Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN TCCT NGUYÊN tắc QUYỀN lực NHÀ nước THUỘC về NHÂN dân TRONG HOẠT ĐỘNG của hệ THỐNG CHÍNH TRỊ cơ sở một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN tại HUYỆN CHƠN THÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.93 KB, 12 trang )

1

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
*

BÀI THU HOẠCH HẾT HỌC PHẦN
Chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính

CHỦ ĐỀ:

NGUYÊN TẮC QUYỀN LỰC NHÀ
NƯỚC THUỘC VỀ NHÂN DÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TẠI HUYỆN CHƠN THÀNH
Họ tên học viên:
Lớp: Trung cấp LLCT-HC,
Phần: Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam

.................................. năm 2021
PHẦN I. MỞ ĐẦU
Hệ thống chính trị cơ sở là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Hệ thống chính trị cơ sở có vai trị rất quan trọng trong việc tổ


2

chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân


dân. Hệ thống chính trị cơ sở trực tiếp lãnh đạo, quản lý và huy động mọi nguồn
lực ở cơ sở để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, tổ chức và chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân; tạo ra tiềm lực vật chất, chính trị tinh thần, góp
phần nâng cao sức mạnh tổng hợp cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bảo vệ
Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Một trong những nguyên
tắc cơ bản trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, đó là thực hiện tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC QUYỀN LỰC NHÀ
NƯỚC THUỘC VỀ NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
1.1. Khái niệm Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và Hệ thống chính trị cơ
sở
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể, bao gồm toàn bộ
những tổ chức chính trị-xã hội hoạt động hợp pháp, cùng những cơ chế chính trị
bảo đảm thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân.
Cấu trúc của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa bao gồm: Đảng Cộng sản,
Nhà nước XHCN và các đồn thể nhân dân mang tính chất chính trị xã hội, hoạt
động theo một cơ chế thống nhất phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, thực
hiện đường lối, mục tiêu xây dựng CNXH. Cơ chế đó đảm bảo mọi quyền lực
thuộc về nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý
của Nhà nước XHCN.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa hình thành khi Đảng kiểu mới của
GCCN nắm được chính quyền, lãnh đạo nhân dân lao động đi lên CNXH. Đây là
thiết chế chính trị thể hiện quyền lực của GCCN, đem lại lợi ích chính đáng cho
nhân dân lao động, do đó nó khác hẳn về chất so với các thiết chế chính trị của các
giai cấp thống trị tồn tại trong lịch sử. Trong hệ thống chính trị XHCN, mỗi bộ
phận của nó hoạt động với chức năng, vai trò riêng, song cùng hướng tới thực hiện
mục tiêu chung là xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân lao động thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH.



3

Về cơ cấu tổ chức, hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay được phân thành
bốn cấp: Trung ương, tỉnh - thành phố, huyện - quận và cấp xã, phường, thị trấn.
Trong đó cấp xã, phường, thị trấn được xác định là đơn vị hành chính cấp cơ sở.
Như vậy, hệ thống chính trị cơ sở là một bộ phận của hệ thống chính trị nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập ở xã, phường, thị trấn. Bao
gồm các tổ chức, thiết chế hợp pháp, có quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau để
thực hiện quyền lực của nhân dân ở cơ sở và xây dựng địa phương vững mạnh toàn
diện, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
1.2. Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong hệ thống chính
trị cơ sở.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là vấn đề đã được quy định trong các
bản Hiến pháp của nước ta. Thông qua Hiến pháp nhân dân giao quyền, uỷ quyền
quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước không chỉ thông qua các cơ quan đại diện mà cịn thơng qua các cơ quan nhà
nước khác như hành pháp, tư pháp, ở cấp cơ sở, quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân được thông qua hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, cụ thể hóa trong chức
năng, nhiệm vụ của các thành tố cấu thành hệ thống chính trị cơ sở.
Cấu trúc của thống chính trị cơ sở là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm các
tổ chức, các thiết chế chính trị hợp pháp được pháp luật thừa nhận đó là: tổ chức cơ
sở đảng; chính quyền cơ sở (HĐND xã, UBND xã); Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân (Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh),
được tổ chức, hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và gắn bó hữu cơ
với nhau. Mỗi thành viên trong hệ thống chính trị cơ sở có vị trí, vai trị, chức năng
khác nhau, song đều vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân lao động làm chủ.
Chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính trị cơ sở được biểu hiện cụ thể qua

