Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ VAI TRÒ của hệ THỐNG CHÍNH TRỊ cơ sở TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH dân tộc của ĐẢNG, NHÀ nước ở TỈNH lâm ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.13 KB, 100 trang )

1

1

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Chính sách dân tộc
Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị cơ sở
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
CSDT
HTCT
HTCTCS
XHCN


2

2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRONG THỰC HIỆN


CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
9

1.1.

Ở TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY
Một số nội dung chủ yếu về chính sách dân tộc của

9

1.2.

Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Lâm Đồng và vai trò
của nó trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng,

Chương 2

Nhà nước hiện nay
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI

27

TRÒ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRONG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG,
2.1.

NHÀ NƯỚC Ở TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY
Vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện chính


38

sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ở tỉnh Lâm Đồng
2.2.

hiện nay - thực trạng và nguyên nhân
Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò hệ

38

thống chính trị cơ sở trong thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng, Nhà nước ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

58
80
81
85


3

3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính sách dân tộc là một bộ phận trong hệ thống chính sách chung của
Đảng và Nhà nước, tác động trực tiếp đến cộng đồng các dân tộc về mọi mặt

và sự bình đẳng dân tộc. Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước
ta luôn đặc biệt quan tâm đến CSDT, luôn có CSDT đúng đắn, sáng tạo. Thực
hiện tốt CSDT góp phần to lớn tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân, phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu và đòi
hỏi cao hơn về chất lượng và hiệu quả trong thực hiện CSDT, là trách nhiệm
của cả HTCT và toàn dân ta. Trong đó, HTCTCS giữ vị trí, vai trò hết sức
quan trọng, là nơi trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, đưa đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có CSDT đến với người dân;
HTCTCS cũng là nơi trực tiếp lãnh đạo, quản lý, tổ chức, triển khai và vận
động nhân dân thực hiện tốt CSDT. Chất lượng, hiệu quả thực hiện CSDT
luôn gắn liền với vai trò to lớn của HTCTCS.
Lâm Đồng là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, có nhiều dân tộc cư
trú đan xen. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng trong thực hiện CSDT của
Đảng và Nhà nước. Trong những năm qua, vai trò HTCTCS tỉnh Lâm Đồng
nhìn chung đã được phát huy tích cực, triển khai và thực hiện khá tốt CSDT
của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đạt được nhiều
thành tựu to lớn, đời sống các dân tộc cơ bản ổn định, có vùng được cải thiện
rõ rệt, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên bên cạnh đó, việc thực hiện CSDT còn nhiều bất cập. Tỷ lệ
đói nghèo nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao, khoảng cách về
trình độ phát triển kinh tế, xã hội so với dân tộc Kinh vẫn còn rõ rệt, trình
độ dân trí còn thấp, tình trạng dân di cư tự do, chặt phá, lấn chiếm rừng còn


4

4

xảy ra.... Do đó việc thực hiện tốt CSDT của Đảng và Nhà nước nhằm từng

bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các dân tộc, khắc
phục khoảng cách chênh lệch, xóa đói giảm nghèo, góp phần củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân, ổn định chính trị - xã hội, thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đang là vấn đề cấp thiết đặt ra.
Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay”
là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, vừa cấp bách, vừa lâu dài. Đó là lý do tác giả
chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hệ thống chính trị nói chung, HTCTCS nói riêng và vai trò của nó là vấn đề
được Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Là một vấn đề
chính trị - xã hội nổi bật hiện nay. Có ý nghĩa sâu sắc cả lý luận và thực tiễn.
Đặc biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay, xây dựng và phát huy vai trò
HTCT các cấp là điều kiện quyết định để chúng ta thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Nhóm công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã đề cập vấn đề
này trong các văn kiện Đại hội Đảng. Tại Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành
TW Đảng khóa IX (2002), Đảng ta đã đưa ra nghị quyết chuyên đề về “Đổi
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”;
trong đó Đảng ta khẳng định: HTCTCS có vai trò rất quan trọng trong việc tổ
chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ
của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống
của cộng đồng dân cư.
Nghiên cứu về HTCT nói chung, HTCTCS nói riêng, ngoài quan điểm,
đường lối của Đảng, ở các góc độ khác nhau, còn có nhiều công trình khoa


