Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Đặc điểm sáng tác của nguyễn ngọc tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.63 KB, 12 trang )

Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư


Nguyễn Thị Phương


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn Thạc sĩ ngành: Văn học Việt Nam; Mã số: 60 22 34
Người hướng dẫn: PGS.TS. Mai Hương
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Luận văn làm rõ quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư về văn chương, con
người và sự chi phối của những quan niệm đó đến sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
Khảo sát và hệ thống các kiểu nhân vật và những đặc điểm nổi bật trong thế giới
nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư. Làm rõ những đặc điểm nghệ thuật đặc sắc trong
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.

Keywords. Văn học Việt Nam; Truyện ngắn

Content
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hơn hai mươi năm trở lại đây, văn học Việt Nam có nhiều biến chuyển đa dạng
và phức tạp. Khác với văn học của những thời kì trước, văn học thời kì này đã thể hiện
những cái nhìn mới về hiện thực đời sống, về con người. Đề tài thay đổi và mở rộng,
cảm hứng đời tư, thế sự được đề cao. Cái nhìn của tác giả cũng có sự thay đổi, hiện thực
được khai thác sâu hơn, chân thực hơn, đa chiều hơn. Bởi thế văn học thời kì này có
những màu sắc phong phú đồng thời cũng từng gây nhiều tranh luận.
Sự chuyển đổi của văn học có được nhờ sự đóng góp của nhiều cây bút ở các thế
hệ khác nhau, trong đó có phần đóng góp đáng quý của những cây bút nữ trẻ và đầy sáng


tạo. Thế mạnh của những cây bút nữ ngày càng được khẳng định.
Trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới, người yêu văn chương cũng như
giới phê bình nghiên cứu khoảng mười năm đầu thế kỷ XXI không còn xa lạ với cái tên
Nguyễn Ngọc Tư nữa. Tên tuổi của chị gắn với những tác phẩm có dấu ấn với bạn đọc,
giới phê bình.
Tuy Nguyễn Ngọc Tư – một tác giả trẻ tuổi chưa hẳn là tác giả tiêu biểu nhất
nhưng ở chị đã hình thành một phong cách riêng độc đáo. Nguyễn Ngọc Tư đã có những
bước tiến khá tự tin và vững chắc vào làng văn Việt Nam. Một cây bút của miền Nam xa
xôi được nhiều người biết đến với những tác phẩm được giải thưởng cao. Tác phẩm của
chị khi ra đời đều được đón đọc, quan tâm đồng thời cũng tạo được những cuộc tranh
luận khá thú vị trên văn đàn.
Sự quan tâm của người đọc và giới phê bình đến tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư
được thể hiện ở một số bài viết trên một số báo, tạp chí và internet. Ngoài ra, chúng ta
còn bắt gặp những luận văn, khóa luận, báo cáo khoa học nghiên cứu về tác phẩm của
chị. Nguyễn Ngọc Tư với số lượng tác phẩm và giải thưởng đáng kể là một cây bút có
thể coi là đã thành danh trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Chúng tôi thấy hiện
tượng này xứng đáng là một đối tượng cho một đề tài nghiên cứu kĩ càng hơn, hệ thống
và đầy đủ hơn. Từ Nguyễn Ngọc Tư ta có thể thấy được phần nào văn xuôi đổi mới. Hơn
nữa sự yêu thích nhà văn nữ này cũng là một nguyên nhân nữa. Khiến chúng tôi chọn đề
tài: “Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư”.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ được nhanh chóng nhìn nhận tài năng. Chị trở
thành cái tên quen thuộc, một gương mặt không xa lạ với độc giả cả nước. Các bài báo
viết về Nguyễn Ngọc Tư khá nhiều từ báo mạng đến báo viết,… Các bài báo có nhiều ý
kiến đa dạng, thậm chí là trái chiều và có khi đối lập nhau. Điều này cho thấy Nguyễn
Ngọc Tư và sang tác của chị đựoc dư luận chú ý quan tâm và ít nhiều cũng là một hiện
tượng nổi bật của văn học đương đại. Bên cạnh đó ta còn bắt gặp một lượng không nhỏ
các báo cáo khoa học, khoá luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ về tác phẩm của Nguyễn
Ngọc Tư,
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, có thể thấy, các bài

