Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận Những tác động tiêu cực trong văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay, giải pháp cho vấn đề này”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.81 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu vươn lên, đạt được nhiều thành tựu to lớn
về kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển về mọi mặt của đất nước, văn hóa của
dân tộc ta đã được bổ sung và làm giàu thêm, và văn hóa chính trị cũng khơng
phải ngoại lệ. Nhờ đó, ý thức chính trị của các tầng lớp nhân dân ngày càng
được nâng cao, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và trở thành động lực mạnh mẽ đưa nước ta tiến kịp và hội nhập với các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường
cũng đã xuất hiện nhiều yếu tố tác động tiêu cực đến đời sống xã hội và văn hóa
chính trị cũng khơng nằm ngồi những tác động đó. Sự suy đồi về văn hóa chính
trị nếu khơng được khắc phục kịp thời sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường,
ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn vong của đất nước và chế độ. Một trong những
vấn đề nổi cộm hiện nay của sự suy thối về văn hóa chính trị là việc văn hóa từ
chức cịn ở trình độ rất thấp. Nhiều vấn đề sai phạm nghiêm trọng xảy ra trên tất
cả các lĩnh vực của công tác quản lý xã hội khiến công luận bức xúc nhưng trách
nhiệm cá nhân không được nhắc tới, không một ai đứng ra chịu trách nhiệm về
những sai phạm đó đã khiến cho nhân dân mất dần lịng tin vào các cơ quan
cơng quyền, vào những người lãnh đạo đất nước. Những biểu hiện nêu trên nếu
không được kịp thời khắc phục sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế
- xã hội, cản trở sự đi lên của đất nước. Do đó, văn hóa từ chức đang được xem
là vấn đề quan trọng để nâng cao văn hóa chính trị, củng cố lại lòng tin của nhân
dân, đưa đất nước phát triển và hội nhập quốc tế.
Ở Việt Nam, văn hóa từ chức dường như còn là một khái niệm khá xa lạ.
Nhưng điều đó khơng có nghĩa là từ trước đến nay chúng ta khơng có, mà thậm
chí ta đã có từ rất lâu nhưng nhất thời bị lãng quên. Trong thời gian gần đây, nó
lại trở thành vấn đề đặt ra và thu hút sự quan tâm rộng rãi của toàn xã hội, là đề
1



tài bàn luận sơi nổi trong các kì họp Quốc hội mới đây nhất với việc đưa ra đề án
“lấy phiếu tín nhiệm”, “bỏ phiếu tín nhiệm” đối với những người giữ chức vụ do
Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn để nâng cao chất lượng hoạt
động, cũng như thanh lọc đội ngũ cán bộ. Liệu đây có phải là nền móng của văn
hóa từ chức ở nước ta hiện nay? Điều này chắc chắn còn phải bàn nhiều, nhưng
nhất thiết cần phải có để góp phần làm trong sạch bộ máy và đưa đất nước ta
phát triển vững bền, mạnh mẽ theo mục tiêu đã định. Tuy nhiên vấn đề văn hóa
từ chức ở Việt Nam hiện nay có hay khơng lại là một câu hỏi lớn mà chưa thể
khẳng định cần phải nghiên cứu thêm nhiều nữa, và nếu có thì thực tế nó đã phải
là văn hóa từ chức khơng? hay việc xin từ bỏ chức vụ của mình trong bộ phận
cán bộ, cơng chức trong nhà nước chỉ là chốn tránh trách nhiệm, chạy khỏi vũng
bùn mà không giải quyết được trong lúc đang cịn cơng tác.
Chính vì lí do trên, tác giả đã mạnh dạn chọn vấn đề “Những tác động
tiêu cực trong văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay, giải pháp cho vấn đề
này” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Văn hóa từ chức là một vấn đề mới được đề cập nhiều trong thời gian gần
đây, nhưng chủ yểu là những bài báo, bài viết đơn lẻ đề cập đến những góc độ nhỏ
của văn hóa từ chức. Trong đó, bài báo “Từ chức – khó lắm” của tác giả Như Thổ
đã đề cập tới những vấn đề tâm lý của người Việt, cơ chế sử dụng cán bộ của nước
ta hiện nay khiến cho việc từ chức hầu như khơng có; bài báo “Văn hóa từ chức”
của tác giả Lê Thế Hùng đề cập tới một số điều kiện cần có để hình thành văn hóa
từ chức ở nước ta hiện nay; bài báo “Văn hóa từ chức” của tác giả Quyền Duy, đề
cập đến việc thế nào là từ chức, đưa ra những nguyên nhân căn bản đòi hỏi phải
xây dựng quy định về từ chức và đưa ra một số giải pháp xây dựng văn hóa từ
chức. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi nghiên cứu một cách sâu sắc tồn diện vấn
đề văn hóa từ chức trong lịch sử chính trị của dân tộc.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2



Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những tác động tiêu
cực trong văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay, giải pháp cho vấn đề này
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trong phạm vi đất nước Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ những vấn đề tiêu cực trong văn hóa từ chức ở Việt
Nam hiện nay, và đi tìm những giải pháp để giải quyết những vấn đề này
Nhiệm vụ: Làm rõ thực trạng về vấn đề từ chức ở Việt Nam hiện nay và
nêu khái quát về đất nước, bản sắc văn hóa, con người Việt Nam.
Sự tác động của văn hóa từ chức đối với nền chính trị Việt Nam.
Đi tìm những giải pháp cho vấn đề tiêu cực của văn hóa từ chức ở Việt
Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; cùng một số
phương pháp cụ thể như: logic, lịch sử, phân tích - tổng hợp...
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương 7 tiết.