5


5

học như: GS.TS Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông
thôn nước ta hiện nay”, Nxb Lý luận chính trị, HN. 2005; TS Chu Văn Thành
(Chủ biên) “Hệ thống chính trị cơ sở thực trạng và một số giải pháp đổi
mới”, Nxb CTQG, HN. 2004; “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa
đời sống xã hội nông dân miền núi vùng dân tộc thiểu số”, Nguyễn Quốc
Phẩm (Chủ biên), Nxb CTQG, HN. 2002; TS Vũ Hoàng Công “Hệ thống
chính trị cơ sở đặc điểm, xu hướng và giải pháp”, Nxb CTQG, HN. 2002; Tô
Huy Rứa, Nguyễn Cúc, Trần Khắc Việt (Đồng chủ biên) (2003), nghiên cứu
một số giải pháp đổi mới hoạt động của HTCT các tỉnh miền núi nước ta hiện
nay, Nxb CTQG, HN; Phạm Hảo, Trương Minh Dục (Đồng chủ biên) (2003),
Một số vấn đề về xây dựng HTCT ở Tây Nguyên, Nxb CTQG, HN.....
Ngoài một số cuốn sách đề cập ở trên, nhiều đề tài khoa học, luận văn, luận
án cũng quan tâm nghiên cứu về HTCT và HTCTCS ở từng địa bàn cụ thể của đất
nước. Tiêu biểu như: Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
(2008), các chuyên đề của hội thảo khoa học hệ thống chính trị cấp cơ sở các tỉnh
thuộc khu vực Tây Nguyên - thực trạng và giải pháp, Đà Lạt; Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh (2003), các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống
chính trị các tỉnh miền núi nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Hà
Nội; Đinh Văn Thành (2009), hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Đồng Nai đấu tranh
phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo gây mất ổn định chính trị - xã
hội hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Triết học; Đào Quang Ninh (2005), Phát huy vai
trò hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước ta ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Triết học...
Những công trình, đề tài khoa học trên, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu
dưới những góc độ khác nhau của HTCTCS và bước đầu làm rõ khái niệm,
đặc điểm, cấu trúc, vai trò của từng thành tố trong HTCTCS; xu hướng vận
động, giải pháp xây dựng HTCTCS; đặc biệt, có nhiều công trình đã đi sâu

nghiên cứu, khảo sát đặc điểm, thực trạng HTCTCS vùng nông thôn, miền núi
và khu vực Tây Nguyên nước ta. Chỉ ra vai trò to lớn của HTCTCS trong việc


6

6

lãnh đạo, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; đưa ra nhiều giải pháp đổi mới tổ chức và
hoạt động của HTCTCS cũng như việc phát huy vai trò HTCTCS trong các
nhiệm vụ cụ thể trên từng địa bàn.
* Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách dân tộc
Vấn đề dân tộc và việc thực hiện CSDT luôn được Đảng, Nhà nước ta
xác định rõ và ngày càng hoàn thiện, thể hiện nhất quán trong các văn kiện,
chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Dưới nhiều góc độ khác nhau, đã có nhiều công
trình khoa học đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc và thực hiện CSDT như: Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - phân viện Hà Nội - Khoa Dân tộc (1995),
“Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước”; Ủy ban dân tộc viện dân tộc: “Một số vấn đề đổi mới nội dung quản lý Nhà nước và phương thức
công tác dân tộc”, Nxb văn hóa dân tộc, HN. 2004; Ủy ban dân tộc và miền núi
(2001), “Về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta” (Tài liệu bồi dưỡng
cán bộ về công tác dân tộc), Nxb CTQG, HN; GS.TS Trịnh Quốc Tuấn (Chủ
biên) “Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp”, Nxb CTQG,
HN. 1996; “Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi”
do GS Bế Viết Đẳng (Chủ biên), Nxb CTQG, HN.1996; đề tài khoa học 04 - 05:
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến dân tộc, sắc tộc ở
nước ta và trên thế giới, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta”, do GS
Phan Hữu Dật làm chủ biên, HN.2000...
Có nhiều luận văn, luận án đề cập đến vấn đề dân tộc và việc thực hiện
CSDT, tiêu biểu như: “Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên

Bái hiện nay” của tác giả Lâm Thị Bích Nguyệt (2005); Luận án tiến sĩ của
Nguyễn Thanh Thủy (Bảo vệ năm 2001): “Quá trình thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với đồng bào Khme ở đồng bằng
sông Cửu Long”; “Đổi mới chính sách của Đảng và Nhà nước trong đào tạo
sử dụng đội ngũ cán bộ các dân tộc ở miền núi phía bắc nước ta hiện nay”
của tác giả Lô Quốc Toàn (1993); Nguyễn Thị Phương Thủy (2001): Đổi mới


7

7

việc thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ( từ thực tiễn các tỉnh miền núi phía bắc)...
Những công trình khoa học này dưới nhiều góc độ và mức độ khác nhau đã
phân tích, làm rõ tình hình đặc điểm dân tộc ở nước ta; chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
dân tộc, những vấn đề đặt ra cần thực hiện tốt hơn CSDT trong thời kỳ mới...
Những công trình khoa học nghiên cứu về HTCT, HTCTCS cũng như về
vấn đề dân tộc, thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước...Đây là những cơ sở
quan trọng để tác giả vận dụng, kế thừa trong nghiên cứu đề tài. Song, cho đến
nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ
thống về “Vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng, Nhà nước ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay”; do đó, đề tài luận văn không
trùng với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn vai trò của HTCTCS
trong thực hiện CSDT của Đảng, Nhà nước ở tỉnh Lâm Đồng, từ đó đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò đó trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng hiện nay.

* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ CSDT và vai trò HTCTCS trong thực hiện CSDT của Đảng, Nhà
nước ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
Đánh giá thực trạng vai trò HTCTCS trong thực hiện CSDT của Đảng,
Nhà nước ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay và nguyên nhân của nó.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát huy vai trò HTCTCS trong thực
hiện CSDT của Đảng, Nhà nước ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò HTCTCS trong thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước ở tỉnh
Lâm Đồng hiện nay.


