Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.59 KB, 13 trang )

Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Hồ Chí
Minh
Trần Ngọc Liêu
(Cập nhật: 18/1/2007)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là một tài sản quý giá trong di sản cách mạng của Người.
Nó chứa đựng những giá trị to lớn cả về phương diện lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt
Nam nói chung, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng.
Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã lĩnh hội những nội dung cốt lõi trong học
thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong đó, có vấn đề nhà nước và quyền lực nhà
nước; mặt khác, là người am hiểu sâu sắc văn hóa chính trị phương Đông và Việt Nam, với một trí
tuệ phi thường, Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo những tinh hoa tư tưởng
của nhân loại trên cơ sở những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam và từ đó xây dựng nên
những tư tưởng của riêng mình với những nét độc đáo hiếm thấy.
Tìm hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước cần xuất phát từ hạt nhân tư tưởng về
quyền lực và chủ thể quyền lực nhà nước, từ đó triển khai thành các tư tưởng về cơ chế tổ chức
và vận hành quyền lực nhà nước.
Ngay từ những năm 20 (thế kỷ XX), Hồ Chí Minh đã phê phán một cách quyết liệt bản chất của bộ
máy nhà nước thực dân. Người vạch trần bản chất xấu xa của chế độ thực dân đế quốc bên trong
cái vỏ hào nhoáng khai hóa văn minh trước công luận; và qua đó, Người chuẩn bị cho mình những
cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành nên tư tưởng về một nhà nước kiểu mới, thật sự dân chủ.
Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Đường Kách mệnh - giáo khoa thư chính trị đầu tiên của cách
mạng Việt Nam. Người viết: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa
là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít
người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc"
(1)
. Quan điểm quyền lực
chính trị thuộc về nhân dân và phục vụ cho lợi ích của nhân dân là cốt lõi và xuyên suốt trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Tất cả những nhận thức đó tiếp tục được phát triển không
ngừng trong tư tưởng của Người gắn liền với những chặng đường tiếp theo của cách mạng Việt
Nam.
Người thường dùng khái niệm "ủy thác" để nói đến việc nhân dân trao một phần quyền lực của


mình cho nhà nước. Quyền lực của nhà nước từ Trung ương đến địa phương, từ Chủ tịch nước
đến cán bộ xã đều do nhân dân "ủy thác" cho. Khi hết một nhiệm kỳ, Chính phủ sẽ phải trao lại
quyền cho nhân dân và nhân dân sẽ trao quyền ấy cho một Chính phủ ở nhiệm kỳ mới do dân
"tuyển cử". Các khái niệm "ủy thác", "giao quyền" là những khái niệm chính trị học và ở Hồ Chí
Minh, các khái niệm ấy gắn chặt với nhân dân, là sự khẳng định quyền lực thuộc về nhân dân.
Người còn thường xuyên gắn cụm từ nhân dân với các khái niệm Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội,
v.v.. Ví dụ, trong giai đoạn 1945 - 1946, các cụm từ "Nhà nước nhân dân", "Chính phủ nhân dân"
có tần số xuất hiện rất cao trong các bài viết, bài nói của Người. Những cụm từ này được Người
sử dụng với đối tượng là các cán bộ nhà nước các cấp và đặc biệt là với nhân dân. Sự khẳng định
đó nhắc nhở các cán bộ nhà nước phải luôn ghi nhớ quyền hạn và trách nhiệm của mình cũng
như giáo dục cho nhân dân về một địa vị hoàn toàn mới của họ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, tư tưởng về dân chủ - với ý nghĩa là bản chất của
quyền lực nhà nước và phương thức tổ chức, triển khai quyền lực nhà nước là một nét đặc sắc.
Theo Người, dân chủ hiểu một cách chung nhất là quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Ở nước
ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ; và, "Nhân dân là ông chủ nắm chính
quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ"
(2).
Địa vị làm chủ của người dân, tức là quan hệ của người dân với quyền lực nhà nước, được Hồ
Chí Minh làm rõ trong quan hệ với đội ngũ cán bộ nhà nước - những người trực tiếp thi hành
quyền lực nhà nước. Người viết: Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ.
Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là phân công làm
đày tớ cho dân. Người căn dặn cán bộ nhà nước: Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình
như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Khi nói tới tư cách công bộc của cán bộ nhà nước
đối với nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định, mục đích hoạt động của họ là vì lợi ích chung. Người
nói: Những người trúng cử (vào bộ máy nhà nước), sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ
quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và thực hành câu: Vì lợi nước,
quên lợi nhà; vì lợi chung, quên lợi riêng. Người khẳng định: Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là
phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định
không nên bầu. Nếu dân là chủ thì nhà nước, cán bộ nhà nước là công bộc của dân. Đây là một
sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh. Chính tư tưởng này đã chỉ rõ sự đối lập về chất của Nhà nước