viết, các công trình nghiên cứu về tác phẩm của tác giả Nguyễn Ngọc Tư khá phong phú,
tuy nhiên chủ yếu mới dừng lại ở từng tác phẩm, hoặc đi vào một số khía cạnh trong
sáng tác của chị. Với luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng khảo sát một cách hệ thống,
thấu đáo sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, từ đó đúc rút những nét riêng độc đáo cả về nội
dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện, khẳng định những đóng góp đáng quý của tác giả
Nguyễn Ngọc Tư với nền văn học nước nhà.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu tìm hiểu quan niệm văn chương, chặng đầu sáng tác; thế giới
nhân vật; đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
Luận văn khảo sát toàn bộ sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ở các thể loại truyện
ngắn, ký, tản văn, tạp văn, thơ. Tuy nhiên trong khuôn khổ có hạn, luận văn chủ yếu tập
trung vào thể loại truyện ngắn. Để có điều kiện so sánh làm nổi bật nét riêng trong phong
cách sáng tạo của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi cũng khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu
của các cây bút chuyên viết về Nam Bộ như Sơn Nam, Phi Vân, Hồ Biểu Chánh, Bình
Nguyên Lộc, Đoàn Giỏi, Dạ Ngân…và một số nhà văn nữ cùng thời.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai luận văn chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích tác phẩm;
phương pháp cấu trúc hệ thống; phương pháp phân loại, thống kê và phương pháp so
sánh.
5. Những đóng góp mới của đề tài
- Làm rõ quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư về văn chương, con người và sự chi
phối của những quan niệm đó đến sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
- Khảo sát và hệ thống các kiểu nhân vật và những đặc điểm nổi bật trong thế
giới nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư.
- Chỉ ra những đặc điểm nghệ thuật đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Nhìn lại chặng đầu sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Chương 2: Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
NHÌN LẠI CHẶNG ĐẦU SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ
1. Đôi nét về con ngƣời và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ
Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau
trong một gia đình nghèo. Khi mới học hết lớp chín, do hoàn cảnh gia đình vô cùng khó khăn
nên chị phải nghỉ học. Được cha động viên “Nghĩ gì, viết nấy, viết những gì con đã trải qua”,
chị bắt đầu viết và tìm được ở đó niềm vui lớn. Ba chuyện đầu tay của chị lần đầu tiên được
gửi đến tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau và được chọn đăng. Sau đó chị được nhận vào làm
văn thư và học làm phóng viên tại báo này. Tác phẩm đầu tay là tập kí sự Nỗi niềm sau cơn
bão dữ đã đưa chị vào nghề văn chính thức với giải ba báo chí toàn quốc năm 1997 và sau đó
là rất nhiều giải thưởng khác. Chị đã gia nhập Hội nhà văn Việt Nam và được coi là một
trong những nhà văn trẻ gây được chú ý ở Việt Nam. Hiện nay chị cùng gia đình cư ngụ tại
thành phố Cà Mau, làm phóng viên cho tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau và hội văn học
nghệ thuật Cà Mau.
Trong đời thường, Nguyễn Ngọc Tư có vẻ ngoan hiền, thích cuộc sống giản đơn
nhưng nội tâm phức tạp. Trong văn chương, chị ví truyện của mình như trái sầu riêng – nhiều
người thích nhưng cũng không ít người dị ứng.
Số lượng tác phẩm chính đã xuất bản lên đến hàng chục ở rất nhiều thể loại: truyện
ngắn, tạp văn, tản văn, tạp bút, …trong đó phải kể đến một số tác phẩm tiêu biểu: Ngọn đèn
không tắt, Cánh đồng bất tận, Gió lẻ, Ngày mai của những ngày mai,…
Cùng với đó, số lượng giải thưởng dành cho Nguyễn Ngọc Tư cũng khá nhiều:
- Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần II – Tác phẩm Ngọn đèn
không tắt – 2000.
- Giải B Hội Nhà văn Việt Nam – tập truyện Ngọn đèn không tắt – 2000.
- Giải ba cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ với truyện Đau gì như thể.
- Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học
Nghệ thuật Việt Nam. Một trong mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm 2003 do Trung ương

Đoàn trao tặng.
- Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 2006, Tác phẩm Cánh đồng bất tận.
- Giải thưởng văn học các nước Đông Nam Á (ASEAN) 2008.
Thời gian gần đây tác phẩm Cánh đồng bất tận đã được chuyển thể thành phim và được công
chúng nồng nhiệt đón nhận.
1.2. Quan niệm văn chƣơng và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ
1.2.1. “Tôi viết nhƣ cảm xúc của mình”
Cho dù viết về mảng nào, lĩnh vực nào thể loại nào thì với Nguyễn Ngọc Tư, điều
quan trọng vẫn là cảm xúc. Cảm xúc thật từ đời sống chỉ có được khi trực tiếp sống,
thực sự hòa nhập với đời sống. Nguyễn Ngọc Tư không muốn viết những gì mà chị
không có cảm xúc. Trong những năm gần đây Nguyễn Ngọc Tư rất tâm đắc với thể loại
tản văn. Chị cho rằng thể loại này là thể loại thể hiện được những chiều kích cảm xúc
nhất.
Nguyễn Ngọc Tư cũng đã từng tâm sự, chị lấy cảm hứng từ cuộc sống và số phận
của những nhân vật nhỏ bé, những người nông dân nghèo, lam lũ, những người nghệ sĩ
nghèo khổ bất hạnh, những đứa trẻ đáng thương, những người đàn bà tội nghiệp…ở
chính vùng quê Nam Bộ của chị. Chính những tình cảm, số phận trớ trêu của họ đã tạo
cảm xúc cho Nguyễn Ngọc Tư sáng tác.
1.2.2. “Tôi nhƣ kẻ đẽo cày giữa đƣờng”
Với Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn phải luôn là chính mình cho dù có những dư luận
thậm chí trái chiều. Cũng chính bởi quan niệm là văn viết bắt nguồn từ những cảm xúc
nên chị quan tâm nhất là những gì mình viết có thực sự làm thỏa mãn mình không.
Nguyễn Ngọc Tư là tác giả nhận được rất nhiều dư luận đánh giá xung quanh các tác
phẩm của chị. Tuy vậy, với chị cảm xúc thật của mình quan trọng hơn bao giờ hết. Chị
luôn cố gắng được là chính mình sau những ồn ào xung quanh những vấn đề lien quan
đến tác phẩm của chị.
1.2.3. Cái “Tôi” nhà văn là cái “Tôi” cô đơn
Nguyễn Ngọc Tư sớm cảm nhận và ý thức về sự khắc nghiệt của nghề văn, về sự
cô đơn trong sáng tạo của người nghệ sĩ. Chị cũng tự nhận mình là người cô đơn. Chị
cũng phát hiện ra một thế mạnh của người phụ nữ là phụ nữ dễ nuôi cô đơn để viết. Bởi