8

8

* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu khảo sát thực trạng vai trò HTCTCS trong thực hiện CSDT
của Đảng và Nhà nước ở một số xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng từ năm 2002 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về HTCT;
vai trò của HTCTCS; về dân tộc, vai trò của HTCTCS đối với việc thực hiện CSDT
của Đảng, Nhà nước. Kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình
khoa học có liên quan trực tiếp đến nội dung luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng tổng hợp phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp

với phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử lôgíc, hệ thống, so sánh, thống
kê, khảo sát thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học để
HTCTCS tỉnh Lâm Đồng phát huy tốt vai trò của mình trong thực hiện CSDT
của Đảng, Nhà nước hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học để HTCTCS các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên, các tỉnh miền núi có đông
đồng bào dân tộc, tôn giáo tham khảo trong thực hiện CSDT hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, học tập ở hệ thống nhà trường trong và ngoài quân đội; làm tài liệu tham
khảo cho đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn


9

9

Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC Ở TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY
1.1. Một số nội dung chủ yếu về chính sách dân tộc của Đảng, Nhà
nước ta hiện nay
1.1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay
* Cơ sở lý luận chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay

Vấn đề dân tộc là vấn đề quan hệ giữa các dân tộc trong một quốc gia và
giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới. Giải quyết vấn đề dân tộc có vị trí
chiến lược trong cách mạng XHCN, là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng của
Đảng cộng sản và Nhà nước XHCN qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ăngghen đã nêu lên
luận điểm nổi tiếng: “Hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này đi áp
bức dân tộc khác cũng bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ
dân tộc không còn thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng mất theo” [22, tr 624]. Mác Ăngghen chỉ rõ: trong xã hội có giai cấp, vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc luôn
gắn bó chặt chẽ với nhau, sự áp bức bóc lột của giai cấp này với giai cấp khác là
nguồn gốc áp bức, bóc lột của dân tộc này với dân tộc khác.
Như vậy, để giải quyết vấn đề dân tộc phải luôn gắn với vấn đề giai cấp,
chỉ có đấu tranh thủ tiêu giai cấp mới xóa bỏ được nạn người bóc lột người và
tình trạng áp bức dân tộc. Bởi vì, trong xã hội có giai cấp, vấn đề giai cấp và


10

10

vấn đề dân tộc luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, sự áp bức bóc lột của giai cấp này
với giai cấp khác là nguồn gốc áp bức, bóc lột của dân tộc này với dân tộc khác.
Mặt khác, giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu trước mắt, vừa là
nhiệm vụ lâu dài gắn liền với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân chỉ có thể được hoàn
thành khi giai cấp công nhân giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa
dân tộc, giai cấp và quốc tế. Bởi lẽ: “cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại
giai cấp tư sản, dù về nội dung không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lại
mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi
nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã” [22, tr 611]. Tức là, giai
cấp công nhân muốn thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình thì trước hết

phải hiện thực hóa sứ mệnh lịch sử ấy trong khuôn khổ từng quốc gia, dân tộc.
Về thực chất giải quyết vấn đề dân tộc là giải quyết vấn đề lực lượng
cách mạng, là nhiệm vụ xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình cách mạng
XHCN. Nó không chỉ là nhiệm vụ trong giai đoạn đấu tranh giành chính
quyền, mà còn là nhiệm vụ trong giai đoạn xây dựng CNXH, đồng thời là
mục tiêu, động lực của cách mạng XHCN gắn với sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân. Để giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc phù hợp với
nguyện vọng giai cấp công nhân mỗi nước và trên toàn thế giới, đòi hỏi giai
cấp công nhân phải xây dựng một đảng cách mạng chân chính, thực sự là đội
tiền phong, lãnh tụ chính trị đại biểu cho lợi ích giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trong cuộc đấu tranh giành các mục tiêu cao cả. Có thể nói, sự
nghiệp cách mạng sẽ không thành công nếu vấn đề dân tộc không được giải
quyết một cách đúng đắn, phù hợp.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại mà V.I. Lênin sống và hoạt
động cách mạng, vấn đề bình đẳng và tự quyết dân tộc lại càng bức thiết hơn.
Trong điều kiện ấy, V.I. Lênin đã phát triển những luận điểm của Mác Ăngghen về vấn đề dân tộc.


