Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Chu mạnh trinh trong đời sống văn hóa và văn học việt nam những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.74 KB, 15 trang )

Chu Mạnh Trinh trong đời sống văn hóa và
văn học Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX



Nguyễn Thị Phƣợng


Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn ThS. ngành: Văn học Việt Nam; Mã số: 60 22 34
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Trần Hải Yến
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Khái quát về Tiểu sử và giai thoại của tác giả Chu Mạnh Trinh. Nghiên
cứu về những trƣớc tác văn chƣơng của Chu Mạnh Trinh. Làm sáng tỏ vị trí Chu
Mạnh Trinh trong lịch sử văn học.

Keywords. Văn học Việt Nam; Phê bình văn học

Content
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đƣơng thời, Chu Mạnh Trinh là một bậc danh sĩ nổi tiếng đủ ngón tài: cầm, kì, thi, hoạ.
Nhƣng ông cũng nhƣ các nhân vật sống ở thời kì “nhạy cảm” của lịch sử, có liên quan đến
những vấn đề thuộc vùng “tranh chấp” của những giá trị tƣ tƣởng, văn hoá, tập tục, đã từng bị
đánh giá chƣa đầy đủ hoặc lệch lạc.
Chu Mạnh Trinh chủ yếu đƣợc biết đến trong tƣ cách là một nhà nho tài tử với thể loại
hát nói và là tác giả của giải nhất thơ Nôm cuộc thi vịnh Kiều (1905). Nhƣng theo nguồn tƣ
liệu Hán Nôm trƣớc tác của Chu Mạnh Trinh còn nằm ở nhiều thể loại, đề tài khác nữa. Đặc


biệt là tập thơ chữ Hán Trúc Vân thi tập, đây là tập thơ mà hầu nhƣ chỉ đƣợc nghe tên chứ ít
ngƣời đƣợc tiếp xúc.
Đấy là lí do cơ bản nhất để chúng tôi lựa chọn, nghiên cứu đề tài “Chu Mạnh Trinh
trong đời sống văn hoá văn học Việt Nam những thập niên cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”
2. Lịch sử vấn đề Chu Mạnh Trinh
Lịch sử giới thiệu trước tác Chu Mạnh Trinh
Nam Phong tạp chí (số 8 tháng 2 năm 1918) đăng tải bài hát nói Hương Sơn. Đây là nơi
công bố đầu tiên tác phẩm của Chu Mạnh Trinh. Tiếp theo là Chu Mạnh Trinh của Trúc Khê
và Tiên Đàm (năm 1942) giới thiệu Thanh Tâm Tài Nhân thi tập có dịch nghĩa bài tựa, bài
hát nói Hương Sơn phong cảnh, Thuý Kiều oan trái, Thuý Kiều lưu lạc, Hương Sơn hành
trình, Hương Sơn nhật trình, Quá Cổ Loa yết Mỵ Châu đề bích.
Lê Văn Ba là tác giả của hai cuốn sách Nhà thơ Chu Mạnh Trinh (1862 – 1905) và Chu
Mạnh Trinh thơ và giai thoại (1996) tuy tên sách khác nhau nhƣng thực tế nội dung la
̀

̣
t .
So với cuốn của Trúc Khê và Tiên Đàm thì cuốn cuốn sách của Lê Văn Ba có thêm một số
bài nhƣ: Hàm Tử quan hoài cổ, Khiêu Ngưu Chúc Nữ ca và Văn bia đền chính Đa Hoà, đến
nay đây là tác phẩm giới thiệu đầy đủ nhất về thơ văn của Chu Mạnh Trinh.
Dựa trên những văn bản này, thơ văn Chu Mạnh Trinh đƣợc tuyển lựa đƣa vào chƣơng
trình giảng dạy phổ thông hay sách dành cho lứa tuổi thiếu nhi nhƣ: sách Ngữ văn 11 ban cơ
bản và ban nâng cao với bài hát nói Hương Sơn phong cảnh ca và cuốn Thơ Chu Mạnh
Trinh: thơ với tuổi thơ.
2.2. Lịch sử nghiên cứu Chu Mạnh Trinh
2.2.1. Các sách, báo, tạp chí
Cho đến nay việc tìm hiểu Chu Mạnh Trinh không thật có bề dày và đi theo hai khuynh
hƣớng chính: phẩm bình và nhìn nhận chung về cuộc đời, sự nghiệp của ông. Khuynh hƣớng
thứ nhất, tiêu biểu có bài viết của Tô Nam “Nhai thoại về một câu đối tết” trên Tạp san Văn
Sử Địa (số 5 tháng 1,2,3 năm 1967), và phần viết của Phạm Văn Diêu “Chu Mạnh Trinh”

trong sách Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Mạnh Trinh, Phan Bội Châu do Vũ Tiến Quỳnh (sƣu
tầm, tuyển chọn, 1991). Khuynh hƣớng thứ hai có cuốn Chu Mạnh Trinh. Trúc Khê và Tiên
Đàm có lƣợc thuật về gia thế, hoạn lộ và có những lời bình về con ngƣời Chu Mạnh trinh
“nhà thơ lãng mạn, đắm say với cảnh vật”. Viết kĩ nhất là cuốn của Lê Văn Ba, tác giả đã xây
dựng lại chân dung nhà thơ khá chân thực và sinh động. Cuốn sách viết theo lối pha trộn giai
thoại, sử liệu cảm bình và ít nhiều mang phong cách cá nhân hơn là một chuyên luận nghiên
cứu.
Có thể thấy các tác giả nói trên tiếp cận Chu Mạnh Trinh và thơ văn của ông trên tinh
thần mến mộ không bị chi phối bởi quan điểm chính trị nên thái độ là sự ngƣỡng mộ tài năng
đi liền với đó là thƣơ
̉
ng ngoạn, ca ngợi.
2.2.2. Các bộ văn học sử
- Thời kì từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945
Ngƣời viết sớm nhất là Dƣơng Quảng Hàm với Việt Nam Văn học sử yếu, ông có lời nhận
xét về con ngƣời và nghệ thuật của nhà thơ “ông tỏ ra là một bậc tài tình phong nhã, lời thơ
rất êm đềm bay bổng”.
- Thời kì 1945 - 1975
Ở Miền Bắc, cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam là điển hình cho xu hƣớng hạ bệ thơ
ca Chu Mạnh Trinh. Nhóm các tác giả này đã rất nặng lời với Chu Mạnh Trinh cho rằng ông
“ích kỉ”, “hời hợt” và so sánh bộ tác phẩm tiêu biểu nhất của Chu Mạnh Trinh là Thanh Tâm
Tài Nhân thi tập với Truyện Kiều của Nguyễn Du để chỉ ra thơ văn Chu Mạnh Trinh mất hết
“sắc thái tinh vi” ở Truyện Kiều.
Cũng ở Miền Bắc nhƣng nhóm Lê Quý Đôn lại có một cách nhìn nhận khác. Cuốn Lược
thảo lịch sử văn học Việt Nam, Tập 3: “Từ giữa thế kỉ XIX đến 1945” đã ca ngợi Chu Mạnh
Trinh là một nhà thơ lãng mạn yêu cảnh, và đắm say với Thu
́
y Ki ều đồng thời đặt nhà thơ
vào khuynh hƣớng lãng mạn thoát li.
Ở khu vực Miền Nam, hai bộ lịch sử văn học là Bảng lược đồ văn học và Việt Nam văn

học sử giản ước tân biên đều thống nhất khi đánh giá về Chu Mạnh Trinh. Bảng lược đồ văn
học quyển 3 “Thế hệ cho nền văn học mới (1862–1945) của Thanh Lãng đã xếp Chu Mạnh
Trinh vào nhóm tác giả lãng mạn và yếm thế. Còn cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên – văn học hiện đại 1862–1945 của Phạm Thế Ngũ tán thƣởng tài năng Chu Mạnh Trinh
và xếp ông vào thế hệ nho sĩ lãng mạn thời vong quốc.
- Giai đoạn sau năm 1975
Chu Mạnh Trinh luôn xuất hiện tên trong các trang sách văn học sử nhƣng mức độ nghiên
cứu đã bị hạn chế so với trƣớc. Ông chỉ đƣợc nhắc tên bên cạnh Dƣơng Lâm, Dƣơng Khuê -
những cái tên điển hình cho khuynh hƣớng hƣởng lạc thoát li nhƣ một số cuốn sách: Lịch sử
văn học Việt Nam, Tập 4A “Văn học viết thời kì II giai đoạn thứ nhất (1858-đầu thế kỉ XX),
hoặc Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX của Nguyễn Lộc (1997).
Ngoài ra vấn đề Chu Mạnh Trinh còn xuất hiện ở các sách dùng trong nhà trƣờng sau cải
cách, sau thời kì đổi mới. Đó là Sách giáo viên ngữ văn 11 ban cơ bản và ban nâng cao, Thiết
kế giáo án ngữ văn 11 tập 1 ban cơ bản và ban nâng cao, Phân tích bình giảng tác phẩm văn
học 11 (1998), Chu Mạnh Trinh, Trần Tế Xương của Vũ Dƣơng Quý (tuyển chọn và biên
soạn, 2002)…
Nhƣ vậy cho đến nay chƣa có tài liệu nghiên cứu nào thực sự chuyên sâu về Chu Mạnh
Trinh tất cả chỉ dừng lại ở giới thiệu một số trƣớc tác, tiểu sử và đánh giá vắn tắt về giá trị thơ
văn ông.
3. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là tìm hiểu đầy đủ di sản và những đóng góp của Chu Mạnh Trinh
trong bối cảnh văn hóa văn học những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Chúng tôi tái hiện lại sự nghiệp Chu Mạnh Trinh và đặt trong những năm tháng cụ thể để
cố gắng định vị lại nhân vật này trong lịch sử văn học.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu từ cuộc đời đến sự nghiệp của Chu Mạnh Trinh và có sự đối chiếu
với bối cảnh văn hoá văn học đƣơng thời, tuy nhiên cũng lựa chọn tiêu điểm là tìm hiểu trƣớc
tác văn chƣơng của ông, bao gồm cả những tài liệu chƣa đƣợc chính thức xuất bản.
5. Phương pháp nghiên cứu
Xuyên suốt luận văn là phƣơng pháp nghiên cứu văn học sử và các thao tác cụ thể là

