Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Công ty đông ấn anh ở vương quốc xiêm nửa đầu thế kỉ XVII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.02 KB, 28 trang )

1
Công ty Đông Ấn Anh ở Vƣơng quốc
Xiêm nửa đầu thế kỉ XVII

Nguyễn Văn Vinh

Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới; Mã số: 60.22.50
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Anh Tuấn
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Giới thiệu sự thành lập công ty Đông Ấn Anh năm 1600. Tìm hiểu về
Vƣơng quốc Xiêm đến cuối thế kỷ XVI và những mối liên hệ Anh - Xiêm đầu tiên
(1587-1611). Nghiên cứu Công ty Đông Ấn Anh ở vƣơng quốc Xiêm (1611-1623).

Keywords. Lịch sử Thái Lan; Thế kỷ 17; Lịch sử thế giới; Vƣơng quốc Xiêm

Content.

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Vào cuối thế kỷ XVI, cùng với những biến chuyển của bầu không khí chính trị
và xã hội Anh, nền kinh tế của quốc gia đảo quốc cũng đứng trƣớc thách thức và cơ
hội phát triển mới. Những phát kiến địa lý thành công của hai quốc gia trên bán đảo
Iberia vào cuối thế kỷ XV, khiến cho công cuộc chạy đua hàng hải và thƣơng mại ở
một số dân tộc hàng hải truyền thống Tây Âu nhƣ Hà Lan, Anh càng trở nên gay gắt.
Dù vậy, trong suốt nửa đầu thế kỷ XVI, ngƣời Anh không thể tạo ra một bƣớc ngoặt
nào trong quá trình khai phá con đƣờng sang phƣơng Đông do thiếu kiến thức bởi
ngƣời Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã thiết lập “hàng rào kín”, quyết tâm bảo mật các
thông tin về những vùng đất mới.
Phải đến cuối thập niên 70 của thế kỷ XVI, ngƣời Anh mới bắt đầu có đƣợc


những kiến thức - dù còn hết sức tản mạn - về phƣơng Đông sau các chuyến đi vòng
quanh thế giới của Francis Drake và Thomas Cavendish (1577-1580). Một làn sóng
tìm kiếm con đƣờng sang phƣơng Đông buôn bán sôi sục ở thủ đô Luân Đôn; nhiều
công ty ra đời để buôn bán với vùng Đông Ấn. Tuy nhiên, do ngại đối đầu với ngƣời
Bồ Đào Nha trên con đƣờng qua mũi Hảo Vọng, trong nhiều thập niên sau đó, ngƣời
Anh đã nỗ lực tìm kiếm con đƣờng đi sang phƣơng Đông qua phía đông bắc (biển Ban
Tích và Bắc Băng Dƣơng) hoặc vƣợt đƣờng bộ qua xứ Ba Tƣ.
Sau nhiều thất bại, thƣơng nhân Anh thấy rằng con đƣờng duy nhất để Đông
tiến chính là chấp nhận đƣơng đầu với ngƣời Bồ Đào Nha để đi qua mũi Hảo Vọng.
Cùng với quyết tâm đó, năm 1591, thƣơng nhân Luân Đôn đã tổ chức chuyến đi Đông
Ấn đầu tiên. Mặc dù vấp phải thất bại cay đắng, nhƣng việc tàu của ngƣời Anh vƣợt
qua mũi Hảo Vọng, đi vào Ấn Độ Dƣơng và sang đến tận vùng quần đảo hƣơng liệu
Đông Nam Á đã tạo ra tiếng vang lớn đến giới thƣơng nhân và hàng hải Anh. Ở Luân
Đôn, giới thƣơng nhân và tài phiệt ráo riết vận động và đệ trình lên Nữ hoàng
Elizabeth kế hoạch thành lập công ty Đông Ấn buôn bán sang phƣơng Đông. Ngày
31/12/1600, Nữ hoàng Elizabeth phê duyệt kế hoạch trên, Công ty của các thương
nhân Luân Đôn buôn bán với miền Đông Ấn đƣợc phê chuẩn.
2
Ngay sau khi đƣợc thành lập, Ban Giám đốc tích cực chuẩn bị cho những
chuyến đi Đông Ấn đầu tiên dƣới danh nghĩa Công ty, đánh dấu một thời kỳ mới của
nền hải thƣơng Anh trong lịch sử thƣơng mại và hàng hải thế giới. Theo số liệu lƣu trữ
của Công ty, từ năm 1620 đến năm 1700, trung bình mỗi năm có 8 tàu rời nƣớc Anh đi
phƣơng Đông. Nếu tính gộp cả giai đoạn 1600-1833, đã có khoảng 4.600 tàu rời Luân
Đôn đi phƣơng Đông. Đặc biệt, sau năm 1800, trung bình mỗi năm có 42 tàu Anh đi
phƣơng Đông.
1
Tại phƣơng Đông, ngoài Ấn Độ, nhiều khu vực thuộc Đông Nam Á
hải đảo, Miến Điện, Cao Miên, Đài Loan, Nhật Bản Công ty Đông Ấn Anh cũng đã
có mối liên hệ thƣơng mại, kinh tế từ khá sớm ở vƣơng quốc Xiêm. Cùng với sự xuất
hiện của các thƣơng nhân phƣơng Tây khác (Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp ), ngƣời

Anh bƣớc đầu đã xây dựng đƣợc thƣơng điếm ở Pattani và Ayutthaya.
Tuy không giành đƣợc nhiều thành công trong hoạt động buôn bán ở Xiêm
trong khoảng 3 thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XVII. Nhƣng quan hệ thƣơng mại thời kỳ
này, dƣờng nhƣ đã để lại nhiều hệ lụy cho mối quan hệ thƣơng mại, chính trị rất đặc
biệt giữa hai quốc gia Anh - Xiêm trong những thế kỷ tiếp theo. Đề tài luận văn “Công
ty Đông Ấn Anh ở vương quốc Xiêm nửa đầu thế kỷ XVII” cố gắng phục dựng bức
tranh hoạt động bang giao và thƣơng mại của công ty Đông Ấn Anh ở Xiêm trong bối
cảnh chung của khu vực Đông Á thời kỳ này.
2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về hoạt động của công ty Đông Ấn Anh ở vƣơng quốc Xiêm là một
đề tài tƣơng đối rộng, đòi hỏi cần nhiều thời gian, đầu tƣ công sức nghiên cứu. Trong
khuôn khổ một luận văn thạc sỹ chịu giới hạn về thời lƣợng, ngƣời viết xin tập trung
làm sáng rõ một giai đoạn cụ thể của mối quan hệ Anh - Xiêm, giai đoạn khởi động từ
đầu thế kỷ XVII đến năm 1623, khi ngƣời Anh tạm thời đóng cửa thƣơng điếm ở
Xiêm nhằm chấn chỉnh lại hoạt động chung của Công ty ở Đông Á.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu quá trình hình thành cũng nhƣ hoạt động của Công ty Đông Ấn
Anh ở Đông Á nói chung không phải là đề tài quá mới mẻ trên bình diện sử học quốc
tế. Đƣợc hiểu là tiền thân của hệ thống chính quyền thuộc địa Anh ở phƣơng Đông,
Công ty Đông Ấn Anh đã thu hút đƣợc sự quan tâm nghiên cứu của nhiều thế hệ sử gia
phƣơng Tây từ đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, xuất phát từ vai trò quan trọng của nền mậu
dịch của Công ty với Trung Quốc trong sự bành trƣớng về thƣơng mại và lãnh thổ của
Công ty trong thế kỷ XVIII mà sự chú trọng của các sử gia đều hƣớng về mối quan hệ
giữa Công ty Đông Ấn Anh với Trung Quốc.
Đối với khu vực Đông Nam Á, những nghiên cứu của các sử gia phƣơng Tây
hạn chế hơn. Trong thập niên 30 của thế kỷ trƣớc, nhà sử học Anh, D. G. E. Hall lần
lƣợt cho công bố những nghiên cứu của mình về hoạt động của công ty Đông Ấn Anh
tại Miến Điện và đến năm 1955, cuốn chuyên khảo nổi tiếng A history of Southeast
Asia của Ông đƣợc ấn hành.
Nhằm soi sáng thêm lịch sử thâm nhập của Công ty vào khu vực Đông Nam Á,

Basset cho công bố một số bài nghiên cứu chung về Công ty Đông Ấn Anh ở Viễn
Đông, tập trung về Xiêm và Cao Miên. Có thể kể đến nhƣ: K. D Basset, “The Trade of
the English East India Company in the Far East, 1623-1684”, Journal of the Royal
Asiatic Society ¼ (1960), pp. 33-47 & 145-157; K. D Basset, “English Relations with
Siam in the Seventeenth Century”, Journal of the Malayan Branch, Royal Asiatic
Society 34/2 (1961), pp.90-105; K. D Basset, “The Trade of the English East India


1
Anthony Farrington, Trading Places: The East India Company and Asia 1600-
1834, (London: British Library, 2002); pp. 23.
3
Company in Cambodia, 1651-1656”, Journal of the Royal Asiatic Society of Great
Britain and Ireland, No. ½ (1962), pp.35-61.
Đối với hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh ở vƣơng quốc Xiêm, số lƣợng các
công trình nghiên cứu đến nay còn tƣơng đối ít ỏi. Một trong số các công trình khảo
cứu mang tính khai mở đầu tiên có liên quan trực tiếp đến hoạt động của Công ty
Đông Ấn Anh ở Xiêm đã đƣợc John Anderson thể hiện thành công qua tác phẩm “The
English Intercouse with Siam in Seventeenth Century” xuất bản năm 1890.
Gần đây nhất, trên cơ sở khai thác kho tƣ liệu liên đến hoạt động của công ty
Đông Ấn Anh ở Xiêm. Hai tác giả Anthony Farrington và Dhiravat na Pombeja đã
công bố phần tƣ liệu gốc trong tác phẩm The English Factory in Siam (1612-1685).
Trái ngƣợc với phong phú trong các nghiên cứu của sử học quốc tế về đề tài
hoạt động của công ty Đông Ấn Anh. Các nghiên cứu của giới sử học trong nƣớc về đề
tài này lại rất hạn chế. Hầu nhƣ chƣa có một chuyên khảo hay bài viết nào liên quan
trực tiếp đến hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh ở vƣơng quốc Xiêm.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đề tài Công ty Đông Ấn Anh ở vương quốc Xiêm nửa đầu thế kỷ XVII ngƣời
viết cố gắng sử dụng góc nhìn khu vực học, theo đó, mọi diễn biến lịch sử đƣợc xem xét
trên cả phƣơng diện lịch đại và đồng đại. Qua đó, chúng ta thấy đƣợc một cách chân xác

và hoàn chỉnh nhất về sự phát triển sôi động của hải thƣơng châu Á thế kỷ XVII, cả về
động lực, nguyên nhân cũng nhƣ những đặc tính phát triển. Trong quá trình hoàn thiện
luận văn ngƣời viết chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp logic,
phƣơng pháp phân tích, tổng hợp để xem xét các sự kiện lịch sử cũng nhƣ mối tƣơng
tác.
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Nghiên cứu về hoạt động thƣơng mại của công ty Đông Ấn Anh ở châu Á nói
chung và ở Xiêm nói riêng vẫn còn là một chủ đề đáng quan tâm của nhiều nhà sử học.
Thế kỷ XVII, đƣợc xem là “kỷ nguyên thƣơng mại” của châu Á với vai trò không thể
phủ nhận của thƣơng nhân và các thể chế hải thƣơng châu Á bên cạnh sự hiện diện của
các thế lực hàng hải châu Âu.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn Thạc sĩ Công ty Đông Ấn Anh ở
vương quốc Xiêm nửa đầu thế kỷ XVII đƣợc chia làm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Sự thành lập công ty Đông Ấn Anh năm 1600
Chƣơng 2: Vƣơng quốc Xiêm đến cuối thế kỷ XVI và những mối liên hệ Anh -
Xiêm đầu tiên (1587-1611)
Chƣơng 3: Công ty Đông Ấn Anh ở vƣơng quốc Xiêm (1611-1623)
CHƢƠNG 1
SỰ THÀNH LẬP CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH NĂM 1600
1.1. Nƣớc Anh cho đến cuối thế kỷ XVI
Trong số các quốc gia hình thành ở Tây Âu sau khi Tây La Mã sụp đổ (476),
nƣớc Anh ra đời khá muộn. Đến cuối thế kỷ IX, ở Anh mới diễn ra sự thống nhất về
mặt lãnh thổ và chính trị để trở thành một quốc gia thống nhất.
Cuối thế kỷ XV-XVI, phát kiến địa lý thành công đã đƣa lịch sử Tây Âu bƣớc
sang giai đoạn phát triển mới. Trong khi TBN tìm cách độc quyền khai thác Tân Thế
giới, ngƣời Bồ cũng nhanh chóng thụ hƣởng nền độc quyền buôn bán với phƣơng
Đông. Cùng với Lisbon, 1 loạt trung tâm thƣơng mại ở phía bắc nhƣ London,
Antwerp, Amterdam…cũng trỗi dậy, cạnh tranh với thƣơng nhân Ý.
Là một quốc gia có truyền thống hàng hải từ lâu đời, thƣơng nhân Anh khó có

thể chấp nhận việc hai dân tộc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha độc quyền các tuyến buôn
4
bán với miền Đông Ấn và Tây Ấn. Mục tiêu thƣơng mại luôn là động lực thôi thúc
ngƣời Anh tìm đƣờng sang buôn bán với phƣơng Đông. Tuy nhiên, thƣơng mại không
phải là động cơ duy nhất. Trƣớc năm 1600, những thứ tình cảm mang tính dân tộc chủ
nghĩa luôn chiếm một vị trí đáng kể trong các chuyến đi sang phƣơng Đông: lật đổ vị
trí độc tôn của ngƣời Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Một số chuyến đi thậm chí còn đề
cao mục tiêu tôn giáo: truyền bá Thiên chúa sang châu Phi và Ấn Độ để bao vây đạo
Hồi. Bên cạnh đó, ngƣời Anh cũng hi vọng sử dụng vũ lực để cƣớp đoạt những đoàn
thuyền buôn giàu có trên biển. Cuối cùng, nhu cầu khám phá và niềm đam mê phiêu
lƣu cũng góp phần không nhỏ vào việc tổ chức tìm đƣờng đi về phƣơng Đông. Điều
này càng đƣợc khích lệ mạnh mẽ sau khi nhà hàng hải Francis Drake thực hiện thành
công chuyến đi vòng quanh thế giới trong các năm 1577-1580.
Khát vọng là vậy, nhƣng kiến thức của ngƣời Anh về hải trình sang phƣơng
Đông lại hết sức mơ hồ. Phải sau khi hai nhà hàng hải Anh Francis Drake và Thomas
Cavendish hoàn thành chuyến đi vòng quanh thế giới (1577-1580), ngƣời Anh mới bắt
đầu có đƣợc những thông tin chính xác - dù hết sức tản mạn về phƣơng Đông.
Trên phƣơng diện kỹ thuật, ngƣời Anh có những hạn chế nhất định so với ngƣời
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và ngƣời Hà Lan. Từ thế kỷ XV, hai dân tộc Tây Ban Nha
và Bồ Đào Nha đã có những chính sách nghiên cứu hàng hải nghiêm túc và những
khoản đầu tƣ rất lớn.
Cuối cùng, chính sách xuất khẩu của nhà nƣớc cũng là một khó khăn lớn đối
với thƣơng nhân Anh lúc đó. Hoàng gia khuyến khích xuất khẩu các loại thƣơng phẩm
nội địa nhƣ vải dạ và len nhằm kích thích ngành sản xuất len dạ trong nƣớc. Tuy
nhiên, các thƣơng phẩm này có giá quá cao, lại không hợp với khí hậu nóng ẩm của
phần lớn các xứ sở phƣơng Đông. Trong khi đó, nhà nƣớc lại cấm thƣơng nhân xuất
khẩu bạc - loại vốn duy nhất có thể đầu tƣ đƣợc cho hoạt động buôn bán ở phƣơng
Đông - đẩy thƣơng nhân Anh vào tình thế tiến thoái lƣỡng nan.
1.2. Những nỗ lực thâm nhập phƣơng Đông cuối thế kỷ XVI
Những tiến bộ trong nhận thức về phƣơng Đông trong nửa cuối thế kỷ XVI vẫn