thế chị cũng rất biết cách tận dụng lợi thế này để viết. Theo chị sự cô đơn là cần thiết
cho hành trình sáng tạo nghệ thuật.
1.2.4.“ Con đƣờng viết lách là con đƣờng nhọc nhằn khủng khiếp…"
Là một nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư luôn ý thức được rất rõ về trách nhiệm của
người cầm bút, về nghề văn. Chị biết đó là một nghề không dễ dàng, nhọc nhằn. Tuy vậy
chị vẫn lựa chọn nó. Với Nguyễn Ngọc Tư nghề văn là một nghề sáng tạo, một hành
trình dài vô tận.
1.2.5“Chậm thôi, giữ lửa và chờ đợi”.
Đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư người đọc nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư luôn
có cách khai thác hiện thực đời sống một cách có chiều sâu nhất. Có ý kiến chị nên đổi
“vùng thẩm mĩ” sáng tác song Nguyễn Ngọc Tư cho rằng chị vẫn còn rất nhiều cảm
hứng và còn có thể viết nhiều hơn thế. Chị không vội vàng, không chạy theo những trào
lưu sáng tác của giới trẻ hiện nay mà có cách cảm nhận của riêng mình về hiện thực đời
sống. Chính vì thế mà người đọc luôn có những cảm nhận sâu sắc về tác phẩm của chị.
1.3. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Nguyễn Ngọc Tƣ
1.3.1. Con ngƣời sống là để yêu thƣơng.
Trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư, yêu thương đã thành lẽ sống, niệm vui,
niềm hạnh phúc. Chính bởi thế, hầu hết các nhân vật của chị đều giàu tình yêu thương và
luôn khát khao được yêu thương. Là người giàu cảm xúc và coi trọng cảm xúc trong sáng
tác, Nguyễn Ngọc Tư luôn níu giữ lòng tin yêu của con người. Trong quan niệm của chị
viết về cái ác cũng là một cách để tôn vinh cái thiện và ca ngợi tình yêu thương con
người, để con người biết sống tốt đẹp, nhân ái hơn.
1.3.2. Con ngƣời “Sống là luôn hi vọng…”
Quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư: Sống là luôn hi vọng. Hi vọng giúp cho con
người thoát khỏi những khó khăn, bế tắc. Ta nhận thấy rất rõ quan niệm này của Nguyễn
Ngọc Tư thông qua các tác phẩm của chị. Các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư vẫn luôn
tin rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn, bất hạnh khó khăn sẽ qua đi và hạnh phúc đang đón
chờ ở phía trước. Chính hy vọng tạo ra sức mạnh giúp con người vượt lên khó khăn thực
tại để tiếp tục sống và gây dựng tương lai. Nguyễn Ngọc Tư từng nói: “Con người mà tắt
hy vọng thì chết còn sướng hơn”.