phƣơng pháp phân tích, đối sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn dựng lại một chân dung đầy đủ về Chu Mạnh Trinh từ cuộc đời, hoạn lộ, đến
những di sản ông để lại. Và luận văn đánh giá giá trị thơ văn ông trong khung cảnh lịch sử
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
7. Kết cấu của luận văn
A. Mở đầu
B. Nội dung: kết cấu thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Chu Mạnh Trinh - Tiểu sử và giai thoại
Chƣơng 2: Trƣớc tác văn chƣơng của Chu Mạnh Trinh
Chƣơng 3: Chu Mạnh Trinh trong lịch sử văn học
C. Kết luận
Ngoài ra luận văn còn có phần Thƣ mục tham khảo và Phụ lục

B. NỘI DUNG

CHƢƠNG 1:
CHU MẠNH TRINH - TIỂU SỬ VÀ GIAI THOẠI
1.1. Xã hội Bắc Kì những năm cuối thế kỉ XIX
Năm 1884 triều đình kí với Pháp hiệp ƣớc Patenôtre, từ đây Việt Nam chính thức trở
thành xứ sở thuộc địa. Giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX đƣợc xem là chính thức bắt đầu một bi
kịch dân tộc.
Ở Bắc Kì, trên danh triều đình Huế còn quyền hành nhƣng trên thực tế mọi việc do ngƣời
Pháp điều khiển. Toàn bộ Bắc Kì do phủ Thống sứ quản lí đứng đầu là viên Thống sứ. Ở bộ
máy chính quyền thuộc địa, quan chức từ cấp tỉnh trở lên đến Toàn quyền Đông Dƣơng đều
do ngƣời Pháp nắm giữ. Tất cả quyền lực trong một tỉnh đều do viên Công sứ Pháp thâu tóm.
Theo điều 7 của hiệp ƣớc Patenôtre thì các quan chức Nam triều vẫn tiếp tục cai trị nhƣ cũ
nhƣng khi Pháp yêu cầu cách chức viên quan nào thì triều đình phải theo. Nhƣ vậy Pháp đã
bắt đầu thao túng toàn bộ triều đình và can thiệp vào việc cai trị dân sự ở Việt Nam.
Về kinh tế, do ảnh hƣởng từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, từ năm 1897 khiến nền

kinh tế Bắc Kì biến đổi sâu sắc trong đó xuất hiện nhiều đô thị mang diện mạo mới nhƣ: Hà
Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai,…
Về giáo dục, năm 1886 trƣờng Pháp Việt đầu tiên ở Bắc Kì đƣợc thiết lập. Trƣờng học
theo lối cũ vẫn tiếp tục tồn tại và đƣa vào hệ thống trƣờng công đặt dƣới sự giám sát của Sở
Học chính Bắc Kì. Đồng thời các kì thi Nho giáo cũng đƣợc cải cách, bổ sung thêm chữ Quốc
ngữ, chữ Pháp và một số môn khoa học khác.
1.2. Thân thế Chu Mạnh Trinh
Chu Mạnh Trinh sinh năm Nhâm Tuất niên hiệu Tự Đức thứ 15 (1862), tự Cán Thần,
hiệu Trúc Vân.
Làng Phú Thị, tổng Mễ Sở (nay là huyện Văn Giang tỉnh Hƣng Yên), quê Chu Mạnh
Trinh, vốn nổi tiếng là nơi địa linh nhân kiệt. Từ thế kỉ VI, năm 548 Triệu Quang Phục đã
biến nơi đây thành nơi tập kích đánh giặc và chém đƣợc tƣớng Dƣơng Sàn. Đến thế kỉ XIII
tổng Mễ Sở vừa là hậu phƣơng vừa là tiền tuyến đánh giặc Nguyên Mông. Cuối thế kỉ XIX
Phú Thị cũng là một trong những trung tâm kháng chiến chống Pháp.
Không chỉ thế nơi đây còn là vùng đất văn hiến có truyền thống hiếu học, có nhiều nhà
khoa bảng, nhà văn hoá lỗi lạc.
Huyện Văn Giang cách Hà Nội chừng 20 km lại có con sông lớn nhất Bắc Kì chảy qua
tạo điều kiện cho sự giao thoa văn hoá vùng miền thuật lợi.
Về dòng dõi, tiên thế của Chu Mạnh Trinh theo nghiệp nông, đến đời phụ thân mới thi đỗ
cử nhân làm quan đến Ngự sử. Thân phụ ông là Chu Duy Tĩnh theo truyền ngôn rất đƣợc
nhân dân yêu mến, bạn bè quý trọng. Chu Mạnh Trinh lên 6 tuổi thân phụ đã nại cớ đau mắt,
xin cáo quan về nhà để chuyên tâm dạy con. Vậy là Chu Mạnh Trinh đã đƣợc tiếp nhận kho
tri thức Hán học, từ trong gia đình, ngay từ tuổi nhỏ.
1.3. Con đường hoạn lộ của Chu Mạnh Trinh
Sau thời gian đƣợc cha dạy đạo, dạy chữ, Chu Mạnh Trinh đƣợc thân phụ gửi cho một
ngƣời bạn là phó bảng Phạm Hy Lƣợng, với quan niệm “Dịch tử nhi giáo”.
Năm Canh Thìn (1880) Chu Mạnh Trinh 19 tuổi dự thi Hƣơng đỗ Tú tài. Năm Bính Tuất
niên hiệu Đồng Khánh thứ 3 (1886) ông đỗ Giải nguyên tại trƣờng thi Nam Định. Năm Nhâm
Tuất niên hiệu Thành Thái thứ 4 (1892) dự thi Hội, thi Đình. Trong bảng đệ tam giáp đồng
tiến sĩ, Chu Mạnh Trinh đứng tên thứ 3.

Năm Quý Tị niên hiệu Thành Thái thứ 5 (1893) sau khi đỗ đại khoa, Chu Mạnh Trinh
đƣợc bổ Tri phủ Lí Nhân tỉnh Hà Nam. Nhậm chức đƣợc 3 tháng thì thân phụ mất, ông về cƣ
tang cha. Những năm làm quan sau đó của Chu Mạnh Trinh có nhiều điểm chƣa thống nhất.
Theo cuốn Chu Mạnh Trinh của Trúc Khê và Tiên Đàm thì ông từng làm Tri phủ Lí Nhân,
Án sát sứ tỉnh Hƣng Yên, rồi sau trải làm Án sát tỉnh Hà Nam, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Còn
trong cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam đã dẫn nguồn tài liệu từ Quốc triều khoa bảng
quyển III tờ 15a của Cao Xuân Dục lại nói: ông làm Tri phủ Lí Nhân, rồi thăng Án sát Thái
Nguyên, Án sát Hƣng Yên. Tác giả Lê Văn Ba trong cuốn Chu Mạnh Trinh thơ và giai thoại
có nghi vấn về nguồn gốc sử liệu mà Trúc Khê đƣa ra. Trong Trúc Vân thi tập có nhiều bài
thơ cho thấy Chu Mạnh Trinh từng đi qua nhiều địa danh: vừa đi chơi, vừa đến vì việc công
cũng vừa là nơi trị nhậm trong đó có tỉnh Bắc Ninh. Nhƣ vậy Chu Mạnh Trinh đã làm quan ở
nhiều nơi nhƣ Trúc Khê và Tiên Đàm từng viết. Tuy nhiên, dù làm quan ở nơi nào ông cũng
không mẫn cán và luôn cảm thấy mình là ngƣời “sinh bất phùng thời”. Quan Án không thiết
tha tới việc triều chính mà chỉ thích thơ từ, xƣớng hoạ, và vãn cảnh chùa. Ông bị thiên hạ chì
chiết, miệt thị và gắn cho cái tên còn hơn cả tiện dân “Đĩ Trinh”
Về thái độ chính trị của Chu Mạnh Trinh có nhiều điểm cần bàn, để trả lại công bằng cho
ông. Nhiều tài liệu chỉ trích qua
̃
ng thơ
̀
i gian ông là m cho tờ Đại Nam đồng văn nhật báo,
đánh giá ông “không quan tâm gì đến vấn đề thời sự”. Chúng tôi chia sẻ với cách nhìn của Lê
Văn Ba không nên nhìn vấn đề một cách cứng nhắc. Ông làm quan nhƣng không muốn làm
tay sai cho Pháp. Và với bản tính yếu đuối, nhà thơ chỉ có thể chốn chạy vào thƣởng ngoạn
và thú vui sáng t ạo nghệ thuật. Câu chuyện đánh tháo tù chính trị chứng tỏ trạng thái “dùng
dằng”của ông: không đủ bản lĩnh đối mặt vơi thực dân nhƣng cũng không thiếu lƣơng tri
trƣớc những ngƣời dám xả thân thủ nghĩa.
Sau một thập niên làm quan “vô vị”, lƣu chuyển nhiều năm, năm Giáp Ngọ (1903) Chu
Mạnh Trinh cáo quan về dƣỡng bệnh, kết thúc cuộc đời làm quan Án sát tẻ nhạt và lắm tai
tiếng.