chức năng, nhiệm vụ của các thành tố cấu thành.
Tổ chức cơ sở đảng có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo trực tiếp, toàn diện
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở, lãnh đạo chính quyền và các đồn
thể quần chúng.
Chính quyền cấp xã (bao gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân).
Theo Luật tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND thì HĐND xã là cơ quan


4

quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân xã có chức năng, nhiệm vụ là quyết định và giám sát.
Trong chức năng quyết định, HĐND quyết định những vấn đề trên các mặt kinh tế;
văn hóa, giáo dục, xã hội, an ninh, quốc phịng, trật tự, an toàn xã hội.v.v. Đối với
việc xây dựng chính quyền xã, HĐND xã có nhiệm vụ quyền hạn: bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm đối với chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch, phó
chủ tịch và thành viên khác của UBND xã; bãi nhiệm đại biểu HĐND; bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của UBND xã; bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu. Trong chức năng giám sát,
HĐND giám sát hoạt động của chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND xã, giám sát
việc thực hiện nghị quyết của HĐND, việc tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội , tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang
nhân dân và của công dân ở địa phương. Xem xét báo cáo của chủ tịch hội đồng
nhân dân, UBND cấp xã, xem xét việc trả lời chất vấn của người bị chất vấn theo
quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hiện chức năng giám sát, chủ tịch
HĐND, đại biểu HĐND có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước hữu quan, tổ chức
chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế cung cấp tài liệu, thông tin cần thiết; khi có sai
phạm thì có quyền u cầu các cơ quan, tổ chức đó xem xét, xử lý theo thẩm

quyền. HĐND xã thực hiện chức năng, quyền hạn của mình chủ yếu thơng qua các
kỳ họp (2lần/1 năm), qua hoạt động thường xuyên của chủ tịch và phó chủ tịch
HĐND, qua hoạt động của các đại biểu HĐND theo luật định.
UBND do HĐND bầu ra, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành
chính ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật và các văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND. Như vậy, UBND xã
là cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở. Với tư cách đó, UBND có chức năng,
nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước trên địa bàn xã, tổ chức thực hiện những nghị
quyết và quyết định của HĐND cùng cấp về kế hoạch, ngân sách, tài chính; về
quản lý nơng nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi; về tiểu thủ công nghiệp; về
giao thông; về thương mại, dịch vụ; về văn hóa, giáo dục; về y tế, xã hội; về quốc


5

phòng- an ninh; về thi hành pháp luật; về xây dựng chính quyền và quản lý địa giới
hành chính.
Tóm lại, chính quyền cơ sở là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng,
quyền và lợi ích của nhân dân ở cơ sở. Đây là lực lượng nòng cốt của hệ thống
chính trị cơ sở, thực hiện chức năng quản lý hành chính; tổ chức, điều hành mọi
lĩnh vực hoạt động của quần chúng nhân dân và tổ chức, định hướng các hoạt động
tự quản của nhân dân ở cơ sở.
Các tổ chức chính trị-xã hội trong hệ thống chính trị bao gồm: Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh.
Các tổ chức này có có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là: tập hợp, củng cố, xây dựng
khối đại đồn kết tồn dân, tạo sự nhất trí về chính trị, tinh thần của nhân dân;
tuyên truyền vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ thực sự của mình trong
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của
Nhà nước; bảo vệ, đại diện cho quyền lợi, ý chí của các thành viên trong việc tham
gia xây dựng, giám sát Đảng và chính quyền. Tập hợp những kiến nghị của nhân