1.3.3. “Tình cảm phải xuất phát từ tấm lòng mới quý”
Ta thường biết đến một tính cách của con người Nam Bộ chính là tính cách trọng
tình nghĩa. Trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư, tình cảm phải chân thành, không
khiên cưỡng, không giả dối. Sự giả dối rất đáng sợ, nó khiến cho những người trung thực
luôn cảm thấy khổ sở, bất an. Có thể nói, các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư đều bộc lộ
tính cách của con người Nam Bộ: Thẳng thắn, bộc trực, quý trọng sự thật lòng, ghét sự
giả dối, nhất là trong tình cảm.
1.4. Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ trong dòng văn xuôi nữ thời kì đổi mới
Các nhà văn nữ với ưu thế về sự đông đảo và sức trẻ đã góp phần không nhỏ làm
mới diện mạo của văn học Việt Nam. Chúng ta có thể kể đến một số tên tuổi như: Lê
Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Y Ban, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Phạm Thị Minh Thư, Nguyễn Thị Ấm, Võ Thị Xuân Hà…và một thế hệ nhà văn nữ
sau này đã có sự nối tiếp thành công với những cây bút sớm có bản sắc riêng: Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Đỗ Hoàng Diệu … Những sáng tác của các cây bút nữ là những
phản ánh chân thực về cuộc sống con người hiện đại. Họ thường viết sâu sắc về mảng đề
tài tình yêu, trăn trở với những kí ức. Cuộc sống đa chiều hiện ra dưới con mắt của các
nhà văn nữ càng đằm thắm hơn, nhân bản hơn.
Trong chục năm trở lại đây, Nguyễn Ngọc Tư đã trở nên khá quen thuộc với công
chúng độc giả yêu văn học. Chị là cây bút trẻ đoạt nhiều giải thưởng cao trong các giải
thưởng thường kỳ cũng như trong các cuộc thi viết truyện ngắn do các đơn vị có uy tín
trong và ngoài nước tổ chức. Nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đã được in ấn với số
lượng lớn, được tái bản, đặc biệt số lượng tái bản tập truyện Cánh đồng bất tận đã lên tới
16 lượt với hàng vạn bản. Trong dòng chảy chung của văn xuôi nữ đương đại Nguyễn
Ngọc Tư đã tìm cho mình một lối đi riêng, một phong cách riêng để lại ấn tượng sâu đậm
trong lòng bạn đọc. Cũng như nhiều nhà văn nữ khác, thế mạnh của Nguyễn Ngọc Tư là nói
về nỗi đau, về thân phận những người đàn bà trong cuộc sống hiện đại. Viết bằng sự thấu
hiểu, cảm thông của một nhà văn nữ, Nguyễn Ngọc Tư ý nhị đưa ra những khao khát khôn
nguôi về bến bờ hạnh phúc, sự bình yên trong tâm hồn mỗi con người.
1.5. Nguyễn Ngọc Tƣ – một cây bút độc đáo đậm chất Nam Bộ
Các nhà văn thường có những vùng đất riêng để nuôi dưỡng đứa con tinh thần của

mình. Đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư người đọc có cảm giác chị chẳng đi đâu xa ngoài
vùng đất của mình. Cũng chính bởi chị sống và yêu hết mình với mảnh đất Cà Mau và cũng
không muốn đi xa khỏi nó. Nguyễn Ngọc Tư là thế hệ trẻ tiếp nối đáng tin cậy sau thế hệ của
các nhà văn tên tuổi: Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Đoàn Giỏi,… Đồng thời chị cũng có những
sáng tạo riêng trong cách viết của mình.

Chương 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN NGỌC TƢ
2.1. Khái lƣợc về thế giới nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tƣ
Nhân vật chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình
tượng. Có thể khẳng định rằng nhân vật là một yếu tố quan trọng hàng đầu của một tác phẩm
văn học. Mặc dù có nhiều cách phát biểu khác nhau về khái niệm nhân vật văn học nhưng tất
cả đều khẳng định, nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người, nó có nhiều nét
giống con người thật nhưng không giống một cách tuyệt đối bởi nhà văn xây dựng nhân vật
dựa trên cơ sở có thật qua thủ pháp hư cấu.
2.1.1. Quan niệm của Nguyễn Ngọc Tƣ về nhân vật văn học
Nguyễn Ngọc Tư có ý thức xây dựng hệ thống nhân vật như con người thật ngoài đời
chứ không có ý xây dựng những nhân vật điển hình như những nhà văn thế hệ trước. Chị
không có ý định tô vẽ, đánh bóng cho nhân vật của mình. Chị viết theo những cảm nhận của
mình về những con người ở mảnh đất mà chị thương yêu và gắn bó. Nguyễn Ngọc Tư thật sự
đã có những thay đổi, sáng tạo trong cách nhìn nhận vấn đề và trong cách phản ánh số phận
con người giữa bối cảnh xã hội hiện đại.
2.1.2. So sánh nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ với nhân vật của một số
nhà văn cùng thời.
Trên văn đàn Việt Nam hiện đại, đương đại, người ta nhắc nhiều tới các nhà văn nữ:
Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy… Những nhà văn này
đều có những thành công nhất định trên con đường tìm tòi đổi mới truyện ngắn. Trong số
những nhà văn trên, chúng tôi thấy có sự gặp gỡ khá thú vị giữa nhân vật của Nguyễn Ngọc
Tư với nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ và của Đỗ Bích Thúy. Nhìn như vậy, có thể thấy,
sáng tác của ba tác giả nữ này đều chú trọng đến nhân vật, nhất là nhân vật người phụ nữ.

