Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Thực trạng hoạt động khuyến nông trong phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở nghi lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.59 KB, 56 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuỷ sản nói chung, NTTS nói riêng là một hợp phần kinh tế quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân nước ta. NTTS là một ngành sản xuất thực phẩm quan
trong cho con người, đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho người dân và cho xã hội.
Việt Nam là một nước có nguồn tài ngun vơ cùng phong phú. Tài
ngun phát triển thuỷ sản với 3260km bờ biển, 12 đầm phá và các eo vịnh,112
cửa sông, lạch, hàng ngàn đảo lớn nhỏ ven biển. Trong nội địa hệ thống kênh
rạch chằng chịt và các hồ thuỷ lợi thuỷ điện, đã tạo cho nước ta có tiềm năng lớn
về mặt nước với khoảng: 1.700.000 ha trong đó:
- Ao hồ nhỏ, mương vườn: 120.000 ha
- Hồ chứa mặt nước lớn: 340.000 ha
- Ruộng có khả năng NTTS: 580.000 ha
- Vùng triều: 660.000 ha
Theo báo cáo tổng kết hàng năm (Bộ thuỷ sản), sản lượng thuỷ sản
đánh bắt và nuôi trồng năm 2006 đạt khoảng 3,5 triệu tấn, kim ngạch xuất
khẩu đạt 2,4 tỷ USD. Năm 2007 sản lượng cả đánh bắt và nuôi trồng là 3,8
triệu tấn kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008
đạt trên 4 tỷ USD. Tính chung 3 năm 2006-2008 tổng giá trị kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản đạt trên 11tỷ USD, chiếm khoảng 9% tổng giá trị xuất khẩu của
cả nước. Cơ cấu sản phẩm của kinh tế thuỷ sản cũng thay đổi mạnh mẽ theo
hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng, tăng tỷ trọng sản phẩm có giá trị cao, đặc biệt
là sản phẩm xuất khẩu. Như vậy nếu so sánh giữa kết quả đạt được và nguồn
tài nguyên rộng lớn thì có thể nói ngành thuỷ sản trong đó có ni trồng thuỷ
sản chưa phát huy hết tiềm năng.
Việc nghiên cứu chuyển giao khoa học kỹ thuật đến tận người nuôi là rất
cần thiết, tạo nên những bước tiến đột phá, đầy triển vọng. Đồng thời tận dụng
những điều kiện tự nhiên sẵn có cùng với sự hỗ trợ của các cấp chính quyền, các



2

nhà khoa học, tin rằng ngành NTTS nước ta sẽ luôn là ngành kinh tế mũi nhọn
trong nền kinh tế quốc dân.
Trong nỗ lực phấn đấu duy trì tốc độ phát triển nhanh và bền vững của
ngành, hoạt động của hệ thống khuyến nông là một trong những hoạt động
thiết thực hiệu quả. Khuyến nông như là hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật mới vào sản xuất Nông - Lâm - Ngư nghiệp giúp nông dân ứng dụng các
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để khai thác sử dụng hiệu quả tiềm năng của
mình, nâng cao thu nhập, nâng cao đời sống và thúc đẩy nền kinh tế nông
nghiệp phát triển bền vững.
Nghi Lộc là một huyện đồng bằng ven biển, có diện tích rộng lớn
đứng thứ 3 sau Quỳnh Lưu, Yên Thành của tỉnh Nghệ An. Nghi Lộc có
nhiều nguồn lợi để phát triển NTTS (mặn, lợ, ngọt). Hiện nay hoạt động
NTTS Nghi Lộc đang trên đà phát triển mạnh, tuy nhiên vẫn chưa phát huy
hết khả năng, tiềm lực.
Hoạt động khuyến nông huyện Nghi Lộc đã, đang được triển khai trên địa
bàn, trên tất cả các lĩnh vực nơng nghiệp nơng thơn qua các chương trình phát
triển kinh tế xã hội, các hoạt động xố đói giảm nghèo, nâng cao đời sống người
dân. Các hoạt động khuyến nơng trong phát triển NTTS huyện vẫn cịn hạn chế
và gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng nhu cầu NTTS của người dân.
Xuất phát từ tình hình đó, được sự phân công của tổ bộ môn, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Thực trạng hoạt động khuyến nông trong phát triển NTTS
huyện Nghi Lộc”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá thực trạng hoạt động khuyến nông trong phát triển NTTS của
huyện Nghi Lộc.
- Tìm hiểu những vấn đề khó khăn, khả năng áp dụng các kỹ thuật của
người dân vào thực tiễn NTTS

- Tìm hiểu nhu cầu người dân NTTS về khuyến nông.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu và nội dung


3

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động khuyến nông trong
phát triển NTTS ở huyện Nghi Lộc.
- Trạm khuyến nông Nghi Lộc.
- Cán bộ thuỷ sản phòng NN & PTTN Nghi Lộc.
- Các khuyến nông viên cơ sở huyện Nghi Lộc.
- Các hộ nuôi trồng thuỷ sản huyện Nghi Lộc..
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Địa bàn huyện Nghi Lộc - tỉnh Nghệ An.
Thời gian nghiên cứu: 16/02/2009 – 20/04/2009
Số liệu được thu thập từ 2006 – 04/2009.
3.3. Nội dung nghiên cứu
Tìm hiểu nguồn nhân lực (kinh nghiệm, chun mơn) của Trạm Khuyến
nơng Nghi Lộc.
- Tìm hiểu đánh giá các hoạt động khuyến nông ở Nghi Lộc trong lĩnh vực
NTTS.
- Các hoạt động của phòng thuỷ sản (phòng NN&PTNT Nghi Lộc).
- Thực trạng các vấn đề của người dân NTTS và nhu cầu hoạt động
khuyến nông của người dân.
- Khả năng áp dụng kỹ thuật của người dân vào NTTS.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiển của đề tài.
- Đề tài góp phần hệ thống hố cơ sở lí luận và thực tiễn về hoạt động
khuyến nông.
- Nghiên cứu đặc điểm địa bàn Nghi Lộc để có cái nhìn cụ thể thực tế về

điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của các hộ dân NTTS.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động khuyến nông trong lĩnh vực NTTS ở
Trạm khuyến nông Nghi Lộc, nhu cầu các hoạt động khuyến nơng của người dân
để từ đó có thể nâng cao chất lượng các hoạt động khuyến nông trong NTTS.