dân để phản ánh với Đảng và cơ quan Nhà nước; chăm lo, bảo vệ quyền lợi và
nghĩa vụ chính đáng của nhân dân.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay MTTQ còn có một chức năng quan trọng
đó là chức năng phản biện xã hội. Thông qua việc thực hiện chức năng này MTTQ
thực hiện quyền giám sát việc đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, tổ chức
thực hiện các mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và trong thực hiện dân
chủ XHCN ở cơ sở của tổ chức đảng, chính quyền địa phương đúng hay sai, hiệu
quả hay khơng hiệu quả. Từ đó, kiến nghị với tổ chức đảng, chính quyền cơ sở
điều chỉnh cho phù hợp.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC THUỘC VỀ NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở HUYỆN CHƠN THÀNH HIỆN NAY
2.1. Những ưu điểm
Với vai trò là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị cơ sở, các đảng bộ,
chi bộ ở xã, thị trấn của huyện Chơn Thành đã nhận thức và xác định rõ vai trị, vị
trí, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị; đồng thời đảm
bảo vai trị lãnh đạo toàn diện trên mọi lĩnh vực ở cơ sở. Nhiều cấp ủy đã thực sự


6

đổi mới nội dung, quy trình và xác định được những vấn đề trọng tâm, trọng điểm
trong việc ban hành các nghị quyết. Nội dung nghị quyết lãnh đạo đã phản ánh
được những vấn đề thực tế, sát địa phương và nguyện vọng của quần chúng nhân
dân. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy đã khắc phục một bước tình trạng bao biện
làm thay cơng việc của chính quyền, hoặc bng lỏng vai trị lãnh đạo. Việc đánh
giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm đã đi vào nền nếp, gắn
bó mật thiết với nhân dân.
Trong tổ chức và hoạt động của HĐND, hầu hết các xã, thị trấn đều đảm bảo
họp đúng định kỳ theo luật định; chất lượng các kỳ họp từng bước được nâng lên.

Nhiều nơi đã tổ chức được các cuộc giám sát chuyên đề có trọng tâm, trọng điểm
liên quan chặt chẽ đến những vấn đề nổi bật, ảnh hướng đến đời sống nhân dân;
công tác thẩm tra các báo cáo, tờ trình của UBND tại các kỳ họp của HĐND đảm
bảo tính khách quan, trung thực. Theo kết quả đánh giá hoạt động của HĐND, hầu
hết các xã, thị trấn đều đảm bảo đúng luật, chất lượng hoạt động được nâng lên so
với các nhiệm kỳ trước, xứng đáng là đại biểu, đại diện cho tiếng nói của nhân dân.
Hoạt động của UBND xã, thị trấn đã phát huy hiệu quả công tác quản lý, điều
hành theo pháp luật. Hầu hết UBND các xã, thị trấn đã ban hành quy chế làm việc.
Phong cách, ý thức trách nhiệm, lề lối làm việc của cán bộ, công chức, nhất là cán
bộ chủ chốt có sự chuyển biến tích cực theo hướng gần dân, trọng dân, phục vụ
nhân dân, từng bước khắc phục tình trạng sách nhiễu, phiền hà nhân dân.
Cơng tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân
trên địa bàn huyện Chơn Thành đạt tỷ lệ cao. Việc thực hiện pháp lệnh, quy chế
dân chủ ở cơ sở đã đem lại kết quả tốt. Công tác thanh tra nhân dân ở các địa
phương thực hiện có hiệu quả, đã kiến nghị với chính quyền giải quyết tốt các đơn
khiếu nại, tố cáo, hạn chế các đơn thư tồn đọng kéo dài. Hầu hết các thôn, bản đã
xây dựng được quy ước, hương ước và thực hiện có nề nếp; Ở huyện Chơn Thành
hiện nay, 100% xã, thị trấn đã bầu ban giám sát đầu tư cộng đồng. Công tác cải
cách thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” của cấp xã đã phát huy hiệu quả,
giải quyết kịp thời các nhu cầu về thủ tục hành chính cho nhân dân địa phương.
Đối với cơng tác mặt trận và các đồn thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân ở cơ sở đã xây dựng được quy chế hoạt động, xác định rõ chức