Nhân vật của ba tác giả cũng có những điểm chung: Nhân vật rơi vào bi kịch khi khát vọng
tình yêu và hạnh phúc bị chà đạp. Tuy vậy, nhân vật của ba nhà văn này không bị hòa lẫn vào
nhau.
2.2. Các kiểu dạng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ
2.2.1. Nhân vật kiếm tìm
Nhân vật kiếm tìm là kiểu nhân vật xuất hiện chủ yếu trong tác phẩm của Nguyễn
Ngọc Tư. Những tìm kiếm ấy có thể thành công nhưng cũng có nhiều đau khổ, thất vọng.
Tuy nhiên, chính những khao khát về tình yêu hạnh phúc của người phụ nữ, hành trình tìm
kiếm cái đẹp, ý nghĩa thực sự của cuộc sống của các nghệ sĩ, hành trình tìm kiếm chính mình,
tìm kiếm niềm tin ở cuộc sống… luôn là nỗi trăn trở của các nhân vật.
2.2.2. Nhân vật sám hối
Trong những năm gần đây nhân vật sám hối đã trở thành một kiểu nhân vật thường
xuất hiện trong văn học Việt Nam. Nhân vật sám hối là kiểu nhân vật nội tâm.
. Nhân vật sám hối và nhân vật tìm kiếm có quan hệ mật thiết với nhau. Nhiều khi tìm kiếm là
sám hối và có lẽ vì sám hối mà nhân vật tìm lại được chính mình. So với Tạ Duy Anh hệ
thống nhân vật sám hối của Nguyễn Ngọc Tư không khốc liệt bằng. Tuy vậy những dằn vặt,
giày vò luôn thường trực ở các nhân vật này khiến cho nhân vật trở nên khắc khổ hơn.
2.2.3. Nhân vật lƣu lạc
Nhân vật lưu lạc là loại nhân vật đặc trưng cho tính cách con người khai phá vùng đất
mới Nam Bộ. Cuộc sống tha hương phiêu dạt của những người khai phá vùng đất mới đã tạo
nên nét đặc trưng trong tính cách của họ. Các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư thường có cuộc
sống bất định, liên tục di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Không gian sống và cả không gian
tâm tưởng của nhân vật luôn thay đổi. Hoặc giả có ở cố định một nơi nhưng từ sâu xa, nhân
vật vẫn nghĩ về một cuộc ra đi, vẫn chịu ám ảnh về sự chia ly phiêu bạt. Phần lớn các nhân
vật lưu lạc trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đều là người có tình cảm, tình yêu thương sâu
sắc.
2.2.4. Nhân vật cô đơn
Nhân vật cô đơn là kiểu nhân vật khá phổ biến trong văn học Việt Nam đổi
mới. Có thể nhận thấy một điều, nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư chủ yếu là
những người nghệ sĩ và những người nông dân. Ở cả hai loại nhân vật này cô đơn là một

trạng thái thường thấy. Điều đó cũng dễ hiểu bởi con người vô cùng phức tạp và bí ẩn. Đôi
khi họ cảm thấy cô đơn vì lạc lõng trong một đám đông xa lạ, có khi cô đơn vì cái tôi quá
cao. Họ cô đơn khi họ muốn tách mình ra khỏi số đông…
2.2.4.1. Ngƣời nghệ sĩ cô đơn
Sự sáng tạo luôn đi đôi với cảm thức về sự cô đơn. Ở người nghệ sĩ hành trình đi tìm
cái đẹp gắn liền với sự cô đơn. Người nghệ sĩ chấp nhận mọi thứ để theo đuổi nghệ thuật nên
họ cô đơn, lạc lõng trong thế giới con người xung quanh. Nhìn chung những người nghệ sĩ
trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư là những người yêu nghề sống chết gắn bó với nghề và
thường rơi vào trạng thái cô đơn.
2.2.4.2. Con ngƣời cô độc trong “Biển ngƣời mênh mông”
Nhịp sống hối hả của cuộc sống hiện đại kéo theo nhiều hệ lụy. Sống gấp, sống
nhanh, sống vội vàng nhưng khi mọi thứ không theo ý muốn người ta lại dễ rơi vào trạng thái
cô đơn. Phần lớn nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sống giữa “biển người mênh mông” mà luôn
cảm thấy bơ vơ, lạc lõng. Họ là nạn nhân của những bi kịch, éo le, ngang trái, bị số phận xô
đẩy đến nỗi cô đơn. Quả thật, nỗi cô đơn của nhiều nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn
Ngọc Tư khó sẻ chia và họ cứ sống chìm đắm rất lâu trong cái vỏ bọc của sự cô đơn ấy.
2.2.5. Nhân vật nghèo khổ, bất hạnh
Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư hình ảnh những người nghèo khổ, bất
hạnh cũng là hình ảnh đậm, phổ biến, có sức ám ảnh với người đọc. Trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư, hầu hết nhân vật đều nghèo, phải lao động vất vả, cực nhọc, song họ vẫn
luôn là những người nghĩa hiệp, giàu lòng nhân ái, yêu thương.