thôi thúc các thƣơng nhân Anh tiến hành các chuyến đi tiên phong về miền Đông Ấn.
Trong bối cảnh nƣớc Anh chƣa đủ thực lực để đối đầu với hai dân tộc Iberia, nhà nƣớc
chủ trƣơng tránh gây chiến, đồng thời khuyến khích thƣơng nhân tìm đƣờng sang
phƣơng Đông qua đƣờng biển tây bắc hoặc đông bắc châu Âu. Thậm chí, ngay sau khi
lên ngôi năm 1485, vua Henry VII đã có chỉ dụ cho John Cabot đi sang phƣơng Đông
qua đƣờng tây bắc. Sang thế kỷ XVI, nhằm tránh đƣơng đầu với ngƣời Bồ Đào Nha và
Tây Ban Nha, ngƣời ta quyết định đi về hƣớng đông bắc, qua Na Uy và Nga để sang
Trung Hoa. Cho đến giữa thế kỷ XVI, ngƣời Anh đã lãng phí vô số tiền tài, vật lực
trong việc tìm kiếm con đƣờng sang phƣơng Đông qua Bắc Băng Dƣơng.
Dƣới thời nữ hoàng Mary I (1516-1558), ngƣời Anh đã từ bỏ nỗ lực đi qua con
đƣờng đông bắc và tập trung phát triển con đƣờng đông nam. Tuy nhiên, do vẫn chủ
trƣơng tránh đối đầu với các thế lực Iberia nên Hoàng gia Anh khuyến khích thƣơng
nhân đi sang phƣơng Đông bằng đƣờng bộ qua khu vực đông Địa Trung Hải để tiến về
xứ Ấn Độ và Đông Nam Á. Tuy nhiên, giải pháp buôn bán với phƣơng Đông bằng
đƣờng bộ qua Ba Tƣ sớm bộc lộ những hạn chế khó có thể khắc phục: không an toàn
và kém lợi nhuận.
Gần một thế kỷ tìm kiếm trong vô vọng con đƣờng đi qua phía bắc bán cầu và
vùng đông Địa Trung Hải, ngƣời Anh cuối cùng cũng nhận ra rằng phƣơng cách duy
nhất để buôn bán đƣợc ở phƣơng Đông là chấp nhận đƣơng đầu với các thế lực Iberia.
Sau chiến thắng vang dội năm 1558, trƣớc hạm đội hùng mạnh của Tây Ban
Nha, bản thân hoàng gia Anh đã hậu thuẫn cho các chuyến đi vòng quanh thế giới của
5
Francis Drake (1577-1580) và Thomas Cavendish (1586-1588), đồng thời khuyến
khích thƣơng nhân Anh tổ chức buôn bán xuống châu Phi, vùng Địa Trung Hải và lập
các khu đồn trú ở châu Mỹ Từ một loạt những sự kiện này, thƣơng nhân Anh bắt đầu
kiến nghị Nữ hoàng khuyến khích việc buôn bán qua con đƣờng mũi Hảo Vọng.
Có thể nói rằng nƣớc Anh dƣới thời nữ hoàng Elizabeth đã có những bƣớc tiến
quan trọng trong quyết tâm chen chân vào hệ thống thƣơng mại quốc tế mà hai dân tộc
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha từng tuyên bố độc quyền từ đầu thế kỷ XVI.
Mặc dù vậy, thƣơng nhân Anh vẫn chƣa nhận đƣợc sự ủng hộ quyết liệt từ

chính quyền Elizabeth nhƣ các đối thủ Hà Lan nhận đƣợc từ nền Cộng hòa mới đƣợc
thành lập. Sự dè dặt của hoàng gia Anh trong ứng xử với các thế lực Iberia, khiến cho
giới thƣơng nhân Anh, đặc biệt là thƣơng nhân Luân Đôn, ngày càng bất mãn. Những
phản ứng của giới thƣơng nhân trong giai đoạn 1588-1600 tạo nên sức ép buộc hoàng
gia Anh phải phần nào thay đổi chính sách đối với miền Đông Ấn. Năm 1593, Nữ
hoàng cho phép Công ty Levant đƣợc phép tìm kiếm sản vật phƣơng Đông bằng cả
“đƣờng bộ và đƣờng biển”.
1.3. Sự thành lập Công ty Đông Ấn Anh
Trong khi cuộc vận động thành lập Công ty Đông Ấn đang diễn ra mạnh mẽ ở
Luân Đôn, tin tức về hạm đội Hà Lan từ phƣơng Đông trở về với một khối lƣợng
khổng lồ hƣơng liệu và các sản vật quý hiếm khiến cho bầu không khí ở Luân Đôn
càng thêm sôi sục.
Vào mùa thu năm 1600, với sự hậu thuẫn của thị trƣởng thành phố Luân Đôn,
đội ngũ thƣơng nhân có thế lực đã nộp đơn thỉnh nguyện Nữ hoàng Elizabeth cho phép
thành lập Công ty buôn bán với phƣơng Đông nhằm cạnh tranh với ngƣời Hà Lan và
bảo vệ quyền lợi hải thƣơng của dân tộc Anh. Vào thời điểm đó, Hoàng gia Anh cũng
đang gặp phải những khó khăn về kinh tế, tài chính, cộng thêm các cuộc nổi dậy của
ngƣời Ailen và chiến tranh với Tây Ban Nha, khiến cho quá trình đàm phán diễn ra
tƣơng đối thuận lợi. Ngày 31 tháng 12 năm 1600, Nữ hoàng Elizabeth và các bộ
trƣởng đã ban bố việc thành lập Công ty Đông Ấn.
So với những công ty đƣợc thành lập trƣớc đó Công ty Đông Ấn nhận đƣợc những
đặc quyền nổi bật: Thứ nhất, văn bản của Nữ hoàng khẳng định Công ty Đông Ấn là một
thể chế kinh doanh thƣơng mại, chỉ tập trung vào hoạt động kinh doanh và tìm kiếm lợi
nhuận chứ không vƣớng bận vào các sứ mệnh chinh phạt và thuộc địa. Thứ hai, hình thức
góp vốn của Công ty dựa trên mô hình cổ phần, thay vì những phƣơng thức huy động vốn
mang tính cá nhân điển hình của thời trung đại. Thứ ba, Công ty đƣợc đặc cách chuyển
bạc nén và kim loại quý sang phƣơng Đông để trao đổi lấy thƣơng phẩm - điều bị cấm
nghiêm ngặt trong các dự luật đã tồn tại ở Anh cho đến thời điểm đó. Thứ tư, tổ chức của
Công ty đƣợc quy định bởi văn bản pháp quy, đƣợc điều hành bởi một vị Toàn quyền và
một vị Phó Toàn quyền cùng với một Hội đồng gồm các nhà đầu tƣ. Cuối cùng, Công ty

đƣợc công nhận là doanh nghiệp độc quyền trong buôn bán với phƣơng Đông.

CHƢƠNG 2
VƢƠNG QUỐC XIÊM ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XVI VÀ
NHỮNG MỐI LIÊN HỆ ANH - XIÊM ĐẦU TIÊN (1587-1611)
2.1. Vƣơng quốc Xiêm cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII
2.1.1. Vài nét về quá trình lịch sử của vương quốc Xiêm
Trƣớc khi những ngƣời nói tiếng Thái đến định cƣ ở lòng chảo sông Mênam -
Chao Phraya, miền Trung nƣớc Xiêm, đã chứng kiến sự hình thành của một quốc gia
của ngƣời Môn đƣợc biết đến với tên gọi là Dvaravati. Vƣơng quốc này tồn tại từ thế
kỷ II-VII.
6
Bƣớc sang thế kỷ XII-XIII, lịch sử của ngƣời Thái chứng kiến những chuyển
biến nhanh chóng. Do sự tác động rất lớn từ hai nhân tố. Thứ nhất là sự suy giảm
quyền lực và đi đến sụp đổ của đế chế Angkor. Dẫn đến sự trỗi dậy mạnh mẽ của
vƣơng triều Sukhothai ở trung lƣu sông Mênam. Thứ hai, Các cuộc chinh phạt của
quân đội Nguyên Mông do Hốt Tất Liệt lãnh đạo đã dẫn đến sự sụp đổ của vƣơng
quốc Pagan năm 1287. Điều này đã tạo điều kiện cho các vƣơng quốc của ngƣời Thái
có đƣợc một cơ hội bành trƣớng chƣa từng có đối với các nƣớc láng giềng. David
Wyatt cho rằng thời kỳ 1200-1351 là “một thế kỷ của người Thái”.
Từ thế kỷ XIV-XV, kể từ sau khi vƣơng triều Ayutthaya ra đời, ngƣời Thái đã
nhanh chóng vƣơn lên trở thành một thế lực mạnh ở Đông Nam Á lục địa, và giành
đoạt quyền kiểm soát miền Trung và hạ lƣu Mê Nam, phần lớn bán đảo Malai, và thực
hiện quyền minh chủ đối với Sukhothai. Đồng thời ngƣời Thái cũng mở liên tiếp các
cuộc tấn công sang các vùng đất của Angkor.
Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XVI, đặc biệt sau khi vua TraiLok băng hà, vƣơng
quốc Xiêm rơi vào tình trạng bất ổn. Lợi dụng cơ hội này, quân đội Miến Điện mở các
cuộc tấn công, đột kích xâm chiếm vùng đất của ngƣời Thái. Từ 1566-1581, ngƣời
Thái đã trải qua giai đoạn 15 năm mất nƣớc, hệ thống các quốc gia chịu thần thuộc
cũng suy yếu. Phải đến năm 1581, một lãnh tụ mới của ngƣời Thái là Pra Naret

(Hoàng tử đen) mới giành lại đƣợc độc lập cho Xiêm.
Từ đầu thế kỷ XVII, quan hệ hòa bình đã đƣợc cả hai vƣơng triều Miến Điện và
Xiêm thiết lập, thủ đô của Miến Điện dời đến Ava ở miền Bắc, các quốc vƣơng đều đi
theo chính sách cô lập. Điều tạo điều kiện để Xiêm tiến hành các cải cách kinh tế, đẩy
mạnh các hoạt động bang giao, thƣơng mại với các quốc gia trong khu vực.
1.1.2. Tình hình bang giao và thương mại
Nằm ở phía Tây Nam của bán đảo Đông Nam Á, vƣơng quốc Xiêm vừa gắn với
lục địa châu Á vừa hòa nhập với môi trƣờng kinh tế biển Thái Bình Dƣơng và Ấn Độ
Dƣơng. Từ những thế kỷ đầu sau Công nguyên, một số quốc gia hình thành trên lãnh
thổ Thái Lan hiện nay đã có những mối liên hệ giao thƣơng từ rất sớm với các quốc
gia thuộc khu vực Đông Á, Tây Nam Á cùng nhiều trung tâm kinh tế, văn hóa khác.
Do nằm ở vị trí bán đảo, nên Xiêm đã nhanh chóng trở thành điểm đến của nhiều đoàn
thuyền buôn quốc tế. Từ thời Hán (203TCN-220) đặc biệt từ thời nhà Lƣơng (502-
557) các đoàn thuyền buôn Trung Hoa ngày một xuất hiện thƣờng xuyên ở vịnh Xiêm
cùng nhiều thị trƣờng Đông Nam Á khác.
Vào thế kỷ IX-X ở Xiêm đã hình thành một số trung tâm chuyên sản xuất chuỗi
hạt và đồ trang sức. Tiêu biểu trong số đó là trung tâm sản xuất - thƣơng cảng Muang
Thong với địa danh Ko Kho Khao nổi tiếng. Tiếp nối truyền thống thủ công và thƣơng
mại, từ thế kỷ XIII-XV, chính quyền Sukhothay rồi Ayutthaya đều rất coi trọng phát
triển của kinh tế công thƣơng. Thay thế cho các trung tâm chế tác thuỷ tinh và gốm cổ,
nhiều trung tâm sản xuất thủ công mới lại xuất hiện trong đó Sangkalok, Bang Poon
(Suphaburi), Mae Nam Noi là những khu vực chuyên sản xuất sản phẩm thƣơng mại
nổi tiếng.
Trên cơ sở những phát triển mạnh mẽ của các nhân tố xã hội, kinh tế vào thế kỷ
XIII-XIV một số vƣơng quốc đã xuất hiện ở miền Trung và Nam Thái Lan. Vƣơng
quốc Thái độc lập đầu tiên là Sukhothay (1238-1438) đã có những liên hệ mật thiết với
miền Nam Ayutthaya, quốc gia trung tâm trong lịch sử Thái Lan suốt 416 năm sau đó.
2




2
Chẳng hạn, nhà nghiên cứu ngƣời Thái Tharapong Srisuchat đã phác dựng lại các 10
tuyến thƣơng mại truyền thống hình thành trên đất Thái trƣớc thế kỷ XVI. Xin xem chi
7
Do nằm ở giữa Lopburi và Suphanburi thuộc hạ lƣu Chao Phraya có nhiều điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển nên ngay từ thế kỷ XIV đã trở thành thƣơng cảng sôi động,
sớm vƣơn lên trở thành vƣơng quốc trung tâm rồi thống nhất Thái Lan.
Đến thế kỷ XIV vùng hạ lƣu sông Chao Phraya có sự phát triển mạnh mẽ của
trung tâm quyền lực mới Ayutthaya. Nguồn lợi từ đồng bằng Chaophraya hỗ trợ đắc
lực ngƣời Thái mở rộng các hoạt động giao thƣơng, buôn bán, mà trƣớc tiên là kiểm
soát chặt chẽ việc buôn bán nông phẩm. Theo đó, Anthony Farrington và Dhiravat na
Pombejra cũng cho rằng: „„Thương cảng Ayutthaya đã trông cậy vào những nguồn lợi
tự nhiên trù phú trong nội địa, đặc biệt là sản phẩm lâm nghiệp, họ có thể bán lại
hoặc vận chuyển đến các cảng thị khác. Thành phố của Ayutthaya rất gần vịnh Xiêm,
chiều dài bờ biển của Xiêm, được nuôi dưỡng bởi cả thương mại ven biển và thương
mại đường dài. Trong khi đất đai được bao phủ bởi các cánh rừng nhiệt đới tươi tốt,
mang lại sản lượng rất lớn nguồn động vật hoang dã, gỗ thơm và thuốc nhuộm cùng
nhiều mặt hàng có giá trị khác, các vùng biển có nhiều cá, trong đó da cá đuối rất có
giá trị kinh tế. Ngoài ra phải kể đến các khoáng sản tự nhiên như chì, nhất là thiếc.
Tất cả thương nhân phương Tây đến Xiêm đều quan tâm đến một số nếu không muốn
nói là tất cả các mặt hàng này. Đó là điều kiện địa lý và tự nhiên tạo nền tảng khẳng
định vai trò của Xiêm trong nền hải thương châu Á”.
3