4

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.
Khuyến nông từ lâu đã được coi là một môn khoa học và được nhiều
nhà khoa học dày cơng nghiên cứu. Với tầm nhìn mang tính hệ thống, môn
khoa học này coi con người và mối quan hệ khăng khít giữa người với người
(các nhà làm chính sách, nghiên cứu, cán bộ khuyến nông, nông dân và các
đối tác có liên quan khác) trong q trình phát triển nơng nghiệp và nơng thơn
là đối tượng nghiên cứu chính. Khuyến nông đã được xem như một công cụ để
thực hiện các chính sách của nhà nước. Nghiên cứu khuyến nơng nhằm giải
đáp câu hỏi làm thế nào có thể giúp nông dân chuyển đổi quan điểm thái độ
tăng cường khả năng nhận thức vấn đề và tự đưa ra các quyết định tốt nhất để
giải quyết các khó khăn của họ.
* Theo Mc Dermott, J.K.(1987): Cho rằng cần phải tổng hợp các thông tin của
các nhà nghiên cứu khuyến nơng và nơng dân để có thể tạo ra những kỹ thuật tốt nhất
cho một tình hình cụ thể nào đó. Trước đây, có một sự phân định rõ ràng giữa các nhà
nghiên cứu, khuyến nông và nông dân. Dần dần sự phân định này bị lu mờ đi vì họ đã
cùng tham gia vào một quá trình học hỏi được từ những người tham dự kia.
* Theo A.W.Van den Ban & H. S. Hawkins, khuyến nông được coi như
một trong những cơng cụ chính sách mà nhà nước có thể sử dụng để khuyến
khích phát triển nơng nghiệp. Tuy nhiên người nơng dân hồn tồn tự do theo
hay khơng theo lời khun của các cán bộ khuyến nơng. Vì thế, khuyến nơng chỉ
có thể đạt được sự chuyển đổi nào đó mà nơng dân cho là có lợi đối với họ, khi

kết quả trong nghiên cứu khoa học và những kinh nghiệp của nơng dân đạt được
mục đích của mình một cách có hiệu quả. Vì thế, khuyến nơng xây dựng một mối
liên hệ có hiệu quả giữa nơng dân, người nghiên cứu và những nguồn thông tin
khác. Điều này khiến cho người cán bộ khuyến nơng có khả năng kích thích tiến
trình học hỏi của chính những người nông dân bằng việc cải thiện phạm vi và
chất lượng kiến thức kỹ năng ra quyết định của họ. Vì thế, một mặt các bộ


5

khuyến nơng vừa phải là những nhà nơng học có trình độ, mặt khác vừa phải
học hỏi cách thơng tin với nơng dân một cách có hiệu quả, làm sao để có thể
kích thích việc học hỏi.
1.2.Tình hình nghiên cứu trong nƣớc.
Ở nước ta, công tác khuyến nông được Đảng, nhà nước rất coi trọng. chúng ta
đã xây dựng được một mạng lưới hoạt động khuyến nông rộng lớn từ TW đến cơ sở.
Bên cạnh đó các tổ chức tự nguyện, các tổ chức phi chính phủ trong và ngồi nước
cũng đã đang có những đóng góp đáng kể vào hoạt động này. Công tác nghiên cứu
khuyến nông những năm gần đây đã được chú ý ở trong các trường đại học, viện
nghiên cứu, các trung tâm khuyến nông quốc gia và tỉnh,...
* Khuyến nơng học (2007), Hồng Văn Sơn, Đã có một cách nhìn đầy đủ về
khuyến nơng: Các khái niệm, các yếu tố, vai trò, nguyên tắc hoạt động, các phương
pháp khuyến nơng,...Cuốn giáo trình là tài liệu dùng giảng dạy cho sinh viên ngành
khuyến nông và các ngành liên quan, là tài liệu tham khảo bổ ích cho tất cả những
người làm công tác khuyến nông.
* Tài liệu tập huấn phương pháp khuyến nông (NXB Nông nghiệp, 2007) đã
giới thiệu đầy đủ các phương pháp khuyến nông, đào tạo nâng cao năng lực kỹ năng
cho cán bộ khuyến nông, KNVCS,. . .
* Nghiên cứu nhu cầu nông dân, (2003). (Bộ Nông nghiệp &PTNT, UNDP.
NXB Thống kê, Hà Nội) đã tiến hành nghiên cứu các nhu cầu cơ bản của nông dân,

cho rằng nhu cầu của nông dân là rất quan trọng để các cơ quan nghiên cứu phát triển
có thể định hướng kế hoạch hoạt động, các chương trình khuyến nơng một cách hiệu
quả tới người dân.
* Phương pháp khuyến nơng có sự tham gia của người dân (Trung tâm khuyến
nông tỉnh Lai Châu, NXB Nông nghiệp, Hà Nội), đã nói đến phương pháp khuyến
nơng có sự tham gia của người dân tỉnh Lai Châu vào các chương trình khuyến nơng.
Nội dung tài liệu rất có ích cho các bộ giảng dạy ngành học Nông Lâm và những
người làm công tác khuyến nông, đặc biệt KNVCS:
- Nêu lên những vai trò và nhiệm vụ của KNVCS.


6

- Phương pháp lập kế hoạc khuyến nơng có sự tham gia.
- Lồng ghép, phân tích vấn đề giới trong khuyến nông.
- Kỹ năng viết báo cáo.
- Cách tổ chức tự quản.
1.3. Những vấn đề tồn tại và những vấn đề đề tài tập trung nghiên cứu.
Thách thức lớn nhất của nơng nghiệp Việt Nam thời kỳ hậu WTO chính là khả
năng cạnh tranh. So với các nước trong khu vực, ta có hai bất lợi chính trong cạnh
tranh: quy mô sản xuất nhỏ của kinh tế nông hộ và trình độ thấp của cơng nghệ ứng
dụng trong sản xuất nông nghiệp. Hệ quả của những bất lợi này sẽ là nguy cơ phá sản
của nông dân sản xuất nhỏ và không thể nâng cao thu nhập cho nông dân vì sản xuất
với giá thành cao và chất lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu thị trường thế
giới. Chính nơng dân sẽ là người quyết định lựa chọn quy mô sản xuất. Tuy nhiên để
thực hiện điều này lại phụ thuộc rất lớn vào trình độ kiến thức nơng nghiệp của họ.
Có cơng nghệ sản xuất nơng nghiệp mới chưa phải là điều kiện đủ trong việc
nâng cao năng suất nếu có một khoảng cách giữa cơng nghệ mới với việc người nơng
dân vận dụng nó vào thực tế. Dịch vụ thông tin kỹ thuật nông nghiệp cần được hình
thành trên nền tảng có sự đầu tư của nhà nước nhằm tạo kết nối giữa nơi cung cấp công

nghệ mới với người ứng dụng. Người nông dân không hiểu về kỹ thuật mới, khơng có
đủ năng lực để thực hiện, khơng được chấp nhận về mặt tâm lí, văn hố xã hội, khơng
được thích nghi, khơng khả thi về kinh tế và khơng sẵn có điều kiện áp dụng.
Để người nông dân áp dụng kỹ thuật mới, phải bằng mọi cách giúp cho chính
bản thân họ thấy được rủi ro nếu không áp dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp. Hệ
thống khuyến nông ra đời là cần thiết và với những phương pháp đa dạng thích hợp sẽ
tác động làm thay đổi cách nhìn của người nơng dân, khuyến khích trợ giúp họ đương
dầu với những khó khăn trong việc áp dụng công nghệ mới, nhằm nâng cao thu nhập
và phát triển nông nghiệp bền vững.
Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu các hoạt động khuyến nông trong lĩnh vực
NTTS, cũng như xem xét nhu cầu của người dân để có cách nhìn cụ thể về các hoạt
động khuyến nông.