3


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA TỪ CHỨC
TRONG NỀN CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
1.1. Văn hóa chính trị

Thuật ngữ “văn hóa” xuất hiện từ xa xưa trong ngơn ngữ của nhân loại. Hiện
nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách
nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Tựu chung lại, có thể hiểu văn hóa là tồn bộ
những thành quả hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ và hiện tại, biểu
hiện thành hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Hệ thống giá trị có
khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của những con người sống
trong cộng động xã hội ấy. Các lĩnh vực đặc thù của đời sống hay của hoạt động
con người cũng được thể hiện bằng các khái niệm văn hóa khác nhau, chẳng hạn,
văn hóa lao động, văn hóa giao tiếp, văn hóa pháp quyền, văn hóa dân chủ, v.v...
Văn hóa chính trị, trong đó có văn hóa từ chức cũng được đề cập từ phương diện
này.
Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Nó xuất hiện từ khi xã hội phân
chia giai cấp và nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị
là mối quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực
thi quyền lực chính trị, mà tập trung ở quyền lực nhà nước. Chính trị là một lĩnh
vực hoạt động rộng lớn và hết sức quan trọng, nó quyết định chủ trương, đường
lối phát triển của đất nước, do đó quyết định lớn đến qúa trình phát triển của xã
hội.
Như một thành tố của văn hóa, văn hóa chính trị xuất hiện trong lịch sử cùng
với sự xuất hiện của giai cấp, nhưng khái niệm văn hóa chính trị lại khá mới mẻ
trong lý luận chính trị Mác – Lênin. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
chưa đưa ra một khái niệm đầy đủ về văn hóa chính trị nhưng đã đề cập tới một số
nội dung cơ bản làm cơ sở cho việc tiếp cận khái niệm này. Hiện nay, có tới hàng
4


trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Số lượng các định nghĩa về văn hóa chính
trị cũng tương đương như vậy và ngày một tăng. Tình hình đó có ngun nhân là
do văn hóa chính trị vốn là một hiện tượng xã hội đã diện và phong phú đến mức
phức tạp, các nhà khoa học lại đứng trên nhiều quan diểm khác nhau để nghiên

cứu. Văn hóa chính trị, là một loại hình của văn hóa, thể hiện phương diện văn
hóa của chính trị. Văn hóa chính trị khơng phải là bản thân chính trị, bản thân văn
hóa, hay là sự cộng gộp hai lĩnh vực này, mà là chính trị bao hàm chất văn hóa từ
bản chất bên trong của nó, được thể hiệnở hai phương diện cơ bản:
Một là, chính trị với ý nghĩa là chính trị dân chủ, tiến bộ hướng tới mục đích
cao nhất là vì con người, giải phóng con người, tơn trọng quyền con người, tạo
điều kiện cho con người phát triển tự do, tồn diện, hài hồ. Đây là tính nhân văn
sâu sắc của một nền chính trị có vănhóa.
Hai là, những tư tưởng chính trị tốt đẹp khơng phải là những ý niệm trừu
tượng mà là những tư tưởng thiết thực, cụ thể, có khả năng đi vào cuộc sống.
Nghĩa là nó phải thấu triệt trong hệ tư tưởng chính trị, thể hiện của đường lối,
chính sách của đảng cầm quyền và nhà nước quản lý, trong ứng xử và trong việc
triển khai các kế hoạch nhằm phát triển xã hội, phục vụ cuộc sống của cá nhân
cũng như của cộng đồng.
Như vậy, có thể hiểu “Văn hóa chính trị là một phận của văn hóa, là trình độ
phát triển xã hội của lồi người về phương diện chính trị trong những giai đoạn
lịch sử nhất định, biểu hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị và tổ chức đời sống
chính trị theo những chuẩn xã hội nhất định nhằm điều hịa những quan hệ lợi ích
giữa các giai cấp, dân tộc và bảo vệ quyền lợi của giai cấp cầm quyền phù hợp
với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội”.
1.2. Khái niệm văn hóa từ chức
1.2.1. Khái niệm
Hiện nay, vấn đề văn hóa từ chức ở nước ta đang được nhiều nhà nghiên cứu
đề cập đến. Từ chức chỉ được xem là một hành vi có văn hóa khi người ta tự
5


nguyện và mang lại ý nghĩa tốt đẹp cho xã hội. Nhìn sang các nước phát triển, từ
chức là văn hóa hành xử của những người có chức, có quyền và đã trở thành trách
nhiệm của người có chức, có quyền, được dư luận xã hội chấp nhận. Nhìn lại lịch

sử nước ta, từ xưa, đã có khá nhiều người treo ấn từ quan vì nhiều lý do khác nhau
nhưng đều xuất phát từ lòng tự trọng cao như Chu Văn An, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Bỉnh Khiêm… Hay vua Trần Nhân Tơng đã từ bỏ ngơi báu, quyền lực
của mình để đi tu. Đó là những trường hợp từ chức tiêu biểu.
Trong đề tài này, từ chức được tìm hiểu trên khía cạnh sự từ bỏ chức vụ của
cá nhân ở những cơ quan nhà nước, có vai trị điều hành, quản lý cả xã hội. Nó là
một ứng xử chính trị thực tiễn mang tính tự nguyện khi một cá nhân giữ một vị trí
nào đó trong bộ máy nhà nước thấy rằng sự tham gia của mình vào việc hiện thực
hóa các nhiệm vụ của đất nước, vào các công việc quản lý nhà nước và xã hội
không còn phù hợp. Việc đánh giá sự phù hợp của ứng xử chính trị này tùy thuộc
vào quan niệm của mỗi thời đại, khơng có sự bất biến.
1.2.2. Các yếu tố cơ bản cấu thành
Từ trong lịch sử nước ta cho đến nay, văn hóa nói chung và văn hóa từ chức
nói riêng là khơng phải tự nhiên mà có, hơn nữa đó lại là thứ văn hóa đặc biệt quý
giá. Để một người có thể tự nguyện từ chức thì địi hỏi ngưởi đó phải có nhân
cách. Một trong những điểm quan trọng của nhân cách là làm người phải biết liêm
sỉ. Trong nghĩa của từ liêm sỉ bao gồm liêm khiết, và biết điều sỉ nhục. Liêm khiết
phải được hiểu là biết vì cộng đồng, vì cái chung chứ khơng vì cá nhân mình. Biết
điều sỉ nhục phải hiểu là biết nhục khi làm điều trái với đạo lý, đi ngược lại
nguyện vọng của cộng đồng. Một người thường mà khơng có liêm sỉ thì khó sống
với cộng đồng. Cịn một ơng quan khơng được lịng dân mà lại cịn tham lam, cố
giữ ghế thì lại càng vơ liêm sỉ. Nếu là người có văn hóa thì họ sẵn sàng từ chức
một cách có văn hóa, thậm chí đến với cái chết cũng là một cách từ chức có văn
hóa của người biết liêm sỉ, tuy rằng như thế là cực đoan.