Ngày 28 tháng 7 năm 1905 ông mất, hƣởng thọ 43 tuổi.
Có thể nói hoạn lộ của Chu Mạnh Trinh tƣơng đối bằng phẳng. Xuất tráng vào tuổi vừa
đủ độ chín chắn, làm quan không có gì sóng gió. Ông đƣợc xếp vào dạng quan lại tuỳ thời,
luôn sống theo bản ngã cá nhân.
1.4. Di sản của Chu Mạnh Trinh
1.4.1. Âm nhạc
Chu Mạnh Trinh là ngƣời nổi tiếng trong giới sành về ca trù những năm cuối thế kỉ XIX.
Ông yêu và say mê ca trù, và là tác giả của một số bài hát nói. Ông sành chơi các loại đàn,
đặc biệt là đàn thập lục, sành ca trù tới mức đƣợc tôn sùng là “thần chầu”. Riêng đàn thập lục,
tƣơng truyền những ngón tay ông vừa chạm vào đã khiến ngƣời nghe mê mẩn. Trên chiếu hát
ông vào vai một quan viên, vừa thƣởng thức tiếng hát, tiếng đàn vừa là ngƣời thẩm âm để có
thể điểm trống thƣởng.
1.4.2. Hội ho
̣
a
Theo tƣ liệu sƣu tầm của Lê Văn Ba, Chu Mạnh Trinh vẽ giỏi, viết đẹp. Trong thƣ phòng
của Chu Mạnh Trinh có những bức ho
̣
a mĩ nhân, trong đó có cô Kiều, mà không mấy ai biết.
Về thƣ pháp, Chu Mạnh Trinh viết đƣợc nhiều kiểu chữ khác nhau, ông có nhiều bức ho
̣
a tứ
thời tứ quý, tự tay vẽ bức hoành phi treo trong chùa, viết câu đối trong gia thất.
1.4.3. Kiến trúc
Khi còn đƣơng chức Chu Mạnh Trinh đã xây dựng và tu tạo một số công trình. Điểm
chung của các công trình đều xuất phát từ quan niệm về cái đẹp “văn hoá” của ngƣời Việt.
Cái đẹp hài ho
̀
a thể hiện ở xinh và khéo. Các công trinh mang tính chất nghi lễ nhƣ đền, chùa
cũng không tráng lệ, huy hoàng, không huyền ảo, kì vĩ, mà nhấn mạnh vào màu sắc bình

đạm, thanh nhã. Điểm nhấn luôn coi trọng thế đất. ƣa chuộng sự kín đáo. Theo các nhà
chuyên môn, những công trình ấy đều có sự dung hợp của văn ho
́
a Phật giáo và văn ho
́
a Nho
giáo đã đƣợc sàng lọc thành bản sắc của ngƣời Việt, tiêu biểu là 3 công trình: ngôi nhà Chu
Mạnh Trinh có từ thời thân phụ làm quan Ngự sử; ông vẽ kiểu, xây dựng chùa Thiên Trù; xây
dựng và tu tạo đền Chính Đa Hoà, đền Hoá. Ba công trình này hiện nay vẫn còn giữ đƣợc hai
đền và một chùa Thiên Trù. Những công trình này hiện vẫn còn lƣu bút tích của Chu Mạnh
Trinh; đặc biệt tại đền Đa Hoà, nhân dân dành một điện thờ ông với vị thế là thần hộ đền.
1.4.4. Văn học
Sinh thời Chu Mạnh Trinh vốn nổi tiếng là ngƣời yêu văn chƣơng, giỏi thơ từ ông để lại
khá nhiều tác phẩm trong đó lớn nhất là Trúc Vân Thi tập lên đến hàng trăm bài và đặc biệt
nổi tiếng với Thanh Tâm Tài Nhân thi tập và bài hát nói Hương Sơn phong cảnh. Cuộc đời
ông luôn sống nghiêm cẩn và say sƣa với sáng tạo nghệ thuật, luôn sống để khẳng định “quý
thích chí”.
Tiểu kết
Cuộc đời hoạn lộ Chu Mạnh Trinh nằm trọn trong những năm tháng “nhạy cảm” của lịch
sử kể từ khi Pháp xâm lƣợc. Hoạn lộ của ông khá suôn sẻ. Ông là ngƣời nhập cuộc nhƣng
không nhiệt tâm với chức vị, vì thế luôn bị dị nghị và để lại rất ít công trạng trên quan trƣờng.
Song ông là ngƣời đa tài và để lại mô
̣
t di sản đa dạng về âm nhạc, hội ho
̣
a, kiến trúc đặc biệt
là văn học.


CHƢƠNG 2:

TRƢỚC TÁC VĂN CHƢƠNG CỦA CHU MẠNH TRINH

Số lƣợng tác phẩm Chu Mạnh Trinh đóng góp cho nền văn học là khá nhiều chỉ riêng
những tác phẩm mà chúng tôi sƣu tầm đƣợc đã là gần 200 bài, phân bố ở nhiều thể loại và với
phạm vi đề tài rộng, phong phú.
Đề tài bao gồm: Vịnh sử, Vịnh cảnh, Bằng hữu – thù tạc, Ngƣời đào hát, Bình-vịnh Kiều,
Đề vịnh, Cảm sự, Cảm hoài, Khuê phòng, Vô đề.
Thể loại gồm: Biền văn, Thơ (thơ chữ Hán, thơ chữ Nôm, thơ trƣờng thiên), Hát nói, Văn
bia.
Có thể thấy Chu Mạnh Trinh đa phần viết theo những chủ đề, đề tài quen thuộc mà không
dụng công tìm kiếm những chủ đề, đề tài khác biệt. Đặc biệt thơ ông vắng bóng đề tài ngôn
chí – đề tài phổ biến trong sáng tác của nhà nho. Văn chƣơng ông đậm cái “tình” ngƣời làm
thơ. Tuy vậy những chủ đề, đề tài này không phải là tiêu biểu, điển hình cho hệ thống chủ đề,
đề tài của văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX mà mang tính chất bên lề của dòng văn học chủ
lƣu là văn học yêu nƣớc chống Pháp.
2.1. Thơ văn Chu Mạnh Trinh nhìn từ chủ đề, đề tài
2.1.1. Vịnh cảnh
Vịnh cảnh là thể tài sở trƣờng của Chu Mạnh Trinh bởi ông là ngƣời ƣa lãng du, chuộng
những âm thanh, hình sắc và một tâm hồn khoáng mở yêu cái đẹp. Ở mảng đề tài này, ông
sáng tác với số lƣợng tác phẩm lớn (69 bài). Nhà thơ viết về thiên nhiên đã quá nhiều nhƣng
đặc sắc thiên nhiên trong thơ Chu Mạnh Trinh lại mang phong vị độc đáo.
Tƣ thế ngƣời ngắm cảnh khi thì đề thơ trên thuyền, khi thì bƣớc lên lầu cao bao quát tầm
xa rộng, khi thì làm một li khách thƣởng cảnh lạ ở đất ngƣời…Điều đặc biệt là cảnh hiện lên
muôn màu muôn vẻ, đầy những âm thanh của tiếng sóng, tiếng gió, tiếng chim, tiếng lau sậy;
những hình sắc rất lạ từ cảnh vật.
Nét độc đáo trong những bài thơ viết ở thể tài này của Chu Mạnh Trinh là cảnh hiện lên
trong men say của ngƣời ngắm cảnh. Dƣờng nhƣ men rƣợu làm cho cảnh trở lên huyền ảo,
lung linh hơn và tâm hồn ngƣời ngắm cảnh nhƣ lắng lại.
Ông đặt chân tới nhiều danh thắng nhƣng trìu mến và yêu thích nhất là Hƣơng Sơn. Chu
Mạnh Trinh đến Hƣơng Sơn không phải để đeo đuổi nỗi khát khao tôn giáo của một tín đồ.

