm tra báo cáo nghiên cứu khả thi đối với các doanh nghiệp thuộc
quyền quarl ý và có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây
dựng (đối với các dự án đầu tư xây dựng), Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương có liên
quan đến dự án để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư. Việc thẩm tra báo
cáo nghiên cứu khả thi đối với dự án nhóm này chủ yếu tập trung vào những nội dung mà chủ
đầu tư phải xin phép đầu tư, gồm:
- Sự phù hợp của dự án với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển
ngành, quy hoạch xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Chế độ khai thác tài nguyên quốc gia
- Các ưu đãi hỗ trợ của Nhà nước đối với dự án;
- Thời gian thực hiện dự án;
- Các ảnh hưởng về mơi trường sinh thái, phịng chống cháy nổi, an tồn, tái định cư, anh
ninh quốc phịng.
Trường hợp chưa có trong quy hoạch được duyệt hoặc chưa có văn bản quyết định chủ
trương đầu tư của cấp có thẩm quyền, thì trước khi lập báo cáo nghiên cứu khả thi thì các dự án
nhóm A phải được Thủ tướng Chỉnh phủ xem xét, thông qua báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và
cho phép đầu tư, còn dự án nhóm B phải có ý kiến đồng ý bằng văn bản của người có thẩm quyền

phe duyệt quy hoach.
k) Hình thức quản lý thực hiện dự án
Căn cứ trên quy mơ, tính chất và đặc điểm riêng của dự án và theo năng lực của mình, chủ
đầu tư có thể lựa chọn một trong các hình thức quản lý thực hiện dự án sau:
Chủ đầu tư trực tiếp quản lý thực hiện dự án: hình thức này được thực hiện nếu chủ đầu tư
có đủ trình độ và nghiệp vụ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu quản lý dự án.
17


Chủ nhiệm điều hành dự án: nếu chủ đầu tư không đủ điều khiện trực tiếp quản lý thực
hiện dự án thì phải th tổ chức chun mơn hoặc giao cho ban quản lý chuyên ngành làm chủ
nhiệm điều hành dự án. Chủ nhiệm điều hành dự án phải là một pháp nhân có năng lực và có
đăng ký về tư vấn đầu tư và xây dựng. Chủ nhiệm điều hành dự án có trách nhiệm:
Trực tiếp ký kết hợp đồng và thanh toán hợp đồng (trường hợp được chủ đầu tự giao)
hoặc giao dịch để chủ đầu tự ký kết hợp đồng và thanh toán hợp đồng với các tổ chức khảo sát,
thiết kế, cung ứng vật tư thiết bị, xây lắp và thanh toán hợp đồng với Nhà thầu trên cơ sở xác
nhận của chủ nhiệm điều hành dự án.
Chịu trách nhiệm thay mặt chủ đầu tư giám sát, quản lý tồn bộ q trình thực hiện dự án.
Chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư tồn bộ q trình quản lý thực hiện đầu tư
cho đến khi kết thúc xây dựng đưa dự án vào khai thác sử dụng.
Chịu trách nhiệm thay mặt chủ đầu tư giám sát, quản lý tồn bộ q trình thực hiện dự án.
Chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư tồn bộ q trình quản lý thực hiện đầu tư
cho đến khi kết thúc xây đựng đưa dự án vào khai thác sử dụng.
Chìa khóa trao tay: là hình thức quản lý thực hiện dự án sau khi đã có quyết định đầu tư,
trên cơ sở báo cáo nghiên cứu khả thi được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chủ đầu tư lựa chọn
Nhà thầu và giao cho Nhà thầu thực hiện trọn gói các khâu tiếp theo từ khảo sát thiết kết, mua
sắm vật tư, thiết bị, xây lắp,… cho đến khi hồn thành bàn giao cơng trình cho chủ đầu tư thơng
qua hợp đồng EPC (Engineering Procurement Contruction).
Hình thức tự thực hiện dự án: hình thức này chỉ được áp dụng trong các trường hợp sau:
a) Chủ đầu tư là doanh nghiệp có đăng ký hoạt dộng sản xuất, xây dựng phù hợp với yêu cầu của