7

Chƣơng 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Các khái niệm về khuyến nơng
Trên thế giới, hoạt động khuyến nơng đã có từ rất lâu, nhưng mãi đến giữa
thế kỉ XIX mới được khái quát thành các khái niệm.
Khuyến nông là một thuật ngữ khó định nghĩa một cách chính xác vì
khuyến nơng được tổ chức bằng nhiều cách khác nhau, phục vụ nhiều mục đích
có quy mơ khác nhau. Do vậy khuyến nơng là một thuật ngữ có ý nghĩa rất rộng.
Lần đầu tiên, năm 1866, tại Anh thuật ngữ “Extension” được sử dụng,
nghĩa là “mở rộng - triển khai”. Nếu ghép với từ “Agricultural” thành
“Agricultural Extension” nghĩa là “mở rộng - triển khai nghề nông”. Dịch gọn là
khuyến nông.
Theo nghĩa Hán Việt, “khuyến” là người ta cố gắng trong công việc.
“Khuyến nông” là khuyên mở mang nghề nông.

Theo Adams: Khuyến nông là tư vấn cho nơng dân, giúp họ tìm ra những
khó khăn trở ngại trong cuộc sống và sản xuất, đồng thời đề ra những giải pháp
khắc phục. Ngoài ra khuyến nơng cịn giúp cho nơng dân nhận biết được cơ hội
phát triển (5).
Theo Thomas G.Flores: Khuyến nông là một từ tổng quát chỉ mọi việc có
liên quan đến sự phát triển nơng thơn, đó là một hệ thống giáo dục ngồi nhà
trường, trong đó người lớn và trẻ em được học bằng cách thực hành (8).
Theo Maunder: Khuyến nông như một dịch vụ hoặc hệ thống giúp nông
dân hiểu biết những phương pháp canh tác và kỹ thuật cải tiến, tăng hiệu quả sản
xuất và thu nhập, làm cho mức sống của họ tốt hơn và nâng cao trình độ giáo dục
của người dân nông thôn (13).
B.E.Swanson và J.B.Clear: Khuyến nơng là phương pháp động, nhận thơng
tin có lợi ích người dân, giúp họ thu được những kiến thức, kỹ năng và những quan
điểm cần thiết nhằm sử dụng một cách có hiệu quả thơng tin hoặc kỹ thuật này (19).


8

Theo D.Sim và H.A.Hilmi (1987): Khuyến nông là một tiến trình của việc
hồ nhập các kiến thức bản địa và các kiến thức khoa học kỹ thuật, các quan
điểm, các kỹ năng để quyết định cái gì cần, điều đó có thể được làm như thế nào,
sự hợp tác địa phương với các nguồn tài nguyên nào có thể huy động và sự trợ
giúp từ bên ngồi nào là có thể và có khả năng vượt qua các trở ngại đặc biệt (5).
Theo tổ chức FAO: Khuyến nông là quá trình dịch vụ thơng tin truyền bá
kiến thức và đào tạo tay nghề cho nơng dân, làm cho họ có đủ khả năng giải
quyết các vấn đề của hộ gia đình và làng xã của họ (8).
Theo Trung tâm khuyến nông Việt Nam: Khuyến nông là cách đào tạo và
rèn luyện tay nghề cho nông dân, đồng thời giúp họ hiểu được chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, những kiến thức về kỹ thuật, kinh
nghiệm về quản lý kinh tế, những thông tin về thị trường để họ có khả năng giải

quyết các vấn đề của gia đình, cộng đồng nhằm đẩy mạnh sản xuất và cải thiện
đời sống, nâng cao dân trí, góp phần xây dựng và phát triển nông thôn.
Qua các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu khuyến nơng là:
- Theo nghĩa hẹp
Khuyến nơng là một tiến trình giáo dục khơng chính thức mà đối tượng
của nó là nơng dân. Tiến trình này đem đến cho nơng dân những thơng tin và
những lời khuyên nhằm giúp họ giải quyết những vấn đề hoặc những khó khăn
trong cuộc sống. Khuyến nơng hỗ trợ phát triển các hoạt động sản xuất, nâng cao
hiệu quả canh tác để không ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân
và gia đình họ. Khuyến nơng là sử dụng các cơ quan Nông - Lâm - Ngư, các
trung tâm khoa học Nông - Lâm - Ngư để phổ biến, mở rộng các kết quả nghiên
cứu tới nơng dân bằng các phương pháp thích hợp để họ có thể áp dụng nhằm thu
được nhiều sản phẩm hơn (10).
- Theo nghĩa rộng
Khuyến nông là khái niệm chung để chỉ tất cả những hoạt động hỗ trợ sự
nghiệp xây dựng và phát triển nơng thơn. Khuyến nơng là ngồi việc hướng dẫn
cho nông dân tiến bộ kỹ thuật mới, còn phải giúp họ liên kết với nhau để chống


9

lại thiên tai, tiêu thụ sản phẩm, hiểu biết các chính sách, luật lệ Nhà nước, giúp
nơng dân phát triển khả năng tự quản lý, điều hành, tổ chức các hoạt động xã hội
như thế nào cho ngày càng tốt hơn (10).
Cho đến nay, khái niệm khuyến nông được sử dụng nhiều nhất là: Khuyến
nơng là một tiến trình hệ thống của việc trao đổi các ý tưởng, kiến thức và các kỹ
thuật dẫn đến sự trao đổi cùng nhau các quan điểm, chính sách, kiến thức, giá trị
và thái độ nhằm vào việc sử dụng hợp lý các tài nguyên để nâng cao mức sống
cho người dân và phát triển nông thôn theo hướng bền vững về sinh kế và mơi
trường.

2.1.2. Cơ sở triết lí của khuyến nơng
2.1.2.1. Khuyến nơng là hàng hóa dịch vụ
Trước đây, trên thế giới, nhiều dịch vụ được nhà nước cấp cho người dân
sử dụng miễn phí như khám chữa bệnh khơng phải trả tiền, học sinh đi học khơng
phải nộp học phí,… và cả một số dịch vụ khuyến nông. Tuy nhiên điều này đã
dẫn đến sự trông chờ ỷ lại của người dân và tốc độ phát triển của các nước đó
chậm, kém phát triển.
Ở Việt Nam, hiện nay một số dịch vụ (y tế giáo dục, khuyến nông …)
được cung cấp miễn phí hoặc trợ giá một phần. Điều này cần phải, được nghiên
cứu thực hiện một cách phù hợp với tình hình cụ thể nhất là Việt Nam đang bước
vào hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Người dân cần hiểu rõ và trả tiền cho
các dịch vụ khuyến nơng mà mình sử dụng.
2.1.2.2. Người nơng dân là nhân vật trung tâm của nơng thơn và họ bình đẳng
như các thành phần khác trong xã hội.
Người nông dân đã sống qua nhiều đời tại môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội của cộng đồng. Do vậy họ có những kiến thức, hiểu biết có giá trị
về cây trồng, vật nuôi và các phương pháp canh tác phù hợp với hoàn cảnh địa
phương cũng như hiểu rõ về phong tục tập quán, kinh nghiệm làm ăn…Người
nông dân vừa là tác nhân vừa là người được hưởng thụ những kết quả trong quá
trình lao động của họ cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực. Vì vậy hoạt động khuyến