6


Như vậy, văn hóa từ chức có cấu trúc khá phức tạp, tuy nhiên có thể coi các
yếu tố cơ bản sau đây cấu thành nên văn hóa từ chức của cá nhân:

- Tri thức về ứng xử trong đời sống xã hội với hạt nhân là tri thức chính trị
Yếu tố đầu tiên, đồng thời là nền tảng của văn hóa từ chức là tri thức về ứng
xử trong đời sống xã hội với hạt nhân là tri thức chính trị, được biểu hiện ở trình
độ học vấn, sự hiểu biết về chính trị, kinh nghiệm và sự từng trải của mỗi người.
Tri thức chính trị với tư cách là một yếu tố cấu thành của văn hóa từ chức là
sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm của chính trị.
Việc có trình độ học vấn chính trị sẽ giúp cho việc xem xét trình độ của mình đến
đâu, mình có xứng đáng với vị trí mà mình đang nắm giữ hay khơng. Từ đó sẽ có
quyết định chính xác về việc có nên rút khỏi vị trí của mình đang giữ hay khơng.
Tích lũy được kinh nghiệm chính trị sẽ cho người lãnh đạo, quản lý biết được
mình có hồn nhiệm vụ chính trị đặt ra trong điều kiện tương ứng hay khơng,
mình có thể hồn thành nhiệm vụ trong thời gian tới khi hồn cảnh thay đổi hay
khơng. Từ đó sẽ xác định thời điểm nào là cần thiết, phù hợp để từ chức.
- Thái độ ứng xử chính trị của cá nhân
Là nhân tố thứ hai của văn hóa từ chức, thái độ ứng xử chính trị cá nhân là
kết quả của quá trình nhận thức sâu sắc về ứng xử trong đời sống xã hội với hạt
nhân là tri thức chính trị. Khi có sự nhận thức sâu sắc, con người sẽ có niềm tin
vào những quy tắc ứng xử trong đời sống chính trị, và qua các trải nghiệm cá nhân
nó sẽ mang tính tự giác cao độ, trở thành bản tính của người lãnh đạo, quản lý
trong cơ quan nhà nước. Khi có thái độ ứng xử đúng đắn, con người sẽ được thôi
thúc từ bên trong, tự giác, sẵn sàng có những hành động vì những mục tiêu đúng
đắn. Khơng có thái độ ứng xử chính trị đúng đắn, cá nhân sẽ dễ bị dao động trước
những cám dỗ của quyền lực và lợi ích, mất phương hướng trong việc đưa ra
quyết định phù hợp đối với việc từ chức của bản thân. Thái độ ứng xử chính trị
tích cực được củng cố vững chắc khi được ni dưỡng trong mơi trường chính trị

7


lành mạnh và đặc biệt có được khi trải qua thử thách, tơi luyện trong những hồn

cảnh đấu tranh gay go quyết liệt, được kiểm nghiệm thường xuyên trong thực tiễn.
- Hành động từ chức tích cực
Nhận thức, tri thức, thái độ chỉ trở thành văn hóa khi chúng được biểu hiện
trong hoạt động thực tiễn. Văn hóa từ chức cịn là nhu cầu và thói quen tham gia
một cách tự giá, chủ động, sáng tạo vào việc phê phán những quan chức hủ hóa,
khơng đủ khả năng cơng tác; động viên, đề cao những người có lịng tự trọng,
dám nhận trách nhiệm, dám từ chức khi khơng hồn thành nhiệm vụ.
Nguyên nhân từ chức cũng khá đa dạng, nhiều khi như là chút bỏ gánh nặng,
là để giữ thể diện, để có thể vẫn ngẩng cao đầu giữa bàn dân thiên hạ. Có người từ
chức vì muốn chuyển sang làm cơng việc khác mà mình u thích. Có người từ
chức để nhường chỗ cho người trẻ có tài, từ chức vì nhận rõ trách nhiệm của mình
khi khơng làm tốt chức vụ đang giữ, từ chức để tránh búa rìu dư luận, từ chức để
khỏi bị cách chức vv... Nhưng quyền quyết định là ở người từ chức, dù người cầm
quyền có thể mời, khẩn khoản mời, hoặc ra sức cố thuyết phục người từ chức
đừng hoặc khoan từ chức, từ chức là hành động chủ động của người từ chức.
1.3. Nền chính trị của Việt Nam và sự ra đời của văn hóa từ chức
1.3.1. Những đặc trưng về thể chế chính trị Việt Nam
Khái quát về thể chế chính trị Việt Nam
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực
hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống
chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao
gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp
được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá
trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời
phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.

8



Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước
và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó hệ thống chính trị
mang bản chất giai cấp của giai cấp cầm quyền.
Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ
thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội
dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính
của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế, là công cụ thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đồn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các
tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động
trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và
đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
1.3.2. Đặc điểm văn hóa chính trị Việt Nam
Một là: Các tổ chức trong hệ thống chinh trị ở nước ta đều lấu củ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho
mọi hành động.
Hai là: Hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Do những phẩm chất của dân tộc; do truyền thống lịch sử mang
lại và do những thành tựu rất to lớn đạt được trong hoạt động thực tiễn cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng… làm cho Đảng ta trở thành Đảng
chính trị duy nhất có khả năng tập hợp quần chúng lao động đông đảo để thực
hiện lý tưởng của Đảng, nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò

9



lãnh đạo của Đảng trong thực tế. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của hệ thống
chính trị nước ta.
Ba là: Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ là nhân tố cơ bản đảm bảo hệ thống chính trị có được sự thống nhất về
tổ chức và hành động nhằm phát huy mạnh và đồng bộ của toàn hệ thống cũng
như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị.
Bốn là: Hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa giai cấp cơng nhân
và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
1.3.3. Đặc điểm về văn hóa từ chức trong nền chính trị Việt Nam
Quan niệm về văn hóa từ chức
Trước hết, để hiểu rõ và đúng về văn hóa từ chức, chúng ta cần làm rõ
những khái niệm liên quan.
Văn hóa hiểu một cách chung và khái qt nhất, đó là tồn bộ những giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử nhằm
phục vụ cho chính đời sống của con người vì sự phát triển và tiến bộ của nhân
loại.
Hay nói một cách khác, văn hóa ở đây là cái đẹp, là cái chân, thiện, mỹ,
hướng đến những mục đích tích cực, vì sự phát triển nói chung.
Từ chức là hành động dời bỏ chức vụ, chức trách, quyền hạn của mình khi
khơng hồn thành trách nhiệm, bổn phận được giao hoặc khi thấy mình khơng
cịn phù hợp với chức vị đó nữa. Hành động từ chức gắn liền với những người
có quyền lực trong xã hội.
Từ chức chỉ trở thành văn hóa khi hành động đó mang tính tự giác, tự
nguyện và vì lợi ích chung của cộng đồng.
Như vậy, có thể hiểu văn hóa từ chức là sự tự nguyện dời bỏ, nhường vị
trí lãnh đạo, cầm quyền của mình cho một người khác có khả năng hơn khi thấy
bản thân khơng cịn đủ năng lực, phẩm chất hay khơng cịn phù hợp để đảm
10



đương công việc hiện tại nữa, nhằm đảm bảo cho lợi ích chung của cộng đồng
và sự phát triển của đất nước.
Sự hình thành và phát triển của văn hóa từ chức trong nền chính trị
Việt Nam
Ở Việt Nam, văn hóa từ chức dường như cịn khá xa lạ đối với các quan
chức, cán bộ và cả với người dân. Nhưng trong thời gian gần đây, vấn đề này lại
nóng lên và thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân.
Thực chất, văn hóa từ chức đã có ở Việt Nam từ rất lâu, nhưng chưa phổ
biến và hiện nay nhất thời bị lãng quên. Việt Nam không những có văn hóa từ
chức mà cịn có cả “văn hóa nhường ngơi, thối vị” từ thời Lý, thời Trần và cả
các thời về sau nữa. Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Khuyến... đều là những vị quan đã từ bỏ chức vị của mình trong
những thời điểm lịch sử khác nhau dưới chế độ phong kiến để về quê ở ẩn, sống
cuộc đời thanh đạm. Nhưng không biết từ khi nào, ở nước ta đã không coi việc
từ chức là một thái độ ứng xử có văn hóa, mà ngược lại chúng ta đã gán ghép nó
với tư tưởng bất bình, bất mãn chính trị hoặc coi đó là một hành động bất
thường trong đời sống chính trị, bị dư luận xã hội bàn tán theo hướng một chiều
hoặc ca ngợi hết lời hoặc phê phán kịch liệt, chính vì vậy mà khơng mấy ai dám
từ chức, dù trường hợp nào cũng cố bám lấy vị trí của mình ít nhất là đến khi hết
nhiệm kì. Do đó, văn hóa từ chức ở Việt Nam gần như bị rơi vào quên lãng.
Trong thời gian gần đây, khi Quốc hội đưa vấn đề này ra để bàn bạc với
“Đề án quy trình, thủ tục, cách thức thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Quốc hôi, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn” thì vấn
đề lại được dư luận quan tâm, bàn luận một cách sôi nổi. Và Dự án đã được
thơng qua tại kì họp thứ tư Quốc hội khóa XIII, diễn ra vào tháng 11/2012, chính
thức sẽ có hiệu lực vào 1/2/2013. Mục đích của dự án là để Quốc hội và Hội
đồng nhân dân thay mặt nhân dân giám sát những người giữ các chức vụ do
Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn trong việc thực hiện chức

11


trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong nhiệm kì của mỗi cán bộ. Điều này
được thực hiện sẽ tạo nền tảng, cơ sở cho văn hóa từ chức trong nền chính trị
Việt Nam hiện nay được hình thành và trở thành chuyện bình thường trong đời
sống sinh hoạt chính trị nói riêng, trong đời sống xã hội nói chung, góp phần to
lớn vào cơng tác cán bộ của Đảng ta và vào sự nghiệp phát triển đất nước ta.

12


Chương 2
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA VĂN HÓA TỪ CHỨC ĐỐI VỚI NỀN CHÍNH TRỊ
VIỆT NAM
2.1. Thực trạng văn hóa từ chức trong nền chính trị Việt Nam hiện
nay
Nhưng với những quan chức nhà nước không “phát huy tinh thần tự
nguyện” thì lại cần được xem xét văn hóa từ chức tại vị trí cận đáy của nó.
Đơn giản là ở Việt Nam, theo một “truyền thống” khó di dời về bản chất, hầu hết
các trường hợp bị cho thôi chức, miễn nhiệm đều trong tình trạng đang ở “đỉnh”.
Cái đỉnh đó, theo quan niệm thường thấy của người đời, được cấu thành từ
quyền lợi, bổng lộc cá nhân. Có lẽ cũng vì nguồn cơn thâm sâu ấy mà vào thời
gian này, Bộ Nội vụ đang dự thảo một văn bản, có thể ở cấp nghị định, về văn
hóa từ chức để trình Chính phủ.
Năm Con Rồng quả là một năm cất cánh cho những người hạ cánh. Sau
Tết Nhâm Thìn, khí sắc của năm nay đã có phần “vượng” lên đôi chút khi Thủ
tướng quyết định cho thôi chức hai trường hợp - một là ông Đào Văn Hưng, chủ
tịch EVN; và hai là ơng Dương Chí Dũng, chủ tịch Vinalines. Không nằm trong
số cán bộ, công chức xin nghỉ việc nhà nước vì những lý do dễ cảm thơng như

lương thấp, môi trường công tác không bảo đảm điều kiện làm việc và thăng
tiến…, những người lãnh đạo của Tập đồn Điện lực Việt Nam và Tổng cơng ty
Hàng hải Việt Nam lại phải chịu “thiệt thòi” khi hai doanh nghiệp này đều có
chung một đặc điểm lộ liễu: đầu tư và đầu cơ bạt mạng vào những ngành nghề
trái tay như chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm; và đều bị thiệt hại nặng nề từ
chính các thị trường đầu cơ. Nhưng cơng tâm mà nói, dù sao trường hợp bị cho
thôi chức của ông chủ tịch Vinalines cũng cịn có văn hóa hơn, bởi hoạt động
đầu cơ của doanh nghiệp này chỉ mang tính cục bộ, gây ảnh hưởng cục bộ đến
bản thân doanh nghiệp.