dự án (không phân biệt nguồn vốn đầu tư).
b) Chủ đầu tư có đủ năng lực hoạt động sản xuất, xây dựng phù hợp với yêu cầu của dự án (đối
với các dự án trồng rừng, trồng cây lâu năm; dự án nuôi, trồng thủy sản; dự án giống cây trồng
vật nuôi, khai hoang xây dựng đồng ruộng; dự án đầu tư hầm lò, khai thác than quặng, duy tu bảo
dưỡng, sữa chữa thường xun các cơng trình xây dựng, thiết bị sản xuất; các cơng trình xây
dựng trại giam)

18


CHƯƠNG 2: Q TRÌNH HỒN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ
ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM
1

Thực trạng q trình hồn thiện cơ chế quản lý đầu tư tại Việt Nam thời gian
qua

1.1.

Cơ chế quản lí đầu tư trước 1986
a

Nghị định 232/CP ngày 6/6/1981

Giai đoạn 1976-1986 hay còn gọi là Thời kỳ bao cấp là giai đoạn áp dụng mơ hình kinh tế
cũ. Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Nhìn
chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả. Nông, lâm nghiệp là ngành
kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong giai đoạn này), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh

trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có mức tăng khá hơn nơng nghiệp, nhưng
tỷ trọng trong tồn nền kinh tế cịn thấp (chiếm 39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng.
Trước đổi mới, các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn
vật tư, tiền vốn; định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm
quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh
nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước
quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như
19


sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng khơng được coi là hàng hóa về mặt
pháp lý.
Nghị định 232/CP ngày 6/6/1981 ra đời mang các đặc điểm sau:


Chủ yếu đề cập đến nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung của ngân sách nhà nước với cơ
chế kế hoạch hố tập trung cứng nhắc.



Nghị định này chỉ thích hợp với các cơng trình đầu tư có quy mơ lớn; hầu như khơng có
đấu thầu. Vì vậy các dự án không được quan tâm đến hiệu quả. Về bản chất cơ bản là cấp
phát và đầu tư nhà nước. Quy mơ đầu tư cịn hạn chế, đầu tư trên GDP chiếm 2 – 3% ngân
sách. Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng khơng có chế tài ràng buộc
trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng
đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế "xin cho".




Chấp hành trình tự trong đầu tư chưa đồng bộ



Cơ chế giao nhận thầu cịn nhiều bất cập, mang nặng tính bao cấp chưa chú trọng đến
hiệu quả. Cơ chế cịn khá cứng nhắc vì vậy hầu như khơng có cạnh tranh

l) Điểm hạn chế trong Nghị định 232/CP






Nghị định 232/CP cịn tồn tại một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, quy mô vốn huy động hạn chế. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn
phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học — cơng nghệ hiện tại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của
nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây; trong đó có nước ta, lâm vào
tình trạng khủng hoảng.
Thứ hai, cơ chế cứng nhắc hiệu quả hoạt động không cao. Khi nền kinh tế thế giới
chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện tại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ
những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây; trong
đó có nước ta, lâm vào tình trạng khủng hoảng.
Thứ ba, tính cạnh tranh trong đầu tư hầu như khơng có. Trước đổi mới, do chưa thừa
nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng

quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch
là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Đồng thời,
không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, lại muốn nhanh chóng xóa sở hữu
tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Từ đó, nền kinh tế của chúng ta vào khoảng thời gian
đó bị rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.