10

nông cần tập trung vào các vấn đề của người dân, tác động đến họ bằng các phương
pháp phù hợp để họ nhận ra được những vấn đề của họ, nghĩ ra các giải pháp thực
thi nhằm giải quyết các vấn đề đó, để họ sử dụng hợp lý các nguồn lực trong chiến
lược sinh kế của họ, phù hợp với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Người nông dân cũng như các thành phần khác nhau trong xã hội. Họ
cũng muốn có cuộc sống vật chất cũng như tinh thần ngày càng cải thiện và họ

có khả năng cải thiện được cuộc sống đó. Người nơng dân cần cù, chịu khó,
thơng minh, ham học hỏi. Họ sống gần gũi với thiên nhiên và sống bằng chính
sức lao động của bản thân. Tuy nhiên họ lại bị thiếu thông tin và sống trong một
mơi trường xã hội có cơ chế tổ chức chưa phù hợp. Vì vậy, khuyến nơng cần tác
động để người nơng dân có thể sử dụng có hiệu quả nhất những nguồn lực mà họ
có và tạo thêm cơ hội để có thể tiếp cận với nguồn lực phát triển.
2.1.2.3. Khuyến nông làm công tác phát triển nông thôn.
Khuyến nông là một hoạt động thiết yếu trong lĩnh vực Nông - Lâm - Ngư
nghiệp và phát triển nông thôn. Khuyến nông không chỉ dừng lại ở việc phổ biến
kiến thức khoa học kỹ thuật cho nông dân mà còn hướng dẫn họ biết lựa chọn và
áp dụng những kỹ thuật Nông - Lâm - Ngư nghiệp mới, thích hợp, hướng dẫn
cho nơng dân biết cách tổ chức nhau lại để giúp đỡ nhau về kinh nghiệm làm ăn,
xóa đói giảm nghèo, phịng chống thiên tai, giúp đỡ nhau về vốn, mua sắm vật tư
và tiêu thụ nơng phẩm hàng hóa có lợi nhất. Khuyến nơng cịn phải biết cách tổ
chức cho người nông dân cùng phối hợp với bên có liên quan trong việc tìm ra
các giải pháp giải quyết các vấn đề, các khó khăn của họ.
Khuyến nông suy nghĩ, hành động cùng người dân, phát huy những cái mà
người dân đã biết và đưa thêm cho họ những cái mà họ chưa biết một cách thích
hợp để phát triển nơng thơn.
2.1.3. Vai trị của hoạt động khuyến nông
- Khuyến nông là nhịp cầu nối giữa nông dân với nhà nước, nhà nghiên
cứu, thị trường, các doanh nghiệp, các hộ nông dân sản xuất giỏi, các đồn thể,
các ngành có liên quan, các tổ chức quốc tế có liên quan. Chính nhờ cầu nối này


11

mà người dân nắm bắt và phản hồi thông tin một cách tích cực đến nhà nước và
các cơ quan chức năng để có những quyết định chính xác và hiệu quả tạo điều
kiện cho sản xuất phát triển.

- Khuyến nông hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ, tập huấn, tuyên truyền… cho các hộ nông dân. Khuyến nơng góp phần
giúp cải tạo hộ nơng dân xóa đói giảm nghèo, tiến lên khá giàu.
- Khuyến nơng huy động các lực lượng khoa học kỹ thuật có khả năng
đóng góp cơng sức cho sự nghiệp phát triển nơng nghiệp và nơng thơn
- Khuyến nơng góp phần liên kết nông dân, thúc đẩy sự hợp tác qua lại
giữa nông dân với nhau như: hội thảo, tham quan học tập các điển hình tiên tiến,
tổ chức các câu lạc bộ khuyến nông,…Những việc làm này liên kết nông dân,
tăng cường sự hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, hạn chế rủi
ro và tăng năng suất lao động.
2.1.4. Các nguyên tắc hoạt động của khuyến nông
2.1.4.1 Không áp đặt, mệnh lệnh.
Mỗi hộ nông dân là một đơn vị kinh tế độc lập, đời sống của họ là do họ
tự quyết định. Vì vậy nhiệm vụ của khuyến nơng là tìm hiểu cặn kẽ u cầu
nguyện vọng của họ trong sản xuất nông nghiệp, để đưa ra những tiến bộ khoa
học kỹ thuật mới sao cho phù hợp để họ cân nhắc lựa chọn.
Các hoạt động khuyến nông phải xuất phát từ người dân, do người dân đề
xuất, thực hiện và hưởng lợi trực tiếp. Các hoạt động khuyến nông không nên áp
đặt, mệnh lệnh bắt buộc từ trên xuống. Người dân cần phải được tham gia vào
quá trình lựa chọn và quyết định các hoạt động có như vậy kết quả mới cao và
bền vững.
2.1.4.2. Tinh thần trách nhiệm cao.
Khuyến nơng có vai trị to lớn trong việc phát triển nơng nghiệp nơng thơn
vì vậy hoạt động này yêu cầu tinh thần trách nhiệm cao. Đó là trách nhiệm với
nhà nước,với người dân.


12

Mọi hoạt động khuyến nông phải theo chủ trương đường lối chính sách của

nhà nước. Tính hiệu quả của hoạt động khuyến nông trước hết được đánh giá trên cơ
sở các chủ trương, chính sách của nhà nước có được thực hiện tốt hay khơng.
Khuyến nơng có trách nhiệm với người dân trách nhiệm đó thể hiện ở các
chương trình kế hoạch khuyến nơng có xuất phát từ người dân, có đáp ứng nhu
cầu của người dân hay khơng. Thu nhập và cuộc sống của người dân có phải do
khuyến nông mà cải thiện được hay không?
Khuyến nông là một cơng việc địi hỏi tinh thần trách nhiệm cao, người
cán bộ khuyến nông muốn thực hiện tốt công việc của mình cần phải có năng lực
và phẩm chất tốt, mê say công việc,… để đi sâu, đi sát, gần gũi với người dân
giúp họ nâng cao cuộc sống.
2.1.4.3. Làm cùng với dân, khơng làm thay cho dân.
Nơng dân hồn tồn có thể đưa ra những quyết định đúng đắn để giải
quyết những vấn đề khó khăn của họ nếu như họ được cung cấp đầy đủ thông tin
và những giải pháp khác nhau (13).
Cán bộ khuyến nông giúp đỡ bà con nông dân nhưng không thể quyết
định thay và làm thay người dân. Cán bộ khuyến nông là người tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn, cung cấp các thơng tin và khuyến khích người nơng dân tự đưa ra các
quyết định của họ. Khi họ tự đưa ra các quyết định, họ sẽ tự tin vào bản thân hơn
là khi người cán bộ khuyến nông làm thay, quyết định thay cho họ.
2.1.4.4. Không cho không
Vào những năm 1970, ở các nước Châu Phi, Châu Mĩ - La tinh đã có kinh
nghiệm khi người dân đóng góp cơng sức vào hoạt động khuyến nơng và phát triển
nơng thơn thì hiệu quả đã tăng lên nhiều, đơi khi vượt q trí tưởng tượng (5).
Khuyến nơng chỉ nên hỗ trợ khâu khó khăn ban đầu (Kỹ thuật, một phần
về giống, phân bón, tài chính) khi mà nông dân không thể tự đầu tư, khi áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. Tuy nhiên khơng nên bao cấp tồn bộ để
nơng dân tích cực hơn, tránh trường hợp người nông dân ỷ lại, khơng phát huy
hết trách nhiệm của mình, ngay cả những vùng đặc biệt khó khăn.