7

năng, nhiệm vụ và từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đáp ứng
ngày càng tốt hơn yêu cầu của nhân dân. Ở nhiều cơ sở, Mặt trận Tổ quốc đã phối
hợp tốt với các ngành, đoàn thể thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và các hoạt động từ thiện, đền ơn đáp nghĩa;

phát huy vai trị tham gia xây dựng chính quyền, thực hiện cơng tác giám sát, kiểm
tra hoạt động của chính quyền. Trong các kỳ bầu cử HĐND, Mặt trận Tổ quốc đã
thể hiện tốt vai trò hiệp thương, giới thiệu đại biểu có đủ điều kiện, tiêu chuẩn vào
bộ máy của chính quyền, đảm bảo cho chính quyền hoạt động có hiệu quả.
Trong những năm gần đây, Mặt trận Tổ quốc ở các xã, thị trấn của huyện Chơn
Thành đã thực hiện việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ
tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND cấp xã nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở.Hoạt động hoà giải của Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở cũng
góp phần giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân, giảm đáng
kể các “điểm nóng” và tình trạng đơn thư khiếu nại vượt cấp. Qua đó, phát huy cao
độ vai trị của nhân dân, và các tổ chức đồn thể chính trị xã hội trong xây dựng bộ
máy chính quyền thực sự của dân, do dân, vì dân.
2.2. Những hạn chế khuyết điểm
Bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua trong hoạt động của hệ thống
chính trị cơ sở trong huyện Chơn Thành cịn có mặt mặt hạn chế, yếu kém, tạo nên
những ảnh hưởng không nhỏ trong thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân ở cấp cơ sở. Cụ thể là:
Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở chưa được
xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ ràng; nội dung và phương thức hoạt
động chậm đổi mới và chưa đồng bộ, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp. Qua đó tạo nên sự đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau, ảnh hướng
đến niềm tin của một bộ phận nhân dân, và uy tín của tổ chức đảng, chính quyền
địa phương cơ sở.
Một số nơi sự phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa chặt
chẽ, hiệu quả hoạt động chưa cao. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số
tổ chức cơ sở đảng còn yếu, nhất là năng lực vận dụng các chủ trương, nghị quyết
của Đảng và chính sách của Nhà nước vào tình hình cụ thể của địa phương. Một số


8


Hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền một số nơi chưa cao; trình độ,
năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức cấp xã, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ sở một số xã, thị trấn chưa
thực sự được quan tâm; nội dung, chương trình đào tạo chưa phù hợp với cơng việc
ở cơ sở, cịn chạy theo bằng cấp. Hoạt động của các đoàn thể chính trị ở một số nơi
cịn mang tính hình thức, chưa thiết thực; cịn biểu hiện hành chính hóa trong hoạt
động. Cơng tác kiểm tra nắm tình hình cơ sở ở một số địa bàn chưa thường xuyên,
sâu sát, dẫn đến việc phát hiện và xử lý các vấn đề nảy sinh ở cơ sở còn bị động.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên ở cơ sở suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống, nói khơng đi đơi với làm, làm giảm sút uy tín và niềm tin của nhân
dân đối với chính quyền. Bên cạnh đó Chế độ, chính sách đối với cán bộ trong hệ
thống chính trị cơ sở cịn bất cập; cơ sở hạ tầng và điều kiện làm việc một số nơi
cịn khó khăn, cũng ảnh hưởng không nhỏ đế chất lượng hoạt động của hệ thống
chính trị.
Nguyên nhân của những khuyết điểm có cả nguyên nhân chủ quan và khách
quan, nhưng tựu trung lại, ngun nhân chủ quan đóng vai trị tiên quyết. Trong đó,
lề lối, tác phong, tinh thần, thái độ làm việc và phục vụ nhân dân của đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị cơ sở có ảnh hưởng to lớn. Bên cạnh đó,
cơng tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thiếu thường xuyên; chưa xử lý nghiêm đối
với những tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu khơng hồn thành nhiệm vụ sắp
xếp tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, chưa có cơ chế đánh giá phù hợp
và thay thế kịp thời những cán bộ, công chức, viên chức không đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG,
HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ HUYỆN CHƠN THÀNH,
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN
3.1. Giải pháp
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, góp phần
bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh

tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng, thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, một số giải pháp nhằm