1.2. Cơ chế quản lí đầu tư sau 1986 – trước 1990
a

Quyết định 80/HĐBT ngày 8/5/1988

Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, giai đoạn đầu của công
cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có
những bước phát triển.
20


Nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội của cả nước, trong 5 năm 1986 - 1990, ngân sách
đã chi cho tích luỹ với khối lượng bằng 27,61 lần và chi cho tiêu dùng bằng 32,63 lần so với 5
năm 1981 - 1985. Cơ cấu chi ngân sách tiếp tục biến động: chi tích luỹ từ chỗ chiếm tỷ trọng
31,2% trong giai đoạn 1981 - 1985 giảm xuống 29,6% trong giai đoạn 1986-1990, kéo theo tỷ
trọng chi tiêu dùng tăng tương ứng từ 68,8% lên 70,4%. Trong chi tích luỹ đã phân phối 78,6%
cho vốn xây dựng cơ bản, 21,4% cho vốn lưu động và vốn dự trữ Nhà nước.
Bước đầu kiềm chế được đà lạm phát. Nếu chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng trên thị
trường năm 1986 là 20%, năm 1987 là 10%, năm 1988 là 14%, thì năm 1989 là 2,5% và năm
1990 là 4,4%. Đây là kết quả tổng hợp của việc thực hiện Ba chương trình kinh tế và đổi mới cơ
chế quản lí, đổi mới chính sách giá và lãi suất, mở rộng thơng thương và điều hịa cung cầu hàng
hóa. Từ đó dẫn tới những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí lại cơ

cấu kinh tế. Nhà nước cho đình và hỗn nhiều cơng trình đã kí với nước ngồi và của một số
ngành, địa phương để tập trung vốn cho các cơng trình trọng điểm trực tiếp phục vụ Ba chương
trình kinh tế hoặc có ý nghĩa trọng yếu. Trong 5 năm 1986-1990, ta đã dành cho Ba chương trình
kinh tế hơn 60% vốn đầu tư của ngân sách trung ương, 75%-80% vốn đầu tư của địa phương.
Ngoài ra, phần đầu tư của nhân dân cũng rất lớn, đồng thời đã thu hút được một số vốn đầu tư
của nước ngồi. Nhiều cơng trình cơng nghiệp nặng quan trọng được khởi công từ những năm
trước, nay được đưa vào sử dụng. Một số ngành sản xuất mới, có triển vọng tốt như dầu khí được
hình thành... Một số loại hình kinh tế dịch vụ mới ra đời và phát triển nhanh, góp phần thúc đẩy
kinh tế hàng hóa và phục vụ đời sống nhân dân.
Giai đoạn đầu của đổi mới, lĩnh vực đầu tư được mở cửa đầu tiên trong các lĩnh vực kinh tế
bằng việc ban hành một loạt các luật và quyết định. Năm 1987, luật đầu tư nước ngồi được
thơng qua, trong 3 năm từ 1988-1990, kết quả thu hút FDI đạt 211 dự án với tổng vốn đăng ký
đạt 1.603,5 triệu USD.
Đặc biệt giai đoạn này, quyết định 80/HĐBT ngày 8/5/1988 đã làm mềm nghị định 232 năm
1981 với các đặc điểm sau:


Tập trung vốn ngân sách cho các cơng trình lớn, xây dựng cơ sở hạ tầng, cơng trình
phúc lợi, bước đầu đa dạng hố các nguồn vốn. Vốn xây dựng cơ bản vẫn là khoản chi
quan trọng: chiếm tỷ trọng 23,3% tổng số chi ngân sách Nhà nước và tăng 24,0 lần so
với giai đoạn 1981 - 1985. Đặc biệt trong giai đoạn 1986 - 1990, ngồi nguồn vốn đầu
tư của ngân sách, cịn có nguồn vốn tự có của xí nghiệp, vốn khấu hao cơ bản để lại,
vốn hợp tác, vốn tự vay tự trả của các ngành, các địa phương, các cơ sở, vốn tín dụng
của ngân hàng đầu tư và phát triển. Cứ 1 đồng vốn xây dựng cơ bản của ngân sách thì
có 0,22 đồng vốn huy động khác. Ngồi ra trong 3 năm 1988 - 1990 đã có nhiều dự án
hợp tác đầu tư với nước ngoài được triển khai thực hiện trị giá trên 300 triệu đô la so
với tổng trị giá các dự án là 1.470 triệu đô la. (Trong số các dự án được triển khai,
ngành dầu khí chiếm tỷ trọng 58,0%, ngành du lịch 26,1%, ngành công, nông, lâm
nghiệp 8,7%, ngành giao thông bưu điện và các ngành khác 7,2%). Trong cơ cấu vốn
đầu tư XDCB của ngân sách Nhà nước thì 60% được dành cho việc phục vụ 3 chương