13

2.1.4.5. Khuyến nông vừa là nhịp cầu thông tin hai chiều, vừa là cơ quan
nghiên cứu phát triển.
Khuyến nông là nhịp cầu trao đổi thông tin hai chiều
Khuyến nông vừa chuyển giao kiến thức khoa học kỹ thuật của các cơ
quan nghiên cứu, triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của nhà nước
đến cộng đồng nơng thơn và nông dân, vừa tiếp nhận thông tin của người dân
chuyển đến các cơ quan nghiên cứu hoạch định chính sách.
Khuyến nông là cơ quan nghiên cứu phát triển
Khuyến nông thường tiếp xúc với người dân, khuyến nông phục vụ nâng
cao đời sống của người dân, phát triển nông thôn. Hiện nay với nhiều phương
pháp tiếp cận các hoạt động khuyến nông được thực hiện từ khâu nghiên cứu đến
đề xuất các giải pháp thực hiện.
2.1.4.6. Phối hợp với các tổ chức phát triển nông thôn khác.
Khuyến nông chỉ là một trong nhiều hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội và
chính trị của sự nghiệp phát triển nơng thơn. Khuyến nông không hoạt động độc
lập mà phối hợp chặt chẽ với các tổ chức phát triển khác. Đó là những tổ chức:
Chính quyền địa phương, các tổ chức dịch vụ, cơ quan y tế, trường phổ thông các
cấp, các tổ chức quần chúng và các tổ chức phi chính phủ,. . .(5).
2.1.4.7. Khuyến nơng làm việc với các nhóm đối tượng khác nhau.
Ở nơng thơn, mỗi nơng hộ có những hồn cảnh, vấn đề khác nhau,có
những nguồn lực, kỹ năng, nhu cầu khác nhau. Với từng nhóm đối tượng hộ
nơng dân khác nhau khuyến nơng cần có những chương trình phù hợp.
2.1.4.8. Ln thích ứng, khơng cứng nhắc.
Mơi trường hoạt động của khuyến nông rất đa dạng và luôn biến đổi nên
khuyến nơng cần phải có tính thích ứng linh động cao, nếu không khuyến nông
lại trở thành yếu tố ngăn cản sự phát triển.
Cán bộ khuyến nông phải biết lắng nghe tiếp thu các ý kiến của người
dân. Các chương trình hay dự án dài hạn cũng phải lắng nghe ý kiến của người

dân để phát hiện ra những yếu tố cần đổi mới.


14

2.1.5. Các yếu tố của khuyến nông.
2.1.5.1. Thể chế.
Hệ thống khuyến nông đã được xây dựng từ cấp TW đến địa phương (huyện,
xã) hàng năm nhà nước cấp một khoản kinh phí cho cơ quan này hoạt động.
Các tổ chức khuyến nông tự nguyện cũng đã được thừa nhận về mặt pháp
lý. Nhiều chính sách phát triển nơng nghiệp nơng thôn đã được ban hành. Hiện
nay, một số hoạt động khuyến nông vẫn được trợ giá tạo điều kiện cho sản xuất
nông nghiệp đứng vững và phát triển, trong tương lai người tiêu dùng phải trả
tiền cho các dịch vụ mà mình sử dụng.
2.1.5.2. Kiến thức và kỹ năng.
Khuyến nơng viên khơng những phải có kiến thức về khoa học kỹ thuật về
các đối tượng cây trồng vật nuôi, các kiến thức về kinh tế xã hội mà còn phải có
kiến thức và kỹ năng phát triển (5).
Hiện nay các Trạm khuyến nông địa phương mới chú ý đến kiến thức
khoa học kỹ thuật mà chưa quan tâm đúng mức đối với kiến thức về kinh tế xã
hội và các kỹ năng hành động phát triển. Người nơng dân có kiến thức và kỹ
năng là do được tích lũy kinh nghiệm, khơng qua các trường lớp. Muốn phát triển
có hiệu quả, nơng dân cần phải có cả những kiến thức và kỹ năng mới. Những
kiến thức, kỹ năng đó, khuyến nông viên sẽ cung cấp cho nông dân.
2.1.5.3. Những khuyến cáo kỹ thuật.
Khuyến nông cung cấp thông tin và khuyến cáo kỹ thuật giúp nơng dân tự
mình đưa ra những quyết định và hành động. Như giá cả và thị trường của các
mặt hàng họ có thể sản xuất hoặc quan tâm, hoặc ở đâu có những loại cây, con
giống họ đang cần. Nhiều nơng dân cũng có những kiến thức và kinh nghiệm sản
xuất rất có ích khuyến nơng có thể tiếp thu và phổ biến lại cho những nơng dân

khác. Thực tế có rất nhiều sáng kiến kỹ thuật xuất phát từ người nông dân và từ
những sáng kiến này đã hình thành những đề tài nghiên cứu khoa học có giá trị
hoặc những phong trào sản xuất trong cả nước.


15

2.1.5.4. Tổ chức nông dân
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới người nơng dân có
nhu cầu liên kết với nhau để tổ chức sản xuất kinh doanh, họ cần một tổ chức đại
diện cho quyền lợi của mình và thực hiện những cơng việc mang tính cộng đồng.
Hoạt động khuyến nơng cần giúp họ tổ chức thành những nhóm, tổ, liên doanh
khác nhau trên cơ sở cùng mục đích, lợi ích chung của họ. Nhóm tổ liên doanh
này cịn đóng vai trị đưa thơng tin đến nông dân và tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho cơng tác khuyến nơng.
2.1.5.5. Động cơ và lịng tin.
Người nơng dân khi đối mặt với những hồn cảnh khó khăn và cảm thấy
khó có thể làm được gì để thay đổi được cuộc sống của mình. Họ cần có sự hỗ
trợ, động viên từ bên ngồi. Khuyến nơng cần xây dựng được lòng tin của người
dân đối với bản thân họ và lịng tin vào cơng tác khuyến nơng. Khơng ngần ngại
giúp đỡ và khuyến khích người dân tham gia vào các chương trình khuyến nơng
thuyết phục họ và động viên họ để họ tin tưởng rằng họ hoàn toàn có thể tự quyết
định và hành động theo những cách thức phù hợp với nguồn lực mà họ có và tận
dụng được những cơ hội để phát triển.
2.1.6. Mục tiêu của khuyến nông.
Mục tiêu là kết quả cuối cùng đã được định trước mà người ta hướng tới,
mọi nỗ lực và hoạt động đều có mục đích riêng nhằm đạt được những mong
muốn của mình, trong thực tế ở mỗi giai đoạn phát triển nông nghiệp và nông
thôn khác nhau khuyến nơng có những mục tiêu cụ thể khác nhau
Mục tiêu lâu dài của khuyến nông là giúp cho nông dân hiểu biết về các

nguồn lực của họ, các giải pháp sử dụng có hiệu quả và nâng cao các nguồn lực
đó, giúp họ có được nhận thức đúng trước những khó khăn, trong cuộc sống để
họ có cách nhìn thực tế, lạc quan hơn với mọi vấn đề trong cuộc sống để họ tự
quyết định biện pháp vượt qua những khó khăn. Khuyến nơng khơng chỉ chú ý
đến các yếu tố tổ chức sản xuất, tổ chức xã hội, khơng chỉ nhằm mục đích phát