Ông dành tình cảm đặc biệt cho Hƣơng Sơn để tìm cảm hứng thƣởng ngoạn và thỏa mãn
“quý thích chí”. Cảnh Hƣơng Sơn đƣợc ông chớp lấy những khoảnh khắc thần nhất, trạng
thái sự vật “hƣớng thiền” nhất. Hương Sơn phong cảnh là bức tranh non nƣớc, mây trời chập
chùng man mác, vấn vƣơng thanh âm, hình sắc. Phong cảnh quyến rũ với bao nét nhạc và
nhiều chiều ánh sáng biến hóa kì ảo, nửa thực nửa hƣ. Hương Sơn hành trình, Hương Sơn
nhật trình nhà thơ miêu tả tỉ mỉ cảnh vật và đƣờng nét chùa Hƣơng từ chùa ngoài vào chùa
trong. Thông qua những bài viết về phong cảnh Hƣơng Sơn có thể thấy Chu Mạnh Trinh lãng
mạn từ đề mục đến lãng mạn trong cảm hứng.
Thơ vịnh cảnh của Chu Mạnh Trinh không đồng nhất với cách vịnh của các nhà nho mà ở
đó tâm sự, tâm trạng ngƣời ngắm cảnh là rất ít, chỉ thuần có tả cảnh. Ông đã vẽ lên những
bức tranh phong cảnh đẹp. Cái “đẹp” tự thân ở thiên nhiên đã vƣợt ra ngoài quan niệm về cái
Đẹp của Nho giáo hƣớng tới nội dung của đạo lí. Các tác phẩm lấy bút pháp tả làm chủ lực
còn vịnh chỉ mang tính bổ sung. Chu Mạnh Trinh làm thơ để biểu lộ mối cảm của mình với
cảnh. Cảnh trong thơ ông luôn sinh động quyến rũ. Ở đó có sự hòa lẫn giữa cái thắm xinh của
tạo vật với cái đẹp trang nghiêm của Phật giáo với cái đẹp phiêu diêu của tình mộng Trang
Chu. Trong bức tranh dày đặc cảnh vật nhà thơ không hề quên cá tính, phong thái của mình là
đa tình và nghệ sĩ.
Tình yêu thiên nhiên của Chu Mạnh Trinh trong bối cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX bị coi là
tƣ tƣởng xa xỉ, có tính chất ích kỉ hẹp hòi và bị đặt ngoài quỹ đạo của lòng yêu nƣớc. Đó là lí
do để ngƣời ta đẩy xa Chu Mạnh Trinh khỏi chủ đề văn học yêu nƣớc truyền thống. Thể tài
vịnh cảnh đậm đặc chất du lãm, thoát thực đã là nguyên cớ khiến nhà thơ bị xếp vào khuynh
hƣớng văn học hƣởng lạc thoát li.
2.1.2. Vịnh sử
Các bài thơ vịnh sử của Chu Mạnh Trinh đều lấy nguồn cảm hứng từ những vùng huyền
tích: đó là những danh lam thắng cảnh nhƣ đền An Dƣơng Vƣơng, thành Cổ Loa hoặc những
biên ải nhƣ cửa Hàm Tử. Chu Mạnh Trinh không quá xa đà vào sự huy hoàng của cái xƣa cũ
mà cảnh xƣa nay đều ảm đạm, u ám nên thơ vịnh sử của ông luôn ẩn giấu nỗi buồn. Ở đó,
tiêu chí nêu gƣơng theo quan điểm đạo đức phong kiến đã mất hẳn mà chỉ dừng lại ở suy
nghĩ, bình luận, đánh giá những hình ảnh quá khứ còn tồn tại trong cuộc sống.
Ở thể tài vịnh sử đã có những biểu hiện rõ nhất của lòng yêu nƣớc, cảm hứng thế sự của

nhà thơ. Tiêu biểu nhất là bài Quá Cổ Loa yết Mỵ Châu đề bích, nhà thơ đã hóa thân vào
tiếng cuốc nhƣ một biểu tƣợng ám dụ cho nỗi niềm nhà thơ trƣớc vận mệnh dân tộc. Tiếng
chim cuốc buồn thƣơng, bất lực không đủ để nhà thơ dấn thân vào con đƣờng cách mạng.
Có thể nói thơ Vịnh sử của Chu Mạnh Trinh gần nhƣ không có giọng hào sảng, không
mang kí ức hòa hùng mà chủ yếu là tả và xúc cảm về những cảnh vật, sự kiện nhƣ những phế
tích. Ở thể tài này, cho thấy nhà thơ không phải đã thoát li hoàn toàn hiện thực mà Chu Mạnh
Trinh vẫn có cảm quan hiện thực nhƣng đó chỉ là những biểu hiện rất mong manh đặt trong
thƣớc đo truyền thống yêu nƣớc của cộng đồng dân tộc.
2.1.3. Bình, vịnh Kiều
Thanh Tâm Tài Nhân thi tập là tập thơ văn Chu Mạnh Trinh gửi dự cuộc thi do Lê Hoan
khởi xƣớng năm 1905. Tuy là tác phẩm dự thi nhƣng cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ đều hết
sức chân thực. Tập thơ là sự kiếm tìm, trăn trở về những giá trị xƣa cũ trong đời sống văn
chƣơng xa rời đời sống hiện thực.
Tập thơ thể hiện thái độ bênh vực, ngợi ca, đồng cảm của nhà thơ với Thúy Kiều theo
cách của riêng mình. Có thể nói Chu Mạnh Trinh đã tiếp tục mạch nhân đạo chủ nghĩa trƣớc
đó trong tình thế lịch sử đã đổi thay. Đó là căn nguyên khiến cho chùm sáng tác này của ông
phải chịu cả lời khen lẫn sự chỉ trích.
2.1.4. Bằng hữu – thù tạc
Bạn hữu trong thơ Chu Mạnh Trinh đều đƣợc viết lên bằng những cảm xúc chân thành.
Nhà thơ chia sẻ, quan tâm bạn trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: khi bạn bị chết vợ, khi bạn
sắp lên đƣờng đi thi, chuẩn bị đi nhậm chức. Ông luôn coi khoảnh khắc bên bạn là đáng trân
trọng, cũng thật nhớ nhung khi xa cách và khao khát đƣợc gặp lại.
Với nhà thơ, giao lƣu với bạn nhƣ một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống nhất là
những bạn thơ. Bởi vậy không gian giao lƣu với bạn thơ lúc nào cũng thơ mộng có trăng,
thuyền, hồ nƣớc,…
Các sáng tác thuộc đề tài này của Chu Mạnh Trinh đều trang trọng, bình đạm, thân thiết.
2.1.5. Người đào hát
Không giống nhƣ những nhà nho tài tử khác, hình ảnh đào hát trong thơ Chu Mạnh Trinh
không xuất hiện trong hát nói mà trong thơ Đƣờng luật.
Đối với nhà thơ ngƣời đào hát nhƣ những tri kỉ. Họ là những ngƣời đa sầu, đa cảm luôn

hiểu tâm tƣ nhà thơ. Không chỉ có thế ngƣời đào hát còn là những ngƣời tài năng, những
truyền nhân của nghệ thuật.
Tuy thực tế số phận của những đào hát thật bi đát nhƣng nhà thơ không đi sâu khắc họa
thân phận cảnh ngộ, cũng nhƣ thế giới nội tâm ở họ mà họ xuất hiện với tƣ cách của con
ngƣời nghệ thuật, và là tấm tri kỉ của nhà thơ.
Sáu bài thơ viết về đào hát của Chu Mạnh Trinh đều nhất quán với thái độ trân trọng, yêu
mến đào hát. Tác giả đã phản ánh nếp sinh hoạt rất đặc trƣng của những văn nhân tài tử và
đào hát ở các ca quán. Đó là chén rƣợu hòa với tiếng đàn, tiếng hát khi vui vẻ, lúc sầu đong,
cho thấy rất rõ mối quan hệ hệ này trƣớc khi ca trù biến thái thành một sinh hoạt ngoài nghệ
thuật.
Nhƣ vậy tƣ tƣởng nhà thơ không có tính duy lí để đối phó trƣớc vận nƣớc mà ông rơi vào
duy tình, hoài cổ. Hệ thống chủ đề, đề tài đều phát triển lại hệ thống chủ đề, đề tài cũ, nội
dung sáng tác tách khỏi thực tại nóng bỏng nhất của lịch sử xã hội.
2.2. Thơ văn Chu Mạnh Trinh nhìn từ thể và thể loại
Chu Mạnh Trinh sáng tác thơ văn bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, và sáng tác chữ Hán là
đa số. Nhƣng ông đặc biệt thành công ở thơ Nôm. Tuy Chu Mạnh Trinh không phải là cây
bút xuất chúng nhƣng thơ văn ông lại đƣợc xếp vào dạng có sức lôi cuốn cả về nội dung và
hình thức.
2.1.1. Thơ Đường luật
Chu Mạnh Trinh sáng tác thơ Đƣờng luật với số lƣợng lớn lến đến hàng trăm bài, đƣợc
tập hợp chủ yếu trong Trúc Vân thi tập.
Trong thơ Đƣờng luật ông sử dụng các hình ảnh thơ rất đa dạng từ thiên nhiên, con
ngƣời, những nếp sinh hoạt con ngƣời. Đặc biệt là các hình ảnh đƣợc khai thác ở những thời
điểm, những không gian độc đáo. Trong thơ là cả một thế giới âm thanh, màu sắc đa chiều
sinh động, với nhiều dáng vẻ khác nhau. Bởi vậy tập thơ ghi nhận đầy đủ về tâm hồn con
ngƣời nhà thơ: lãng mạn, tài hoa và tinh tế.
Thơ Đƣờng luật của Chu Mạnh Trinh ít không gian hình tƣợng mà không gian rất cụ thể
có tên, có thời khắc, có sự tƣơng phản nhƣng ở cấp độ hẹp và sự tƣơng phản chỉ làm cho sự
vật nhỏ bé trở nên bé nhỏ.
2.2.2. Hát nói