Trong số các mối quan hệ bang giao, thƣơng mại, ngƣời Thái đặc biệt coi trọng
mối liên hệ với triều đình Trung Hoa. Từ nửa sau thế kỷ XIII, nhiều quốc gia ở vịnh
Xiêm đã gửi các phái đoàn đến Trung Hoa. Theo Nguyên sử, từ năm 1282 đã có những
mối quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Xiêm La, cuốn sử đó đã ghi lại những sứ
bộ của ngƣời “Sien” vào những năm 1292,1294,1295,1297 và 1299. Truyền thuyết lịch

sử của Xiêm còn ghi nhận rằng đích thân vị vua vĩ đại của vƣơng triều Sukhothai đã
từng trực tiếp đến viếng thăm triều đình Trung Hoa 1 đến 2 lần và mang về nƣớc nghệ
thuật làm gốm sứ.
4
Cũng trong khoảng thời gian này, vƣơng quốc Lavor gửi 4 phái
đoàn đến Trung Hoa vào giữa các năm 1289 và 1299, trong khi Xiêm gửi 8 phái đoàn
giữa các năm 1292 và 1323. Các phái đoàn cũng đến từ Phetchaburi năm 1294 và
Suphanburi năm 1374. Năm 1299, phái đoàn của Xiêm đã có kiến nghị thu mua các
sản phẩm nổi tiếng của Trung Hoa nhƣ yên ngựa, dây cƣơng, ngựa bạch
Thời kỳ đỉnh cao trong hoạt động trao đổi sứ thần giữa Trung Quốc và Xiêm
diễn ra vào nửa đầu thế kỷ XV, trong thời gian trị vì của 3 triều vua vĩ đại: Intharacha
(1409-1424), Borommaracha II (1424-1428) and Trailok (1448-1488). Mối quan hệ
sâu sắc này diễn ra cùng thời điểm với 2 sự kiện quan trọng tác động đến thƣơng mại
khu vực. Đầu tiên là sự thành lập vƣơng quốc Hồi giáo Malaka năm 1400 và nhanh
chóng phát triển thành trạm trung chuyển thƣơng mại của khu vực. Thứ hai là 7
chuyến thám hiểm của Trịnh Hòa, 22 phái đoàn Xiêm đã đƣợc gửi đến Trung Quốc, 8
phái đoàn của Trung Quốc cũng đƣợc lệnh đến Xiêm. Theo ghi chép, từ năm 1371-
1503, trong khuân khổ của chế độ triều cống, triều đình Xiêm đã cử 78 phái đoàn
ngoại giao - thƣơng mại đến Trung Hoa. Về phía Xiêm, vào các năm 1403-1442, triều
đình Ayutthaya đã đón tiếp 13 sứ đoàn Trung Hoa trong đó có 2 phái đoàn của Trịnh
Hòa đến Xiêm năm 1408 và 1421. Do tính chất quan trọng trong quan hệ với Xiêm,


tiết từ Nguyễn Văn Kim, “Hoạt động thƣơng mại của các vƣơng quốc cổ Thái Lan”,
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 2009, tr. 13-14.
3
Anthony Ferrington & Dhiravat na Pombejra, English factoy in Siam 1612-1685,
(The British Library, 2007), p. 3.
4
P.Pelliot, Deux intinéraires, BEFEO, pp. 242; Dẫn lại theo G.Coedes, Cổ sử các

quốc gia Ấn Độ hóa ở viễn đông, Nxb Thế giới, 2008, tr. 367
8
triều đình nhà Minh thậm chí phải thƣờng xuyên cử ngƣời về vùng Quảng Đông để
tìm kiếm thông ngôn. Đến 1578, triều đình Minh lập một bộ phận thông dịch tiếng
Thái trong Ban thông dịch ở vƣơng triều.
5

Do đạt đƣợc những lợi nhuận rất lớn từ hoạt động thƣơng mại triều cống nên
các vƣơng triều Thái đã rất chăm chút cho mối quan hệ với Trung Quốc. Mặt khác ở
Xiêm, nhân cơ hội có quyền lực thực sự trong việc tổ chức các đội thƣơng thuyền, các
thƣơng nhân Hoa kiều đã tạo ra cho ngƣời Hoa ở đây một uy thế khá mạnh, thậm chí
họ còn lập đƣợc những chính quyền địa phƣơng buôn bán độc lập, đƣợc nhà nƣớc sở
tại thừa nhận nhƣ ở Pontianak, Songkla, và Phutaimat. Đến đầu thế kỷ XVII, hoạt
động thƣơng mại giữa Xiêm và Trung Hoa vẫn đƣợc duy trì đều đặn, thậm chí “Kể từ
khi chính quyền Trung Hoa hạn chế ngoại thương, rất nhiều thương nhân buộc phải
định cư lại ở các vùng đất phương Nam, nơi họ có thể tiến hành các hoạt động thương
mại. Các trung tâm thương mại hình thành ở vùng biển Nam Trung Hoa. Cộng đồng
Trung Hoa định cư ven vịnh Thái Lan là những người định cư lâu dài tại vùng đất
này. Họ trở thành bộ phận sống còn cho thương mại với Đông Nam Á và kết nối với
thương mại Trung Hoa.
6

Vị trí địa lý thuận lợi đã đƣợc Xiêm khai thác triệt để nhằm mở rộng các mối
quan hệ trao đổi thƣơng mại, buôn bán. Nó là cầu nối giữa vùng nội địa với vùng biển.
Trong thời gian đó Ayutthaya cách vịnh Xiêm 100 km. Từ đầu, khi vùng đất này trở
thành nơi có thể cƣ trú đƣợc, đây đã là vị trí thiên phú cho trung tâm thƣơng mại hình
thành và phát triển. Hàng hóa từ nội địa có thể đã đƣợc mang tới và đóng kho ở đây để
chuẩn bị cho các tàu viễn dƣơng, các hàng hóa đƣợc nhập khẩu dễ dàng và sau đó
đƣợc phân phối đến các nơi trên nội địa bao gồm cả lƣu vực sông Mê Kông.
7


Thế kỷ XVII, đƣợc xem nhƣ là kỷ nguyên hƣớng ngoại trong lịch sử của vƣơng
quốc Xiêm. Ngay từ đầu, nhà nƣớc mở cửa và khuyến khích các thƣơng nhân ngoại
quốc đến trao đổi buôn bán. Vì vậy các sản phẩm của Xiêm có mặt ở rất nhiều thị
trƣờng trong khu vực, từ Nhật Bản ở phía đông đến Ba Tƣ ở phía Tây. Sự phồn vinh
của vƣơng quốc Xiêm đã đƣợc các thƣơng nhân phƣơng Tây so sánh nhƣ một “Vinece
ở phương Đông”.
8

Trong số các sản phẩm xuất khẩu, gạo đã trở thành mặt hàng quan
trọng nhất Xiêm trong nhiều thế kỷ. Một số sản phẩm xuất khẩu khác nhƣ bạch đậu
khấu, hạt tiêu đƣợc dùng để nấu ăn, và làm thuốc. Các sản phẩm khai thác từ rừng
nhƣ: gỗ tô mộc, gỗ lô hội, trầm hƣơng, cánh kiến, nhựa thông cũng giá trị xuất khẩu
cao. Bên cạnh đó, các sản phẩm nhƣ dầu dừa, cá khô, hạt lucraban, bột cọ sagu, muối,
đồ uống có cồn làm từ các loại trái cây và đƣờng chƣa tinh chế cũng rất đƣợc ƣa
chuộng trên thị trƣờng. Ngoài ra phải đến các sản phẩm xuẩt khẩu thiết thực khác gồm,
đồ gốm sứ giá rẻ (dùng làm bình chứa nƣớc sử dụng trên tàu), gamboges, hƣơu, sừng
bò, sáp, các loại nhựa cây Các kim loại gồm sắt, chì, thiếc cũng đƣợc xuất khẩu.


5
Anthony Reid, Southeast Asia in the early Modern Era: Trade, Power, and Belief,
(Cornell university Press, 1993), pp. 182.
6
Kennon Breazeale, From Japan to Arabia: Ayutthaya’s Maritime Relations with
Asia, pp. 66.
7
Kennon Breazeale, From Japan to Arabia: Ayutthaya’s Maritime Relations with
Asia, pp. 55.
8

Một nhà du hành ngƣời Bồ Đào Nha ở thế kỉ XVI tên là Fernao Mendes Pinto, đã ví
Ayutthaya nhƣ “Vinece ở phƣơng Đông”. Dẫn lại từ Khomkhan Diwongsa, “Domestic
trade during the Ayutthaya period”, Muang Boran Journal, 10.2, April-June,1984, pp.
75.
9
Đồng của Nhật Bản đƣợc nhập khẩu để chế tạo ra các vật dụng nhƣ hình tƣợng
Buddha và xuất khẩu tới các quốc gia Đông Nam Á.
Nhìn chung, Xiêm xuất khẩu phần lớn các sản phẩm nhiệt đới và nhập khẩu hàng
hóa từ các quốc gia khác của châu Á. Hàng dệt là sản phẩm nhập khẩu quan trọng nhất,
đặc biệt là vải bông từ các vùng bờ biển phía đông Ấn Độ. Vải tiếp tục đứng đầu trong
danh mục các sản phẩm nhập khẩu từ Ấn Độ khi Bangkok trở thành thủ đô của Xiêm.
Việc buôn bán vải bông cũng cung cấp một một khoản doanh thu lớn cho triều đình bởi vì
vải vóc là sản phẩm buôn bán độc quyền của hoàng gia từ khoảng đầu những năm 1600.
Nhà nƣớc quản lý tối cao đối với các sản phẩm trong lãnh thổ của mình nhằm
phục vụ cho việc cung cấp các sản phẩm hàng hóa xuất nhập khẩu. Lâm sản là sản
phẩm phổ biến nhất trong danh mục các hàng hóa độc quyền duy nhất của nhà nƣớc và
tất cả các sản phẩm hàng hóa của địa phƣơng đều đƣợc lƣu trữ trong kho hàng của
hoàng gia ở Ayutthaya. Mặt khác các hàng hóa có thể đƣợc thu mua thông qua thuế
hiện vật (gọi là Suai). Với cách này vƣơng quốc không chỉ duy tri một nguồn cung cấp
đầy đủ các sản phẩm cho xuất khẩu mà còn sử dụng hiệu quả sức mạnh kinh tế do
chính quyền địa phƣơng quản lý, nơi làm ra các sản phẩm. Số sản phẩm này có thể
đƣợc bán trực tiếp từ các kho hàng hoàng gia cho các tƣ thƣơng trên tuyến thƣơng mại
Đông-Tây, hoặc có thể gửi trên các tàu tƣ nhân đem bán ở các hải cảng châu Á.
2.2. Những mối liên hệ Anh-Xiêm đầu tiên (1587-1611)
Trong tƣơng quan với khu vực hải đảo, vùng Đông Nam Á lục địa không phải
là địa bàn thực sự hấp dẫn khi ngƣời phƣơng Tây thâm nhập vào phƣơng Đông. Căn
nguyên của hiện thực lịch sử trên có thể đƣợc lý giải một cách hết sức đơn giản: Đông
Nam Á lục địa không nổi tiếng về các loại hƣơng liệu - lực hấp dẫn chính đối với các
thƣơng nhân châu Âu.
Trong số các thế lực hàng hải phƣơng Tây, ngƣời Anh không phải là quốc gia

đầu tiên thiết lập quan hệ buôn bán với vƣơng quốc Xiêm. Những mối liên hệ quan
phƣơng đầu tiên giữa ngƣời phƣơng Tây và vƣơng quốc Thái diễn ra vào năm 1511,
khi một sứ đoàn Bồ Đào Nha đƣợc cử đến kinh đô Ayutthaya của vƣơng quốc Xiêm.
Nhận thấy tầm ảnh hƣởng cả về chính trị và thƣơng mại của Xiêm ở khu vực bán đảo
Mã Lai, ngay sau khi chiếm giữ Malacca, phái đoàn Bồ Đào Nha do Duarte Fernandes
dẫn đầu đã theo một thuyền buôn Trung Quốc đến Ayutthaya, nơi họ đƣợc tiếp đón
nồng nhiệt và đƣợc tặng nhiều quà. Cuối năm đó sứ bộ thứ hai của ngƣời Bồ tiếp tục
sang Ayutthaya để tăng cƣờng quan hệ, đồng thời thu thập những tin tức về triển vọng
buôn bán ở vƣơng quốc ngƣời Thái. Với việc sứ bộ thứ ba đƣợc cử sang thƣơng lƣợng
với triều đình Xiêm vào năm 1518, hai bên đã đạt đƣợc những thỏa thuận quan trọng:
ngƣời Bồ đƣợc phép lƣu trú buôn bán cũng nhƣ tự do hoạt động tôn giáo ở Xiêm để
đổi lại việc cung cấp cho triều đình Ayutthaya súng và thuốc súng (về sau gửi cả lính
đánh thuê sang Xiêm).
Trong suốt thế kỷ XVI, ngoại trừ sự xuất hiện của ngƣời Tây Ban Nha vào năm
1598,
9
ngƣời Bồ Đào Nha là những thƣơng nhân phƣơng Tây duy nhất hoạt động tại
Xiêm. Mặc dù vậy, theo David K. Wyatt, người Bồ hầu như không tạo nên được tác
động vật chất đáng kể nào đến Xiêm, cho dù sự hiện diện của một số lượng đáng kể
thần công người Bồ đưa vào. Các mạng lưới thương mại khu vực của người Thái vẫn
được duy trì, trong khi hoạt động truyền giáo của người Bồ ở Xiêm trong phần lớn thế


9
Năm 1598 Ayutthaya và Tây Ban Nha đã ký hiệp ƣớc hữu nghị và thƣơng mại.
Theo hiệp ƣớc này các thƣơng nhân và giáo sĩ Tây Ban Nha đƣợc quyền cƣ trú,
buôn bán và truyền giáo ở Ayutthaya. Xin xem thêm D.G.Hall, Lịch sử Đông
Nam Á, tr. 402.
10
kỷ XVI cũng không thu được những thành quả nổi bật.