16

triển kinh tế mà còn hướng tới sự phát triển tồn diện của bản thân người nơng
dân và nâng cao chất lượng cuộc sống ở nông thôn.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.
2.2.1. Hoạt động khuyến nông trên thế giới.
Trên thế giới, khuyến nông ra đời từ rất sớm và có ở hầu hết khắp các nước.
Hoạt động khuyến nơng đã và đang có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát
triển nông nghiệp nông thôn
Tại Mỹ
Mỹ là nước có nền kinh tế nơng nghiệp phát triển tiên tiến tuy chỉ có 6%
dân số sống bằng sản xuất nông nghiệp nhưng năng suất và sản lượng ở mức cao
trên thế giới.
Là một trong những nước có hoạt động khuyến nông từ rất sớm. Năm
1843 ở New York nhà nước cấp nguồn kinh phí lớn cho phép UBND bang thuê
giảng viên khuyến nông đào tạo kiến thức và thực hành cho nông dân.
Năm 1853 Ed Ward HitChcoch là chủ tịch trường đại học Amhers đã có
nhiều cơng lao trong đào tạo khuyến nông cho nông dân, học sinh, sinh viên.
Ơng cũng là người sáng lập hội nơng dân và học viện nông dân.
Năm 1891, bang New York đã hỗ trợ 10.000 USD cho công tác đào tạo
khuyến nông đại học.
Năm 1907, ở Mỹ đã có 42 trường trên 39 bang đào tạo khuyến nông
Năm 1914, Mỹ ban hành đạo luật khuyến nông, thàng lập hệ thống

khuyến nông quốc gia.
Tại Ấn Độ
Tổ chức khuyến nông ra đời từ những năm 1950. Vào thời kỳ đó nền nơng
nghiệp nghèo nàn lạc hậu, lương thực thiếu thốn, dân thiếu ăn thường xuyên có
người chết đói. Trước thực trạng đó, chính phủ Ấn Độ quyết tâm giải quyết vấn
đề lương thực, hệ thống khuyến nông Ấn Độ ra đời là tất yếu và vô cùng cần
thiết. Sự thành công của nông nghiệp những năm sau đó của sự đóng góp to lớn
của khuyến nơng, đó là thành tựu của 3 cuộc cách mạng trong nông nghịêp.


17

Cách mạng xanh: Làm tăng vọt năng suất, sản lượng lương thực của quốc
gia này.
Cách mạng trắng: Là cuộc cách mạng sản xuất sửa bò, sửa trâu.
Cách mạng nâu: Là cuộc cách mạng sản xuất thịt xuất khẩu
Trung Quốc
Là quốc gia đông dân nhất thế giới, hệ thống khuyến nông được thàng lập
từ năm 1970 nhưng hoạt động khuyến nông có khá sớm.
Năm 1928: Viện Đại học nơng nghiệp tỉnh Triết Giang thành lập phân
khoa khuyến nơng .
Năm 1929: Chính phủ Trung Quốc đã xác định "Ngành khuyến nông do
các cơ quan nông nghiệp phụ trách, đặt tiêu chuẩn cải thiện phương pháp sản
xuất nông nghiệp, gia tăng sản xuất, cải thiện tổ chức nông thôn và sinh hoạt
nông dân, phổ biến tri thức về KHKT nông nghiệp, thành lập các HTX nông dân
sản xuất và tiêu thụ".
Năm 1933: Trường Đại học Kim Lăng (nay là Đại học tổng hợp Nam
Kinh) có khoa khuyến nơng.
Trung Quốc tổ chức HTX và công xã nhân dân nên từ 1951 - 1978 giai
đoạn này công tác khuyến nông chỉ triển khai đến HTX.

- Sau 1978 tổ chức sản xuất nông nghiệp Trung Quốc có sự thay đổi theo
hướng phát triển kinh tế hộ song song với kinh tế tập thể quốc doanh.
Hiện nay Trung Quốc có nền nơng nghiệp khá phát triển với một hệ thống
khuyến nơng khá hồn thiện quy mơ cả nước.
Thái Lan
Là một nước có trên 60% dân số sồng bằng nơng nghiệp, có điều kiện tự
nhiên gần giống việt nam.
Ngày 20/10/1967 chính phủ Thái Lan có quyết định thành lập tổ chức
khuyến nơng. Chính phủ Thái Lan rất quan tâm đến hoạt động này, hàng năm
chính phủ Thái Lan chi từ 120 - 150 triệu USD thậm chí trên 200 triệu USD đầu


18

tư cho hoạt động khuyến nông. Hệ thống khuyến nông Thái Lan phát triển tương
đối mạnh, có thể nói là có mặt tới tận làng xã.
Qua hoạt động khuyến nơng của một số nước trên thế giới, cho ta thấy
hoạt động khuyến nơng có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển nông
nghiệp nông thôn. Công tác khuyến nơng rất được coi trọng ở các nước có nền
kinh tế nông nghiệp phát triển.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, hệ thống khuyến nông nhà nước được
thành lập muộn hơn nhiều so với các nước khác, vì vậy cơng tác khuyến nơng địi
hỏi phải ngày càng có hiệu quả hơn nữa thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông
thôn nhanh chóng.
2.2.2. Hoạt động khuyến nơng ở Việt Nam
2.2.2.1. Lịch sử khuyến nông ở Việt Nam
Từ xa xưa tổ tiên ta đã có những hoạt động khuyến nơng, tục truyền rằng
vua Hùng Vương nước Văn Lang đã dạy dân xã Minh Nơng (nay thuộc tỉnh Phú
Thọ) cấy lúa. Sau đó khơng lâu cây lúa đã trở thành cây trồng chủ lực.
* Thời phong kiến

- Năm 981, thời Đinh – Lê đã có phong tục” “Lễ hạ điền” của nhà vua.
Hành cử này có ý nghĩa hết sức to lớn khích lệ mọi người dân ra sức sản xuất,
chúc mong cho một năm mới sản xuất nông nghiệp bội thu.
- Năm 1226 nhà Trần đã thành lập 3 tổ chức: “Hà đê sứ - Đồn điền sứ khuyến nông sứ”. Giúp dân sản xuất nông nghiệp.
- Năm 1444 – 1493 Lê Nhân Tơng, Lê Thánh Tơng có 17 lần ra chiếu dụ
khuyến nơng đã tạo điều kiện khuyến khích nơng dân ra sức tăng gia sản xuất.
- Năm 1778, Nguyễn Công Trứ là vị quan có cơng lao rất lớn trong phát
triển nơng nghiệp của đất nước. Ơng ra sức cho nạo vét kênh mương, dẫn thuỷ
nhập điền, đắp đê chống lũ, chắn ruộng khai hoang an nghiệp dân nghèo, ra sức
lấn biến.
- Năm 1789, vua Quang Trung đã xác định: “Thực tác binh cường”, nhà
vua thực hiện nhiều chính sách khuyến khích phát triển nơng nghiệp như miễn