Sự nổi tiếng của Chu Mạnh Trinh gắn liền với hát nói. Nhƣng nhà thơ lại sáng tác với số
lƣợng khiêm tốn, ba bài, trong đó đặc biệt nổi tiếng với Hương Sơn phong cảnh.
Chủ đề trong hát nói của Chu Mạnh trinh nghiêng hẳn về hành lạc. Nhƣng hành lạc ở đây
lại mang sắc thái rất riêng, rất thanh tao nho nhã, là tận hƣởng thanh sắc của thiên nhiên. Đối
tƣợng đƣợc nói đến ở đây là mĩ nữ và cảnh.
Văn chƣơng qua hát nói đặc biệt là Hương Sơn phong cảnh thuần có mô tả. Cảnh quy tụ
trọn vẹn trong chữ nghĩa, văn chƣơng không có mục đích đạt đến giáo huấn mà hƣớng tới
tính thẩm mĩ.
2.2.3. Tựa
Chu Mạnh Trinh sáng tác vài bài tựa nhƣng nổi tiếng nhất là bài tựa Thanh Tâm Tài Nhân
thi tập. Bài tựa đã bày tỏ quan điểm, thái độ của nhà thơ với nàng Kiều đó là sự cảm thông,
bênh vực, ca ngợi, cao hơn hết là tình yêu với nàng Kiều. Nhà thơ đã đứng ở vị trí của một
ngƣời nghệ sĩ, một kẻ tài tử cùng đồng điệu với ngƣời đẹp bất hạnh.
Tựa của Chu Mạnh Trinh ít chú trọng tới lí lẽ dẫn chứng mà lập luận bằng cảm xúc, từ
cảm xúc. Tựa mang đặc điểm của nghiên cứu văn học cổ có tính chủ quan cá nhân. Tuy có
phần cực đoan song bài tựa đã thể hiện đầy đủ quan điểm chủ đạo của toàn tập Thanh Tâm
Tài Nhân thi tập và nghệ thuật của mình.
Tiểu kết
Các chủ đề, đề tài, thể, thể loại trong thơ Chu Mạnh Trinh đều rất quen thuộc, phổ biến
trong thơ ca trung đại. Trong đó ông có sở trƣờng là Vịnh cảnh nhƣng đặc biệt xuất sắc với
thể loại Hát nói và Bình, vịnh Kiều. Sáng tác văn chƣơng của Chu Mạnh Trinh duy trì nét tài
tình diệu xảo, đă
̣
c biê
̣
t la
̀
những giá trị nhân văn của giai đoạn thế kỉ XVIII–nửa đầu XIX mà
không nhập vào, thập chí né tránh tâm điểm của văn học nửa sau thế kỉ XIX là chống thực
dân, duy tân yêu nƣớc.





CHƢƠNG 3:
CHU MẠNH TRINH TRONG LỊCH SỬ VĂN HỌC
3.1. Hát nói của Chu Mạnh Trinh – sự phục hồi của hát nói trong môi trường mới
3.1.1. Môi trường đô thị hóa thực dân – tiền đề của sự phục hồi hát nói nửa cuối thế kỉ
XIX
Giữa thế kỉ XIX sự phát triển của hát nói bị dừng lại đột ngột do hoàn cảnh lịch sử đặc
biệt: Pháp xâm lƣợc. Nhƣng từ những năm cuối thế kỉ này khi môi trƣờng đô thị hóa mang
tính thực dân xuất hiện hát nói lại có cơ hội phục hồi. Bằng chứng là hệ thống giao thông
thông suốt kéo theo đó nhiều tỉnh lị, huyện lị mọc lên bên cạnh những trục đƣờng giao thông
lớn nhỏ. Một số giáo phƣờng di chuyển ra tỉnh để mở nhà hát. Không riêng gì ở Hà Nội mà
các tỉnh lân cận thì các tƣ gia, nhà trò đã mọc lên theo sự mở rộng của đô thị thực dân.
Hƣng Yên – nơi nhà thơ sống vốn là phố Hiến rất sầm uất. Các mạng lƣới bến sông, bến
chợ, giao thông đƣợc mở rộng trong chính sách phục vụ khai thác của chính quốc. Đặc biệt
con ngƣời phố thị vẫn là cái gốc của cƣ dân phố Hiến.
Tại các đô thị tập trung một phức thể dân cƣ đa dạng thuộc nhiều thành phần xã hội khác
nhau nhƣ: quan lại, nho sĩ, quý tộc, ca kĩ, viên chức…Trong thiết chế kinh tế xã hội đặc thù
của đô thị tâm lí của họ thƣờng phóng khoáng, hoạt bát hơn và có nhu cầu giãi bày rất lớn.
Bên cạnh đó tâm trạng bất an, bất lực của thân phận vong quốc có lẽ cũng là một nguyên cớ
khiến họ đi tìm những phƣơng thức xoa dịu, lãng quên. Cũng vì vậy hát nói có điều kiện vực
dậy trong một tâm lí tiếp nhận mới.
3.1.2. Chu Mạnh Trinh trong sự phục hồi hát nói
Sinh thời Chu Mạnh Trinh rất đam mê ca trù. Trên chiếu hát nhà thơ vào vai một quan
viên, điểm trống thƣởng hát, tiếng dạo trống của ông từng đƣợc ví nhƣ “mây vờn nƣớc chảy”
Số lƣợng những bài hát nói của Chu Mạnh Trinh rất ít có 3 bài: Thúy Kiều oan trái, Thúy
Kiều lưu lạc, Hương Sơn phong cảnh. Với số lƣợng sáng tác nhƣ vậy không đủ sức để ông có
thể phục hồi, vực dậy một thể loại đã bị đứt đoạn gần nửa thế kỉ. Sự đóng góp của nhà thơ là

góp phần xây dựng một thể tài mới độc đáo – thể tài viết về phong cảnh Hƣơng Sơn làm cho
gia sản hát nói phong phú hơn.
Nửa cuối thế kỉ XIX khi môi trƣờng sinh hoạt hát nói bị phân hóa thì hát nói của Chu
Mạnh Trinh đi theo khuynh hƣớng hƣởng lạc thoát li. Nhƣng so với sự hƣởng lạc của các tác
giả cùng thời nghiêng hẳn về những lạc thú, ham vật dục thì hƣởng lạc của Chu Mạnh Trinh
lại nghiêng về tinh thần rất nho nhã, thanh tao.
Trong Thúy Kiều oan trái, Thúy Kiều lưu lạc Chu Mạnh Trinh coi Thúy Kiều là một giai
nhân. Hai bài hát nói này, nhà thơ vẫn kiên trì cái nhìn đầy cảm thông chia sẻ trong Thanh
Tâm Tài Nhân thi tập. Sự cảm thông ở đây xuất phát từ cái tôi đa tình mà không đa dục. Cái
tôi đa tình đã làm ông có cái nhìn đầy nhân văn về ngƣời phụ nữ. Mặc cho những lời thóa mạ,
ông vẫn yêu mến, say mê, bênh vực Kiều. Kiều là hình ảnh giai nhân không hiển lộ trong
cuộc đời thật mà tồn tại ở dạng mơ tƣởng. Chu Mạnh Trinh đã tạo ra một “giai nhân tái đắc”
trong viễn tƣởng. Cái tình ở đây là kiểu phong tình. Cái tình của nhà thơ chƣa thoát khỏi thúc
ƣớc của Nho giáo chƣa thể gọi đƣợc cảm giác yêu đƣơng nam nữ. Nhƣ vậy trong thời điểm
mà luân lí cổ truyền cùng với các giá trị truyền thống bị rạn nứt Chu Mạnh Trinh vẫn hƣớng
mình vào sự tao nhã, lịch lãm.
Hƣởng lạc của Chu Mạnh Trinh không đẩy lên thành triết lí sống mà để khẳng định “nhân
sinh quý thích chí”. Tinh thần này thể hiện độc đáo qua bài Hương Sơn phong cảnh. Hƣởng
lạc ở đây theo xu hƣớng của ngƣời biết hƣởng thụ cái đẹp, những giá trị thiên nhiên ban tặng
cho con ngƣời. Tận hƣởng bằng các giác quan để thỏa lòng yêu cái đẹp.
Hát nói của Chu Mạnh Trinh, thiên nhiên lại đẹp trong cái tự thân. Cái đẹp nền nã, thanh
tao đƣợc nhìn bằng mắt ngƣời nghệ sĩ. Thiên nhiên trong Hương Sơn phong cảnh đậm sắc
thái Lão Trang, sự vật con ngƣời dƣờng nhƣ đều thoát tục.
Sự đóng góp cho hát nói của Chu Mạnh Trinh không chỉ ở nội dung mà với Hương Sơn
phong cảnh ông đã đóng góp một bài hát nói hay và đẹp về hình thức. Toàn bài xây dựng
bằng bút phát huyền thoại lãng mạn, tả chứ không vịnh. Câu chữ thuần nôm không theo kết
cấu tổ chức ngôn ngữ thông thƣờng trong hát nói. Nhịp điệu nhẹ nhàng uyển chuyển, phù hợp
với những lúc gân gận, lúc thanh thoát của đào nƣơng. Ở Hương Sơn phong cảnh yếu tố văn
xuôi đã tƣớc lƣợc rất nhiều mà thay vào đó là việc chú ý tới từ ngữ, nhạc, lời.
Nhƣ vậy hát nói của Chu Mạnh Trinh, mà điển hình là Hương Sơn phong cảnh, đã góp