13


Khác rất nhiều với Vinalines, điều được gọi là “văn hóa đầu cơ” của EVN
nằm ở một đẳng cấp cao hơn hẳn. Từ tháng 9/2011, người ta đã được chứng kiến
một sự đồng pha nhuần nhuyễn: hàng loạt kết quả thua lỗ từ đầu tư trái ngành
của EVN dần được công bố, lộ ra ánh sáng; nhưng cũng từ thời điểm đó đã khởi
đầu cho một “âm mưu” của tập đoàn này nhằm chuyển lỗ từ thất bại trong kinh
doanh trái ngành lên đầu người dân đóng thuế.
Cách thức duy nhất cho phương thức chuyển lỗ đó là tăng giá điện - một
hình ảnh “uyển chuyển và linh hoạt” của đầu cơ quốc dân. Văn hóa cũng vì thế
đã trở về cận đáy của nó. Biến đầu cơ này thành một thứ đầu cơ khác, âm thầm
di chuyển các khoản nợ nần từ đầu cơ thị trường lên tầm đầu cơ quốc gia, đổ
thêm một chảo dầu vào đống lửa vốn đang sôi sục của giới làm công ăn lương
đang bị điêu đứng vì nạn lạm phát treo cao trong năm 2011. Ở một trường hợp
khác, việc những lãnh đạo cao nhất của UBND huyện Tiên Lãng, Hải Phịng bị
đình chỉ chức vụ mới đây, xem ra còn là một thứ văn hóa dưới đáy.
Những người vẫn thường xuyên tụng ca bài học “công bộc của dân” tại
các buổi chào cờ đầu tuần, lại đã ngang nhiên đánh cướp nhân phẩm của người
dân, trước khi quy kết cho người dân là “mất nhân tính”. Nhưng trước khi người

đời kịp nhận ra thực chất ai là kẻ mất nhân tính, hậu quả của q trình thay đổi
nhân tính này lại nặng nề khơng thua kém gì 31.000 tỷ đồng thua lỗ của EVN. Ở
một chiều kích khác, hậu quả đó cịn ghê gớm hơn, thuộc về những kẻ leo thang
tước vị để sẵn lòng đạp lên lên cái thang giá trị của đức hạnh con người.
Điều duy nhất có thể bào chữa cho hành động đạp thang như thế là kẻ điên
khơng thể biết là mình bị điên. Và vì thế, cũng khơng thể trơng mong gì ở hành
vi từ chức một cách tự nguyện như một cử chỉ văn hóa, khi mà văn hóa từ chức
đã chưa hề tồn tại trong tiềm thức của những bậc thang phản giá trị.
2.2. Tác động của văn hóa từ chức đối với kinh tế - văn hóa – chính trị
Việt Nam
2.1.1. Làm trong sạch hệ thống chính trị
14


Trong một nền chính trị, có được văn hóa từ chức sẽ tự động thanh lọc đội ngũ
quan chức trong hệ thống. Những người không đủ năng lực, phẩm chất, khơng
cịn phù hợp với vị trí hiện tại sẽ tự động dời bỏ nó để nhường chỗ cho một
người khác phù hợp hơn, có khả năng hơn mình, tiếp tục thay thế mình thực
hiện cơng việc chung của đất nước. Hoặc khi những người nắm quyền mắc phải
một sai phạm, dù vơ tình hay cố ý nhưng khi nhận thức được sai lầm, khơng
nhận được sự đồng tình, ủng hộ, tín nhiệm của người dân như trước nữa thì họ
sẽ tự nguyện dời bỏ vị trí của mình. Những người có năng lực, có uy tín hơn sẽ
được tuyển lựa để thay thế vào vị trí đó. Như vậy, việc từ chức một cách có văn
hóa là yếu tố rất quan trọng góp phần vào việc làm trong sạch hệ thống chính trị,
nền chính trị sẽ ln có những người có đủ đức, đủ tài đảm nhiệm cơng việc
chung, hết lịng vì lợi ích của cộng đồng, loại đi mọi yếu tố có thể làm suy yếu
hệ thống chính trị, ảnh hưởng xấu đến tiến trình phát triển chung của dân tộc.
2.2.2. Nâng cao uy tín, hiệu quả hoạt động của đảng cầm quyền và bộ
máy nhà nước
Yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của mọi

cơng việc. Khi hệ thống chính trị có đội ngũ những người cầm quyền có khả
năng về mọi mặt điều hành đất nước thì tất yếu sẽ đưa đất nước phát triển theo
đà tích cực, đi lên, sẽ nâng cao được uy tín của đảng cầm quyền, của bộ máy nhà
nước đối với nhân dân, được nhân dân ủng hộ và phục tùng, sẽ chấp hành tốt
mọi chủ trương, chính sách, trương trình hành động mà chính phủ đưa ra nhằm
thực hiện mục tiêu đã định và như thế hoạt động của nền chính trị sẽ đạt được
hiệu quả cao nhất. Ngược lại, khi những người khơng cịn đủ khả năng lãnh đạo
mà cứ cố giữ lấy vị trí của mình, thì hậu quả tất yếu sẽ kéo lùi sự phát triển, làm
suy giàm lòng tin của người dân đối với đảng cầm quyền, đối với bộ máy nhà
nước, làm cho hệ thống chính trị hoạt động khơng có hiệu quả, và từ đó rất dễ
dẫn đến tình trạng chống đối, rối loạn và khủng hoảng đời sống chính trị, kinh
tế, làm cho xã hội bất ổn, trì trệ.
15