11

11

V.I. Lênin cho rằng: “Chỉ có một sự quan tâm lớn lao đến lợi ích của
các dân tộc khác thì mới loại trừ được nguồn gốc của mọi sự xung đột, mới
trừ bỏ được lòng nghi ngờ lẫn nhau, mới trừ bỏ được nguy cơ gây ra những
mưu đồ nào đó, mới tạo ra được lòng tin”. [20, tr 281]
V.I. Lênin là người đầu tiên đã phát hiện ra quy luật về hai xu hướng đối lập
nhau trong quan hệ dân tộc, đã vạch ra những yêu cầu cơ bản mang tính chất cương
lĩnh về vấn đề dân tộc, bao gồm ba nội dung cơ bản:
Một là, các dân tộc đều có quyền bình đẳng: các dân tộc dù lớn hay nhỏ, ở

các trình độ phát triển khác nhau đều có quyền bình đẳng như nhau trong mọi mối
quan hệ; đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được
giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức dân tộc khác. Thực chất của bình đẳng dân tộc là
xóa bỏ nạn nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác, để trên cơ sở đó mà dần
dần khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc, và để các dân
tộc được tham gia bình đẳng vào các hoạt động của cộng đồng quốc gia và quốc tế.
Hai là, các dân tộc đều có quyền tự quyết: đây là quyền làm chủ của mỗi
dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền
tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên
hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Ba là, đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc: thực chất của nội dung này
là đảm bảo sự thống nhất giữa phong trào công nhân với phong trào giải phóng dân
tộc, giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, thực hiện liên minh giai cấp công nhân
các dân tộc chống kẻ thù chung, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
ở các nước và trên thế giới.
Cương lĩnh dân tộc của Lênin đã góp phần to lớn vào sự phát triển lý luận
về cách mạng vô sản cũng như cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới. Giai
cấp vô sản phải nắm vững ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, giải phóng dân tộc khỏi
ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và đấu tranh cho quyền bình đẳng, quyền tự
quyết dân tộc, cho sự đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc. Đồng thời, lãnh


12

12

đạo các tầng lớp nhân dân lao động xây dựng chế độ xã hội mới, cộng đồng dân
tộc mới và những quan hệ hữu nghị, bình đẳng, hợp tác với các dân tộc khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trung thành và vận dụng sáng tạo những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc vào điều kiện, hoàn cảnh

cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng của Người trong giải quyết vấn đề dân tộc là sự
kết hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ với cuộc đấu
tranh giải phóng các giai cấp lao động bị áp bức bóc lột trong cách mạng vô sản,
trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân rồi tiến lên cách mạng XHCN
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Luận điểm cơ bản đầu tiên thể hiện sự
sáng suốt và nhạy bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người sớm khẳng định con
đường giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản. Và chỉ có con đường cách mạng vô sản mới có thể thủ tiêu được giai cấp
tư sản, làm sụp đổ hoàn toàn chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Mặt khác, trong suốt quá trình chỉ đạo thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Người luôn quan tâm đến việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân trên nền tảng liên minh công - nông - trí thức, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, tập hợp
đông đảo và rộng rãi các lực lượng cách mạng. Đây cũng chính là nội dung
cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Người coi đó là nhân tố
hàng đầu bảo đảm cho cách mạng thành công.
Ngày 19/4/1946 trong thư gửi đại hội các dân tộc thiểu số miền nam
Người viết: “Đồng bào kinh hay thổ, mường hay mán, giarai hay ê đê, xơ đăng
hay bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em
ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp
nhau...sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không
bao giờ giảm bớt”. [24, tr 217] Tư tưởng này trở thành một trong những cơ sở lý


13

13

luận trực tiếp, giúp Đảng và Nhà nước xác định đúng đắn quan điểm CSDT, đại

đoàn kết dân tộc ở nước ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đấu tranh phê phán
những biểu hiện dân tộc lớn, xem thường dân tộc nhỏ hoặc dân tộc hẹp hòi,
cục bộ, tự ti, khẳng định quyền bình đẳng giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc
đa số trên đất nước ta. Do vậy, các dân tộc miền núi cũng như miền xuôi phải
giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, cùng tiến lên CNXH. Người yêu cầu Đảng
và Chính phủ phải có chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội toàn
diện để miền núi tiến kịp miền xuôi, để đồng bào cả nước ai cũng có cơm ăn,
ai cũng được học hành, ai cũng được làm chủ đất nước.
Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng của đồng bào
các dân tộc thiểu số và miền núi trong sự nghiệp cách mạng. Ngày
30/11/1968, trong điện gửi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ Tây Nguyên, Người
khẳng định: “Quân và dân Tây Nguyên, già trẻ gái trai, kinh hay thượng đoàn
kết một lòng, luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó
khăn, gian khổ, thi đua giệt giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những
thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược...đồng
bào và chiến sĩ Tây Nguyên đã đoàn kết, càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn
nữa, cố gắng không ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi đã giành được, luôn
nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức củng cố và
phát triển vùng giải phóng và phục vụ tiền tuyến”. [23, tr. 414 - 415]
Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CSDT đã được thực
tiễn chứng minh, việc hiện thực hóa những tư tưởng ấy đã đem lại những thành
tựu to lớn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng vùng đồng bào các dân tộc cũng
như trong cả nước, góp phần to lớn vào những thắng lợi vẻ vang của dân tộc
Việt Nam trên con đường giải phóng dân tộc, tiến tới mục tiêu hòa bình, ổn định,
phát triển vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