trình kinh tế lớn (trong đó 1/2 dành cho chương trình lương thực - thực phẩm, 1/2 dành
cho các chương trình hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu). Cịn lại 40% được bố trí cho
các cơng trình giao thơng vận tải, y tế, giáo dục, văn hoá và các cơ sở hạ tầng.
21





Cơ chế kế hoạch hoá giảm bớt sự sơ cứng, Ủy ban kế hoạch nhà nước chỉ trực tiếp cân
đối vốn cho các dự án quan trọng, còn lại giao cho các ngành và địa phương
Giảm bớt các bộ máy Ban quản lý Cơng trình, chỉ thành lập Ban quản lý với các cơng
trình lớn, kỹ thuật phức tạp, thời gian thi cơng dài.

m) Điểm tích cực trong Quyết định 80/HĐBT







Một thành tựu quan trọng khác về đối mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà
nước.
Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế
lạm phát, …
Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của cơng nghiệp hóa
XHCN trong chặng đường đầu tiên.

Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế
quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước
đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.

n) Điểm hạn chế trong Quyết định 80/HĐBT
Quyết định 80/HĐBT ngày 8/5/1988 cũng có một số hạn chế:




Khơng bao qt các dự án quy mơ nhỏ, buông lỏng quản lý theo danh mục: vốn tại địa
phương bị chia nhỏ, dẫn đến sự xuất hiện tính phân tán trong đầu tư. Đây là giai đoạn
đầu của thời kỳ Đổi mới với việc chủ yếu là đổi mới cơ chế quản lý. Trong thời gian này
đã ban hành nhiều nghị quyết và quyết định của Đảng và Chính phủ nhằm cải tiến quản
lý kinh tế, chính sách tiền tệ, chính sách nơng nghiệp... Tuy nhiên trong những năm đầu
của kế hoạch 5 năm này cơ chế cũ chưa mất đi, cơ chế mới chưa hình thành nên Đổi
mới chưa có hiệu quả đáng kể.
Cho phép chủ đầu tư có quyền lựa chọn tổ chức xây lắp quốc doanh hoặc tập thể hoặc
tư cách pháp nhân không hạn chế theo ngành nghề và vùng lãnh thổ, dẫn đến tình trạng
mua bán thầu, lại quả phần trăm.

1.3. Cơ chế quản lí đầu tư giai đoạn 1990
a

Luật cơng ty 1990



Điểm nổi bật Luật công ty 1990


Từ năm 1990, Nhà nước ban hành hai đạo luật dành cho doanh nghiệp, mở ra một kỷ nguyên
mới cho sự phát triển kinh tế của nền kinh tế Việt Nam. Sau gần 30 năm kề từ khi có những đạo
luật đầu tiên cho doanh nghiệp, bộ mặt kinh tế - xã hội của Việt Nam thay đổi rõ rệt, trở thành
một vùng đất có nền kinh tế năng động, nhiều tiềm năng và thu hút đầu tư. Chính vì sự phát triển
mạnh mẽ của khối kinh tế tư nhân, đòi hỏi Nhà nước phải ban hành những chính sách pháp lý
phù hợp để điều chỉnh hoạt động của những chủ thể kinh doanh này. Luật Công ty 1990 và Luật
doanh nghiệp tư nhân 1990 là những văn bản pháp lý đầu tiên quy định về việc thành lập và hoạt
động của các chủ thể kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Lúc này, khối kinh tế tư nhân
22


được pháp luật quy định gồm các loại hình: Cơng ty TNHH, Công ty cổ phần (theo Luật Công ty
1990) và Doanh nghiệp tư nhân (theo Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990).