10
Vào cuối thế kỷ XVI, quan hệ
giữa ngƣời Thái và ngƣời Bồ trở nên căng thẳng do sự lấn lƣớt của ngƣời Bồ Đào Nha
ở các tuyến buôn bán trong vịnh Bengal, nhất là âm mƣu chiếm đóng Tenasserim (cửa
ngõ thƣơng mại quan trọng thông ra Ấn Độ Dƣơng mà ngƣời Thái đã chiếm đƣợc từ
năm 1593) của một kẻ phƣu lƣu ngƣời Bồ tên là Philip de Brito.
Trong bối cảnh quan hệ của Xiêm với ngƣời Bồ ngày càng trở nên căng thẳng,
sự xuất hiện của ngƣời Hà Lan tại bán đảo Mã Lai và vùng quần đảo Đông Nam Á từ
cuối thế kỷ XVI nhanh chóng thu hút đƣợc sự quan tâm của triều đình Ayutthaya. Mùa
hè năm 1604, trên đƣờng từ Borneo trở về Ayutthaya, sứ thần của Xiêm dừng chân tại
Patani và thông báo cho Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) rằng triều đình đang chuẩn
bị cử thƣơng thuyền đi Trung Quốc và ngƣời Hà Lan có thể mở quan hệ với nhà Minh
bằng cách cử sứ bộ đi trên tàu của triều đình Xiêm. Nhận thấy đây là cơ hội thuận lợi
để mở quan hệ với cả Trung Quốc và Xiêm, thƣơng nhân Hà Lan Cornelis Specx và
Lambert Heijn đƣợc phái sang Ayutthaya. Tuy nhiên chuyến đi Trung Quốc dự kiến
vào năm 1605 liên tục bị hoãn, đầu tiên là do cuộc chiến tranh với Miến Điện, sau là
việc vua Naresuan (1590-1605) băng hà. Specx quyết định hủy tham gia chuyến đi
Trung Quốc do lo ngại chi phí quá cao.
11

Chuyến thăm Xiêm đầu tiên của thƣơng nhân Hà Lan không đạt đƣợc mục tiêu
đề ra là thâm nhập Trung Quốc qua sự giới thiệu của triều đình Ayutthaya. Tuy nhiên
nó đã mở ra khả năng hợp tác mậu dịch và ngoại giao lâu bền với vƣơng quốc ngƣời
Thái. Có thể nói, thƣơng mại là mục tiêu duy nhất của VOC khi thiết lập quan hệ với
Xiêm trong khi Ayutthaya lại kỳ vọng nhiều hơn là buôn bán thuần túy. Triều đình
Xiêm nhận thấy VOC có thể trở thành đồng minh chiến lƣợc trong việc hạn chế âm
mƣu của ngƣời Bồ Đào Nha ở Tenasserim nên tích cực thúc đẩy quan hệ với VOC.
Năm 1607, vua Xiêm cử một sứ đoàn sang thăm Hà Lan, nơi ngƣời Thái đƣợc đón tiếp
nồng nhiệt và trở về Xiêm an toàn vào năm 1610. Cũng trong năm đó, Ayutthaya
không chỉ thẳng thừng từ chối yêu cầu của ngƣời Bồ Đào Nha về việc trục xuất ngƣời

Hà Lan ra khỏi Xiêm mà còn cho phép thƣơng nhân Xứ Đất thấp đƣợc xây dựng pháo
đài và thƣơng điếm ở Mergui, gần Tenasserim nhằm kìm chân ngƣời Bồ ở khu vực
vịnh Bengal cũng nhƣ dè chừng ngƣời Miến trong nỗ lực tiến xuống phía nam. Năm
1612, ngƣời Hà Lan đƣợc vua Song Tham (1611-1628) triệu tập để giúp quân đội triều
đình sử dụng thần công trong trận chiến quyết định chống lại sự xâm lƣợc của vƣơng
quốc Lan Chang. Sự đáp ứng nhiệt thành của ngƣời Hà Lan khiến vua Xiêm hài lòng
và lại cử sứ đoàn mang thƣ và quà đến Toàn quyền Pieter Both tại Bantam nhằm thắt
chặt quan hệ song phƣơng.
12

Mặc dù chậm chân hơn so với các thƣơng nhân phƣơng Tây khác, nhƣng từ rất
sớm trƣớc khi đặt quan hệ thƣơng mại chính thức, thƣơng nhân Anh cũng đã có những
mối liên hệ đầu tiên với Xiêm. Ngay sau khi Lischoten đến Goa (1584), các thƣơng gia
Anh nhƣ John Newbury và Ralph Fitch đã đƣợc đƣa đến thƣơng điếm nhƣ là những tù
nhân của Bồ Đào Nha. Ralph Fitch đã không đến Tanasserim, nhƣng năm 1587, ông
khởi hành từ Pegu đến Malacca, ông đã đến nhiều vùng đất thuộc Pegu…. và các đảo


10
David K. Wyatt, “Thailand: A Short History,” 2
nd
edition, (Chiang Mai:
Silkworm Books, 2003), pp. 74.
11
George V. Smith, The Dutch in Seventeenth-Century Thailand (Northern
Illinois University: Center for Southeast Asian Studies, Special Report No. 16,
1977), pp. 10.
12
Smith, The Dutch in Seventeenth-Century Thailand, pp. 14
11

của Tanasseri.
13
Ral Fitch là ngƣời đầu tiên đến và có những ghi chép về Chieng Mai
năm 1587. Tuy nhiên, khi đó Chiengmai vẫn chƣa trở thành một phần của vƣơng quốc
Xiêm mà đang là thủ đô của vƣơng quốc Lanna.
Ngoài ra, bản tƣờng thuật của Edmun Barker về các chuyến đi của Sr. James
Lancaster đã ghi lại rằng các tàu đã thả neo ở Sri Lanka tháng 12/1592 để chờ đợi sự
xuất hiện của một số tàu buôn của Bồ Đào Nha đi từ Tenasserim, một địa điểm đƣợc
mô tả là “một vùng đất rất lớn ở phía nam Martabam, thuộc vƣơng quốc Xiêm”. Trong
số các mặt hàng mà tàu Bồ Đào Nha mang về từ Tenasserim gồm có gạo, rƣợu và nipa
để phục vụ cho các tàu thƣờng khởi hành từ Cochin đến Bồ Đào Nha vào tháng
Giêng.
14
Trong một ghi chép khác của John Davis - ngƣời đã khởi hành từ Middelburg
(Hà Lan) vào ngày 15/3/1598 và đến Tenasserim năm 1600 - “…thành phố
Tenasserim là một địa điểm thƣơng mại lớn, có từ bốn đến 14 thuyền thả neo ở 1 đảo
trong vịnh…”.
15

Đến cuối thế kỷ XVI, Xiêm và Tenasserim đã đƣợc các thƣơng nhân Anh biết
đến trong một báo cáo của Foulke Grevil đệ trình lên Nữ hoàng Elizabeth năm 1600.
Báo cáo nêu rõ lý do vì sao thƣơng nhân London có thêm sức mạnh để tiến hành
thƣơng mại với miền Đông Ấn, đặc biệt là với các vƣơng quốc giàu có và những lãnh
địa đó không phải của nhà vua Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
16

Đầu thế kỷ XVII, thƣơng nhân Anh đã trở nên rất nổi tiếng và đƣợc biết đến ở
các vùng biển thuộc bán đảo Mã Lai - nơi họ sớm thể hiện sức mạnh và xây dựng lòng
tin đối với các quốc vƣơng bản địa. Hạm đội của Lancaster đã đến Aceh vào ngày
5/6/1602, ở đây họ đã gặp một vị đại sứ đến từ vƣơng quốc Xiêm. Sau khi rời đến

Bantam, thƣơng nhân Anh đã đƣợc phép thiết lập cơ quan thƣơng mại đầu tiên ở đây.
Bantam rất thích hợp nhất cho việc thành lập cơ quan đại diện thƣơng mại đầu tiên của
Anh, vì đó không chỉ là trung tâm buôn bán địa phƣơng thịnh vƣợng mà còn là hải
cảng mà các tàu bè Trung Quốc đến lấy hạt tiêu. Bantam tiếp tục là trung tâm buôn
bán thịnh vƣợng của ngƣời Anh mãi đến 1682, sau khi bị Công ty Đông Ấn Hà Lan
đánh bật khỏi đây.
Khi ngƣời Anh quyết định thiết lập quan hệ thƣơng mại với Xiêm, Công ty
Đông Ấn Anh đã lựa chọn Pattani - một cảng ở phía đông của bán đảo Mã Lai, mà
không phải là Mergui và Tenasserim, để tiến hành trao đổi buôn bán. Patani khi đó là
một quốc gia nhỏ, chƣ hầu của Xiêm, lãnh thổ đƣợc giới hạn ở phía bắc tỉnh Xiêm của
Singora hoặc Songkla, phía tây giáp Quedda, phía nam giáp Kalanta, phía đông giáp
vịnh Xiêm. Tuy nhiên việc triều cống không đáng kể vì nó chỉ bao gồm 1 bông hoa
bằng vàng gửi một năm một lần, kèm theo một số tơ lụa, sau này đƣợc giới hạn bởi vải
đỏ tƣơi.
17

Tuy nhiên, trong số các thế lực hàng hải phƣơng Tây lúc đó, Bồ Đào Nha mới
là thế lực châu Âu đầu tiên trao đổi thƣơng mại với Patani. Quan hệ giữa Bồ Đào Nha
với Patani đƣợc bắt đầu từ năm 1517, ngay sau khi phái đoàn Duarte Coelho vào kinh
đô Xiêm. Ngƣời Bồ Đào Nha đến đây với số lƣợng thƣờng xuyên hơn dƣới thời kỳ của


13
Hakluyt Colllection of Voyages, Vol.2, p.262. Dẫn lại từ John Anderson, English
intercourse with Siam in the seventeenth Century, (LonDon: Kegan Paul, Trench,
Trubner, & Co Ltd, 1890. Reprinted 2000, 2001 by Routledge), pp. 35.
14
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth Century, pp. 35.
15
Davis‟ Voyages, pp. 154, dẫn lại từ John Anderson, English intercourse with Siam

in the seventeenth Century, pp. 36.
16
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth Century, pp. 36.
17
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth Century, pp. 36.
12
Pinto năm 1538, trƣớc đó đã có khoảng 300 ngƣời Bồ Đào Nha định cƣ tại cảng này.
Theo các hiệp ƣớc thƣơng mại ký với Xiêm, Bồ Đào Nha đƣợc phép buôn bán ở kinh
đô Ayutthaya, Mergui và Tenasserim trên vịnh Belgan, Pattani và Nakon Srit‟ammarat
trên bờ biển phía tây của bán đảo Mã Lai. Cả Ayutthaya và Pattani đều đã có buôn bán
đáng kể với Trung Quốc và các cơ quan thƣơng mại của ngƣời Bồ ở hai nơi đó đều
làm ăn rất phát đạt. Các hải cảng Xiêm cũng là những địa điểm rất thuận lợi để tàu bè
Bồ Đào Nha đi Trung Quốc có thể trú ẩn trong thời kỳ gió mùa đông bắc làm cho việc
đi lại trên biển Đông gặp khó khăn.
18

Thực ra ngay từ đầu, Patani chứ không phải Ayutthaya đã thu hút đƣợc sự chú ý
của thƣơng nhân Anh ở Đông Nam Á hải đảo. Pattani là cảng hạt tiêu, vào đầu thế kỷ
XVII đã đạt đến đỉnh cao của sự thịnh vƣợng.
19
Đầu thế kỷ XVII, Pattani là một cảng
thị lý tƣởng để tiến hành buôn bán, trao đổi thƣơng mại. Thƣơng nhân Anh, thƣờng
xuyên ghé vào Patani bằng các tàu đến từ Surat, Goa, Coromandel, hay các thuyền
mành từ Trung Quốc, Nhật Bản. Một trong những ngƣời Anh tiên phong tìm kiếm con
đƣờng đến Pattani là John Davis nhƣng không may ông này bị cƣớp biển Nhật Bản
giết chết vào tháng 5 năm 1605.
Sự trù phú, giàu có của Patani đã đƣợc thƣơng nhân Anh tên là Mandelslo miêu
tả nhƣ sau: Patani là nơi cung cấp đầy đủ lƣơng thực “các cư dân ở đây có một số trái
cây “moneth”, gà mái đẻ hai lần mỗi ngày, đất nước này có thừa các thứ cung cấp
cho dạ dày như gạo, thịt bò, dê, ngan, ngỗng, vịt, gà mái, gà trống thiến, con công,

hươu, nai, thỏ, rừng, chim, đặc biệt là trái cây, có trên 100 loại khác nhau”.
20

những ghi chép trên có phần hơi phóng đại, xong nó cũng phản ánh phần nào thực tế
về sự giàu có của Patani.
Mặt khác, Pattani lúc đó còn thu hút sự có mặt của các thƣơng nhân châu Á
khác. Hàng hóa Trung Quốc cũng đã đƣợc mang đến Pattani, nơi có số lƣợng đáng kể
cộng đồng ngƣời Hoa định cƣ. Quốc vƣơng của Pattani, cũng giống nhƣ một vài nhà
cai trị ngƣời Malay khác (đặc biệt là vua Kedah), đã trở thành chƣ hầu của Xiêm. Mọi
mối liên hệ với Patani sẽ tạo điều kiện dẫn đến sự hiểu biết đầy đủ hơn về vƣơng quốc
Xiêm. Một thƣơng nhân Anh rất nổi tiếng là John Davis, trở thành ngƣời đầu tiên có
liên hệ chính thức với Patani sau khi vị thƣơng nhân này giết chết một kẻ cƣớp biển
ngƣời Nhật viên vào tháng 9 năm1605.
21
Cũng trong năm này, Công ty Đông Ấn Hà
Lan cũng chính thức thành lập thƣơng điếm của mình ở Pattani. Sự cạnh tranh khốc
liệt giữa ngƣời Anh và Hà Lan càng gia tăng mạnh mẽ hơn bởi sự quan tâm của họ đối
với cả hai thƣơng quán ở Patani và Ayutthaya.
Khi thuyển trƣởng William Keeling ghé thăm Bantam năm 1608, ông ta cũng
đã gặp phái bộ ngoại giao đƣợc vua Xiêm phái đến. Hai bên đã có những trao đổi cởi
mở đầu tiên. Sau đó William Kelling đã quay trở lại Anh vào ngày 10/5/1610 và báo
cáo lên hội đồng Đông Ấn của Công ty. Nhƣng có thể từ hai năm trƣớc họ đã chú ý
đến Xiêm bởi sự có mặt của viên đại sứ Xiêm trong lâu đài của hoàng tử Maurice
thống đốc của United provinces ở Hooland và Zealand.
2.3. Tiểu kết


18
D.G. Hall, Lịch sử Đông Nam Á, tr. 387.
19

IOR:E/3/5 no.638. Anthony Farrington and Dhiravat na Pombejra, The English
Factory in Siam 1612-1685, (The British Library, Vol.1, 2007), pp. 241.
20
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth Century, pp. 44.
21
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth Century, pp. 43-
44.
13
Nhƣ vậy, cho đến đầu thế kỷ XVII, việc giành độc lập từ ngƣời Miến Điện đã
mở ra một giai đoạn hòa bình lâu dài, tạo điều kiện để vƣơng quốc Xiêm nhanh chóng
phát triển trở thành một thể chế mạnh ở Đông Nam Á lục địa.
Sớm có truyền thống hƣớng biển, cùng với vị trí địa lý thuận lợi, vƣơng quốc
Xiêm đã nhanh chóng thiết lập đƣợc mối quan hệ thƣơng mại với nhiều quốc gia trong
khu vực. Thế kỷ XVI-XVII, cùng với những biến chuyển của khu vực và thế giới,
vƣơng quốc Xiêm đã thể hiện sự chủ động dự nhập vào mạng lƣới giao thƣơng rộng
lớn từ Nhật Bản cho đến Ảrập, góp phần làm nên thời kỳ hoàng kim trong thƣơng mại
châu Á. Có thể nói, “không có một quốc gia châu Á nào có thể sánh đƣợc với vƣơng
quốc Xiêm, nó có mối quan hệ rất rộng mở và đa dạng với hải thƣơng khu vực, trong
thời kỳ Ayutthaya là thủ đô của Thái Lan”.
22