nhân dân với nhà nước phong kiến, nhà nước thực dân. Người căn dặn các cán bộ nhà nước phải
luôn ghi nhớ rằng các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân,
nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới
quyền thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật. Ở đây, ta thấy Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội hàm
của khái niệm "công bộc của dân", và có thể hiểu đây là một định nghĩa của Hồ Chí Minh về chức
năng của Nhà nước mà ý nghĩa sâu sắc của nó vẫn còn giữ nguyên tính thời sự và cần được
quán triệt trong công cuộc xây dựng Nhà nước ta hiện nay.
Hồ Chí Minh đòi hỏi rất cao đối với cán bộ nhà nước. Họ cần phải có rất nhiều phẩm chất, song
tựu trung họ phải thực sự vì dân mà làm việc. Người nêu rõ bốn đức tính là: cần, kiệm, liêm, chính;
phải ghi sâu những chữ công bình chính trực vào lòng; phải có một tinh thần chí công vô tư; nếu
muốn danh, lợi thì danh làm sao cho dân tộc mình có danh với thế giới, và lợi làm thế nào cho
tranh được lợi với thế giới - đó là danh chính và lợi chính...
Cán bộ nhà nước phải làm sao để nhân dân yêu quý, khi sắp tới dân mong, khi đi dân nhớ. Muốn
thế trước hết cán bộ phải yêu quý nhân dân, phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, phải kính
trọng nhân dân, tôn trọng nhân cách của họ. Người chỉ rõ: Muốn được dân yêu, muốn được lòng
dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý
giải quyết các vấn đề, đặc biệt là những vấn đề quan hệ đến đời sống nhân dân, dầu khó khăn
đến đâu cũng mặc lòng. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của dân phải được đặc biệt chú ý.
Khái niệm dân chủ còn được Hồ Chí Minh làm rõ trong quan hệ của nó với khái niệm chuyên
chính. Người viết: "Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa
để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khóa, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên
có cửa phải có khóa, có nhà phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ
gìn lấy dân chủ"
(3)
; và, "Nhà nước ta cũng là nhà nước của đại đa số nhân dân, để thống trị thiểu
số phản động, để giữ gìn lợi ích của nhân dân, bằng cách dân chủ chuyên chính của nhân dân"
(4)
.
Tư tưởng về dân chủ của Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở nhận thức về sức mạnh vô địch

của nhân dân. Người viết: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Và, Người đã đưa ra một quan điểm toàn diện về
dân chủ: NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc
là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ
trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước được hiểu là
toàn thể nhân dân chỉ trừ bọn phản quốc hại dân. Người viết: Chính phủ này là Chính phủ toàn
quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia. Xuất phát từ yêu thương quý trọng nhân dân,
Người thấy rõ nguồn sức mạnh vô tận của khối đại đoàn kết dân tộc, mọi mưu đồ đề cao lợi ích vị
kỷ của một bộ phận người đi ra ngoài con đường của cả dân tộc hoặc sẽ bị đào thải, hoặc sẽ làm
tổn hại đến khối đại đoàn kết mà kết quả đều làm cho đất nước lâm nguy. Người chỉ rõ, phải thực
hiện cho được khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ có thế, nhân dân mới có đủ sức mạnh để giành, giữ
và thực thi quyền lực của mình, trong đó có quyền lực nhà nước.
Hồ Chí Minh cho rằng, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân gắn liền với việc nhà nước phải
làm tất cả để đem lại một cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân.
Xuất phát từ tư tưởng nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, tư tưởng dân chủ của Hồ Chí
Minh được phát triển thành nhân dân là chủ thể của nhà nước. Vì thế, việc nhận thức tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước phải được đặt trên cơ sở coi vấn đề nhà nước là một khía cạnh trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Nhà nước, theo Người, là của nhân dân "Nhà nước ta phát huy
dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân
chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên.
Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã
hội"
(5)
. Nhân dân sử dụng Nhà nước như một công cụ để thực hiện lợi ích của mình: đối với nhân
dân, thì công cụ của nhà nước dân chủ mới (Chính phủ, pháp luật, công an, quân đội, v.v..) là để
giữ gìn quyền lợi của nhân dân.
Khi bàn về vai trò của Nhà nước, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về nhân dân quản lý nhà
nước. Điều đáng lưu ý là, việc nhà nước tiến hành các hoạt động nhằm mục đích phục vụ lợi ích