CHƢƠNG 3:
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN NGỌC TƢ
3.1 Ngƣời kể chuyện
3.1.1. Ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ nhất
Trong nhiều tác phẩm, Nguyễn Ngọc Tư lựa chọn hình thức trần thuật theo
ngôi thứ nhất, qua nhân vật xưng tôi trong tác phẩm. Một số tác phẩm tiêu biểu là Cái nhìn
khắc khoải, Dòng nhớ, Cánh đồng bất tận, Lý con sáo sang sông, Ngổn ngang,… Người đọc

sẽ lĩnh hội được câu chuyện và thấu hiểu cả những suy tư, trăn trở trong tâm hồn của nhân vật
kể chuyện. Từ điểm nhìn ngôi thứ nhất, người kể chuyện tham gia vào hành động của câu
chuyện. Các nhân vật sống hồn nhiên như chính trong cuộc đời thực của họ.
3.1.2. Ngƣời kể chuyện ở ngôi kể thứ ba
Từ điểm nhìn này, người kể không tham gia vào hành động của câu chuyện với vai trò
như một trong các nhân vật. Theo Nguyễn Thái Hòa, ở lối kể chuyện này, người kể đứng ở vị
trí khách quan “giả vờ”, không dính líu đến câu chuyện. Những tác phẩm tiêu biểu cho lối kể
này là: Ngọn đèn không tắt, Truyện của Điệp, Cải ơi!, Huệ lấy chồng… Nhân vật được kể ở
ngôi thứ ba với giọng kể liền mạch của người kể chuyện, có lúc lại là lời độc thoại nhân vật
tự nói lên.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Đặt nhân vật vào những tình huống “có vấn đề”
Nguyễn Ngọc Tư đã đặt nhân vật vào những tình huống, những biến cố để nhân vật
không còn suy nghĩ theo lối mòn nữa mà bắt đầu chiêm nghiệm, phân tích lại bản thân, để
nhận ra sai lầm, nhận ra những chân lý của cuộc đời. Với những tình huống tự nhận thức,
Nguyễn Ngọc Tư đã để cho nhân vật tự đối thoại, tự đẩy mình đến tận cùng những cảm xúc,
để tự thức tỉnh và điều tiết hành động của chính mình.
3.2.2. Chú ý đến ngoại hình và nội tâm nhân vật trong xây dựng tính cách nhân
vật
Nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư không giống nhau, có đặc điểm ngoại
hình không giống nhau. Mỗi nhân vật có một nét riêng, một số phận riêng. Đối với ngoại hình
nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư chú ý nhiều đến đôi mắt. Đôi mắt bộc lộ tâm trạng nhân
vật.Ngoài chú ý miêu tả ngoại hình nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư còn chú ý đến miêu tả nội tâm
nhân vật. Để miều tả tâm lý nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư sử dụng độc thoại và dòng ý thức.
3.2.3. Các nhân vật bộc lộ tính cách của mình qua lời nói và hành động.
Lời nói và hành động là hai cách thể hiện tính cách nhân vật một cách sắc nét
nhất.
3.3 Giọng điệu trần thuật
“Giọng điệu: Là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn
với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ,

sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm,…
3.3.1 Giọng điệu dân dã, mộc mạc, tự nhiên
Giọng điệu dân dã, tự nhiên xuất hiện nhiều trong những trang văn của chị:
Khung cảnh thiên nhiên, cảnh sống sinh hoạt chân thực của người dân Nam Bộ. Nhân vật của
Nguyễn Ngọc Tư thích tự do, không ưa cầu kì hình thức, bởi thế lời nói của họ cũng rất tự
nhiên. Ta bắt gặp trong trang văn của Nguyễn Ngọc Tư cuộc sống thực như nó vốn có nhờ
giọng văn mộc mạc, dân dã này.
3.3.2. Giọng điệu ấm áp, chan chứa yêu thƣơng
Giọng điệu này đã thể hiện nhiều cung bậc yêu thương trong tâm hồn Nguyễn Ngọc
Tư. Những trang văn của Nguyễn Ngọc Tư thể hiện tình cảm thiết tha với những số phận éo
le bất hạnh. Giọng văn ấm áp ân tình khám phá những suy nghĩ, những trăn trở trong tâm hồn
nhân vật. Giọng điệu hồn hậu chân thành còn được thể hiện ở sự cảm thông với những mối
tình không thành.
3.3.3. Giọng điệu trữ tình, mƣợt mà
Có thể nói đây là giọng điệu cơ bản để tạo nên chất nữ tính và cũng là sức hút trong
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Giọng văn của chị dung dị mà sâu lắng, trữ tình nhẹ nhàng,
câu văn mềm mại. Cái nhẹ nhàng, thủ thỉ của chất trữ tình dường như thấm trong từng câu
chữ, cất lên từ những lời tâm sự, trong những hoài niệm về quá khứ của nhân vật.
3.4. Ngôn ngữ
3.4.1 Ngôn ngữ đời thƣờng đậm chất Nam Bộ
Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thường khai thác những vấn đề rất đời thường
trong cuộc sống con người miền Nam. Ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư sử dụng trong tác
phẩm của mình chủ yếu là ngôn ngữ của người dân sống ở thôn quê, ruộng vườn, cho nên
cách hành văn, diễn đạt của chị nôm na dễ đọc, dễ hiểu. Sử dụng khẩu ngữ là một trong
những cách cụ thể hóa câu nói trong đời sống thường ngày. Đó là một biểu hiện ý thức tìm
tòi, một tinh thần cố gắng trong việc làm mới ngòi bút, làm đa dạng các phương thức diễn đạt
của nhà văn.
3.4.2 Ngôn ngữ của một vùng “văn hóa sông nƣớc”
Không gian chủ yếu trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư chính là không gian