Điểm tích cực trong Luật cơng ty 1990

Khi Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty được ban hành vào năm 1990, bước ngoặt
trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam mới thực sự được tạo ra.
 Khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp mới. Từ 1990 tới năm 1996 tổng cộng đã



có khoảng 21.000 doanh nghiệp tư nhân, 9.000 công ty trách nhiệm hữu hạn, 210
công ty cổ phần được thành lập, một con số rất ấn tượng. Trong khi đó, số hộ kinh
doanh gia đình cũng tăng từ 840.000 hộ năm 1990 lên 2,2 triệu hộ vào đầu năm 1996.
 Mở ra một hành lang pháp lý và con đường phát triển của doanh nghiệp khối tư nhân.
Khơng cịn hoạt động trong sự mò mẫm, trầy trật làm ăn trong sự thận trọng của Nhà
nước và sự kỳ thị của xã hội, khối kinh tế tư nhân đã có vị trí nhất định trong nền kinh
tế. Từ thời điểm đó, nền kinh tế trở thành một chiến trường khốc liệt với cuộc va chạm

giữa tư duy cũ và tư duy kinh tế thị trường.
Điểm hạn chế trong Luật cơng ty 1990

Luật có hiệu lực từ 15/4/1991, nhưng phải đến năm 1992 Quốc hội mới ban hành hiến pháp
mới, cơng nhận cơng dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Từ đó, Luật
doanh nghiệp tư nhân và Luật Cơng ty mới thực sự đi vào hoạt động chính thức. Những năm
1980 – 1990 là thiên đường đối với những công ty quốc doanh và thị trường là con số 0 của
những cơng ty tư nhân, vì khơng có chỗ chen chân vào.
Luật doanh nghiệp 1990 được ban hành mở ra con đường phát triển cho khối doanh nghiệp
tư nhân. Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật lại gặp rất nhiều khó khăn và gây ra nhiều rào cản
về mặt thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp. Thời đó, muốn thành lập một doanh nghiệp phải
có rất nhiều chữ ký và con dấu, thời hạn cấp phép hoạt động cho doanh nghiệp có thể kéo dài đến
vài năm. Qua những quy định trong luật và quá trình thực thi trong thực tiển, dường như Nhà
nước vẫn còn thận trọng và đặt nhiều hoài nghi cho hoạt động của khối kinh tế tư nhân, nên phải
xem xét thật kỹ để cho phép thành lập một doanh nghiệp.
o) Điều lệ quản lý Đầu tư và Xây dựng theo Nghị định 385–HĐBT ngày 07/11/1990


Điểm nổi bật Điều lệ quản lý Đầu tư và Xây dựng theo Nghị định 385–HĐBT

Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng được cụ thể rõ dần qua các Nghị quyết của Trung ương
khóa V và cho đến Đại hội VI (1986), chiến lược đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng đã
khẳng định “Cho tới nay, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về cơ bản chưa bị xóa bỏ, cơ chế
mới chưa được thiết lập đồng bộ”. Nghị quyết của Đảng cũng đã chỉ rõ “Đổi mới cơ chế quản lý
là một q trình cải cách có ý nghĩa cách mạng sâu sắc, là cuộc đấu tranh giữa cái mới với cái cũ,
cái tiến bộ với cái lạc hậu”. Về quản lý xây dựng cơ bản, tư tưởng chỉ đạo này đã được thể hiện
trong Nghị định 385/HĐBT ngày 7-11-1990.
Vào cuối năm 1979 và những năm của thập kỷ 80, tư tưởng “nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường” chưa du nhập vào được trong các văn bản quản lý
xây dựng cơ bản. Do đó Nghị định 232/CP ngày 6-6-1981 chỉ là hệ thống hóa, tập hợp và thay

thế một loạt các văn bản cũ mà chưa có sự thay đổi nào về chất lượng, vẫn là văn bản phục vụ
cho chế độ bao cấp, kế hoạch hóa.
23