2.2.3. Đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ phát triển đất nước
Văn hóa từ chức sẽ chọn ra những người xứng đáng đứng lên lãnh đạo đất
nước, đưa đất nước phát triển về mọi mặt, đáp ứng được những yêu cầu và
nhiệm vụ mà thực tiễn lịch sử đặt ra. Nếu những người cầm quyền không đủ khả
năng lãnh đạo, không nhận thức được các yêu cầu khách quan sẽ làm cho đất
nước phát triển thụt lùi, không theo kịp thời đại. Ở Nhật Bản, văn hóa từ chức
được thể hiện rõ nét, khi người cầm quyền mắc sai lầm làm ảnh hưởng đến lợi
ích chung sẽ tự nguyện, sẵn sàng ra đi để nhường chỗ cho người khác lên thay,
chính vì vậy, đội ngũ những nhà lãnh đạo trong hệ thống chính trị ln ln
được chọn lựa, ln là những người tinh tú nhất trong xã hội, đủ đức đủ tài lãnh
đạo đất nước, đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, đưa Nhật Bản trở
thành một cường quốc trên thế giới, và hiện nay là một trong ba nước có nền
kinh tế phát triển nhất thế giới.
2.2.4. Thể hiện ý thức và tinh thần trách nhiệm của chính khách đối
với sự phát triển đất nước

Văn hóa từ chức thể hiện được ý thức và tinh thần trách nhiệm của các
chính khách đối với sự phát triển đất nước. Khi các chính khách nhận thức được
vai trị, vị trí, tầm quan trọng của mình đối với vận mệnh đất nước họ sẽ có trách
nhiệm cao đối với chỗ đứng của mình, sẽ ứng xử một cách có văn hóa với chức
trách được giao. Cống hiến mọi tài lực và trí lực vì sự nghiệp chung của đất
nước. Nhưng một khi vị trí ấy khơng cịn phù hợp với mình nữa họ sẽ tự nguyện
rút lui, điều đó thể hiện rõ lịng tự trọng, ý thức vì tập thể, vì cộng đồng, thể hiện
tinh thần trách nhiệm đối với sự phát triển chung. Khơng để vì quyền lợi của bản
thân mình mà làm ảnh hưởng tiêu cực đến tiến trình phát triển của đất nước.
Như vậy, văn hóa từ chức trong nền chính trị có vai trị hết sức to lớn đối với sự
phát triển của một đất nước. Nó làm trong sạch bộ máy, làm nâng cao uy tín,
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, từ đó đáp ứng được mọi yêu cầu,
nhiệm vụ đặt ra trong thực tiễn, đưa đất nước phát triển theo đà tiến lên, đồng
16


thời nó thể hiện rõ ràng ý thức và tinh thần trách nhiệm cao của các chính khách
đối với vận mệnh của đất nước.

17


Chương 3
ĐI TÌM NHỮNG GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ TIÊU CỰC CỦA VĂN HÓA
TỪ CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Vấn đề tiêu cực về từ chức ở Việt Nam
Chức tước thường đi đôi với quyền lực, thường gắn với lợi ích, bổng lộc,
đặc quyền, đặc lợi. Nếu từ chức có nghĩa sẽ khơng cịn gì cả.
Học để “làm quan” đã ăn sâu, bén rễ trong tâm thức người Việt và vì thế truyền
thống coi “làm quan” là một sự thành đạt cao nhất.

Dư luận xã hội chưa được định hướng để đồng tình hay ủng hộ việc tự
nguyện từ chức. Nếu ai đó là đảng viên thì viện dẫn đây là nhiệm vụ Đảng giao,
nếu từ chức lại coi là khơng có tinh thần đảng viên, phai nhạt lý tưởng, giảm sút
ý chí chiến đấu…, từ chức là để trốn tránh trách nhiệm, để thoát tội, để hạ cánh
cho an toàn…
Rõ ràng, quyền lực thể chế nào cũng liên quan tới lợi ích cá nhân. Một khi
động cơ lợi ích cá nhân lớn đến mức nhà tư sản “sẵn sàng treo cổ khi lợi nhuận
tới 300% - Các Mác”, thì người có quyền, có chức càng khơng thể dễ dàng từ bỏ
nó, nếu quyền lực chính là phương tiện có thể “vinh thân, phì gia”.
Văn hóa từ chức là một dạng văn hóa cá nhân của những người có chức,
có quyền. Họ được cơ quan, tổ chức và xã hội tơn trọng khi ở họ có nhân cách
đạo đức, biết lãnh đạo bằng tấm gương. Nếu khơng có nhân cách và gương mẫu
thì khơng thể thuyết phục được mọi người. Để có văn hóa từ chức theo tơi cần:
Phải có hệ thống pháp luật quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của từng vị trí,
nhất là đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý. Xây dựng các quy định về từ
chức của cán bộ, công chức phải dựa trên nền tảng cải cách, xây dựng được quy
chế công chức thật chuẩn về tiêu chuẩn của từng chức vụ, từng vị trí cơng tác.
Đẩy mạnh tun truyền trong xã hội về văn hóa từ chức; nên khuyến
khích sự tự nguyện từ chức và đánh giá cao những người có đủ dũng khí, lịng tự