14


14

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc và đoàn kết dân tộc là cơ sở lý luận, phương pháp luận, định hướng quan
điểm, CSDT của Đảng, Nhà nước ta qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng từ khi
Đảng ta ra đời đến nay và các giai đoạn tiếp theo.
* Cơ sở thực tiễn chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Việt Nam là nơi tụ cư của nhiều thành phần dân tộc, hiện nay Việt Nam
có 54 dân tộc cùng sinh sống đan xen. Nhìn chung, trong suốt quá trình lịch
sử dựng nước và giữ nước, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam luôn đoàn
kết, chung sức, hòa hợp cùng chung lợi ích và vận mệnh đất nước, cùng sát
cánh bên nhau sáng tạo nên các truyền thống quý báu tạo nên một cộng đồng
dân tộc ổn định, thống nhất và bền vững.
Các dân tộc cư trú đan xen, không có lãnh thổ riêng, không đồng đều về
số lượng dân cư và mật độ cư trú, không có nền kinh tế riêng. Tình trạng cư
trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt tạo điều kiện để tăng
cường hiểu biết lẫn nhau, hòa hợp và xích lại gần nhau; mặt khác, do chưa
thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập quán nên dễ xuất hiện mâu thuẫn,
tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn tới va chạm giữa những
người thuộc các dân tộc cùng sống trên một địa bàn.
Các dân tộc nước ta có trình độ phát triển không đều, nguyên nhân của nó một
phần do yếu tố lịch sử để lại, phần khác do quá trình vận dụng CSDT vào thực tế
từng địa phương còn nhiều lúng túng, tiêu cực, thiếu tính sáng tạo; đòi hỏi phải có
một quá trình phấn đấu lâu dài trên cơ sở thực hiện tốt CSDT của Đảng, Nhà nước.
Hơn thế nữa, mỗi dân tộc ở Việt Nam có sắc thái văn hóa riêng, góp
phần làm nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Đó là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mang dấu ấn của tất cả các dân
tộc trên lãnh thổ Việt Nam; không loại trừ, lấn át sắc thái văn hóa của từng
dân tộc. Đây là một yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để các dân tộc thiểu
số vẫn giữ được bản sắc của mình, không bị đồng hóa bởi các dân tộc khác;



15

15

đồng thời, sự tôn trọng, bảo vệ sắc thái văn hóa của các dân tộc đã làm cho
các dân tộc Việt Nam luôn đoàn kết trong một quốc gia dân tộc thống nhất.
Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng vấn đề dân tộc gắn với
vấn đề tôn giáo trong chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách
mạng nước ta; chúng kích động đồng bào các dân tộc thiểu số, cổ vũ ly khai
gây bạo loạn, truyền đạo trái phép vào vùng dân tộc thiểu số, thậm chí một số
nước phương tây vu cáo ta vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo...
Kinh nghiệm trên thế giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 70 năm
qua càng khẳng định vị trí vô cùng quan trọng của việc thực hiện CSDT. Bài
học kinh nghiệm của các nước XHCN trong giải quyết vấn đề dân tộc cho
thấy: khi HTCT còn mạnh, Đảng cộng sản và Nhà nước XHCN có CSDT
đúng đắn, luôn cảnh giác cao và chặn đứng những âm mưu phá hoại, chia rẽ
các dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thì quan hệ dân tộc
có sự ổn định tương đối. Thực tế lịch sử khẳng định: một trong những nguyên
nhân đưa Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đến khủng hoảng, tan rã là
do sai lầm trong CSDT, không nhận thức đúng vai trò, vị trí của vấn đề dân
tộc; vi phạm các nguyên tắc của Lênin trong giải quyết quan hệ dân tộc, nôn
nóng tạo ra sự đồng nhất dân tộc, xem nhẹ đặc thù và bản sắc dân tộc hoặc
tuyệt đối hóa, đề cao những đặc thù dân tộc đều dẫn tới chủ nghĩa dân tộc
dưới các hình thức khác nhau. Ngược lại, với Việt Nam, nhờ đề ra CSDT
đúng đắn đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước đây
và trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới đang đặt ra
những yêu cầu mới, đòi hỏi việc thực hiện CSDT phải có chất lượng và

hiệu quả hơn. Mặc dù CSDT của Đảng và Nhà nước ta đã thu được những
kết quả quan trọng song bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế: các mặt đời
sống xã hội miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn khó khăn; sự chênh lệch
trình độ phát triển giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi không


16

16

những không được thu hẹp mà có chiều hướng gia tăng; trình độ dân trí
thấp, tình trạng thất học, mù chữ, tái mù chữ vùng đồng bào dân tộc thiểu
số còn lớn; cơ sở dịch vụ y tế thiếu thốn; nạn du canh, du cư chưa chấm
dứt; phong tục, tập quán lạc hậu còn tồn tại.....đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
nghiên cứu, giải quyết vấn đề dân tộc, có những CSDT đúng đắn góp phần
to lớn tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức
mạnh tổng hợp, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
1.1.2. Một số nội dung chủ yếu chính sách dân tộc của Đảng, Nhà
nước ta và biểu hiện ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
* Một số nội dung chủ yếu chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay
Là một quốc gia đa dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, vấn đề dân tộc và CSDT là một trong những nội dung cơ bản được
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm sâu sắc, được thể hiện trong các quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trên cơ sở từ đặc điểm tình hình của một quốc gia có truyền thống lịch sử,
văn hóa lâu đời, nhiều dân tộc anh em cùng chung sống; Đảng cộng sản Việt
Nam lấy những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng để xây dựng và giải quyết vấn đề dân tộc trong từng
giai đoạn cách mạng, đã vận dụng và đề ra hàng loạt các chính sách cụ thể

phù hợp với yêu cầu thực tiễn đất nước.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
Đảng ta khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường
văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích và truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập
quán, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp


17

17

hòi, kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với
đặc điểm của các vùng và các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số”. [9, tr 19]
Như vậy, quan điểm, CSDT của Đảng ta là thực hiện triệt để quyền bình
đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, cùng làm chủ tổ quốc
Việt Nam XHCN; đồng thời, xóa bỏ tận gốc rễ những chênh lệch về trình độ
kinh tế và văn hóa giữa các dân tộc ít người và dân tộc đông người, làm cho
tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn minh, tiến bộ.
Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục chĩ rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các
dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các
dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm
nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng
nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng

căn cứ địa cách mạng; làm tốt công tác định canh định cư và xây dựng vùng
kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế
với bảo đảm an ninh - quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đảng viên phát huy vai trò
của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên
trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trí thức là người dân tộc thiểu số. Chống
các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”. [13, tr 121]
Từ đó, có thể thấy rõ, trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng ta vẫn luôn
khẳng định vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc trong sự
nghiệp cách mạng nước ta với mục tiêu của CSDT nhằm tăng cường khối đại


18

18

đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự chuyển biến rõ nét trong đời sống vật chất, tinh
thần cho đồng bào các dân tộc nhất là dân tộc thiểu số; với tư tưởng cơ bản,
xuyên suốt là “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ”.
Đến Đại hội XI, Đảng tiếp tục khẳng định: “Đoàn kết dân tộc có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng
tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số, tăng cường kiểm tra, giám
sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành
động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”. [14, tr 244, 245]

Đặc biệt nghị quyết Hội Nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng khóa IX về công
tác dân tộc trong tình hình mới đã nêu lên những quan điểm cơ bản của Đảng
ta về công tác dân tộc:
Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản,
lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Hai là, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
Ba là, phát triển toàn diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế
với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt CSDT; quan tâm phát triển, bồi
dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, giữ


19

19

gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và
miền núi, trước hết tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa
đói giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi
đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự
lực tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ
trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Năm là, công tác dân tộc và thực hiện CSDT là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ HTCT.
Hơn thế nữa, ngày 14/1/2011 Chính phủ ra Nghị định số 05/2011/NĐ CP về công tác dân tộc tiếp tục khẳng định nhất quán nguyên tắc bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Đảm bảo và thực hiện chính sách

phát triển toàn diện, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng
bào dân tộc thiểu số. Đảm bảo việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc,
phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi
dân tộc. Các dân tộc có trách nhiệm tôn trọng phong tục, tập quán của nhau,
góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nội dung của CSDT được thể hiện trên các lĩnh vực như sau:
Trên lĩnh vực kinh tế:
Đảm bảo việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng thiết yếu
vùng dân tộc thiểu số; đồng thời, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh
của từng vùng, bảo vệ môi trường sinh thái, phát huy tinh thần tự lực, tự
cường của các dân tộc. Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các tổ chức, cá
nhân, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển ở vùng dân
tộc thiểu số; ưu tiên đặc biệt đối với dân tộc thiểu số rất ít người và vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; chú trọng đào tạo


20

20

nghề, sử dụng lao động là người tại chỗ, đảm bảo thu nhập ổn định, xây dựng
cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi công cộng khác.
Khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vùng dân tộc thiểu
số và đầu tư trở lại phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. Ứng
dụng các tiến bộ kỹ thuật, đưa khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất
nhằm nâng cao đời sống của đồng bào vùng dân tộc thiểu số. Khôi phục và
phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống của đồng bào các dân tộc
thiểu số, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường.
Thực hiện các chương trình, đề án xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc
làm, giải quyết cơ bản vấn đề vốn, đất ở, đất sản xuất, công cụ sản xuất cho

nông dân thiếu đất, nhà ở, nước sinh hoạt, hỗ trợ phát triển kinh tế, giao đất,
giao rừng cho hộ gia đình ở vùng dân tộc thiểu số, chuyển dịch cơ cấu lao
động, ngành nghề theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền
vững. Có chính sách hỗ trợ kịp thời những dân tộc thiểu số có khó khăn đặc
biệt để ổn định và phát triển.
Trên lĩnh vực chính trị:
Thực hiện tốt CSDT bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các dân tộc, phát huy quyền làm chủ của các dân tộc trên tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số cũng như đa số đều có đầy
đủ các quyền lợi và nghĩa vụ công dân, quyền lợi và trách nhiệm xây dựng thể
chế chính trị mới, phát huy vai trò của HTCT; dân chủ hóa đời sống chính trị
ở các vùng dân tộc thiểu số.
Tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân các dân tộc thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; giáo dục ý thức cảnh
giác chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù nhằm mua chuộc, lôi kéo,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời chống mọi biểu hiện kỳ
thị, chia rẽ dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan;
khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc, nghiêm cấm mọi sự lợi dụng các