19

giảm thuế đất nông nghiệp, nạo vét kênh mương, đắp đê, tăng cường phát triển
chợ nơng thơn… Vì thế mà thời kì này nơng nghiệp phát triển khá mạnh.
* Thời kháng chiến
- Tháng 4/1945 Bác Hồ căn dặn các cán bộ tại Việt Bắc: “Các chú ra về
phải làm tốt công tác khuyến nông, ra sức phát triển nông nghiệp, chống giặc đói,
diệt giặc dốt. Người thực hiện: “Hũ gạo tiết kiệm”.
- Năm 1950 – 1957 thực hiện: “Người cày có ruộng”, khích lệ nơng dân ra
sức tăng gia sản xuất.
- Năm 1960 ở miền Nam lập các nhà khuyến nông trực thuộc bộ cải cách
điền địa Nông – Ngư mục. Ở miền Bắc thành lập các HTX nông nghiệp, cho sinh
viên trường nông nghiệp đi tham quan thực tế sản xuất tạo các HTX.
- Năm 1963 – 1973, Bộ nơng nghiệp tổ chức các: “Đồn chỉ đạo sản xuất
nơng nghiệp giúp các tỉnh…” phấn đấu thực hiện mục tiêu 5 tấn thóc /ha. Năm
1966 Thái Bình là tỉnh đầu tiên đạt năng suất 5 tấn thóc/ha.

- Năm 1974 tồn miền Bắc đạt năng suất 5 tấn thóc/ha.
* Thời kì 1976 – 1993
Sản xuất nơng nghiệp trì trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
- Tháng 1-1981, chỉ thị 100 của Ban chấp hành TW Đảng ban hành có tác
dụng khích lệ nơng dân sản xuất.
- Ngày 5/4/1988, Bộ chính trị ban chấp hành TW Đảng khố V ra nghị
quyết 10 đã chuyển đổi hẳn cơ chế quản lí kinh tế trong nông nghiệp, đời sống
nông nghiệp nông thôn có cơ hội ngày càng phát triển mạnh.
- 2/3/1993, NĐ13/CP của chính phủ về thành lập hệ thống khuyến nơng,
khuyến lâm, khuyến ngư.
Cuối năm 1993, nước ta chính thức có hệ thống khuyến nông quốc gia
2.2.2.2. Hệ thống tổ chức khuyến nông ở Việt Nam
Từ năm 1998 một hệ thống khuyến nông nhà nước được thành lập từ TW
đến huyện xã.


20

Cấp trung ương: Trung tâm khuyến nông quốc gia (NAEC) trực thuộc
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn chịu trách nhiệm về các dịch vụ
khuyến nông.
Cấp tỉnh: Hiện nay trên tất cả các tỉnh, thành các trung tâm khuyến nông
đã được thành lập trực thuộc sở nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trung tâm
khuyến nông thực hiện công tác khuyến nông lâm ngư trên địa bàn tỉnh, một số
trung tâm còn làm nhiệm vụ sản xuất cây giống, nghiên cứu khoa học. Số cán bộ
của các trung tâm khoảng hơn 800 người, mỗi trung tâm có 12-15 cán bộ trong
đó có khoảng 80% trình độ Đại học.
Cấp huyện: Hiện các huyện trong cả nước đã có Trạm khuyến nông, mỗi
Trạm 5-7 cán bộ khuyến nông.
Cấp cơ sở: Các tỉnh đã đang xây dựng màng lưới khuyến nông cấp cơ sở

(xã thơn bản) cịn rất nhiều vấn đề nan giải nhất là nguồn kinh phí để trả cho đội
ngũ khuyến nông viên cơ sở.
Bên cạnh hệ thống khuyến nông nhà nước có một số tổ chức khuyến nơng
tự nguyện của các cá nhân tổ chức như: Viện nghiên cứu, trường, trung tâm, các
cơ sở sản xuất giống, tổ chức quốc tế phi chính phủ…
2.2.2.3. Nội dung hoạt động khuyến nơng ở Việt Nam hiện nay.
+ Những nội dung chính của hoạt động khuyến nông ở Việt Nam hiện nay.
- Phổ biến thông tin về những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến,
những kinh nghiệp điều chỉnh trong các lĩnh vực Nông - Lâm - Ngư nghiệp và
phát triển nông thôn.
- Bồi dưỡng và phát triển kiến thức quản lý kinh tế cho nông dân, cung
cấp thông tin về thị trường giá cả nông sản.
- Dịch vụ giống, vật tư kỹ thuật để xây dựng mơ hình.
-

Hộ trợ hệ thống dịch vụ vốn

Các hoạt động cụ thể:
- Tập huấn những tiến bộ kỹ thuật cho nông dân
- Xây dựng mơ hình trình diện


21

- Tổ chức tham quan, hội thảo đầu bờ cho nông dân
- Tuyên truyền kiến thức và kinh nghiệm khuyến nông, khuyến lâm trên
các phương tiện thông tin đại chúng.
- Xuất bản và phát hành đến người dân các ấn phẩm khuyến nông như:
Sách, tranh ảnh, tờ rơi …
Trong thời gian qua khuyến nông viên tập trung và chuyển giao kỹ thuật, xây

dựng mơ hình, tun truyền kiến thức và kinh nghiệm khuyến nông trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Các nội dung khác chưa thực hiện được nhiều hoặc hình thức
chưa phù hợp, cần được thay đổi
2.2.2.4. Xu hướng tiếp cận trong khuyến nông ở Việt Nam
+ Tiếp cận phát triển kỹ thuật cùng tham gia
Cách tiếp cận này nhằm lôi cuốn nông dân vào việc phát triển các kỹ thuật
Nông - Lâm -Ngư nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể của họ. Người nông dân là
“người bên trong” dùng những kiến thức và khả năng thực tế của họ để kiểm tra các
kỹ thuật và phối hợp với các cán bộ nghiên cứu và cán bộ khuyến nơng - những
“người bên ngồi”. Theo cách này người nơng dân và những người thúc đẩy bên
ngồi có thể xác định, phát triển, kiểm tra và áp dụng những cơng nghệ mới.
Cách tiếp cận này dựa trên cách nhìn hoàn toàn mới về kiến thức. Kiến
thức bản địa của người nông dân được hiểu là cũng rất quan trọng như bất kì kiến
thức nào do khoa học tạo ra. Tuy nhiên hai loại kiến thức này rất khác nhau, vì
thế cần làm sao để có được tác động qua lại có tính sáng tạo giữa kiến thức kinh
nghiệm thơng tin của người nông dân với những điều mà nhà nghiên cứu đã được
đào tạo một cách khoa học.
+ Tiếp cận sinh kế bền vững
Sinh kế bền vững là một cách tư duy về mục tiêu, phạm vi và những ưu
tiên cho phát triển nhằm đẩy nhanh tiến độ phát triển nơng thơn, xố nghèo. Đây
là một phương pháp tiếp cận sâu rộng với mục đích nắm giữ và cung cấp một
phương tiện để tìm hiểu những nguyên nhân và các mặt quan trọng của đói nghèo
với trọng tâm là tập trung vào một số yếu tố như vấn đề kinh tế, an toàn lương