Bên cạnh hoạt động của các thƣơng nhân châu Á, thế kỷ XVII cũng chứng kiến
sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các thế lực hàng hải phƣơng Tây vào thị trƣờng
khu vực. Tuy không thực sự hấp dẫn nhƣ khu vực Đông Nam Á hải đảo, nhƣng vƣơng
quốc Xiêm cũng là thị trƣờng hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao cho hoạt động buôn bán
của thƣơng nhân phƣơng Tây. Mặc dù không phải là những thƣơng nhân ngoại quốc
đầu tiên hoạt động ở Xiêm, nhƣng công ty Đông Ấn Anh cũng đã không gặp mấy khó
khăn để thiết lập quan hệ thƣơng mại ở đây. Đặc biệt, sự kiện phái đoàn Thomas
Essington và Lucas Antheuniss tiếp kiến vua Xiêm cuối năm 1612 đánh dấu mối quan
hệ thƣơng mại Anh - Xiêm đã đƣợc thiết lập. Từ sau sự kiện này, đánh dấu một thời kỳ

nhiều thăng trầm trong quan hệ thƣơng mại, bang giao giữa hai quốc gia.
CHƢƠNG 3
CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH Ở VƢƠNG QUỐC XIÊM (1612-1623)
3.1. Phái đoàn Thomas Essington - Lucas Antheuniss và sự thiết lập quan
hệ giữa Công ty Đông Ấn Anh và Xiêm (1612)
Quá trình thiết lập chính thức quan hệ thƣơng mại giữa Anh - Xiêm diễn ra
trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Trong khi quan hệ quan hệ của Xiêm với ngƣời Bồ
ngày càng trở nên căng thẳng, sự xuất hiện của ngƣời Hà Lan tại bán đảo Mã Lai và
vùng quần đảo Đông Nam Á từ cuối thế kỷ XVI nhanh chóng thu hút đƣợc sự quan
tâm của triều đình Ayutthaya.
Tuy nhiên, chủ trƣơng “phi liên đới” của Công ty Đông Ấn Hà Lan trong quan
hệ với Xiêm khiến Toàn quyền Pieter Both đáp lại sự nhiệt tình của vua Song Tham
bằng sự dè dặt và thái độ lƣỡng lự. Rõ ràng là, trong bối cảnh tiềm lực quân sự và kinh
tế của ngƣời Hà Lan tại phƣơng Đông còn hạn chế, Toàn quyền hoàn toàn có lý khi
không muốn can dự quá sâu vào tình hình chính trị của Xiêm.
Việc ngƣời Hà Lan đang nỗ lực né tránh sự săn đón của triều đình Ayutthaya,
hứa hẹn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thƣơng nhân Luân Đôn dễ dàng hơn trong việc
thiết lập quan hệ chính thức ở vƣơng quốc Xiêm. Theo tính toán của ngƣời Anh lúc
đó, có thể đƣa vải Ấn Độ, hàng dệt châu Âu, bạc thỏi Tây Ban Nha để trao đổi các sản
phẩm lâm nghiệp, thiếc, gạo, da cá đuối và các sản phẩm có sẵn ở Xiêm. Hàng hóa
Trung Quốc cũng có thể đƣợc mua ở Xiêm với số lƣợng hạn chế. Thƣơng mại dệt Ấn
Độ cũng đƣợc tiến hành bởi ngƣời Ba Tƣ và những ngƣời gốc Ấn khác ở đây. Do vậy,
vào đầu thế kỷ XVII, việc trao đổi thƣơng mại với vƣơng quốc Xiêm luôn hứa hẹn sẽ
đem lại nhiều lợi nhuận lớn. Một thƣơng nhân Anh đã viết “Xiêm - bên cạnh một thực
tế là nơi bán vải vóc của Coromandel - một sản phẩm mà rất đƣợc ƣa chuộng ở đây, và
có thể trị giá 40 hoặc 50.000 Rs mỗi năm. Ở đây cũng có loại da đanh, gỗ tô mộc để


22
Kennon Breazeale, From Japan to Arabia: Ayutthaya’s Maritime Relations with

Asia, pp. 58.
14
bán cho Nhật Bản; vàng và hồng ngọc cũng cho lợi nhuận rất cao và nếu Xiêm trong
thời kỳ hòa bình thì buôn bán sẽ rất thuận lợi…”.
23
Trên cơ sở những tính toán đó và
mối liên hệ đã có từ trƣớc Công ty Đông Ấn Anh đã quyết định phái tàu Globe sang
phƣơng Đông mang theo sứ mệnh thiết lập quan hệ thƣơng mại với Xiêm. Theo đó tàu
Globe sẽ đƣợc chỉ huy bởi thuyền trƣởng Anthony Hippon, với ban giám đốc gồm các
thƣơng nhân William Floris, Adam Denton, Thomas Essington và Lucas Antheuniss.
Trƣớc khi đến Ayutthaya, tàu Globe đã cập cảng Patani ngày 23/6/1612. Sau
khi gặp một trận bão đổ bộ vào đồng bằng Menam, ngày 26/10/1612 đoàn tàu khởi
hành từ vịnh Xiêm đã buộc phải quay trở lại Patani vào tháng 11. Patani lúc này đƣợc
cai trị bởi một Nữ hoàng… Trong con mắt của thƣơng nhân Luân Đôn, nữ hoàng
Patani là một ngƣời phụ nữ hòa nhã “khoảng 60 tuổi, cao lớn và đầy đủ vẻ uy nghiêm,
trong tất cả các xứ Ấn chúng tôi gặp vài người giống họ”.
24
Để tranh thủ sự ủng hộ,
Floris đã tài trợ một khoản tiền cho một buổi biểu diễn nhân dịp Nữ hoàng vi hành sau
7 năm sống trong cung điện. Trong thời gian này Floris cũng quyết định mở rộng
thƣơng mại bao gồm cả Nhật Bản, nhƣng để thuận tiện, ông ta đã vay tiền từ ngân khố
của Nữ hoàng Patani. Cũng giống nhƣ các vị quân vƣơng trên bán đảo Ấn - Mã Lai,
Nữ hoàng là ngƣời đứng đầu về thƣơng mại, nắm giữ độc quyền trong vƣơng quốc nhỏ
của mình.
Tại Pattani, thƣơng nhân Anh đƣợc Nữ hoàng tiếp đón rất nồng hậu. Tuy nhiên,
họ cũng sớm nhận thấy thái độ thù ghét từ ngƣời Hà Lan - đã có mặt ở đây từ năm
1602.
25
Thuyền trƣởng tàu Globe là Anthony Hippon qua đời ngay khi tàu cập cảng.
Chuyến đi của tàu Globe đã thực sự mở ra một chƣơng mới trong lịch sử của

Công ty Đông Ấn Anh bởi vì nó không chỉ đƣa đến việc thành lập một cơ quan thƣơng
mại của Anh tại Masulipatam trên biển Coromandel mà còn mở ra cơ hội thiết lập
quan hệ thƣơng mại trực tiếp với Xiêm và gián tiếp với Miến Điện. Ở Xiêm cơ quan
thƣơng mại của ngƣời Anh đƣợc xây dựng ở Pattani - một tiểu quốc Mã Lai đang bị
đặt dƣới quyền minh chủ của vƣơng quốc Xiêm, và tại kinh đô Ayutthaya.
Cả Pattani và Ayutthaya đều là những vị trí rất quan trọng bởi hai địa điểm này
buôn bán với Trung Quốc - nơi cung cấp tơ tằm và đồ sứ - và Nhật Bản. Các thƣơng
nhân Nhật Bản và Trung Quốc đã đến Ayutthaya chủ yếu để mua da đanh và tới
Pattani để mua hƣơng liệu đƣợc nhập từ quần đảo. Ngoài ra, các thƣơng nhân cũng có
thể mua đƣợc gỗ cây thuốc nhuộm đƣợc gọi là “brazil”, gỗ cây lô hội, cánh kiến trắng
và thiếc tại thị trƣờng địa phƣơng.
26

Cho đến cuối năm 1612 hai đại diện của Công ty Đông Ấn Anh là Thomas
Essington và Lucas Antheunis đã đến kinh đô của Xiêm và diện kiện đức vua. Phái
đoàn biếu tặng nhà vua món quà trị giá 600 real, kèm theo bức thƣ của vua Jame I.
Việc xuất hiện một lá thƣ của một vị vua của nƣớc Anh trở thành một sự kiện trọng đại
trong lịch sử Xiêm, làm cho nhà vua rất hài lòng. Chính vì thế, thƣơng nhân Anh đã
nhận đƣợc sự tiếp đón rất cởi mở và nhận đƣợc lời hứa cho phép tự do thƣơng mại từ
vua Song Tham. Tại buổi tiếp kiến, mỗi nhân viên nhận đƣợc một chiếc cốc nhỏ bằng
vàng, một mảnh vải nhỏ - phong tục trong những buổi tiếp kiến quan trọng vốn còn
đƣợc sử dụng trong các vƣơng quốc Mandalay. Thƣơng nhân Anh đƣợc phép sở hữu
một ngôi nhà gần thƣơng điếm của ngƣời Hà Lan, nhƣng trong nỗ lực đầu tiên để xử


23
IOR (Indian Office Record): E/3/5. No. 595, pp. 242.
24
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth Century, pp. 52.
25

C.S.P.C.E.I.,l.e,771.
26
D.G.E.Hall, Lịch sử Đông Nam Á, tr. 449.
15
lý hàng hóa, họ đã rất lúng túng bởi chiến tranh đã ảnh hƣởng đến đất nƣớc này. Vì
vậy thị trƣờng Xiêm hiện tại đang dƣ thừa hàng hóa.
27

Ngoài việc thiết lập quan hệ với vƣơng quốc Xiêm, ngƣời Anh còn thành công
trong việc thiết đặt trao đổi thƣơng mại với nhiều khu vực khác. Năm 1608, thƣơng
nhân Anh đã đến Surat - Ấn Độ, nhƣng một thời gian sau mới xây dựng đƣợc một cơ
sở cố định ở đây. Từ năm 1611, EIC đã bắt đầu xây dựng các pháo đài và cơ sở thƣơng
mại ở bờ đông và tây của Ấn Độ. Khu định cƣ Golconda đƣợc thiết lập tại
Masulipatnam trên bờ biển Coromandel với mục tiêu thực hiện các hoạt động buôn
bán hàng len sợi Ấn Độ với Bantam. Sau khi đánh bại ngƣời Bồ Đào Nha năm 1613,
EIC đƣợc hoàng đế Mughal ban đặc quyền thƣơng mại ở Ấn Độ.
Ngoài ra với mong muốn bắt đầu một chu kỳ thƣơng mại với các hạm đội chất
đầy hàng vải len, các quốc gia có khí hậu mát mẻ đã giành đƣợc sự quan tâm đặc biệt
của các thƣơng nhân Luân Đôn. Năm 1608, Saris - ngƣời làm việc dƣới quyền của
Towerson ở Bantam đã gửi báo về các vùng đất phía Đông mà ngƣời Hà Lan đã giao
dịch và đảo Nhật Bản sẽ mang lại nhiều hứa hẹn về doanh số đáng kể cho việc buôn
bán vải len.
Hơn thế, trong chiến lƣợc của các công ty Đông Ấn châu Âu thị trƣờng Nhật
Bản luôn có tầm quan trọng đặc biệt. Không chỉ có ngƣời Hà Lan, mà cả thƣơng nhân
Anh cũng ý thức đƣợc rất rõ điều đó. Theo tính toán của ngƣời Anh, vải len sẽ đƣợc
trao đổi để lấy bạc Nhật Bản, sau đó bạc sẽ đƣợc đƣa đến Java và quần đảo hƣơng liệu,
và hạt tiêu cùng với hƣơng liệu sẽ theo tàu mang trở lại châu Âu. Đây đƣợc coi là một
chu kỳ thƣơng mại hoàn hảo đối với các thƣơng nhân Luân Đôn.
Vào năm 1600, William Adam vƣợt qua eo Magienlan để cập cảng Kyshu và
trở thành ngƣời Anh đầu tiên đặt chân đến Nhật Bản. William Adam cho biết ở Nhật

không những có nhu cầu cao về len mà còn có rất nhiều vàng, bạc phục vụ cho việc
quay vòng thƣơng mại ở các địa điểm khác của Đông Ấn. Theo Adam, ngƣời Hà Lan
rất có lý khi coi “Nhật Bản là kho tiền ở Đông Ấn” nên họ không cần phải mang bạc ra
khỏi nƣớc Hà Lan.
28

Những thông tin của viên thƣơng nhân William Adam đã giúp ích rất nhiều cho
các thƣơng nhân Công ty Đông Ấn Anh. Năm 1611, thuyền trƣởng ngƣời Anh John
Saris khẩn trƣơng chỉ huy tàu Clove từ Bantam đi Nhật Bản. Tháng 8/1611, tàu Clove
dƣới sự chỉ huy của John Saris mang theo bức thƣ đầu tiên của vua Jame I gửi hoàng
đế Nhật Bản. Hoạt động của ngƣời Anh ở Nhật Bản chính thức bắt đầu. Có thể nói
rằng, từ những hoạt động đầu tiên ở Đông Nam Á nói chung, Xiêm nói riêng, Nhật
Bản đã sớm đƣợc gộp vào chiến lƣợc thƣơng mại chung của Công ty Đông Ấn Anh ở
Đông Á.
3.2. Thiết lập quan hệ bang giao và thƣơng mại Anh - Xiêm (1613-1618)
Vào tháng 3/1613, Lucas Antheuniss ở Xiêm gửi báo cáo đến Floris thông báo
rằng đã bán đƣợc hơn một một nửa số hàng hóa và nhà vua đã mua một số lƣợng lớn
hàng hóa đƣợc gửi đến bằng tàu Globe.
Thời gian ở Ayutthaya, Floris hiểu đƣợc mối quan hệ thân thiếtgiữa chính
quyền Xiêm và Nhật Bản thông qua quan hệ buôn bán cũng nhƣ việc trao đổi thông
thƣ giữa hai quốc gia này. Từ đầu thế kỷ XVII, tại Ayutthaya và Pattani, họ đã gặp rất


27
IOR:L/MAR/A/XIII , pp. 33-98. Dẫn theo John Anderson, English intercourse with
Siam in the seventeenth Century, pp. 50.
28
John Keay, The Honourable company, A history of the English East India company,
(Macmillan Publishing Company, New York, 1991), pp. 53.
16

nhiều ngƣời Nhật Bản, cũng nhƣ ở vùng phía đông của bán đảo Mã Lai, ngƣời Nhật
cũng thƣờng xuyên lui tới.
29

Đƣợc chứng kiến sức ảnh hƣởng về thƣơng mại, chính trị, quân sự của ngƣời
Nhật ở kinh đô Ayutthaya, cùng “với vẻ đẹp của các sản phẩm nghệ thuật đƣợc nhập
khẩu vào đây, đời sống của ngƣời Nhật trong các khu định cƣ, trên thuyền mành của
họ đã gây nhiều ấn tƣợng trong tâm trí và trí tƣởng tƣợng của thƣơng nhân Anh, đánh
thức trong họ một khát khao mạnh mẽ viết lên trang thƣơng mại với những ngƣời đầy
thú vị và văn hóa cao”.
30
Do đó một trong những cố gắng đầu tiên của Floris là phát
triển thƣơng mại giữa Công ty Đông Ấn Anh với Nhật Bản.
Theo John Saris dƣờng nhƣ chính ngƣời Xiêm đã nối thông hai cảng thị Patani
và Hirado, vì nếu có bất kỳ thuyền mành nào của họ đi vào vùng có bão biển họ luôn
nhận đƣợc sự giúp đỡ của ngƣời Nhật Bản hoặc Trung Quốc.
31