Nhận thấy Nghị định 232 – CP năm 1981 còn sơ sài, nhiều điểm chưa rõ ràng. Do đó Hội
đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 385-HĐBT ngày 07/11/1990 sửa đổi thay thế Điều lệ quản
lý xây dựng cơ bản kèm theo Nghị định 232-CP năm 1981. Thay đổi ở rất nhiều điểm:
 Chương I (những quy định chung): sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh các điều 1, 2, 3, 4, 5



và thay điều 6;
 Chương II (chuẩn bị đầu tư): thay các điều 8, 10, 12 và sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh
các điều 11, 13;
 Chương III (chuẩn bị xây dựng): sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh các điều 15, 16, 18,
19, 20, 21, 22, 24 và thay điều 23;
 Chương IV (xây lắp): sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh các điều 25, 30, 32 và thay điều
31;
 Chương V (quản lý vốn): thay toàn bộ điều 36 đến điều 42;
 Chương VI (thưởng, phạt): thay bằng chương VI mới (xử lý vi phạm và thưởng phạt
từ điều 43 đến điều 47);
 Chương VII (Điều khoản thi hành): thay điều 48 và điều 50;
Điểm tích cực trong Nghị định 385–HĐBT

Thứ nhất, quy định rõ cơ chế huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư; đa dạng hóa các
nguồn vốn. Các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản rất đa dạng, được nêu cụ thể cách sử dụng
trong Nghị định 385–HĐBT năm 1990:
 Vốn Nhà nước đầu tư cho những cơng trình sản xuất then chốt của nền kinh tế, những












cơng trình kết cấu hạ tầng quan trọng một số cơng trình sự nghiệp văn hố xã hội, khoa
học kỹ thuật quan trọng, cơng trình an ninh quốc phịng và quản lý Nhà nước.
Vốn tín dụng đầu tư dùng để: Đầu tư xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, đổi mới kỹ thuật và
công nghệ các cơng trình sản xuất kinh doanh dịch vụ có hiệu quả, có khả năng thu hồi
vốn và có đủ điều kiện vay vốn theo quy định của ngân hàng đầu tư và phát triển.
Vốn xí nghiệp tích luỹ được dùng để đầu tư xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, đổi mới kỹ
thuật và công nghệ các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các cơng trình phúc lợi cho
công nhân viên chức của đơn vị.
Vốn vay nước ngoài của các đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ do đơn vị tự vay, tự trả
nợ vay và lãi cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Vốn viện trợ khơng hồn lại thuộc lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản được cân đối trong
ngân sách và đưa vào kế hoạch đầu tư của Nhà nước. Riêng với những đối tượng cụ thể
được viện trợ trực tiếp thì tổ chức được viện trợ được quyền sử dụng khoản viện trợ đó
đúng mục đích và quyết tốn với Bộ Tài chính.
Vốn hợp tác, liên doanh với nước ngồi sử dụng theo quy định của Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
Vốn đóng góp của nhân dân bằng tiền, vật liệu hoặc công lao động chủ yếu sử dụng vào
các cơng trình hoặc lĩnh vực đem lại lợi ích thiết thực trực tiếp cho bản thân người góp
vốn (như các cơng trình thuỷ lợi, nội đồng, giao thơng nơng thơn, các cơng trình phúc lợi
cơng cộng).


Thứ hai, trách nhiệm hồn trả vốn đầu tư đã được quy định rõ. Thu hồi vốn đầu tư là nguyên
tắc bắt buộc với tất cả các cơng trình có khả năng thu hồi được vốn. Đối với những cơng trình
Nhà nước vay vốn nước ngồi để đầu tư thì chủ đầu tư có trách nhiệm trả nợ. Trường hợp chưa
24