18


trọng, biết liêm sỉ tự nguyện từ chức, đồng thời định hướng dư luận xã hội cũng
không nên nặng nề đối với những người tự nguyện từ chức.
3.2. Những giải pháp cho tình trạng tiêu cực của văn hóa ở Việt Nam
hiện nay
3.2.1. Xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy chế lấy phiếu tín nhiệm,
bỏ phiếu tín nhiệm đối với cán bộ
Ở Việt Nam vấn đề lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đã được xây

dựng và sắp tới sẽ đi vào thực hiện. Với Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ
phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân
dân bầu hoặc phê chuẩn này sẽ đặt nền móng cho văn hóa từ chức được hình
thành, thực hiện và trở nên phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện tốt
những nội dung trong Nghị quyết này chúng ta cần phải học hỏi cách thức, bước
đi của các nước đi trước, trong đó có Nhật Bản để tránh những thiếu sót, sai lầm
có thể mắc phải và chọn lọc, áp dụng những điều phù hợp với mình; đồng thời
địi hỏi mỗi cán bộ, công chức và mọi người dân phải thực sự hiểu đúng, hiểu
sâu sắc ý nghĩa, mục đích của nó. Việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm
các chức danh khơng chỉ là sàng lọc chất lượng cán bộ mà còn phát huy quyền
dân chủ của người dân thơng qua cơ quan đại diện của mình, để thăm dị mức độ
tín nhiệm của những người mà nhân dân đã tin tưởng giao phó xem họ đã thực
sự làm hết trách nhiệm của mình, có xứng đáng với lịng tin của nhân dân
khơng. Việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm phải được tiến hành theo một quy
trình nhất định, phải thật sự nghiêm túc, minh bạch, kết quả tín nhiệm phải được
cơng khai để mọi người dân đều được biết. Thơng qua kết quả đó, người cán bộ
sẽ biết được mình đứng ở vị trí nào trong mắt người dân, từ đó có cách ứng xử
phù hợp với chức vị của mình một cách có văn hóa. Ở nước ta, muốn thực hiện
được văn hóa từ chức cần phải có chế độ trách nhiệm cá nhân rõ ràng, phải quy
định rõ tiêu chuẩn từng chức danh để chấm dứt hiện tượng có cơng thì nhận về
cá nhân, có lỗi thì đổ cho tập thể. Như vậy, các quan chức mới nhận thức rõ và
19


làm đúng với chức trách của mình, có cơng được hưởng, có lỗi phải phạt. Để
làm cho nền chính trị nước ta khơng cịn tồn tại những phần tử làm quan chỉ để
mưu lợi cá nhân, tham quyền cố vị, trở thành lực cản kéo lùi và bóp nghẹt mọi
sự sáng tạo, mọi sự phát triển của đất nước.
3.2.2. Xây dựng một nền chính trị tinh hoa, thể hiện trách nhiệm đối
với đất nước và nhân dân

Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhằm
xây dựng một nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của dân, do
dân, vì dân; tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh. Nền chính trị nước ta thể hiện rõ bản chất dân chủ, mọi hoạt động của nền
chính trị đều nhằm thực hiện mục đích trên, tất cả đều hường về nhân dân. Và để
thực hiện được điều đó, địi hỏi chúng ta phải xây dựng một nền chính trị tinh
hoa, thể hiện trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán
bộ, cơng chức, đặc biệt là những cán bộ lãnh đạo cấp cao có vai trị chi phối,
quyết định đến thành bại của mọi vấn đề. Chính vì vậy, việc xây dựng đội ngũ
những nhà lãnh đạo vừa có đức, vừa có tài, hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ
đất nước là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện thắng lợi mọi mục
tiêu phát triển. Chúng ta cần phải tuyển chọn những cán bộ theo đúng như lời
Bác Hồ dạy, phải thực sự là “công bộc” của dân, phải “vui trước thiên hạ, lo sau
thiên hạ”, làm đúng, làm tốt mọi trách nhiệm, mọi nhiệm vụ được nhân dân giao
phó; phải thanh lọc cán bộ một cách nghiêm túc, phải thực hiện tốt văn hóa từ
chức để hệ thống chính trị nước ta ln trong sạch, hoạt động hiệu quả, đáp ứng
được mọi yêu cầu thực tiễn đặt ra, đưa đất nước phát triển mạnh và bền vững.
3.2.3. Nâng cao tinh thần tập thể, vì lợi ích chung
Tinh thần tập thể là thái độ, cách ứng xử, hành động luôn hướng về số
đông, hướng về cộng đồng, về quần chúng nhân dân, ln vì lợi ích chung. Nó
trái ngược với chủ nghĩa cá nhân. Người cán bộ cách mạng ở mọi thời kì cần
phải thấm nhuần tinh thần tập thể, vì cái chung, có như vậy mới họ hết lòng hết
20


sức phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân, thực hiện hết trọng trách của
mình, khơng màng tư lợi cá nhân. Cần phải giáo dục một cách thực sự, một cách
triệt để tinh thần này đối với đội ngũ những nhà lãnh đạo, nhất là những nhà
lãnh đạo cấp cao, để họ được giác ngộ, được nhận thức sâu sắc, từ đó làm gương
cho cấp dưới noi theo. Vì có tinh thần tập thể nên khi thấy bản thân khơng cịn

phù hợp, khơng cịn đủ năng lực để cống hiến vì sự nghiệp chung, lợi ích chung,
làm ảnh hưởng xấu đến cộng đồng thì họ sẵn sàng từ bỏ chức vị của mình để
nhường chỗ cho người khác lên thay, với mong mỏi người kế thừa mình sẽ làm
tốt hơn mình, sẽ tận tâm tận lực phục vụ đất nước phục vụ nhân dân. Họ nhận
thức được rằng giữ chức hay từ chức cũng chỉ vì một mục đích là làm tốt công
việc của dân, của nước.
3.2.4. Đẩy mạnh việc chống quan liêu, tham nhũng trong hệ thống
chính trị
Quan liêu, tham nhũng là những căn bệnh phổ biến của hệ thống chính trị
nói chung và đặc biệt là bộ máy nhà nước nói riêng. Nó là một trong những
nguy cơ làm tan rã chế độ chính trị của một nước. Vì quan liêu, tham nhũng mà
các quan chức trong hệ thống chính trị cố bám lấy vị trí của mình để hịng mưu
lợi riêng, làm thất thốt, tổn hại đến tiền của của dân, của nước. Chính vì thế mà
văn hóa từ chức khơng được thực hiện, dù trong trường hợp nào cũng không
chịu dời ghế để nhường cho người khác, điều này kéo lùi sự phát triển của đất
nước. Đảng, Nhà nước ta đã xếp quan liêu, tham nhũng vào một trong bốn nguy
cơ có thể đe dọa đến sự tồn vong của dân tộc ta, nó cho thấy mức độ nguy hiểm
của căn bệnh này đối với sự phát triển của đất nước. Lúc sinh thời chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ, quan liêu, tham nhũng có nguồn gốc từ chủ nghĩa cá nhân.
Khi hệ thống luật pháp còn chưa đồng bộ, còn nhiều kẽ hở, việc thi hành pháp
luật còn chưa nghiêm, chưa đảm bảo được tính giáo dục, răn đe và khi những
khuyết điểm, yếu kém trong bộ máy còn chậm được khắc phục thì đó chính là
điều kiện, là cơ hội để cho những kẻ chủ nghĩa cá nhân lợi dụng và phát triển, nó
21