21

21

vấn đề dân tộc, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội:
Cùng với việc không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất cho
đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước ta cũng thường xuyên quan
tâm, chăm lo đến đời sống văn hóa tinh thần, giáo dục đào tạo và công tác cán

bộ cho miền núi nhằm “nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc”.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm phát triển giáo
dục vùng dân tộc thiểu số theo chương trình chung quốc gia; xây dựng chính
sách giáo dục ở tất cả các cấp học phù hợp với đặc thù dân tộc. Phát triển trường
mầm non, trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc
bán trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, trường
dạy nghề, trường dự bị đại học; nghiên cứu hình thức đào tạo đa ngành bậc đại
học cho con em các dân tộc thiểu số để đẩy nhanh việc đào tạo nguồn nhân lực
phục vụ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Đồng thời, quy định các điều kiện và biện pháp cụ thể, phù hợp để hỗ trợ cho
học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số; giải quyết chỗ ở, học bổng và cho
vay vốn trong thời gian học tập phù hợp với ngành nghề đào tạo và địa bàn cư
trú của sinh viên dân tộc thiểu số. Học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số rất
ít người, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn
được miễn học phí ở tất cả các cấp học, ngành học.
Tiếng nói, chữ viết và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được
đưa vào chương trình giảng dạy trong các trường phổ thông, trường phổ thông
dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm giáo dục thường xuyên,
trung tâm học tập cộng đồng, trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng và đại học phù hợp với địa bàn vùng dân tộc. Chính quyền địa phương,
nơi có con em dân tộc thiểu số thi đỗ vào Đại học, Cao đẳng và sinh viên


22

22

được cử đi học hệ cử tuyển, có trách nhiệm tiếp nhận và phân công công tác
phù hợp với ngành nghề đào tạo sau khi tốt nghiệp.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa là xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước luôn
quan tâm hỗ trợ việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ viết của các dân tộc
có chữ viết. Xây dựng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia để bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; hỗ trợ việc đầu tư, giữ gìn, bảo
tồn các di tích lịch sử, văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng.
Hơn thế nữa, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đầu tư phát triển thông
tin - truyền thông vùng dân tộc thiểu số, cung cấp một số phương tiện thiết
yếu nhằm đảm bảo quyền tiếp cận và hưởng thụ thông tin cho đồng bào. Xây
dựng, củng cố hệ thống thông tin tình hình dân tộc và tổ chức thực hiện
CSDT. Đồng thời, tăng cường và nâng cao chất lượng sử dụng ngôn ngữ dân
tộc trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh:
Xây dựng, củng cố quốc phòng - an ninh ở các địa bàn xung yếu, vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo gắn với phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo an ninh chính trị và giữ vững trật tự an toàn xã hội ở vùng dân tộc thiểu
số. Cơ quan Nhà nước, đồng bào các dân tộc ở vùng biên giới và hải đảo có
trách nhiệm cùng các cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và
chính quyền địa phương bảo vệ đường biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật
tự an toàn xã hội và tăng cường quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước láng
giềng ở vùng biên giới và hải đảo theo quy định của pháp luật.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước tác động trực tiếp đến cộng
đồng các dân tộc Việt Nam về mọi mặt. Các chính sách đó nhằm từng bước


23


23

thực hiện các dân tộc bình đẳng, cùng nhau đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ; cùng nhau chung tay phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; đảm bảo
vững chắc quốc phòng - an ninh, đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực
thù địch; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực tiễn những năm qua đã khẳng định tính đúng đắn, khoa học, hiệu
quả CSDT của Đảng, Nhà nước. Thực hiện tốt CSDT đã bước đầu đem lại sự
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc và miền núi, giữ vững ổn định
chính trị, tăng cường quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, góp phần tạo
nên thế và lực mới của đất nước, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc
của các thế lực thù địch; CSDT đã đáp ứng được tâm tư nguyện vọng sâu xa
của đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần củng cố niềm tin của đồng bào
với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
* Biểu hiện của chính sách dân tộc ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
Một số đặc điểm chính trị - xã hội tỉnh Lâm Đồng:
Lâm Đồng là một tỉnh miền núi phía nam Tây Nguyên có độ cao trung
bình từ 800 - 1000m so với mặt nước biển với diện tích tự nhiên 9.773,5
km2; địa hình tương đối phức tạp, chủ yếu là bình sơn nguyên, núi cao
đồng thời cũng có những thung lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu
tố tự nhiên khác nhau về khí hậu, thổ nhưỡng, thực động vật....và những
cảnh quan kỳ thú. Phía đông giáp các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận; phía
Tây Nam giáp tỉnh Đồng Nai; phía nam - đông nam giáp tỉnh Bình Thuận;
phía bắc giáp tỉnh Đắc Lắc. Lâm Đồng nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
phía nam - là khu vực năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và là
thị trường có nhiều tiềm năng lớn. Toàn tỉnh có thể chia thành 3 vùng với 5
thế mạnh: phát triển cây công nghiệp dài ngày, lâm nghiệp, khoáng sản , du
lịch - dịch vụ và chăn nuôi gia súc.