22

thực. Nó cũng cố gắng phác hoạ những mối quan hệ giữa các khía cạnh khác
nhau của các vấn đề trong phát triển nông thôn.
Phương pháp tiếp cận này giúp người dân đạt được những thành quả lâu dài

trong sinh kế mà những kết quả đó được đo bằng các chỉ số do bản thân họ tự xác lập
và vì thế họ sẽ khơng bị đặt ra bên ngồi tiến trình phát triển. Phương pháp này thừa
nhận rằng người dân có những quyền nhất định nhưng cũng có những trách nhiệm
giữa họ với nhau và với xã hội nói chung.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phƣơng pháp chọn mẫu nghiên cứu
* Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng các số liệu để đánh giá thực trạng khuyến nông trong
công tác phát triển NTTS tại huyện Nghi Lộc. Các điều tra nghiên cứu được tiến hành
tại 3 vùng: vùng bán sơn địa, vùng trung tâm, vùng ven biển.
Vùng bán sơn địa có rất nhiều hồ đập lớn nhỏ, người dân tận dụng các hồ đập
thả cá, ngoài ra một số diện tích sản xuất lúa năng suất thấp được chuyển sang ni cá
ruộng.
Vùng trung tâm huyện có địa hình thấp, nguồn nước dồi dào, giao thông đi lại
thuận tiện, thường được Trạm tổ chức các mơ hình, trong đó có mơ hình NTTS
Vùng ven biển bao gồm các xã ven biển, đây là vùng phát triển NTTS mặn lợ,
hiện nay chủ yếu nuôi tôm he chân trắng, nuôi tôm sú.
Ở mỗi vùng ta chọn một xã bằng phương pháp ngẫu nhiên, chọn ra 3 xã là
Nghi Kiều, Nghi Hoa, Nghi Hợp.
* Phương pháp chọn đối tượng nghiên cứu.
Với đối tượng là cán bộ khuyến nông, cán bộ thuỷ sản, việc thực hiện phỏng
vấn sử dụng bảng hỏi, bao gồm:
- Cán bộ khuyến nông huyện (Trạm khuyến nông Nghi Lộc).
- Cán bộ thuỷ sản phòng NN&PTNT Nghi Lộc.
- Cán bộ khuyến nông xã.
Với đối tượng là các hộ NTTS ở 3 xã đã chọn, tiến hành phỏng vấn bằng phiếu
điều tra hộ NTTS. Các hộ được lựa chọn theo phương pháp ngẫu nhiên.


23


2.3.2. Phƣơng pháp thu thập thông tin, số liệu
* Thu thập thông tin số liệu thứ cấp
Các thông tin, số liệu về điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội của địa
bàn huyện, số lượng, trình độ, các cán bộ khuyến nông huyện, khuyến nông xã, cán
bộ thuỷ sản phịng NN&PTNT, thơng tin về các hoạt động khuyến nông đã, đang
triển khai trong diện NTTS. Thu thập qua các văn bản, báo cáo tổng kết định kì, các
tài liệu của phịng NN&PTNT, phịng thống kê, Trạm khuyến nơng… và các thông
tin thu thập được qua sách báo, internet…
* Thu thập thông tin số liệu sơ cấp
Các thông tin sơ cấp được thu thập bằng phiếu điều tra.
- Điều tra cán bộ khuyến nông huyện, khuyến nông xã, cán bộ thuỷ sản huyện
thông qua bảng hỏi và trao đổi trực tiếp (phụ lục)
- Điều tra các hộ NTTS tại 3 xã Nghi Kiều, Nghi Hoa, Nghi Hợp (phụ lục).
2.4. Phƣơng pháp tổng hợp và xử lý số liệu
Sau khi thu thập số liệu sẽ được tổng hợp xử lý bằng phương pháp thủ cơng và
chương trình Excel.


24

Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội Nghi Lộc

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên
3.1.1.1 Vị trí địa lý
Nghi Lộc là một huyện đồng bằng ven biển, có diện tích tự nhiên là
34.770,43ha. Bao gồm 29 xã và 1 thị trấn, là huyện đồng bằng lớn thứ 3 sau
huyện Quỳnh Lưu, Yên Thành của tỉnh Nghệ An.
Phía Bắc giáp huyện Diễn Châu và n Thành.

Phía Đơng giáp thị xã Cửa Lị và biển Đơng.
Phía Nam giáp thành phố Vinh, huyện Hưng Ngun, Nam Đàn.
Phía Tây giáp huyện Đơ Lương.
3.1.1.2. Địa hình
Địa hình huyện Nghi Lộc đa dạng, có hướng thấp dần từ Tây sang Đơng,
có thể chia thành 2 vùng lớn:


25

Vùng bán sơn địa: Phía Tây và tây Bắc của huyện có nhiều đồi núi cao,
địa hình có độ dốc chênh lệch nhiều do bị chia cắt bởi những khe suối. Tại những
khu vực này có nhiều hồ đập được bà con tận dụng nuôi trồng thuỷ sản.
Vùng đồng màu: Khu vực trung tâm, phía Đơng, Đơng Nam của huyện.
Có địa hình tương đối bằng phẳng, chỉ có ít đồi núi thấp xen kẽ, độc lập. Đây là
vùng có địa hình thấp, nguồn nước dồi dào, thuận lợi cho phát triển nơng nghiệp.
Phía Đơng của vùng sát biển, là vùng NTTS mặn lợ của Nghi Lộc
3.1.1.3. Khí hậu
Nghi Lộc là huyện ven biển của tỉnh Nghệ An, vùng đầu miền Trung nên
khí hậu Nghi Lộc có đặc điểm nhiệt đới ẩm gió mùa.
- Chế độ nhiệt: Có 2 mùa rõ rệt trong năm. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng
9, nhiệt độ trung bình từ 23,5 – 24,50C. Mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 4 năm
sau, nhiệt độ trung bình từ 19,5 – 20,50C.
- Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.900mm, lớn nhất
khoảng 2.600mm, nhỏ nhất 1.100mm. Lượng mưa phổ biến không đều mà tập
trung chủ yếu vào nửa cuối tháng 8 đến tháng 10, đây là thời điểm thường xẩy ra
lũ lụt, lượng mưa thấp nhất từ tháng 1 đến tháng 4 (chỉ chiếm 10% cả năm).
- Chế độ gió: Có 2 hướng gió chính. Gió mùa Đơng Bắc từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau. Gió Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 10 (tháng 6, tháng 7 thường
có gió Lào khơ nóng). Tháng 4, tháng 5 là giai đoạn chuyển mùa nên thường có

mưa tiểu mãn. Tháng 8, tháng 9 thường có bão lốc kèm mưa lớn gây ngập lụt.
Do đặc điểm khí hậu, thời tiết phân theo mùa nên người dân ni trồng
thuỷ sản thường bố trí sản xuất theo mùa vụ, thu hoạch thuỷ sản trước mùa mưa
bão.
3.1.1.4. Đất Đai
Là huyện đồng bằng có diện tích lớn, thành phần đất đai tương đối đa
dạng, có các loại đất: Đất phù sa, đất Feralit, đất mặn, đất cồn cát, đất cát…
Những năm gần đây Nghi Lộc đang tiến hành quy hoạch, chuyển đổi đất
đai để phát triển sản xuất cho cân đối với q trình đơ thị hố, tình hình kinh tế -


×