của nhân dân, thì đồng thời, đó cũng chính là nhằm tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia
quản lý nhà nước. Người viết: "... chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động, bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân chủ để
nhân dân thật sự tham gia quản lý Nhà nước. Vì vậy cho nên nhân dân ta đưa hết khả năng làm
tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta
giàu"
(6)
.
Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh còn thể hiện trên mấy phương
diện sau:
Thứ nhất, về pháp luật, Người viết: Pháp luật của chúng ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng
triệu người lao động. Pháp luật của ta lúc này, chưa tước bỏ quyền tư hữu, nhưng không ai được
lợi dụng quyền tư hữu để bóc lột thậm tệ nhân dân lao động. Pháp luật của ta là pháp luật thật sự
dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Người khẳng định,
"Phép luật là phép luật của nhân dân, dùng để ngăn cản những hành động có hại cho nhân dân,
để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân"
(7)
. Vì vậy, để có một "chính quyền trong sạch",
phải kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng việc được nhân dân giao quyền, rồi cậy quyền cậy thế
đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cương quyết xử lý một số cán bộ cao
cấp của Nhà nước vi phạm pháp luật và Người luôn nhắc nhở: Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng
đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì
nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết
sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung.
Thứ hai, về tổ chức bộ máy nhà nước, Hồ Chí Minh nhiều lần nêu ra quan điểm về ba bộ phận cấu
thành quan trọng của Nhà nước, đó là cơ quan lập pháp - Quốc hội; cơ quan hành pháp - Chính
phủ và cơ quan tư pháp - Tòa án. Trong đó, Người nói đến Chính phủ nhiều nhất và cũng chính ở
đây chứa đựng nhiều quan điểm có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Người viết: "Chính
phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân.
Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của

mình là người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân"
(8)
. Người khẳng định: "Chế độ của ta là
chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc
và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của
nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ
và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó
cho"
(9)
.
Kế thừa những giá trị trong tư tưởng chính trị truyền thống của dân tộc, lại được soi sáng bởi quan
điểm duy của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh thấy ở nhân dân một lực lượng vô tận. Trong
tư tưởng về nhà nước, nhân dân chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng. Hồ Chí Minh tin tưởng vào
sức mạnh to lớn của nhân dân, sức mạnh ấy một khi được tập hợp, tổ chức, định hướng sẽ tạo
nên những kỳ tích to lớn, có thể làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt lịch sử. Lịch sử cách mạng Việt
Nam đã chứng minh niềm tin ấy của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.
Cái quan trọng nhất trong chính trị là vấn đề thiết chế chính quyền nhà nước. Quyền lực chính trị
là vấn đề trung tâm của mọi cuộc cách mạng xã hội. Ở Hồ Chí Minh, nhà nước là nhà nước của
dân, do dân và vì dân; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như thế, với Hồ Chí Minh, Nhà
nước không bao giờ đứng ngoài và đứng trên nhân dân.
Gắn chính trị với lòng dân cũng có nghĩa là Hồ Chí Minh đã gắn chính trị với cơ sở xã hội sâu xa
và bền vững của nó. Một quan niệm "đem chính trị vào giữa dân gian" như tư tưởng của Người là
một quan niệm chính trị dân chủ về bản chất. Đã quan niệm chính trị như thế thì nhà chính trị nói
riêng, nhà nước nói chung trở nên đầy sức mạnh bởi họ đang suy nghĩ bằng suy nghĩ của nhân
dân, làm bằng phương thức nhân dân và nói tiếng nói của nhân dân. Họ sẽ có đủ bản lĩnh đương
đầu với mọi khó khăn mà luôn chắc chắn một niềm tin vào chiến thắng.
Quan điểm chính trị nhân dân ở Hồ Chí Minh gắn liền với việc làm cho người dân có đủ khả năng
đảm nhận vai trò làm chủ của mình. Người đặc biệt coi trọng việc giáo dục nhân dân. Ngay khi
Nhà nước ta mới ra đời, Người khẳng định: Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại
nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu

nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Người đề nghị mở một
chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người
cũng yêu cầu nhân dân: Mọi người Việt Nam phải biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức để có
thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà. Hồ Chí Minh yêu cầu người dân trước hết phải
biết đọc, biết viết để có thể tham gia vào công việc nhà nước. Điều này có nghĩa là, người dân
muốn thực hiện vai trò làm chủ của mình, muốn thực hiện quyền lực cao quý của mình cần phải có
những năng lực nhất định và Nhà nước phải làm sao để nhân dân có được những năng lực ấy.
Như vậy, trên cơ sở vận dụng học thuyết Mác - Lê-nin về nhà nước vào điều kiện cụ thể của cách
mạng và xã hội Việt Nam, đặc biệt là, trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn xây dựng chính
quyền nhân dân, xây dựng chế độ xã hội mới, Hồ Chí Minh đã nêu ra một hệ thống các quan điểm
về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đây thực sự là những chỉ dẫn quý báu cả về lý luận và thực
tiễn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
* Phó Chủ nhiệm Bộ môn Khoa học quản lý, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t 2, tr 270
(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 218 - 219
(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t 8, tr 279 - 280
(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 216 - 217
(5), (6) Hồ Chí Minh: Sđd, t 9, tr 592, tr 593
(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 453
(8) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 361 - 362
(9) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 368
Vai trò các Đảng chính trị nói chung, Đảng cầm quyền nói riêng đối với nhà nước trong Chủ
nghĩa tư bản hiện đại (Qua khảo sát một số mô hình tiêu biểu) (NGUYỄN XUÂN TẾ – ĐẶNG
ĐÌNH THÀNH).
ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 1/2003
VAI TRÒ CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ NÓI CHUNG, ĐẢNG CẦM QUYỀN NÓI RIÊNG ĐỐI VỚI
NHÀ NƯỚC
TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI (QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ MÔ HÌNH TIÊU BIỂU)
NGUYỄN XUÂN TẾ
ĐẶNG ĐÌNH THÀNH

Phó giáo sư - Tiến sĩ, trường ĐH Luật TP. HCM
Thạc sĩ, trường ĐH Luật TP. HCM
I. VỊ TRÍ CỦA CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ NÓI CHUNG, ĐẢNG CẦM QUYỀN NÓI RIÊNG TRONG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI.
Đảng chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị của các nước tư bản.
Nó có vai trò là một trong những thành phần cơ bản của chế độ chính trị, của xã hội công dân
hiện đại, có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, từ cơ cấu tổ chức đến sự vận hành của hệ
thống chính trị. Đây là một tổ chức chính trị phản ánh lợi ích của giai cấp, của tầng lớp xã hội,
nó liên kết, lãnh đạo những người đại diện tích cực nhất của tầng lớp hay xã hội đó để cùng
thực hiện đạt những mục tiêu và lý tưởng nhất định.
Ngày nay, trên thế giới không có quốc gia nào lại không có Đảng chính trị. Hình thức tiền thân
của Đảng chính trị là các nhóm chính trị, các câu lạc bộ chính trị… Sự ra đời và phát triển của
các Đảng chính trị có liên quan chặt chẽ với quyền tồn tại của các nhóm khác nhau trong xã hội,
quyền các nhóm được kiểm soát, chi phối lãnh đạo và hạn chế quyền của Đảng cầm quyền.
Chúng phải có tổ chức, phải luôn tìm kiếm sự ủng hộ từ dân chúng và phải khác biệt với các
nhóm khác.
Ở Pháp, Đảng chính trị với đúng ý nghĩa của nó xuất hiện từ đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên hoạt
động chính trị, ảnh hưởng của chúng trên các hệ thống thông tin đại chúng cũng như khả năng
huy động lực lượng Đảng viên là tương đối yếu. Người Pháp không thích Đảng lắm, theo một
điều tra của SOFRES vào 9/1983, 13% người được phỏng vấn hy vọng rằng “trong tương lai,
các Đảng sẽ có vị trí quan trọng hơn”, 39% cho rằng “chúng nên giữ vai trò giống như hiện tại”
và 31% cho rằng “chúng nên có vai trò khiêm tốn hơn”. Hiến pháp thể hiện vai trò của Đảng
cũng chỉ được quy định tương đối hạn chế, chỉ là “góp sức vào việc thể hiện ý chí của số đông
dân chúng”. Dù theo luật ngày 01/7/1901, các Đảng chính trị được hưởng cùng quy chế với các

×