Ở vƣơng quốc Xiêm, phái đoàn thƣơng nhân Anh do Lucas Antheuniss đã
nhanh chóng giành đƣợc đặc ân thƣơng mại với giấy phép hoạt động trong phạm vi rất
rộng của triều đinh Xiêm. Ngay sau khi đến Xiêm, Lucas Antheuniss đã cử hai trợ lý
là Thomas Samuel và Thomas Driver tiến hành mở cửa thƣơng mại với đất nƣớc ở
phía bắc của thủ đô (Ayutthaya). Địa điểm kinh doanh mới của công ty là Chiengmai,
nơi mà Ralph Fitch đã biết đến từ năm 1587. Từ Chiengmai, Công ty Đông Ấn Anh
quyết định thiết lập quan hệ thƣơng mại với Lào nhƣng không thành công. Cũng trong
thời gian này Công ty cũng đã có những liên hệ với Miến Điện một cách gián tiếp.
Ngày 23/9/1613, tàu Globe quay trở lại Patani, đồng thời Lucas Antheuniss
đƣợc giao nhiệm vụ ở lại phụ trách thƣơng điếm ở Ayutthaya. Ngày 27/9/1613, thuyền
trƣởng Thomas Essington đã soạn thảo ra một quyết định, tuyên bố ý định sẽ phái tàu
đến Bantam. Nghị quyết vừa đƣợc đề cập ở trên đã không đƣợc thực hiện mãi cho đến

ngày 23/12/1613, khi tàu khởi hành đi Masulipatan cùng với Floris và Denton. Ba
nhân viên công ty ở lại Patani là William Ebert, Robert Littlewood, và Ralph Cooper.
Tàu Globe đến Masulipatan vào ngày 17/12/1613, nơi mà tàu Jame trƣớc đó đã
thả neo. Con tàu này đã đến ngày 21/6/1613 và định cƣ trong một thƣơng quán ở
Pettipolli. Tuy nhiên, những nhân viên của tàu Jame đã gặp rắc rối lớn khi ngƣời bản
địa và thổ dân đã đối xử rất tệ bạc với họ. Floris cùng với tàu Globe ở lại Masulipatam
đến ngày 10/6/1614. Ở đây, tàu James đã hợp nhất với tàu Darlying, hƣớng đến Patani
và cùng thả neo ngày 30/6/1614.
Ở Patani hàng hóa đƣợc bốc dỡ sang tàu Darlying khi họ khởi hành đi Bangkok
ngày 30/7/1614, với sự tham gia của John Gourney, William Sheppard, Thomas
Brockedon - những thƣơng nhân của chuyến đi thứ 9, cùng đồng hành với Robert
Larkin và trợ lý của anh ta. Mƣời lăm ngày sau họ đã đến đƣợc thủ đô của Xiêm.
Adam Denton, ngƣời phụ trách thƣơng quán đã viết vào cuối năm 1614 gửi công ty
Đông Ấn Anh rằng, sau toàn bộ những nỗ lực và chi phí mà Công ty bỏ ra để thiết lập
quan hệ thƣơng mại tại Patani, “tất cả thương mại ở hải ngoại đã chết trong khó khăn


29
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth century, pp. 53.
Thời điểm chính xác khi Nhật tiến hành quan hệ thƣơng mại với Xiêm vẫn cần đƣợc
xem xét. Tuy nhiên, trong thập kỷ 1570, khi ngƣời Tây Ban Nha xâm chiếm Philippine
đã có 20 ngƣời Nhật sinh sống ở đó. Và ngƣời Nhật đã có buôn bán ở Malacca ít nhất
là vào đầu những năm 1580. Cũng trong năm này có thể thƣơng nhân Nhật Bản đã
điều tra thị trƣờng và thiết lập quan hệ thƣơng mại với Xiêm. Xem thêm từ Kennon
Breazeale, From Japan to Arabia, Ayutthaya’s Maritime relation with Asia, pp. 28.
30
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth century, pp. 53.
31
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth century, pp. 53.
17

và chiến tranh” và “chiến tranh thật đáng sợ giữa Patani và Aceh”. Robert Larkin
cũng rất thất vọng về thƣơng mại với Patani, và cho rằng triển vọng ở các trung tâm
buôn bán khác sẽ phù hợp hơn. Ông ta nghe nói về Segora ở phía đông bắc của Patani,
vốn rất nổi tiếng về thƣơng mại, thậm chí đƣợc ví nhƣ “Jakarta đệ nhị”. Hơn thế, nó có
tiếng là cảng rất an toàn nhƣ John Davis trên tàu James đã nhận thấy trƣớc khi rời
Patani tháng 10/1614.
Trong khi tình hình kinh doanh ở Patani có vẻ gặp nhiều khó khăn, ngƣời Anh
nhận thấy Nhật Bản chính là quốc gia hứa hẹn sẽ đem lại sự giàu có cho Công ty. Đến
cuối năm 1614, những ngƣời đứng đầu thƣơng điếm ở Hirado và Xiêm đã có những
hiểu biết nhất định về hoạt động thƣơng mại với Nhật Bản. Công ty đã quyết định mua
một chiếc thuyền mành ở Nhật Bản có tên là Sea Adventure, William Adam đƣợc bổ
nhiệm làm thuyền trƣởng.
Trong khi đó Richard Cocks - ngƣời phụ trách thƣơng điếm Anh ở Nhật Bản
lúc này cũng đã có một số thông tin đối với hoạt động của Công ty ở vƣơng quốc
Xiêm. Cocks đã chỉ thị cho Richard Wickham, chuyển thƣ của mình đến thuyền
trƣởng Jourdain ở Bantam. Richard Cocks cũng thông báo rằng các loại hàng hóa nhƣ
gỗ nhuộm “brazil”, gỗ đỏ, da hƣơu, tơ sống, hàng hóa Trung Hoa…đang có nhu cầu
cao ở Nhật Bản. Thời gian này Richard Cocks cũng đã gửi quà đến quốc vƣơng Xiêm,
một cái bình nâu trắng đến Adam Denton và William Ebrett.
Ghi chú tiếp theo là của những ngƣời đứng đầu thƣơng điếm ở Xiêm đề ngày
20/4/1615, khi họ đã giúp đỡ nhà vua. Họ đồng thời chỉ thị cho Thomas Brockedon
thâm nhập vào Patani cùng với Adan Denton để “làm tăng thêm hiệu suất kinh doanh
cho chuyến đi thứ 9”.
32

Ngày 21/7/1615, tàu Solomon đã đƣợc cử đi từ Bantam để thâm nhập vào
Masulipatam, nhƣng cần liên lạc với Patani để có hàng hóa và tiền bạc với một trong
hai ngƣời là John Gourney và Lucas Antheuniss. Trên tàu lúc này có George
Chauncey, Ralph Preston, Humphey Elkington, Timothy Mallory, Richard Pitt và
Goerge Savage. Với sự xuất hiện của tàu Solomon, một số vấn đề đã đƣợc bàn bạc

quyết định xem ai sẽ ở lại phụ trách hai thƣơng điếm.
Trong cuộc họp cuối cùng của họ ở Patani, tổ chức vào ngày 9/10/1615, với sự
tham dự của Lucas Antheuniss, Humphey Elkington, Adam Denton, Timothy Mallory,
Hugh Bennet, Robert Larkin, William Sheppard, Thomas Brockedon, Benjamin Farie
và Ralph Preston. Buổi họp đã ra quyết định Benjamin Farie sẽ làm giám đốc thƣơng
điếm ở Ayutthaya, cùng với 2 trợ lý là Goerge Savage và Richard Pitt. Robert Larkin
đứng đầu thƣơng điếm ở Patani,với John Browne làm phụ tá.
Các thỏa thuận này đã đƣợc quyết định. Tàu Solomon tiếp tục khởi hành đi
Masulipatan ngày 27/10. Lucas Antheuniss chuyển bức thƣ của vua Xiêm đến vua
Anh.
Trong khi chờ đợi, tàu Osiander, đƣợc chỉ huy bởi thuyền trƣởng Ralph
Coppindall đã đến Hirado ngày 4/9/1615. Ngày 5/12, Coopindall đã viết một lá thƣ gửi
cho giám đốc thƣơng điếm của công ty Đông Ấn Anh ở Xiêm thông qua thuyền trƣởng
Adams - ngƣời đã cùng Edmund Sayer, một lần nữa cùng đi trên tàu Sea Advanture
đến vƣơng quốc Xiêm. Theo Coppindall, hiện tại, hàng hóa từ Xiêm, Patani, Bantam ở
Nhật chỉ thu đƣợc lợi nhuận ít ỏi. Ông hi vọng rằng “bên cạnh lợi nhuận từ thƣơng mại


32
C.S.P.C.E.L, 971. Dẫn lại theo John Anderson, English intercourse with Siam
in the seventeenth century, pp. 61.
18
Hirado-Trung Quốc, nếu có thể thì phải chú trọng nền thƣơng mại với Xiêm, đồng thời
phải giảm chi phí để tiếp tục duy trì thƣơng quán ở Nhật Bản”.
33

Ngày 7/12/1615, tàu của ngƣời Anh rời Cochi (gần cảng Hirado) và khoảng
một tháng sau đến Menam. Khi đến thƣơng điếm, Adams gặp đại diện của công ty là
Benjamin Farie và các trợ lý của anh ta là Geoge Savage, Richard Pitt, John Johnson.
John Gourney đã rời Xiêm đi Bantam từ nửa đầu năm 1615; Robert Larkin qua đời

ngày vào tháng 5/1616. Cùng với tàu Advice (ghé vào Menam do thời tiết xấu), tàu Sea
Adventure cùng quay trở lại Nhật Bản. Hai tàu đến Hirado vào tháng 7/1616.
Không lâu sau, vào đầu năm 1617, đại sứ của vƣơng quốc Chămpa đến kinh đô
Xiêm. Sự hiện diện của ngƣời Chămpa ở Xiêm đã gợi mở một hƣớng kinh doanh mới
cho Công ty Đông Ấn Anh. Ngay lập tức, ngày 20/3/1617, Công ty đã phái Peter Hall
và John Feerers chỉ huy một thuyền nhỏ đến Chămpa, mang theo số lƣợng hàng hóa
phù hợp với thị trƣờng Chămpa. Toàn bộ thủy thủ trên tàu là ngƣời Nhật Bản đƣợc
Công ty thuê tại Ayutthaya và Bangkok.
Trong thực tế, Công ty Đông Ấn Anh chú ý đến Đàng Trong từ tƣơng đối sớm,
bởi nguồn cung cấp tơ lụa tƣơng đối dồi dào ở đây. Theo ghi chép của Richard Cocks:
“hàng năm số tơ được đưa đến Đàng Trong (từ Trung Hoa) chắc chắn nhiều hơn gấp
hai lần số tơ từ cả ba nơi là Bantam, Patani và Xiêm cộng lại.”
34
Nỗ lực đầu tiên của
ngƣời Anh trong việc thiết lập quan hệ thƣơng mại với Đàng Trong diễn ra vào năm
1613. Tempest Peacock và Walter Cawarden là hai thƣơng nhân đƣợc Richard Cocks -
giám đốc thƣơng điếm Anh tại Hirado - phái tới Đàng Trong. Hai thƣơng nhân này tới
Faifo (Hội An) trên một chiếc thuyền của ngƣời Nhật tên là “Roquan”. Họ mang theo
một bức thƣ của vua James I gửi nhà lãnh đạo Đàng Trong, với 720 bảng Anh và
1,000 đồng bạc real (khoảng 800 bảng). Thoạt đầu mọi chuyện diễn ra đều tốt đẹp.
Chúa Nguyễn mua hàng hóa và đối xử rất thân thiện. Nhƣng một chuyện không hay đã
xảy ra khi Peacock bị giết và không ai biết gì về số phận của Cawarden.
Cocks đã phái Edmond Sayer và William Adams đến Hội An năm 1617 để yêu
cầu Đàng Trong trả lại tiền. Theo A. Lamb: “xem ra họ không nhận đƣợc đồng nào về
số hàng hóa do Cawarden và Peacock đem theo năm 1613 và cả số hàng hóa do chính
họ mang theo”. Adam thừa nhận cuộc hành trình của ông ta đến Đàng Trong là một
tổn thất, trị giá ít nhất là 800 lạng bạc”.
35
Mặt khác, khi các thƣơng nhân Anh đến
Đàng Trong, Richard Cocks đã cảnh báo rằng sẽ không an toàn nếu gửi hàng hóa trên

các thuyền nhỏ đến vùng bờ biển Đàng Trong và Chămpa vì ngƣời Bồ Đào Nha đã gửi
đến rất nhiều tàu chiến từ Macao “để sục sạo các bờ biển và phá hỏng thƣơng mại”.
Khó khăn là vậy nhƣng bức thƣ của Richard Pitt ở Ayutthaya gửi đến Richard Cocks ở
Hirando ngày 5/5/1618 vẫn đề cao vai trò của Chămpa: “Ở Champa chúng ta có thể
đóng các thuyền lớn nhƣ ngƣời Hà Lan vẫn làm với chi phí 10 catti. Nếu chúng ta có 2
hoặc 3 thợ mộc ngƣời Anh ở đó để hƣớng dẫn cho các thợ mộc địa phƣơng nhƣ cƣa,
dùi đục…những ngƣời thợ mộc của Anh mà đến hƣớng dẫn phải mang theo đinh,
búa…vua của xứ sở đó sẽ cung cấp cho 20 ngƣời để xử lý gỗ, ván…”.
36



33
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth century, pp.
63-64.
34
Li Tana, Xứ Đàng Trong, Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII,
tr. 88.
35
Li Tana, Xứ Đàng Trong, Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII,
tr. 111-112.
36
IOR:E/3/6 no.649
19
Thất bại trong kế hoạch thƣơng mại ở Đàng Trong, nhƣng những nỗ lực buôn
bán của công ty ở Ayutthaya không có dấu hiệu giảm bớt vào năm 1617. Tuy nhiên,
tình hình ở đây vẫn không đƣợc cải thiện là mấy, ngƣời Hà Lan tiếp tục giành đƣợc lợi
thế so với Anh trong việc cạnh tranh độc quyền xuất khẩu da hƣơu. Ngày 12/6/1617,
ngƣời Hà Lan đã ký đƣợc hợp đồng thƣơng mại quan trọng với vua Xiêm về việc xuất
khẩu da hƣơu sang Nhật Bản.