phần mở rộng biên độ và sắc thái nội dung phản ánh của hát nói đó là hát nói về thể tài phong
cảnh.
3.2. Bình, vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh trong lịch sử bình giá Truyện Kiều
3.2.1. Lịch sử bình, vịnh Kiều
3.2.1.1. Lịch sử bình Kiều
Truyện Kiều ra đời đã khuấy động đời sống văn học sau đó. Đặc biệt ở thế kỉ XIX những
cuộc bút chiến gay gắt của các nhà nho xoay quanh vấn đề của Truyện Kiều nhất là các nhân
vật trong truyện điển hình là Thúy Kiều. Cuộc chiến ấy kéo dài sang thế kỉ XX nhƣng mang
màu sắc khác – màu sắc chính trị giữa Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng và Phạm Quỳnh.
Khoảng thời gian sau đó Truyền Kiều đƣợc nhìn nhận dƣới nhiều góc độ nhƣ: phân tâm học,
xã hội học, lịch sử, thi pháp học, văn hóa học,…Nhƣ vậy từ khi Đoạn trường tân thanh ra đời
đến nay thì tác phẩm và những vấn đề quanh nó đã có đời sống phong phú, cả trong sáng tác,
phẩm bình và nghiên cứu.
3.2.1.2. Lịch sử vịnh Kiều
Thế kỉ XIX đặc biệt phát triển với phong trào ngâm vịnh Kiều, bình Kiều nhất là vịnh
Kiều.
Bài thơ luật vịnh Kiều đầu tiên là của Phạm Quý Thích từ đó phong trào ngâm vịnh lan
rộng khắp môn sinh họ Phạm, rồi lan rộng trong tầng lớp nho sĩ. Ngay cả vua cũng ham say
với Kiều nhƣ Minh Mệnh, Tự Đức. Tất cả họ đều gửi gắm ít nhiều tâm sự, cảm xúc của mình
trong cảm nhận và thƣởng thức Truyện Kiều. Vịnh Kiều bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, trong
đó có tác giả viết lên đến vài chục bài.
3.2.2. Cuộc thi vịnh Kiều năm 1905
3.2.2.1. Hoàn cảnh tổ chức cuộc thi
Mùa xuân năm Ất Tị (1905), Tổng đốc Lê Hoan có cao hứng muốn thu tập một số danh sĩ
đƣơng thời vào dự thi viết thơ vịnh Kiều. Khi ấy phong trào Cần Vƣơng đã bị dập tắt, đời
sống chính trị trong nƣớc rất ngột ngạt. Ý đồ của Lê Hoan và Pháp muốn tạo một bầu không
khí văn chƣơng có tính chất ôn hòa. Còn xét trên địa hạt văn học thì cuộc thi này nhằm hút
tâm điểm vào dòng văn học công khai. Bởi vậy cuộc thi này thiên về mƣu đồ chính trị nhiều
hơn là mục đích vinh danh dân tộc, trấn hƣng đất nƣớc.
3.2.2.2. Thể lệ cuộc thi

Đầu đề cuộc thi là “Thanh Tâm Tài Nhân lục hay Kim Vân Kiều”. Các thí sinh tham dự
chiếu theo hai mƣơi hồi trong tiểu thuyết Kim Vân Kiều để vịnh từng hồi.
Ngƣời tham dự phải làm một bài tựa bằng chữ Hán viết theo thể văn tứ lục, một bài thơ
đầu, bài tổng vịnh, 20 bài thơ Đƣờng luật hoặc chữ Hán hoặc chữ Nôm vịnh theo 20 hồi của
Kim Vân Kiều truyện ở đầu mỗi bài vịnh có 2 câu tổng thi.

3.2.2.3. Thành phần tham dự
Ban chấm thi gồm: Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và Giải nguyên Dƣơng Lâm.
Ngƣời tham dự gồm: Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Tấn Cảnh, Nguyễn Trí Đạo, Phan
Thạch Sơ, Chu Thấp Hy, Nguyễn Kì Nam, Đặng Đức Cƣờng, Phan Mạnh Danh, Tú Trà,…
Cuộc thi đã quy tụ đƣợc đông đảo những cây bút tài hoa từ những ông cử, ông tú những
ông Tiến sĩ ở khắp các tỉnh thành Bắc Kì.
Kết quả: Chu Mạnh Trinh giải nhất thơ Nôm, Chu Thấp Hy giải nhất thơ chữ Hán
3.2.2.4. Sự góp mặt của Chu Mạnh Trinh
Cuộc thi này đem đến cho Chu Mạnh Trinh sự nổi tiếng và cả tai tiếng. Tai tiếng bởi
ngƣời ta gán cho ông có hành động khiếm nhã với thế hệ cha chú mình – chủ khảo Nguyễn
Khuyến.
Từ câu chuyện chấm thi đã sinh ra giai thoại “tạ hoa trà cho Nguyễn Khuyến”. Không
biết ai là chủ nhân của chậu hoa trà mà đến nay Chu Mạnh Trinh vẫn bị mắc hàm oan.
3.2.3. Tập vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh
3.2.3.1. Quan niệm của Chu Mạnh Trinh về tài–mệnh
Câu chuyện tài – mệnh đã đƣợc đông đảo giới nho sĩ bàn luận. Chu Mạnh Trinh liên tục
phát biểu về sự đối kháng tài – mệnh, ông coi mệnh là căn tố chi phối mọi cảm quan trong
việc đánh giá Kiều. Nhà thơ sử dụng các từ, cụm từ “tài sắc”, “trời”, “khách má hồng”, “đoạn
trƣờng” để nêu lên tính chất, đối tƣợng, số phận của tài – mệnh. Trong quan niệm của Chu
Mạnh Trinh thì sự đau khổ dày vò cả xác lẫn hồn không chỉ ở mƣời lăm năm lƣu lạc mà
dƣờng nhƣ đó mới chỉ là sự bắt đầu của một đoạn trƣờng mới. Đó là hệ lụy trong nỗi đau tinh
thần mà Kiều phải đeo đẳng suốt đời còn lại. Nhƣ vậy số phận đoạn trƣờng của ngƣời hồng
nhan mãi mãi không có hồi kết. Chu Mạnh Trinh đã vận thuyết đó vào chính mình. Những
trải nghiệm của của đời quan Án lắm thị phi, Chu Mạnh Trinh tìm thấy mình trong bóng nàng