trả hoặc chưa trả hết số nợ đã vay thì các chủ đầu tư phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của
mình. Đối với những cơng trình vay vốn Ngân hàng để đầu tư thì trong thời hạn trả nợ chủ đầu tư
được sử dụng toàn bộ vốn khấu hao, một phần lợi nhuận và các nguồn vốn hợp pháp khác (nếu
có) để trả nợ. Đối với những cơng trình vay vốn nước ngồi. Nếu chủ đầu tư trực tiếp vay thì chủ
đầu tư có trách nhiệm trả theo hợp đồng vay vốn và được tính bằng nguyên tệ.
Thứ ba, quy định về lập và duyệt luận chứng kinh tế – kỹ thuật khi thực hiện đầu tư. Điều 8
đến 14 của Nghị định 385–HĐBT nêu rất rõ về việc lập và duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật
khi thực hiện đầu tư:
 Tất cả các công trình đầu tư phải lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật hoặc báo cáo kinh tế -

kỹ thuật để từ đó quyết định chủ trương đầu tư.
 Chủ đầu tư là người chịu trách nhiệm về lập và trình luận chứng kinh tế - kỹ thuật để trình












các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét cấp giấy phép hoặc xét duyệt.
Nội dung chủ yếu để làm căn cứ tính tốn, lập, xét duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật là:
Sự cần thiết phải đầu tư; Các phương án về hình thức đầu tư; Các phương án về địa điểm;
Các phương án về sản phẩm, công nghệ; Nhu cầu về nguyên liệu, lao động; Các phương
án xây dựng; Các chỉ tiêu kinh tế…
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng xét duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật các cơng trình quan
trọng, sau khi xem xét ý kiến của Hội đồng thẩm tra luận chứng kinh tế - kỹ thuật cấp Nhà
nước. Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh xét duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật
các cơng trình cịn lại, sau khi xem xét ý kiến của Hội đồng thẩm tra luận chứng kinh tế kỹ thuật cấp ngành hoặc địa phương.
Thứ tư, xóa bỏ cơ chế chủ đầu tư tự ý giao thầu. Quy định rõ 03 hình thức giao nhận thầu.
Giao nhận thầu xây lắp có 03 hình thức, được quy định tại điều 23:
Việc xây lắp cơng trình được thực hiện thơng qua hợp đồng xây lắp giữa chủ đầu tư với
các tổ chức xây lắp có tư cách pháp nhân đúng ngành nghề theo đăng ký được cấp theo
quy chế của Nhà nước.
Những cơng trình xây dựng cơ bản của Nhà nước chưa chuẩn bị đủ điều kiện để tổ chức
đấu thầu thì chủ đầu tư hoặc cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của chủ đầu tư có trách
nhiệm thống nhất với các Bộ (Sở) quản lý xây dựng chun ngành (của các cơng trình đó)
để lựa chọn đơn vị xây dựng đủ năng lực và đúng ngành nghề.
Đối với một số cơng trình trọng điểm quốc gia có quy mô xây dựng lớn, kỹ thuật phức
tạp, thời gian xây dựng dài, Nhà nước chỉ định tổ chức tổng thầu (hoặc thầu chính) đúng
ngành nghề.

Thứ năm, quy định rõ trách nhiệm quản lý đầu tư xây dựng đối với các Bộ, Ủy ban Nhà
nước, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố: là chủ quản đầu tư các cơng trình của các đơn vị quốc
doanh trực thuộc và chịu trách nhiệm về hiệu quả của các cơng trình này.
Với những điểm tích cực này, Giai đoạn 1991-1995, FDI vào Việt Nam đã tăng vượt bậc
với 1.409 dự án, với tổng số vốn đăng ký là 18.379,1 triệu USD. Đây có thể coi là thời kỳ bắt đầu
sự bùng nổ FDI tại Việt Nam. Giai đoạn này môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam bắt đầu
hấp dẫn nhà đầu tư, do chi phí đầu tư – kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; lực
lượng lao động với giá nhân cơng rẻ có sẵn; nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác. Bên

cạnh đó, các yếu tố bên ngồi cũng đã đóng góp làm gia tăng FDI như: làn sóng vốn FDI chảy
dồn về các thị trường mới nổi trong đầu những năm 90; dòng vốn nước ngoài vào các nền kinh tế
quá độ khối xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng vốn FDI hàng năm khá
25


×