miệt vườn sông nước. Chúng tôi nhận thấy số từ ngữ thể hiện đặc trưng địa hình văn hóa của
vùng đồng bằng Sông Cửu Long rất rõ. Việc sử dụng những từ này thường xuyên làm nổi bật
bức tranh hiện thực, đời sống con người. Số lượng từ đặc trưng cho vùng văn hóa sông nước
khá nhiều.

PHẦN KẾT LUẬN
1. Trong một nền văn học có nhiều đổi mới, Nguyễn Ngọc Tư đã trở nên khá quen
thuộc với độc giả yêu văn học.
2. Với cái nhìn chân chất, đầy cảm xúc Nguyễn Ngọc Tư đã thổi vào hệ thống nhân
vật của mình những nét tính cách sống động, giống như con người thật ngoài cuộc
đời. Qua nhân vật chi gửi gắm những quan niệm về con người, về cuộc sống.
Cũng xuất phát từ quan niệm văn học là nhân học, Nguyễn Ngọc Tư đã khái quát
hiện thực cuộc sống thông qua thế giới nhân vật.
3. Không cầu kì trong việc sử dụng những phương thức biểu đạt, Nguyễn Ngọc Tư
đã khái quát về hiện thực cuộc sống đầy màu sắc.
4. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn
Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư thực sự là một cây bút có trách
nhiệm với nghề.
5. Là một cây bút trẻ, con đường sáng tác của chị vẫn đang ở phía trước.

References
I. Tác phẩm
1. Nguyễn Ngọc Tư (2000), Ngọn đèn không tắt, NXB Trẻ.
2. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ.
3. Nguyễn Ngọc Tư (2001), Ông ngoại, NXB Trẻ.
4. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Biển người mênh mông, NXB Kim Đồng.
5. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Giao thừa, NXB Trẻ.
6. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Nước chảy mây trôi, NXB Văn học nghệ thuật.
7. Nguyễn Ngọc Tư (2007), Sầu trên đỉnh Puvan.
8. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Nxb Văn học

9. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Tản văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ.
10. Nguyễn Ngọc Tư (2006, Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ.
11. Nguyễn Ngọc Tư (H.2007), Ngày mai của những ngày mai, NXB Phụ nữ.
12. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, NXB Trẻ.
13. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Biển của mỗi người.
14. Nguyễn Ngọc Tư (2012) Gáy người thì lạnh (tản văn), NXB Trẻ

II. Lý luận, phê bình
15. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG Hà Nội.
16. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2003), Lý luận văn học, NXB Giáo dục Hà Nội.
17. Đoàn Giỏi (H 2005), Đoàn Giỏi tuyển tập, NXB Văn hóa thông tin.
18. Lê Bá Hán (H.2006), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.
19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2004), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Giáo dục.
20. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn Hà Nội.
21. Nguyễn Thái Hòa (chủ biên) (2000), Những vấn đề thi pháp trong truyện, NXB Giáo
dục.
22. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1996) Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, NXB Giáo dục.
23. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB Giáo dục.
24. Phương Lựu (Chủ biên) (2003), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam…, Lý luận văn
học, NXB Giáo dục.
25. Sơn Nam (2008), Hương rừng Cà Mau, NXB Trẻ.
26. Sơn Nam (1997), Cá tính miền Nam, NXB Trẻ, TPHCM.
27. Huỳnh Như Phương (1994), Văn chương nữ giới - một cách thể hiện ở đời, NXB Hội
nhà văn.
28. Phan Quang (H.1981), Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Văn hóa.
29. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
30. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục.

31. Trần Đình Sử(2004), Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử, NXB ĐHP Hà
Nội.
32. Bùi Việt Thắng, Mã Giang Lân (2005), Văn học Việt Nam sau 1975, NXB
ĐHQGHN.
33. Bakhtinne (H.1990), Nghệ thuật như là thủ pháp, NXB KHXH.
34. G.N. Poxpelop (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân,
Lê Ngọc Trà dịch, NXB Giáo dục.
35. Manfred Jahn (2005), Trần thuật học (Nhập môn lý thuyết trần thuật), Nguyễn Thị
Như Trang dịch, Phạm Gia Lâm hiệu đính, Hà Nội.