Kiều. Số phận của họ bi đát không phải do ý thức chủ quan mà do một lực lƣợng siêu nhiên
bên ngoài chi phối, đó là mệnh. Về điều này, tƣ tƣởng Chu Mạnh Trinh đồng dạng với
Nguyễn Du. Chu Mạnh Trinh cũng nhƣ Nguyễn Du lấy Nho giáo để lí giải cái tài ẩn chứa
nguyên nhân tai họa rồi đi đến khẳng định “tài mệnh tƣơng đố”. Nhƣng theo Chu Mạnh Trinh
thì trong ý thức của Kiều vẫn bị ảnh hƣởng bởi cái gọi là Nghiệp mà kiếp trƣớc để lại. Đối
với việc lí giải về nguyên nhân sâu sa của bấy nhiêu khổ đau trong cuộc đời Kiều cũng nhƣ
cái chết của Từ Hải thì Chu Mạnh Trinh đã cao hơn một mức so với nhiều ngƣời khác nhƣ:
Phạm Quý Thích, Tiên Phong Mộng Liên Đƣờng đó là cảm quan hiện thực. Ông lí giải
nguyên nhân ấy có manh nha từ những bất công xã hội.
Nhƣ vậy câu chuyện tài–mệnh của Chu Mạnh Trinh ảnh hƣởng trực tiếp từ tƣ tƣởng triết
học của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Đó là sự kết hợp tƣ tƣởng Nho, Phật và một cảm
quan hiện thực. Trong tập vịnh Kiều của ông ngƣời ta tìm đƣợc mối nối giữa Nguyễn Du –
Thúy Kiều – Chu Mạnh Trinh ở thân phận con ngƣời. Hệ lụy của những kẻ tài tử đa cùng,
hồng nhan đa truân.
3.2.3.2. Thái độ của Chu Mạnh Trinh với nàng Kiều
Toàn tập vịnh Kiều Chu Mạnh Trinh đều xoay quanh việc đánh giá Thúy Kiều, hay đúng
hơn ông chỉ say mê mỗi Thúy Kiều. Suốt mƣời lăm năm Kiều ôm mối cô trinh tâm trạng ấy
đồng dạng với nỗi cô đơn không tỏ cùng ai của Chu Mạnh Trinh. Từ những trải nghiệm của
số phận, nhà thơ đã tìm đƣợc sự đồng điệu với cô Kiều. Bởi vậy toàn bộ quyển vịnh Kiều ông
Nghè Phú Thị trút toàn bộ bút lực, tình cảm để say mê riêng nàng Kiều.
Mặc cho những lời thóa mạ Kiều là trắc nết, thất tiết, “tà dâm” thì trong mắt Chu Mạnh
Trinh Kiều “trăm chiều đẹp”. Nhà thơ không trực tả vẻ đẹp hình thể của Kiều mà điều đó
đƣợc hiện lên một cách gián tiếp qua quan niệm “má đào thì phận bạc” trong triết lí về
“mệnh”. Điều Chu Mạnh Trinh nhấn mạnh để ca ngợi Kiều là tài, cụ thể là tài nhả ngọc phun
châu, tài cả cầm, kì, thi, họa – cái tài của ngƣời nghệ sĩ. Cái tài này là nguyên nhân dẫn đẩy
Kiều tới những đau khổ một cách bị động, vô thức.
Trong quan niệm của Chu Mạnh Trinh, Kiều bán mình chuộc cha rồi trao duyên cho
Thúy Vân nhƣ vậy là vẹn cả hiếu trung. Kiều đã ứng xử nhƣ một đấng trƣợng phu cứu cha và
em. Chu Mạnh Trinh đề cao hành động ứng xử của nàng nhƣ một tấm gƣơng sáng sánh
ngang với nữ nhi nổi tiếng trong sử sách là ả Lí, nàng Oanh. So sánh nhƣ vậy tấm lòng nhà

thơ đã đồng vọng với Nguyễn Du.
Ông tự đặt mình vào Kiều để hiểu cái tình thế lƣỡng nan đau đớn khi nàng buộc phải lựa
chọn một bên là “ân nặng” một bên là “tình thâm”. Nhà thơ từ thấu hiểu, cảm thông cho
những đọa đày, và sự xô đẩy của số phận đối với Kiều ông Nghè lên tiếng bênh vực. Hành
động tự tiện thề thốt với Kim Trọng của Kiều rất nhiều ngƣời cho rằng đó là hành động phi
lễ. Nhƣng với Chu Mạnh Trinh, ông coi đó là sự chạy đua số phận của Kiều, hơn nữa nàng
luôn chủ động trong việc giữ gìn trinh tiết. Kiều đã dám sống để tranh đoạt, giữ gìn hạnh
phúc của mình trƣớc dự cảm tiền định. Về điều này trong một chừng mực nào đó Chu Mạnh
Trinh đã tiến bộ trong việc ca ngợi tình yêu co
́
phần vƣơ
̣
t khuôn khô
̉
trong xã hội phong kiến.
Nhà thơ xin ngƣời đời hãy khởi từ tâm đối với đoạn trƣờng của kẻ khác, đến với nỗi đau
của nhân gian bằng đầu óc hiểu biết và thái độ công bằng. Nhà thơ sử dụng phƣơng thức này
nhƣ một triết luận.
Nhà thơ đã khóc Kiều nhƣ khóc một giai nhân, khóc một tri kỉ, khóc một ngƣời bạn và
khóc cho cả mình nữa. Ông mong nhặt nhạnh chút phấn hƣơng thừa để thể hiện tình yêu say
đắm với ngƣời thiên cổ. Sự lãng mạn này của Chu Mạnh Trinh nhƣ một cuô
̣
c do
̣
n đƣơ
̀
ng cho
Tản Đà xuất hiê
̣
n ngay sau đo

́
.
3.2.3.3. Cảm quan hiện thực của Chu Mạnh Trinh
Trong Vịnh Vương ông được tha, Chu Mạnh Trinh nhấn mạnh tới sự thao túng của đồng
tiền. Ông phản ánh một sự thật về sự lũng đoạn của đồng tiền. Tiền làm biến sắc sự thanh
liêm, làm lực đẩy ghê gớm khiến con ngƣời đô
̉
i trắng thay đen. Nhƣ vậy nhà thơ dù lãng mạn
nhƣng vẫn không hoàn toàn thoát khỏi hiện thực. Tập vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh là sự
nhận thức chân thành của nhà thơ về số phận na
̀
ng Kiều. Ở đó nhà thơ tìm đƣợc sự đồng điệu
gan ruột giữa cuộc đời mình với cảnh đời một hồng nhan. Ông đã thu phục lòng ngƣời ở cái
tâm đồng cảm và bằng những trải nghiệm của đời mình, qua đó thể hiện những nhận thức về
cuộc đời, con ngƣời, nhân tình thế thái. Ở một mức độ nào đó Chu Mạnh Trinh đã thể hiện
một tấm lòng nhân đạo, sự bao dung rộng lƣợng. Ông là đại diện tiêu biểu cho một nhà thơ
lãng mạn, có khuynh hƣớng thoái li hiện thực.
Tập vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh tuy xúc cảm song đây là lối phê bình hoàn toàn cảm
giác. Bởi vậy nhiều chỗ quá nặng về cảm xúc mà rơi vào cực đoan. Hơn nữa ở đây, Chu
Mạnh Trinh có say mê Kiều nhƣng say mê chỉ dừng lại ở tình cảm cá nhân, không phải tình
cảm mang tính nhân loại kiểu nhƣ Nguyễn Du. Trải qua gần một trăm năm nhƣng Chu Mạnh
Trinh dẫm lại chính những mâu thuẫn trong triết học của Nguyễn Du. Ông vẫn luẩn quẩn
trong thuyết tài–mệnh của Nho giáo đôi lúc lại lấn sang Phật giáo với kiếp ba sinh còn nặng
căn ở Kiều, đôi lúc lại thấp thoáng trong cảm quan hiện thực. Tính hiện thực quá ít ỏi không
đủ đƣa Chu Mạnh Trinh đến với một cách nhìn mới mẻ hơn.
Tiểu kết
Sự nghiệp sáng tác của Chu Mạnh Trinh để lại đã làm phong phú thêm cho hệ thống
chủ đề, đề tài, thể loại của văn học trung đại Việt Nam. Nhƣng tinh túy nhất và đóng góp lớn
nhất của ông cho nền văn học là thể loại hát nói và chủ đề Bình-vịnh Kiều. Bằng tâm huyết
và tài năng của mình Chu Mạnh Trinh đã góp phần làm cho gia sản hát nói phong phú hơn ở

thể tài vịnh cảnh; còn với Bình-vịnh Kiều, Chu Mạnh Trinh trở thành nhà nho điển hình với
thái độ bênh vực nàng Kiều, từ đó “Thanh Tâm Tài Nhân thi tập có thể liệt vào bậc nhất các
tập vịnh Kiều từ trƣớc đến nay”. Nhƣ vậy với những gì đã cống hiến Chu Mạnh Trinh đã tƣ
̣

định vị mình trên thi đàn văn học: ông không tạo nên những giá trị sáng chói, hay mới mẻ
nhƣng đã cộng thêm nội dung mới cho thể loại hát nói và khắc sâu hơn cái nhìn nhân văn cá
thể cho thể tài Bình-vịnh Kiều.

C. KẾT LUẬN
Chu Mạnh Trinh là cái tên chịu cả bao biếm lẫn đƣợc tụng ca, ngay cả khi còn sống cũng
nhƣ của hậu thế sau này.
Ông sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm nhƣng lƣợng bài chữ Hán chiếm đa số, và đặc biệt
thành công ở chữ Nôm. Trƣớc tác văn chƣơng của Chu Mạnh Trinh quy tụ ở các thể loai: thơ
Đƣờng luật, văn bia, hát no
́
i, trong đó đặc biệt xuất sắc với hát nói. Hương Sơn phong cảnh
đƣợc thẩm định là bài hát nói hay vào bậc nhất khi viết về Hƣơng Sơn.
Thanh Tâm Tài Nhân thi tập, tập thơ đạt đến đỉnh cao năng lực sáng tác của ông,
đƣợc coi là một tiếng nói trong lịch sử bình giá Truyện Kiều. Khác với xu hƣớng chú trọng kỹ
xảo trong đề tài này , mà Phan Mạnh Danh (1866-1942) là một đại diện , nét độc đáo trong
bình-vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh nghiêng về nội dung . Xuất phát từ cái nhìn cởi mở hơn
về thân phận ngƣời phụ nữ tài sắc nhƣng bạc phận, từ sự trân trọng và sẻ chia của ngƣời tài tử
với bậc giai nhân, và ít nhiều từ những nỗi niềm riêng tƣ của kẻ đồng hội đồng thuyền, những
bài thơ bình-vịnh Kiều, đặc biệt là bài tựa của Chu Mạnh Trinh đã trở thành một tiếng nói
mạnh mẽ bảo vệ giá trị nhân văn mà Nguyễn Du đã gửi gắm qua nhân vật Thu
́
y Ki ều. Chu
Mạnh Trinh đã dƣờng nhƣ đứng ở vị trí “đối diện” với quan điểm khắt khe nam quyền cũng
nhƣ thái độ phản ứng bị ám ảnh của chính trị đối với việc tổ chức cuộc thi bình vịnh Kiều