Cùng thời điểm này tàu Sea Adventure đang ở Bangkok trong chuyến đi thứ hai và
bắt đầu quay trở lại Hirado. Lần này tàu đã mang trở lại Nhật một số lƣợng gỗ tô mộc. Tuy
nhiên, để có đƣợc số hàng này, các giám đốc đã gặp rất nhiều khó khăn, phiền toái và đã
phải hối lộ rất nhiều để mua đƣợc số hàng hóa trên.
37
Mặc dù vậy, những cố gắng của họ
trong việc cung cấp gỗ tô mộc dƣờng nhƣ đã uổng phí, bởi vì Cocks sau đó đã nói “than chì
và da là hàng hóa tốt hơn gỗ”. Các giám đốc ở Xiêm, mong muốn trao đổi gỗ tô mộc và các
hàng hóa khác để lấy tiền xu Nhật Bản. William Eaton đã đề nghị Cocks gửi tiền xu đến
Xiêm - loại hàng sẽ mang lại rất nhiều lợi nhuận “miễn là được giữ bí mật”. Tiếc là Richard
Cocks đã không thể tham gia vì nó là hoạt động phi pháp tại Nhật Bản.
Đồng thời lúc đó William Eaton, một viên thuyền trƣởng can đảm và tự chủ đã
gửi một một khuyến nghị thƣơng mại ở Ayutthaya đến ngài Thomas Smythe. Ông ta
đề xuất rằng: “vải Ấn Độ trong những nhà kho lớn và các loại vải khác từ bờ biển
Coromandel có thể được bán ở Xiêm với lợi nhuận cao, đặc biệt nếu thương mại một
lần được mở, mà có thể là trong năm tới. Đổi lại vàng, hồng ngọc và các loại đá quý
khác, nhất là cánh kiến trắng và gôm, đều là những hàng hóa có nhu cầu rất lớn ở
Coromandel, bên cạnh da hươu rất rẻ ở đó”.
38

Thƣơng mại ở thƣơng điếm Ayutthaya dƣờng nhƣ cũng đem lại lợi nhuận từ cả
hƣớng khác nữa. Khi William Eaton ở đó, thƣơng nhân Luang Phrabang đã đến
Ayutthaya, mang theo một khối lƣợng lớn hàng hóa. Điều này, cùng với các nguyên
nhân khác nữa, góp phần vào sự thịnh vƣợng của thƣơng điếm Anh ở Xiêm trong giai
đoạn này. Tất cả ngƣời của Công ty tạm thời cảm thấy rất hài lòng với hoạt động buôn
bán của thƣơng điếm Anh tại Xiêm. Một số thậm chí ao ƣớc rằng tất cả các thƣơng
điếm của Công ty ở phƣơng Đông đều có thể kinh doanh tốt nhƣ thƣơng điếm
Ayutthaya. Thêm “hai ngôi nhà đƣợc xây cho công ty, một ở Ayutthaya, lớn nhƣ nhà
tại thành phố ở London, cái thứ hai ở Patani”.
39


Ngày 12/8/1617, Richard Pitt, ngƣời đƣợc trợ giúp bởi Thomas Winterborne, đã
gửi một lá thƣ đến John Browne thông báo về sự giảm giá các sản phẩm từ da. Mặc dù
vậy, các nhân viên của Công ty vẫn tin tƣởng vào nền thƣơng mại ở Xiêm. Đầu năm
1618, Goerge Ball, ngƣời đứng đầu thƣơng điếm Bantam đã gửi một lá thƣ cho các
giám đốc để thông báo rằng: số lƣợng vải Coromandel trị giá 5.000 rials có thể đƣợc
bán hàng năm ở Ayutthaya. Vƣơng quốc Xiêm sẽ cung cấp số lƣợng da hƣơu và gỗ
đàn hƣơng cho Nhật, vàng, đá hồng ngọc ở đây cũng thu lợi nhuận lớn. Nếu đất nƣớc
này thanh bình, nó có thể mang lại một nền thƣơng mại lớn hơn nữa.
40



37
Cocks Diary, Vol.1, pp. 221.
38
C.S.P.C.E.L, 221. Dẫn theo John Anderson, English intercourse with Siam in the
seventeenth century, pp. 68-69.
39
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth century, pp. 69.
40
C.S.P.C.E.L, 275. John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth
century, pp. 70.
20
Trong năm 1618, ngƣời Anh ở Xiêm đã dành đƣợc sự ủng hộ cao của vua
Xiêm. Richard Pitt đã thông báo với Richard Cocks rằng, nếu muốn làm một thuyền
mành tại Xiêm lớn nhƣ của ngƣời Hà Lan, có thể gửi hai thợ mộc ngƣời Anh đến và
nhà vua sẽ cung cấp cho công ty 200 ngƣời để xẻ gỗ cũng nhƣ thực hiện các công việc
khác hỗ trợ cho ngƣời Anh. Cũng trong năm này, Cocks đã gửi bức thƣ cho Richard
Pitt để báo rằng ông “đã nhận đƣợc tơ lụa, gỗ thơm, da sống để gửi từ Ayutthaya đến

Nhật Bản”.
Trái với những gì diễn ra ở Ayutthaya, tình hình kinh doanh của Công ty ở
Patani ít phát đạt hơn, do “chi phí cao về thuế áp đặt đối với người ngoại quốc”. Trong
bối cảnh đó, thƣơng nhân Anh có cảm giác rằng họ “bắt đầu bị bỏ rơi”.
41

3.3. Cạnh tranh thƣơng mại Anh - Hà Lan (1618-1619)
Ngay từ đầu thế kỷ XVII, cuộc cạnh tranh thƣơng mại giữa Anh và Hà Lan đã
trở nên quyết liệt. Sự cạnh tranh đôi khi dẫn đến xung đột giữa Hà Lan và Anh ở
phƣơng Đông khiến chính phủ hai nƣớc phải đặt vấn đề lên bàn nghị sự tại châu Âu.
Chẳng hạn, vào tháng 11/1611, Công ty Đông Ấn Anh đã phàn nàn với Bộ trƣởng Tài
chính Salisbury về “những việc làm thô bỉ và vô nhân đạo” của ngƣời Hà Lan chống
lại thần dân Anh và yêu cầu ông ta nêu vấn đề này với quốc hội Hà Lan.
Bất chấp sự ngăn cản của Hà Lan, năm 1614, các cơ quan thƣơng mại của Anh
vẫn đƣợc thành lập tại Aceh, Priaman, Jambi. Trƣớc đó, năm 1613, cơ quan thƣơng
mại ở Macassar thuộc Celebes do John Jourdain đứng đầu cũng đã đƣợc thành lập. Sự
kiện này có tầm quan trọng đặc biệt đối với ngƣời Anh vì Maccasar nằm giữa Java và
quần đảo hƣơng liệu. Ở khu vực Moluccas, ngƣời Anh vẫn kiên trì tiến hành buôn bán
mặc dù có sự chống đối của ngƣời Hà Lan. Tuy nhiên, trƣớc sức cạnh tranh quyết liệt
từ ngƣời Hà Lan, những nỗ lực của thƣơng nhân Anh nhằm chen chân vào thị trƣờng
buôn bán hƣơng liệu ở khu vực hải đảo gặp rất nhiều khó khăn. Xét về mọi mặt, buôn
bán hƣơng liệu sinh lời nhất ở phƣơng Đông và, nhƣ Foster đã viết, “đồng bào Anh
chúng ta không có lỗi gì trong việc đấu tranh gian khổ để chống lại âm mưu loại họ ra
khỏi ngành buôn bán này”. Tuy nhiên, Anh còn quá yếu nên không thể làm gì đƣợc
ngoài một số cố gắng rời rạc.
42

Trong bối cảnh của sự căng thẳng leo thang đó, quan hệ giữa Anh và Hà Lan ở
Xiêm cũng chẳng mấy tốt đẹp. Tại Ayutthaya, Hà Lan đã có lợi thế so với Anh do kết
quả của hiệp định mà họ đã ký với vua Songtham năm 1617 về việc mua da sống.

Thƣơng nhân Anh ở Masulipatam cũng rất băn khoăn về thƣơng mại với cảng
Tenasserim ở miền tây vƣơng quốc Xiêm khi họ phải chịu áp lực ngày càng lớn từ
ngƣời Hà Lan và Bồ Đào Nha. Sự cạnh tranh quyết liệt của VOC đã làm cho mọi nỗ
lực của EIC tại các địa điểm khác của Đông Ấn bị tiêu tan, nhiều tàu của Anh đã bị
ngƣời Hà Lan cƣớp phá, giam giữ các nhân viên công ty.
Từ năm 1618, quan hệ giữa Anh và Hà Lan ngày càng xấu đi, đặc biệt là sau
khi Jan Pieter Coen trở thành toàn quyền ở khu vực Đông Ấn thuộc Hà Lan. Coen coi
sự cạnh tranh của Anh là mối đe dọa nguy hiểm nhất nên chủ trƣơng sử dụng vũ lực.
Ở Patani miền nam vƣơng quốc Xiêm, ngƣời Anh cũng luôn bị ngƣời Hà Lan
đe dọa sự tồn tại nhƣng may mắn có đƣợc sự bảo trợ của Nữ hoàng. Thƣơng quán của
Anh ở Nhật Bản cũng bị ngƣời Hà Lan tấn công nhƣng may mắn chống đỡ đƣợc dƣới
sự hỗ trợ của một số ngƣời Nhật.
Trong khi thƣơng nhân Anh - Hà Lan đang cạnh tranh quyết liệt trong việc
giành quyền thƣơng mại hƣơng liệu ở phƣơng Đông, thì ở châu Âu những nỗ lực đàm


41
C.S.P.C.E.I., 245.
42
Dẫn lại theo D.G.E. Hall, Lịch sử Đông Nam Á, tr. 464.
21
phán giữa hai chính phủ cuối cùng cũng đã đạt đƣợc sự đồng thuận bằng một Hiệp ƣớc
Phòng thủ (Treaty of Defence) năm 1619. Hà Lan đã đƣa ra sáng kiến này cuối năm
1618, do sắp kết thúc Hiệp định ngừng bắn Antwerp, nhƣng mãi đến ngày 17/7/1619
mới đạt đƣợc thỏa thuận. Foster cho rằng hiệp ƣớc đó chỉ đƣợc ký kết khi có sức ép
của vua Jame I nƣớc Anh, nhƣng theo Stapel nhà vua có thái độ rất dè dặt.
43

3.4. Suy thoái và đóng cửa thƣơng điếm Anh tại Xiêm (1620-1623)
Trƣớc sức cạnh tranh rất quyết liệt của ngƣời Hà Lan, tình hình buôn bán của

thƣơng nhân Anh ở cả Patani và Ayutthaya gặp rất nhiều khó khăn. Cho đến cuối năm
1620, mặc dù thƣơng điếm Patani vẫn đƣợc các tàu của Anh ghé thăm nhƣ tàu Clove
và tàu James Royal, tình hình kinh doanh ở đây cũng không đƣợc cải thiện bao nhiêu.
Trong bức thƣ John Jourdain và William Webb ở Pattani gửi đến Edward Long ở
Ayutthaya đề ngày 16/11/1620, hai ông đã phàn nàn rằng “…Tôi muốn biết liệu chúng
ta có nên duy trì thƣơng điếm này hay đóng cửa. Nếu muốn duy trì thƣơng điếm thì tốt
nhất nên cung cấp hàng hóa nhiều và tốt hơn cho mục đích thƣơng mại [mà trƣớc đó
nó đã đƣợc cung cấp]. Trừ khi những điều đó đƣợc đảm bảo, nếu không tôi cũng
không chắc thƣơng điếm này sẽ tiếp tục hoạt động. Lý do gì khiến cho hoạt động buôn
bán của các thƣơng điếm của chúng ta thua kém ngƣời Hà Lan? Chẳng qua là ngƣời
Hà Lan có sẵn tiền bạc trong tài khoản và có sẵn hàng hóa. Vì vậy nếu muốn duy trì
thƣơng điếm chúng ta cũng phải có cơ sở nhƣ vậy”.
44

Tàu Exchange và Peppercorn ghé vào Patani tháng 5/1621, mang theo tin tức
về sự dự định giải thể thƣơng điếm tại Pattani, Ayutthaya và một số nơi khác. John
Jourdain nhận thêm bức thƣ từ Edward Longe‟s nói rằng: “có thể sẽ tốt hơn nếu
thƣơng điếm bị giải thể lâu rồi”. Tàu Peppercorn từ Patani khởi hành đến Nhật Bản,
nhƣng những ngƣời đứng đầu thƣơng quán ở đây đã bị cô lập hoàn toàn với các thông
tin từ Xiêm kể từ khi xảy ra cuộc chiến tranh Anh - Hà Lan năm 1618 - 1619. Điều
này đã làm cho hoạt động kinh doanh lại càng khó khăn hơn. Mặc dù khoảng cách
giữa Patani và Ayutthaya là không xa, nhƣng giám đốc của hai thƣơng điếm lại rất ít
giao thiệp với nhau; việc trao đổi thƣ từ giữa họ hoàn toàn phụ thuộc vào số tàu thuyền
qua lại của Hà Lan hoặc Anh.
Dự định đóng cửa thƣơng điếm Ayutthaya và Patani đã đƣợc ban giám đốc
Công ty cân nhắc khá nhiều thời gian trƣớc khi có quyết định đóng cửa chính thức.
Trong Consultation Book lƣu giữ ở Batavia ngày 22/3/1622, Hội đồng quyết định giải
thể các thƣơng điếm kinh doanh thua lỗ ở Patani và Ayutthaya. Ngài Chủ tịch Richard
Fursland đã viết từ Batavia gửi cho Công ty ngày 27/2/1622 thông báo với các giám



43
Những điều khoản chính của hiệp định đó là:
1. Cả hai bên sẽ tha thứ và quên đi các bất bình, thả tù nhân và những con tàu bị
đánh chiếm.
2. Mỗi công ty sẽ đƣợc mua một nửa tổng số hồ tiêu hiện có và ngƣời Anh sẽ đƣợc
hƣởng 1/3 khối lƣợng buôn bán hƣơng liệu tại khu vực Molucca, Amboina và khu
vực Banda.
3. Một hội đồng phòng thủ sẽ đƣợc thành lập gồm bốn thành viên của mỗi bên và
mỗi bên sẽ có một hạm đội phòng thủ gồm 10 chiếc tàu.
4. Mỗi bên sẽ giữ các pháo đài và căn cứ của mình và trong hai, ba năm đầu sẽ
không đƣợc xây dựng các pháo đài hay căn cứ mới.
5. Vốn của hai công ty là riêng biệt và mỗi bên giữ sổ sách tính toán riêng của mình.
44
IOR:E/3/7 no.905. Anthony Farrington&Dhinavat na Pombejra, The English
Factory in Siam 1612-1685, (London:The British library, 2007), pp. 264.
22
đốc rằng ông đã gửi tàu Fortune với một số hàng nhỏ đến Ayutthaya.
45
Các nhân viên
đã bán số hết số hàng đó, sau đó từ biệt nhà vua và rời đi trên tàu Fortune, để đến
Patani đóng cửa thƣơng quán ở đây. Trong thời gian này, phía Công ty cũng có quyết
định đóng cửa thƣơng điếm của mình ở Nhật Bản.
Cho đến cuối năm 1623, quyết định của Hội đồng Công ty Đông Ấn Anh đã
chính thức đƣợc thi hành. Giám đốc thƣơng điếm ở Ayutthaya là Edward Longe đã
liên tục gặp rắc rối không chỉ với ngƣời Hà Lan mà còn với ngƣời Xiêm. Lúc đó, Công
ty hoàn toàn không còn hi vọng về việc đạt lợi nhuận cao trong quan hệ thƣơng mại
với Xiêm nữa, mặc dù một số thƣơng nhân Anh vẫn còn ca ngợi rất nhiều về sự trù
phú ở đây.
Cùng thời điểm khi ngƣời Anh đóng cửa thƣơng điếm của mình ở Ayutthaya và