III. Báo, tạp chí
36. Điệp Anh, Gặp hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ, VNT số 10 ra ngày 11/3/2001, trang
3.
37. Kim Anh, Hỏi chuyện nhà văn Dạ Ngân: Nguyễn Ngọc Tư - Điềm đạm mà thấu đáo,
VNT số 15 ra ngày 11/04/2004, trang 3.
38. Lê Huy Bắc, Cốt truyện trong tự sự, Tạp chí nghiên cứu văn học số 7 năm 2008.
39. Phan Quý Bích, Sức lôi cuốn của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, VNT số 46 ra ngày
12/11/2006, trang 10.
40. Nguyễn Trọng Bình, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa,
o.
41. Võ Đắc Danh, Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư – tôi như kẻ đẽo cày giữa đường,
o.
42. Trần Phòng Diều, Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, VNQD số
467 năm 2006, trang 94.
43. Trần Hữu Dũng, Nguyễn Ngọc Tư – đặc sản Nam Bộ, o
44. Đoàn Ánh Dương, Cánh đồng bất tận, nhìn từ mô hình tự sự và ngôn ngữ trần thuật,
TCNCVH số tháng 2/2007.
45. Phạm Thùy Dương, Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ Bích Thủy và
Nguyễn Ngọc Tư, VNQĐ số 661, tháng 1/2007, trang 101.
46. Đặng Anh Đào, Sự sống bất tận, Văn nghệ số 17-18 ra ngày 29/04 và 06/05/2006.

47. Tiến Đề, “Nguyễn Ngọc Tư: Tôi sợ sẽ … cạn đi như nhiều người”,

48. Nhiều tác giả, Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí văn học số 6 năm 1996.
49. Thoại Hà, “Nguyễn Ngọc Tư: Tôi quá già để nhảy cẫng trước niềm vui”,
.
50. Bùi Đức Hào, “Thử nhận định về Gió lẻ sau Cánh đồng bất tận trong hành trình văn
học Nguyễn Ngọc Tư, o.
51. Nguyễn Thị Hoa, “Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập truyện Cánh
đồng bất tận”, t –studies.info.
52. Lê Thị Thái Hòa, “Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Là phụ nữ, dễ nuôi cô đơn để viết”,
.
53. Đào Duy Hiệp, Chất thơ trong cánh đồng bất tận, Văn nghệ số 32 ra ngày
12/08/2006.
54. Văn Công Hùng, Bất tận với Nguyễn Ngọc Tư, Văn nghệ trẻ số 25 ra ngày
24/06/2007.
55. Lê Thị Hường, Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay, Tạp chí
Văn học số 2 năm 199.
56. Trần Thiện Khanh, Bàn lại với tác giả Bùi Việt Thắng, Tạp chí văn học số 8/2008.
57. Trần Hoàng Thiên Kim, “Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Tôi…điên không đều”,

58. Phạm Thái Lê, “Hình tượng con người cô đơn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”,
.
59. Hoàng Thiên Nga, Đọc Nguyễn Ngọc Tư qua cánh đồng bất tận, Văn nghệ số 39 ra
ngày 24/09/2005.
60. Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Ngọc Tư dữ dội và nhân tình, Báo tuổi trẻ số ra ngày
03/12/2005.
61. Lê Thiếu Nhơn, “Nguyễn Ngọc Tư – nhìn từ đỉnh cao văn chương”,
.
62. Phạm Phú Phong, Lời đề từ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Tạp chí nghiên cứu
văn học số 6/2008.

63. Trần Văn Sỹ, Bức tranh quê buồn tím ngắt, Văn nghệ số 15, ra ngày 15/04/2006.
64. Kiệt Tấn, “Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư”, o.
65. Bùi Việt Thắng, Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận, Tạp chí nghiên cứu văn
học số 7/2006.
66. Huỳnh Công Tín, “Nguyễn Ngọc Tư – nhà văn trẻ Nam Bộ”,
.
67. Nguyễn Thanh Tú, Bi kịch hóa trần thuật –một phương thức tự sự, Tạp chí nghiên
cứu văn học số 5/2008.
68. Nguyễn Tý, Nhân vật người nông dân và nghệ sĩ trong Giao thừa của Nguyễn Ngọc
Tư, VN số 21, ra ngày 24/05/2003, trang 7.
69. Nguyễn Tý, Ngày đầu năm đọc Cánh đồng bất tận với sức hút kì lạ, Báo Công an
thành phố Hồ Chí Minh ngày 07/02/2006.
70. Anh Vân, “Nguyễn Ngọc Tư: Tôi viết như cảm xúc của mình”, .
71. Thảo Vy, Nỗi nhớ qua Cánh đồng bất tận, báo Tuổi trẻ ra ngày 25/11/2005.
72. Thảo Vy, Nỗi đau qua Cánh đồng bất tận, Tạp chí văn học Phật giáo, số 2 ra ngày
28/12/2005.
73. Lê Xuân, Nhịp sống cải lương Nam Bộ, VN số tết Mậu Tý 2008, trang 47.

IV. Các trang web tham khảo
74. o
75.
76.
77.



×