1905 khi bình luận về phẩm hạnh Thu
́
y Ki ều. Có thể nói Chu Mạnh Trinh đã bình giá tác
phẩm và nhân vật một cách cá thể và độc lập với thời cuộc, theo mạch nhân văn chủ nghĩa
của thời kì trƣớc đó. Sự lựa chọn này đã buộc ông phải hứng chịu thêm tai tiếng nhƣng lại
cũng là căn nguyên giải thích cho giá trị lâu bền của tập thơ văn khi những ba động của thế
cuộc qua đi.
Nhìn lại toàn bộ sáng tác của Chu Mạnh Trinh có thể thấy tác giả đã né tránh những
vấn đề nóng bỏng của lịch sử. Hơn nữa, ông cầm bút và trƣớc tác theo mạch truyền thống.
Tuy nhiên Chu Mạnh Trinh lại là một trong những tên tuổi mà lịch sử văn học không thể bỏ
qua. Bởi tài năng đa dạng và tinh thần nhân văn ở ông đã đem lại thêm cho truyền thống sáng
tác cũ những nét tƣơi mới cả về nội dung và nghệ thuật.


References
1. Lê Văn Ba (2005), “Cây đàn Chu Mạnh Trinh”, Xưa và nay, số 244, tr. 19,37
2. Lê Văn Ba (1994), Chử Đồng Tử Tiên Dung: vùng đất con người, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội
3. Lê Văn Ba (2004), Miền quê Văn Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
4. Lê Văn Ba (1996), Nhà thơ Chu Mạnh Trinh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
5. Bách khoa toàn thư,
6. Bút tích của chúa Trịnh Sâm trên danh thắng Thăng Long,
/>thang-Thang-Long.html
7. Dƣơng Thị Cẩm (sƣu tầm và tuyển chọn) (1999), Các nhà khoa bảng Hưng Yên (1075-
1919), Nxb Sở văn hóa thông tin Hƣng Yên
8. Lê Nguyên Cẩn (2008), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà
Nội
9. Nguyễn Xuân Diện (2000), Góp phần tìm hiểu lịch sử ca trù, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội
10. Nguyễn Xuân Diện (2003), Thơ hát nói xưa và nay, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội

11. Thành Duy (1996), Văn hóa và sự phát triển của xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội
12. Thái Kim Đỉnh (1996), Thơ văn quanh Truyện Kiều, Nxb Nghệ An
13. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Đức Mậu (tuyển chọn và biên soạn) (2003), Tản Đà về tác gia
và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội
14. Dƣơng Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
15. Chu Trọng Huyến (1995), Nguyễn Công Trứ con người và sự nghiệp, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội
16. Trần Đình Hƣợu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
17. Trần Đình Hƣợu (1991), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo dục, Hà
Nội
18. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ sở kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945),
Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội
19. Trúc Khê và Tiên Đàm (1942), Chu Mạnh Trinh, Nxb Cộng Lực, Hà Nội
20. Đoàn Nhƣ Khuê (2011), />khue html
21. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Đình Lê (2008), Đại cương
lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
22. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển ba: “Thế hệ cho nền văn
học mới (1862-1945)”, Trình bày xb, Sài Gòn
23. Đặng Thanh Lê (2006), Giảng văn Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội
24. Lê Xuân Lít (sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu) (2005), Hai trăm năm nghiên cứu và
bàn luận Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội
25. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX, Nxb Giáo
dục, Hà Nội
26. Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957), Tập 3: “Từ giữa thế kỉ XIX đến 1945”,
Nhóm Lê Quý Đôn, Nxb Xây dựng, Hà Nội
27. Nguyễn Đức Mậu (sƣu tầm, biên soạn) (2003), Ca trù nhìn từ nhiều phía, Nxb Thông tin,
Hà Nội
28. Nguyễn Đức Mậu (2006), “Hát nói nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”, Nghiên cứu Văn
học, số 1, tr. 135-144

29. Nguyễn Đức Mậu (2005), “Hát nói Phan Bội Châu và lịch trình hát nói”, Văn hóa nghệ
thuật, số 12, tr. 78-82
30. Nguyễn Đức Mậu (2000), Thể loại hát nói trong sự vận động của lịch sử văn học LATS ,
Hà Nội
31. Tô Nam (1967), “Nhai thoại về một câu đối tết”, Tập san Văn Sử Địa, số 5, tháng 1,2,3
32. Nam phong tạp chí (1915) số 8, tháng 2
33. Nguyễn Viết Ngoạn (nghiên cứu và tuyển chọn, chú thích) (2010), Nguyễn Công Trứ bài
ca ngất ngưởng, Nxb Đại học quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh
34. Nguyễn Viết Ngoạn (2001), Nguyễn Công Trứ ông hoàng hát nói, Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh
35. Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội
36. Phạm Thế Ngũ (1961), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên – văn học hiện đại (1862-
1945), Quốc học tùng thƣ xb, Sài Gòn
37. Phạm Đan Quế (1991), Bói Kiều, bình Kiều, vịnh Kiều, Nxb Hà Nội
38. Phạm Đan Quế (2003), Truyện Kiều trên báo chương thế kỉ XX, Nxb Thanh Niên, Hà Nội
39. Phạm Đan Quế (biên soạn) (2000), Truyện Kiều và các nhà nho thế kỉ XIX, Nxb Văn học,
Hà Nội
40. Vũ Dƣơng Quý (tuyển chọn và biên soạn) (2002), Chu Mạnh Trinh, Trần Tế Xương, Nxb
giáo dục, Hà Nội
41. Vũ Tiến Quỳnh (sƣu tầm, tuyển chọn) (1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chu Mạnh Trinh.
Phan Bội Châu: những bài phê bình – bình luận văn học của các nhà văn – nghiên cứu Việt
Nam và thế giới, Nxb Tổng hợp Khánh Hòa
42. Ngô Quốc Quýnh (2010), Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua Truyện Kiều, Nxb Giáo
dục, Hà Nội
43. Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX), Viện Văn học (1964),
Nxb Văn học, Hà Nội
44. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – Quan niệm con người và tiến
trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
45. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội

46. Trần Thanh Tâm (1996), Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế
47. Bùi Duy Tân (2005), “Thơ vịnh sử - một thể loại đặc trƣng trong văn học trung đại”,
Nghiên cứu Văn học, số 6, tr3-18
48. Dƣơng Thiệu Tống (2005), Tâm trạng Dương Lâm, Dương Khuê, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội
49. Nguyễn Văn Tố (2000), Tạp Chí Tri Tân 1941-1946 các bài viết về lịch sử và văn hóa
Việt Nam tập 1, Trung tâm UNESCO trung tâm tƣ liệu lịch sử văn hóa Việt Nam xb, Hà Nội
50. Đỗ Lai Thúy (2000), Mắt thơ, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội
51. Trần Nho Thìn (giới thiệu và tuyển chọn) (2007), Nguyễn Công Trứ về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội
52. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo
dục, Hà Nội
53. Tri tân tạp chí, số 21 ngày 31/10/1941
54. Tảo Trang (2001), Thơ vịnh Kiều của Chu Doãn Trí, />học/sang-tác/tho-vinh-Kieu-cua-Chu-Doan-Tri.aspx
55. Chu Mạnh Trinh (2001), Thơ Chu Mạnh Trinh, Nxb Kim Đồng, Hà Nội
56. Chu Mạnh Trinh, Trúc Vân thi tập, Lƣu trữ tại thƣ viện Văn học, kí hiệu DH49- (bản
dịch nghĩa và chú giải của Đào Phƣơng Bình, Trần Hải Yến hiệu chỉnh)
57. Từ điển văn học bộ mới (2004), Nxb Thế giới, Hà Nội
58. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội
59. Lê Trí Viễn, Phan Côn, Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lí, Lê Hoài Nam (1978), Lịch sử văn
học Việt Nam, Tập 4A “Văn học viết thời kì II giai đoạn I 1858 – đầu thế kỉ XX”, Nxb Giáo
dục, Hà Nội
60. Trần Ngọc Vƣơng (1995), Loại hình học tác giả văn học nhà nho tài tử và văn học Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
61. Trần Ngọc Vƣơng (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, Nxb Tri thức, Hà Nội
62. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X-XIX những vấn đề lí
luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội
63. Trần Ngọc Vƣơng (1995), Văn học Việt Nam – dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Đại
học Quốc Gia, Hà Nội

64. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
65. Nguyễn Khắc Xƣơng (1995) , Tản Đà thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội
66. Lê Thu Yến (sƣu tầm và tuyển chọn) (2003), Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm
hứng thơ người đời sau, Nxb Giáo dục, Hà Nội




×