24

24

Lâm Đồng là một tỉnh không có đường biên giới, không có bờ biển, nằm
trong vùng nhiệt đới gió mùa với hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ
trung bình từ 18 - 25 độ C, lượng mưa trung bình 1.750 - 3.150 mm/năm.
Lâm Đồng có hệ thống giao thông tương đối thuận tiện, nối liền với các
tỉnh duyên hải miền trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và thành phố Hồ Chí
Minh là các quốc lộ 20, 11, 27, 8. Đã có đường ô tô đến các trung tâm huyện
và nhiều xã, tuy nhiên một số vùng sâu, vùng xa việc đi lại của đồng bào còn
gặp nhiều khó khăn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng bộ và nhân dân tỉnh
Lâm Đồng cùng nhân dân cả nước đã trải qua hai thời kỳ cách mạng lịch sử to
lớn của dân tộc, đó là thời kỳ tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc từ
năm 1930 - 1975 và thời kỳ thứ hai từ năm 1976 đến nay - thời kỳ xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế. Lâm Đồng từ chỗ là một tỉnh nghèo nàn, lạc hậu cả về
kinh tế và xã hội nay đã trở thành một trong những tỉnh có thu nhập bình quân
đầu người trên mức trung bình chung dần tới khá của cả nước, cơ bản thoát khỏi
tình trạng nghèo, chậm phát triển. Đời sống người dân không ngừng được cải
thiện và nâng lên rõ rệt, các chỉ tiêu về kinh tế - văn hóa - xã hội, an ninh quốc
phòng của tỉnh qua các kỳ Đại hội đều tăng vượt bậc.
Hiện nay, Lâm Đồng gồm 12 huyện, thành và 148 xã, phường, thị trấn
với 43 dân tộc anh em cùng sinh sống (tính đến ngày 1/4/2009). Dân số toàn
tỉnh là 1.218.700 người, mật độ dân số 125 người/km2; trong đó dân tộc Kinh
là đông nhất với 901.316 người; xếp thứ hai là người Cơ Ho với 145.665
người; người Mạ với 31.869 người; người Nùng là 24.526 người; người Tày
có 20.301 người; Chu Ru có 18.631 người.... Toàn tỉnh có 12 tôn giáo khác

nhau với 599.461 người (tính đến 1/4/2009); trong đó, Công giáo có 303.761
người; Phật giáo có 199.255 người; Tin lành 83.542 người; Cao đài 12.606
người cùng các tôn giáo khác.


25

25

Các dân tộc tỉnh Lâm Đồng tuy có số dân chênh lệch nhau, có trình độ
phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều, có ngôn ngữ, phong tục tập quán
tín ngưỡng và sắc thái văn hóa khác nhau nhưng vẫn có mối quan hệ gắn bó
đoàn kết, bình đẳng, hòa thuận với nhau; luôn nêu cao tinh thần đoàn kết,
truyền thống kiên cường, dũng cảm chống lại âm mưu thâm độc của kẻ thù,
một lòng, một dạ theo Đảng, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Những năm gần đây, khi cả tỉnh cùng với cả nước bước vào thời kỳ đổi
mới, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bằng
những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, công tác dân tộc và
CSDT của Đảng đã được chú trọng, đặc biệt quan tâm so với các thời kỳ
trước đây, nhiều chính sách phù hợp đã được đầu tư triển khai, nhiều chương
trình dự án phát triển nông thôn miền núi dân tộc thiểu số đã và đang phát huy
hiệu quả nên đời sống của phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số đã được cải
thiện và nâng lên rõ rệt, nạn thiếu đói định kỳ hàng năm không còn xảy ra, các
dịch bệnh phổ biến như sốt rét, sốt xuất huyết...đã được khống chế đẩy lùi và
nhiều năm liền không còn xuất hiện trở lại, bộ mặt nông thôn, nông dân dân tộc
thiểu số ngày càng đổi mới theo hướng đàng hoàng hơn, sạch đẹp hơn.
Tuy nhiên, Lâm Đồng vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển so
với tiềm năng, thế mạnh địa phương. Kết cấu hạ tầng một số vùng còn thấp,
đời sống các dân tộc còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, nhất là vùng

đồng bào các dân tộc, vùng sâu, vùng xa; cơ sở vật chất cho giáo dục, y tế còn
thiếu; văn hóa thông tin còn mỏng....HTCTCS chưa được xây dựng vững
chắc, có nơi còn hoạt động đơn giản, hình thức, số đảng viên người dân tộc
thiểu số còn ít, công tác phát triển đảng viên chưa được quan tâm đầy
đủ...Chính vì vậy, để giải quyết tốt vấn đề dân tộc cần phải đặt nó trong việc
giải quyết tổng thể các vấn đề xã hội, chính trị hiện nay và cần lưu ý đến một
số vấn đề có tính nguyên tắc khi giải quyết vấn đề dân tộc ở tỉnh Lâm Đồng.
Nguyên tắc và một số nội dung CSDT ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay:


×