Patani thì Công ty Đông Ấn Hà Lan cũng không thể duy trì các hoạt động thƣơng mại
của mình ở Ayutthaya, Songkhla, Patani. Chỉ có điều ngƣời Hà Lan đã tái lập trở lại
quan hệ thƣơng mại với vƣơng quốc Xiêm từ khá sớm, vào khoảng cuối thập niên 20
của thế kỷ XVII. Ngƣời Hà Lan vẫn nhìn thấy lợi nhuận tiềm năng trong quan hệ
thƣơng mại giữa Xiêm và Nhật Bản. Quan trọng hơn, nguồn lúa gạo của Xiêm ngày
càng có vai trò quan trọng đối với khu vực quần đảo Java, nhất là trong bối cảnh Công
ty Đông Ấn Hà Lan đã xây dựng Tổng hành dinh ở Batavia kể từ sau 1619.
Đây cũng là một năm đáng nhớ trong lịch sử của Công ty Đông Ấn Anh khi xảy
ra sự kiện “vụ thảm sát ở Amboina”. Sự kiện này đã gây ấn tƣợng sâu sắc và lâu dài
đối với quan hệ giữa hai dân tộc hơn bất kỳ sự kiện nào khác trong thời kỳ sóng gió
này.
3.5. Tiểu kết
Sau khi phái đoàn Thomas Essington - Lucas Antheuniss diện kiến vua Xiêm
và chính thức thiết lập quan hệ thƣơng mại, từ năm 1613 Công ty Đông Ấn Anh bắt
đầu tiến hành các hoạt động trao đổi thƣơng mại buôn bán với triều đình Ayutthaya.
Tƣơng tự nhƣ ngƣời Hà Lan, thƣơng nhân Anh đã giành đƣợc một số đặc quyền
thƣơng mại ở Xiêm. Vì vậy, tình hình buôn bán thời gian đầu rất khả quan, mang lại
lợi nhuân đáng kể cho Công ty. Nhiều sản phẩm của Xiêm rất đƣợc ƣa chuộng trên thị
trƣờng nhƣ gạo, gỗ tô mộc, gỗ đàn hƣơng, da sống, hƣơng liệu…
Với mong muốn thiết lập một chu kỳ thƣơng mại, ngoài việc trao đổi thƣơng
mại với vƣơng quốc Xiêm, thƣơng nhân Anh cũng quan tâm đến nhiều thị trƣờng khác
trong khu vực từ vùng bờ biển Coromandel (Ấn Độ), khu vực Đông Nam Á hải đảo,
Đàng Trong, Nhật Bản… Tuy nhiên, do tiềm lực và sức mạnh còn nhiều hạn chế, nên
hoạt động của Công ty chƣa phát huy đƣợc nhiều kết quả. Cùng với đó, sức ép rất lớn
từ sự cạnh tranh rất quyết liệt của ngƣời Hà Lan khiến tình hình kinh doanh của Công
ty tại Xiêm nói riêng, phƣơng Đông nói chung không thu đƣợc các kết quả nhƣ mong
đợi, bản thân Công ty phải đóng cửa thƣơng điếm Xiêm năm 1623.
KẾT LUẬN
Đến phƣơng Đông đối thủ lớn nhất của thƣơng nhân Anh không phải là ngƣời
Bồ Đào Nha mà chính là ngƣời Hà Lan. Việc Công ty Đông Ấn Hà Lan đặt mục tiêu

độc quyền buôn bán hƣơng liệu ở khu vực Đông Nam Á hải đảo khiến cho họ không
thể hài lòng nhìn ngƣời Anh dong thuyền đến khu vực quần đảo hƣơng liệu để thu mua
hồ tiêu, đinh hƣơng, nhục đậu khấu… - những sản phẩm mà ngƣời Hà Lan mặc nhận
họ đƣợc độc quyền thu mua và phân phối. Mâu thuẫn giữa thƣơng nhân Anh và Hà
Lan nổ ra ở nhiều nơi thuộc Đông Nam Á, nhiều khi thành xung đột quân sự, nhất là
trong những năm chiến tranh Anh - Hà Lan nổ ra ở châu Âu.


45
C.S.P.C.E.I.,1622-1624, p. 62.
23
Từ Bantam, Công ty Đông Ấn Anh đã nỗ lực đặt thêm một số trạm kinh doanh
ở các khu vực khác ở Đông Nam Á nhƣng không thu đƣợc lợi nhuận nhƣ mong muốn.
Xiêm và Patani từng đƣợc kỳ vọng là nơi tiêu thụ hàng vải sợi đƣa từ Anh sang, đồng
thời cung cấp các các thƣơng phẩm có giá trị nhƣ tơ lụa Trung Quốc, da đanh,
thiếc…cho thị trƣờng Nhật Bản. Tuy nhiên, các thƣơng điếm Patani, Ayutthaya,
Hirado đều không tồn tại đƣợc lâu và bị đóng cửa trong nửa đầu thập niên thứ hai của
thế kỷ XVII, chỉ sau hơn 10 năm tồn tại. Công ty Đông Ấn Anh đã không có được một
chiến lược thương mại lâu dài nào với cả Xiêm cũng như Patani, ngoài mục tiêu bán
hàng hóa của Anh nhằm thu mua hạt tiêu cho thị trường châu Âu.
46

Trong một thời gian dài, nhiều ngƣời tin rằng cuộc “thảm sát Amboina” năm
1623 chính là nguyên nhân trực tiếp đƣa đến quyết định của Công ty về việc đóng cửa
hàng loạt thƣơng điếm của Công ty: Hirado (Nhật Bản), Ayutthaya (Xiêm) và Patani
(bán đảo Mã Lai). Trong thực tế, ngay sau khi khai mở quan hệ với Nhật Bản và
Xiêm, Công ty đã nhanh chóng nhận ra nền thƣơng mại với các vƣơng quốc trên sẽ
không mấy triển vọng xuất phát từ mục tiêu không phù hợp của Công ty (bán hàng vải
sợi Anh tại các quốc gia này) cũng nhƣ bối cảnh kinh tế xã hội tại đây (thái độ thận
trọng của Mạc Phủ Đức Xuyên ở Nhật Bản; suy thoái thƣơng mại tại Ayutthaya và

Patani). Bên cạnh đó sự bê trễ của các nhân viên Công ty và đặc biệt là sự cạnh tranh
một cách khốc liệt (thậm chí thù địch) của Công ty Đông Ấn Hà Lan tại vùng quần đảo
hƣơng liệu khiến cho tình cảnh của ngƣời Anh ở Đông Á càng trở nên khó khăn hơn.
Trong một số năm (chẳng hạn nhƣ 1617), Công ty Đông Ấn Anh ở Batavia không thể
thực hiện các công việc đầu tƣ buôn bán cho Ayutthaya và Patani. Bởi lẽ đó, ngay từ
năm 1619, kế hoạch đóng cửa 3 thƣơng điếm này đã đƣợc đƣa ra do tình trạng buôn
bán đình đốn của Công ty tại đây. Mùa hè năm 1622, vị chủ tịch của Công ty Đông Ấn
Anh đóng tại Batavia đã ra chỉ thị đóng cử 3 thƣơng điếm trên.
47

Tuy nhiên có thể thấy, nguyên nhân dẫn đến sự suy sụp trong hoạt động của
công ty Đông Ấn tại Xiêm đã xuất hiện từ sớm, đó là sự dao động lòng trung thành và
phẩm chất năng lực rất thấp của các nhân viên Công ty. Lucas Antheunis (giống
nhƣ Floris) là một ngƣời có năng lực, nhƣng Benjamin Farie mới là ngƣời đƣợc chọn
lựa cho vị trí ngƣời đứng đầu thƣơng điếm Anh ở Xiêm vào tháng 10/1615. Nhƣng
Antheunis không ở lại lâu dài ở Xiêm và Benjamin Farie cũng qua đời vào tháng
9/1616. Những ngƣời kế nhiệm lại thiếu khả năng tiếp tục điều hành các hoạt động
thƣơng mại trong môi trƣờng khó khăn cho ngƣời châu Âu.
48

Nguồn tài chính ít ỏi của công ty và sự lựa chọn sai lầm ràng buộc chặt chẽ vào
các hàng hóa của Xiêm cũng là nhân tố quan trọng buộc công ty phải đóng cửa thƣơng
điếm ở Ayutthaya và Patani năm 1623. Ngoài ra, các nhân viên của công ty còn
thƣờng xuyên gian lận, lừa đảo, say rƣợu và hành xử bừa bãi, phóng đãng.
49



46
Dhiravat na Pombejra, “The English East India Company in Seventeenth

Century Ayutthaya: Trading Networks and Local Contexts”, in Anthony
Farrington and Dhiravat na Pombejra, The English Factory in Siam, 1612-1685
(London: The British Library, 2007), pp. 1-21.
47
Kenneth D. Basset, “The Trade of the English East India Company in the Far East,
1623-1684”, Journal of the Royal Asiatic Society ¼ (1960), pp. 33-35.
48
John Anderson, English intercourse with Siam in the seventeenth century, pp. 65-66.
49
Anthony Farrington & Dhiravat na Pombejra, The English Factory in Siam, 1612-
1685, p. 6-7.
24
Tình hình tài chính eo hẹp, chi phí cao và tình trạng buôn bán tƣ nhân của các
nhân viên Công ty cũng ảnh hƣởng rất nhiều đến kết quả kinh doanh của các thƣơng
điếm Anh ở Xiêm. Ngay cả John Saris ở thƣơng quán Hirado cũng bị nghi ngờ đã
dùng thƣơng mại của Công ty để phục vụ cho mục tiêu cá nhân. John Saris đã rất cố
gắng để biện minh cho hành động buôn bán tƣ nhân của mình. Chính vì vậy có thể nói
“Trong suốt thời kỳ đầu EIC thƣờng ở vào thế bất lợi so với các thƣơng nhân châu Âu
khác. Chính phủ Anh phản đối việc xuất khẩu bạc nén, thậm chí điều này đã bị những
ngƣời đứng đầu chống đối. Hơn nữa thƣơng mại tƣ nhân lại đƣợc phép phát triển mạnh
vì nó đƣợc coi là bổ sung cho các hoạt động của EIC. Trong thực tế, tuy nhiên, quan
chức EIC và vợ của họ có thể làm giàu cho mình thông qua thƣơng mại tƣ nhân bằng
các khoản đầu tƣ của công ty. Cuối cùng, sự quản lý, điều hành trong thế kỷ XVII nhƣ
một tính năng nổi bật của các đối thủ của nó VOC hiệu quả hơn nhiều”.
50

Mặt khác trong thời kỳ này, hoạt động thƣơng mại của các thƣơng nhân châu Á
nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Hồi giáo cũng là những thế lực hàng hải mạnh. Đặc biệt,
phải kể đến hoạt động của hệ thống Châu ấn thuyền Nhật Bản (1580-1639) cũng gây
ra khó khăn nhất định đối với các hoạt động kinh doanh của thƣơng nhân phƣơng Tây,

trong đó có ngƣời Anh.

References.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Buch, W. J. M, Công ty Nam Dương và Đông Dương, Tài liệu Khoa Lịch sử,
Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.
2. Nguyễn Mạnh Dũng (2007) “Hoạt động thƣơng mại của Công ty Đông Ấn Pháp ở
Siam nửa sau thế kỷ XVII”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4 (372), tr. 35-48.
3. Ferlus Michel (2007), “Về tên gọi của ngƣời Xiêm”, Tạp chí Xưa và Nay, số 289, tr.
34-36.
4. Hall D.G.E (1997), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đào Minh Hồng (2001), Chính sách đối ngoại của Thái Lan (Xiêm) nửa cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Tp. Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Hồng (2009), Lịch sử truyền giáo Việt Nam, quyển 1 và quyển 2, (Các
Thừa sai dòng Tên, 1615 - 1665), Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
7. Kleinen, John (2008), Sư tử và rồng: Bốn thế kỷ Hà Lan - Việt Nam, Nxb. Thế giới,
Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Kim (2000), Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa:
Nguyên nhân và hệ quả”, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Kim (2003), Nhật Bản với Châu Á - Những mối liên hệ lịch sử chuyển
biến kinh tế, xã hội, Nxb. Đại Học Quốc Gia, Hà Nội.


50
Nicolas Tarling, The Cambridge history of Southeast Asia, (Cambridge University
Press, 1992), Vol.2, pp.167.

25

10. Nguyễn Văn Kim (2003), Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á, thế kỷ XV-
XVII, Nxb. Đại Học Quốc Gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Kim (2009), “Mạng lƣới giao thƣơng Đông Á trƣớc thời đại mở cửa
và những hệ quả phát triển - trƣờng hợp Hội An”, Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc
Á, số 3 (97), tr. 54 – 67.
12. Nguyễn Văn Kim (2009), “Hoạt động thương mại của các vương quốc cổ Thái
Lan, vị trí và những ảnh hưởng khu vực”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á.
13. Maybon, Charles B (2006), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nxb. Thế giới,
Hà Nội.
14. Phạm Nguyên Long, Nguyễn Tƣơng Lai (1998), Lịch sử Thái Lan, Nxb. Khoa Học
Xã Hội, Hà Nội
15. Mary Somers Heidhuees (2007), Lịch sử phát triển Đông Nam Á, Nxb. VHTT, Hà
Nội.
16. Vũ Dƣơng Ninh - Nguyễn Văn Hồng (1999), Lịch sử thế giới cận đại, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
17. Vũ Dƣơng Ninh (1990), Vương quốc Thái Lan lịch sử và hiện tại, Đại học Tổng
hợp, Hà Nội.
18. Lƣơng Ninh (2005), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
19. Phố Hiến, Kỷ yếu hội thảo khoa học, 1994, Sở Văn hóa Thông tin, Hải Hƣng.
20. Samson. G (1994), Lịch sử Nhật Bản, (tập 3), Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội
21. Sakurai Yumio (1996), “Thử phác dựng cấu trúc lịch sử Đông Nam Á thông qua
những mối liên hệ giữa biển và lục địa”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4.
22. Tana, Li (1999), Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVI-
XVII, Nxb. Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh
23. Hoàng Anh Tuấn (2005), “Kế hoạch Đông Á và sự thất bại của công ty Đông Ấn
Anh ở Đàng Ngoài thập niên 60 của thế kỷ XVII”. Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số
9.
24. Hoàng Anh Tuấn (2005), Công ty Đông Ấn Hà Lan và công ty Đông Ấn Anh ở
Đàng Ngoài (tư liệu và những vấn đề nghiên cứu), Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Trƣờng Đại học KHXH&NV, Hà Nội

25. Hoàng Anh Tuấn (2008), “Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thƣơng cảng Biển
Đông thời cổ trung đại”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 9+10.
26. Trƣờng Đại học KHXH&NV Hà Nội (2007), Việt Nam trong hệ thống thương mại
Châu Á thế kỷ XVII-XVIII, Nxb. Thế giới.
27. Lê Thanh Thủy (2010) “Qúa trình xâm nhập Đông Nam Á của công ty Đông Ấn
Anh từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX”. Luận án Tiến sĩ sử học.
28. Shigeru Ikuta (1991), “Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam Á từ
đầu thế kỷ II TCN đến thế kỷ XIX” in trong: Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa Học
Xã Hội, Hà Nội.

×