9

đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở ở
huyện Chơn Thành. Cụ thể là:
Một là, các đảng bộ, chi bộ ở xã, thị trấn trong huyện Chơn Thành cần nâng
cao nhận thức và thực hiện đúng vai trò hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị ở
cơ sở. Đảng lãnh đạo phải bằng chủ trương, định hướng, không bao biện làm thay
cơng việc của chính quyền; phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần trách
nhiệm trong việc thực hiện đường lối của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của
đảng bộ, chi bộ, trước hết là đổi mới việc ra nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các
nghị quyết của Đảng; đa dạng hóa các nội dung sinh hoạt của các tổ chức cơ sở
đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập
trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng
cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở.
Hai là, đối với chính quyền cơ sở xã, thị trấn, cần có mơ hình tổ chức hợp lý,
đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Phát huy mạnh mẽ vai trị của cơ quan hành
chính trong việc mở rộng và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá
phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Mọi hoạt động của cơ quan
hành chính ở cơ sở phải hướng vào mục tiêu phục vụ dân; giải quyết đúng đắn và
nhanh chóng các cơng việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo
dục cán bộ, công chức cơ sở có phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân
và có trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Phát huy vai
trò tự quản trong cộng đồng dân cư của tổ chức thôn, ấp, khu phố.
Ba là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng, đa dạng hố các hình
thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực,

chính đáng và hợp pháp của nhân dân. Phát huy vai trị tham gia xây dựng chính
quyền, giám sát các hoạt động của chính quyền, nhất là đối với các phường không
tổ chức HĐND; nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức thành viên. Mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân đi đôi với giữ
vững kỷ cương, kỷ luật. Có cơ chế để nhân dân tham gia, giám sát các hoạt động
của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân một cách thiết thực;
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, nhất là ở những nơi có đơng đồng bào có


10

đạo, đồng bào dân tộc ít người. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chế,
quy định và làm rõ mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư”, kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong nội bộ
nhân dân, không để những mâu thuẫn nhỏ tích tụ lâu ngày trở thành “điểm nóng”.
Bốn là, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị cấp
cơ sở. Có cơ chế tuyển dụng những trí thức trẻ có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực chun mơn vào các cơ quan của Đảng, chính quyền
và các đồn thể chính trị - xã hội. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở. Thực
hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức trong
các tổ chức của hệ thống chính trị cơ sở; đồng thời đi đơi với việc đổi mới nội
dung, chương trình đào tạo phù hợp với chức danh, công việc của cán bộ, công
chức cơ sở.
Năm là, đối với những cơ sở yếu kém, phức tạp, có biểu hiện vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân và có nhiều đơn thư, khiếu nại, tố cáo hoặc có diễn biến
phức tạp về chính trị - xã hội, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể cần theo dõi, nắm chắc mọi diễn biến để đánh giá đúng tình hình; tiến hành
thanh tra, kiểm tra, kết luận rõ đúng, sai và xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên
sai phạm, đồng thời có giải pháp cụ thể, thiết thực để sửa chữa, khắc phục, tạo sự

thống nhất trong nhận thức, hành động ở các tổ chức cơ sở đảng và cộng đồng dân
cư; kịp thời giải quyết những kiến nghị chính đáng của nhân dân.
3.2. Liên hệ trách nhiệm bản thân
Là cán bộ, đảng viên, bản thân tôi nhận thức rõ quyền lực nhà nước thực sự
thuộc về nhân dân khi những người được nhân dân tín nhiệm trong cơ quan quyền
lực tận tâm, tận trí phụng sự vì lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, trong quá trình
thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình, tơi ln khắc sâu lời dạy của chủ tịch Hồ
Chí Minh. Sinh thời, khi nói về bản chất nhà nước mà chúng ta đang xây dựng,
Bác đã chỉ rõ: Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ngay ở Điều 1, Hiến pháp năm 1946, Bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta do Chủ
tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, đã khẳng định: “Nước Việt Nam là
một nước dân chủ cộng hịa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân


11

Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái, trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Người nhấn mạnh: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Do
vậy có quyền nhân dân trực tiếp làm, trực tiếp thực hiện; có quyền nhân dân giao
hay ủy quyền cho một tổ chức, một nhóm người hoặc cho một người thực hiện để
thực hiện mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng khẳng định: Để chống lại tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền
lực vì lợi ích cá nhân, địi hỏi các cơ quan Đảng, Nhà nước và cán bộ phải chịu sự
kiểm tra, giám sát của Đảng, của nhân dân. Chính vì vậy, mỗi cán bộ đảng viên
chúng ta phải coi việc được quần chúng, được nhân dân giám sát là niềm vinh dự
của bản thân. Và để thể hiện vinh dự đó, mỗi trên cương vị được giao phải làm thật
tốt, tồn tâm tồn ý vì mục đích của tập thể, của cơ quan, tổ chức chứ không phải
vì mục đích danh lợi cá nhân như lời Bác Hồ đã từng căn dặn: “Việc gì có lợi cho
dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Trên cương vị là người cán bộ, đảng viên, bản thân tơi xác định cần phải

tích cực đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 04-NQ/TW (khóa
XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Sự gương mẫu của người cán bộ, đảng viên
đối với mỗi cá nhân chúng ta ở đây được thể hiện trên 2 phương diện: Một mặt
phải luônnêu cao đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; tự giác rèn luyện, học
tập, tu dưỡng để nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ chun
mơn, mặt khác phải luôn tự giác đấu tranh đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến, tự chuyển hóa”; kiên quyết đấu tranh chống quan liêu,
lãng phí, tham nhũng, xảy ra ở trong đơn vị. Nếu như trong một tổ chức, mỗi người
cán bộ, đảng viên thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh thì nhất định
nội bộ sẽ mất ổn định. Phải luôn nỗ lực phấn đấu và làm theo gương Bác để thực
sự mỗi người cán bộ, đảng viên luôn gần dân, hiểu dân, thực sự là công bộc của
nhân dân.
PHẦN III. KẾT LUẬN
Hệ thống chính trị cơ sở là một bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng hịa
XHCN Việt Nam, có vai trị đặc biệt quan trọng trong tuyên truyền, vận động và tổ


12

chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; là cầu nối liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; là nơi trực tiếp
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; trực tiếp tổ chức thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở vững mạnh hiện nay chính là để thực hiện trọn vẹn nguyên tắc
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Những năm qua, hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Chơn Thành luôn luôn
được quan tâm xây dựng, củng cố, kiện toàn, phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ;

lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ chương, chính
sách của Đảng và pháp luật Nhà nước ở cơ sở. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện
nay,hệ thống chính trị cơ sở huyện Chơn Thành cũng cịn bộc lộ những thiếu sót,
khuyết điểm, làm ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn
định chính trị và q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương. Do đó,
để xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, cần phát huy tối đa mọi nguồn
lực, nhất là nâng cao vai trò trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị cơ sở.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, “Những vấn đề cơ bản về hệ
thống chính trị, nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa” (Giáo trình Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính), Nxb.Lý luận chính trị, 2017.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021.
3. Hồng Chí Bảo (Chủ biên): Hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn nước ta
hiện nay, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2004.
4. Phan Xuân Sơn (Chủ biên): Các đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo
dân chủ ở cơ sở, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002.
5. Đặng Đình Tân (Chủ biên): Thể chế đảng cầm quyền ở nước ta, một số
vân đề lý luận và thực tiễn, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2004.



×