hiển hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau, trong đó nổi cộm nhất là nạn tham
nhũng - căn bệnh mà Đảng ta coi là quốc nạn. Chúng ta cần phải kiên quyết đấu
tranh chống lại và đẩy lùi nó bằng những biện pháp mạnh mẽ, như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kì kẻ

ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Và mới đây, theo tinh thần Nghị quyết trung
ương 4 khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay thì chúng
ta phải kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ lãnh đạo, quản lí các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Tệ quan liêu, tham
nhũng là những biểu hiện rõ ràng nhất của sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên. Để đấu tranh chống lại nó địi hỏi phải có sự chung
tay, góp sức của tồn Đảng, tồn dân ta khơng loại trừ một ai, để nhằm xây dựng
Đảng ta và cả hệ thống chính trị nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, góp
phần to lớn vào sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta, đưa nước ta vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

22


KẾT LUẬN
Ở Việt Nam hiện nay có thể nói là chưa có văn hóa từ chức, vấn đề này
mới đang được Đảng và nhà nước đề cập đến và bắt đầu được xây dựng. Văn
hóa từ chức là một nét văn hóa rất riêng có nhiều những ưu điểm cần phải nhân
rộng ra tồn xã hội, ra hệ thống chính trị nhằm nâng cao trách nhiệm của bộ
phận cán bộ, công chức nhà nước, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của hệ thống
các nhà lãnh đạo dù ở lĩnh vực nào trong xã hội, trong bộ máy chính trị. Hiện
tượng xin tự từ chức ở Việt Nam hiện nay không xuất phát từ mục đích văn hóa,
khơng phải là vì họ xin tự từ chức là do thấy mình khơng đủ năng lực, đạo đức
để nắm giữa cương vị mà họ đang đảm nhận mà là việc xin tự thôi chức vụ của
mình đang giữ để có thể đùn đẩy trách nhiệm khó khăn sang bên người khác
hoặc chốn tránh những hệ lụy từ những việc đã làm sai của mình trong thời gian
đang đương chức.
Ở Việt Nam để hình thành và thực hiện được văn hóa từ chức một cách

thực sự cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước. Chúng ta phải xây
dựng và thực hiện tốt quy chế về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với
cán bộ; phải xây dựng một nền chính trị tinh hoa, thể hiện trách nhiệm đối với
nhân dân; phải nâng cao tinh thần tập thể, vì lợi ích chung cho đội ngũ cán bộ,
công chức; và đặc biệt là đẩy mạnh việc chống quan liêu, tham nhũng trong hệ
thống chính trị. Có như vậy, văn hóa từ chức mới thực sự được hình thành và
thực hiện ở nước ta, để nhằm xây dựng một nền chính trị thật trong sạch, hiệu
quả, đáp ứng được mọi yêu cầu thực tiễn đặt ra, đưa nước ta ngày càng phát
triển, tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mỗi
người trong chúng ta cần phải có nhận thức đúng đắn và sâu sắc về vấn đề này
để văn hóa từ chức trở thành chuyện bình thường trong đời sống xã hội và được
đông đảo nhân dân đón nhận theo hướng tích cực nhất.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại Việt Sử ký Toàn thư, Nxb Thời đại, 2013.
2. PGS. TS Lưu Văn An, GS.TS Dương Xuân Ngọc: Hỏi và đáp những
vấn đề cơ bản của Chính trị học, Nxb Chính trị hành chính, 2012.
3. Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội: Kể chuyện ngàn xưa Thăng Long –
Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2010.
4. Quyền Duy: Văn hóa từ chức, Tạp chí Cộng sản điện tử, 18/1/2013.
5. PGS. TS Lương Khắc Hiếu (chủ biên): Ngun lý Cơng tác tư tưởng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008.
6. Khoa Chính trị học, Học viện Báo chí - Tuyên truyền, Thể chế chính trị
thế giới đương đại, Nxb Chính trị - hành chính.
7. Khoa văn hóa học, học viện Báo chí – Tun truyền, Cơ sở văn hóa
Việt Nam, Nxb Chính trị - hành chính.
8. WWW.TAPCHIDANGCONGSAN.ORG.VN.


24


MỤC LỤC
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6. Kết cấu của đề tài
Nội dung
Chương 1: Một số vấn đề chung về văn hóa từ chức trong nền chính trị
Việt Nam
1.1. Văn hóa chính trị
1.2. Khái niệm văn hóa từ chức
1.3. Nền chính trị của Việt Nam và sự ra đời của văn hóa từ chức
Chương 2: Sự tác động của văn hóa từ chức đối với nền chính trị Việt
Nam
2.1. Thực trạng văn hóa từ chức trong nền chính trị Việt Nam hiện nay
2.2. Tác động của văn hóa từ chức đối với kinh tế - văn hóa – chính trị
Việt Nam
Chương 3: Đi tìm những giải pháp cho vấn đề tiêu cực của văn hóa từ
chức ở Việt Nam hiện nay
3.1. Vấn đề tiêu cực về từ chức ở Việt Nam
3.2. Những giải pháp cho tình trạng tiêu cực của văn hóa ở Việt Nam
hiện nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


25

Trang
1
1
2
2
3
3
3
4
4
4
5
8
13
13
14
18
18
19
23
24


×