Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.1 KB, 4 trang )

Tăng cường phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa
28/04/2021 | 23971
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết toàn
dân tộc đã trở thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu
của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước, trọng nhân nghĩa,
khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu
vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở thành lẽ sống,
chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam cả ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài. Bất luận trong
hoàn cảnh nào, đã kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc ta
vượt lên mọi khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vẻ vang
trong đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc - truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống đó được hun đúc, hình thành và phát triển bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự
chủ của dân tộc ta hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng mọi thiên tai, địch họa,
để xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam ngày càng cường thịnh. Tinh thần yêu nước ấy được Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết
thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1]. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự được
nhân lên gấp bội khi ý thức dân tộc, truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân được soi
sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt
của Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính đảng của giai cấp công nhân biết kế thừa truyền thống
lịch sử quý báu của dân tộc, trung thành với lợi ích của nhân dân, kiên trì phấn đấu hy sinh vì
độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ln
xác định đại đồn kết tồn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ


yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Có sự lãnh đạo của
Đảng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã được phát huy cao độ với quyết tâm “mang sức ta
giải phóng cho ta”, “dù có hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng kiên quyết
giành cho được độc lập”, khi thời cơ đến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
hơn 20 triệu người dân Việt Nam đã nhất tề đứng dậy giành chính quyền làm nên cuộc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đem lại nền độc lập cho dân tộc và quyền tự do cho
nhân dân.
Trong kháng chiến chống Pháp, với ý chí quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ…” và sự đồng lịng của tồn dân tộc: “Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai
có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước”[2], Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành
công, thành công, đại thành công”[3]. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố,
nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; lấy mục tiêu xây dựng một


nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt khơng trái với
lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, đoàn kết
mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc để
đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, gian khổ với khát vọng cháy bỏng của
toàn thể dân tộc Việt Nam: “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân
tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại
thành cơng” đã được vận dụng một cách sáng tạo, phát huy tới đỉnh cao với nhiều hình thức
phong phú trong điều kiện lịch sử mới. Trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, nhiều phong trào
thi đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực ở cả miền Nam và miền Bắc với khẩu hiệu hành động:
“Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, xâm lược”! “Tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt”, “Tất cả cho
tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm

đang”, “Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng”, “Thóc khơng thiếu một cân, qn khơng thiếu
một người”... đã lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, từ thành thị đến nông thôn, từ miền
xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo hăng hái thi đua vừa chiến đấu vừa lao động sản
xuất. Tất cả những hành động đó đã biểu thị tinh thần đồn kết của toàn thể 31 triệu người dân
Việt Nam xung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nhờ đó, chúng ta đã huy động cao độ
sức mạnh chính trị tinh thần và nhân tài, vật lực to lớn lần lượt đánh bại các chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mỹ, để cuối cùng dốc sức cho thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975, kết thúc vẻ vang sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc; giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.

Ảnh: Các dân tộc Việt Nam luôn phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Giải pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm
lớn, là phương thức và cũng là điều kiện bảo đảm thực hiện thành cơng sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bài học kinh


nghiệm này còn nguyên giá trị và cần tiếp tục phát huy nhằm khơi dậy sức mạnh to lớn của tồn
dân tộc thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh.
Đảng ta chỉ rõ: “Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và
khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta phải đồn
kết một lịng; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy; có quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác, kịp
thời diễn biến của tình hình; chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống…” [4]. Tại buổi Lễ kỷ
niệm 90 năm ngày truyền thống của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Đại đoàn kết dân tộc là chủ trương chiến lược, có ý nghĩa sống
còn, quyết định sự thành bại của cách mạng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối chiến lược
cách mạng của Đảng ta. Là biểu trưng sinh động của tư tưởng đoàn kết thống nhất toàn dân tộc.

Quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng và lợi ích thiết thực của mỗi tầng lớp nhân dân, tạo mọi điều
kiện thuận lợi để nhân dân phát huy khả năng sáng tạo, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần tập trung thực hiện tốt
mấy nội dung giải pháp cơ bản sau:
Trước hết, tiếp tục xây dựng và tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp rộng
rãi mọi tầng lớp nhân dân, bảo đảm sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người,
an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy
cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi,
nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”[5].
Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân, vì nhân dân và chính nhân dân là người
làm nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đại đoàn
kết dân tộc là chủ trương chiến lược, có ý nghĩa sống cịn, quyết định sự thành bại của cách
mạng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng của Đảng ta. Là biểu
trưng sinh động của tư tưởng đoàn kết thống nhất toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc cần động viên,
phát huy tốt hơn nữa vai trị đồn kết các giai tầng, nêu cao vai trò của các cá nhân tiêu biểu
trong các giới đồng bào, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Tăng
cường phát huy dân chủ, tinh thần thân ái, trao đổi, bàn bạc, bảo đảm sự bình đẳng, tơn trọng,
thơng cảm lẫn nhau; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần, giai cấp; chấp nhận
những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc để Mặt trận các cấp thực sự là
trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội, đóng góp trí tuệ, cơng sức cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, tiếp tục thể chế hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành
những chính sách, quy chế, quy định cụ thể để nhân dân phát huy quyền làm chủ và thực hiện

tốt trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Xây dựng cơ chế, chính sách và các
hình thức tổ chức để nhân dân được phát huy quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát triển sản xuất, kinh doanh làm giàu chính đáng, mang
lại lợi ích cho mình và cho đất nước. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “gần dân,
hiểu dân, học dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân”, gương mẫu, tận tụy với cơng việc, “nói
đi đơi với làm”, thực sự là công bộc của nhân dân. “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí
tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài,…”[6].


Ba là, tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi và
vùng đồng bào có đạo. Thường xuyên rà sốt, điều chỉnh, bổ sung hồn thiện những chính sách
đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng
dân tộc, vùng đồng bào tôn giáo và thực hiện nhiệm vụ cơng tác dân tộc, cơng tác tơn giáo trong
tình hình mới. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ
hoạt động chuyên trách ở các cấp. Đồng thời, tăng cường công tác dân vận của chính quyền
các cấp. Phát huy vai trị của người có uy tín trong đồng bào dân tộc, chức sắc tơn giáo trong
việc thực hiện chính sách dân tộc, tơn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh,
trật tự trên địa bàn. Cùng với đó, tiếp tục tổ chức tốt Cuộc vận động “Tồn dân đồn kết xây
dựng nơng thơn mới, đơ thị văn minh”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, phong
trào thi đua “Đoàn kết sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, hội nhập quốc tế”,
bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả, lan tỏa, sát hợp với thực tế. Qua đó, tăng cường đồn kết các
dân tộc và sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tơn giáo với những người khơng tín
ngưỡng, tơn giáo, giữa những người có các tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau; đồng thời, tích cực
đấu tranh chống những biểu hiện kỳ thị, chia rẽ dân tộc và những hành vi tà đạo, mê tín, dị đoan,
lợi dụng dân tộc, tơn giáo làm phương hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tăng cường phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân
dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp
tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực
quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại,…; “kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để
phát triển đất nước”[7]. phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại; phát huy ý chí tự cường dân tộc, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc để tập hợp các tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức
mạnh to lớn vững chắc trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa./.
Thượng tướng, TS Lê Huy Vịnh



×