Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Tài liệu Đề án “Huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí ở Việt Nam giai đoạn hiện nay” doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503 KB, 45 trang )

z
TRƯỜNG
KHOA

X^]W





ĐỀ ÁN



“Huy động vốn đầu tư vào
ngành Dầu khí ở Việt Nam
giai đoạn hiện nay”




















































Phần một: Lời mở đầu

Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá, các nền
kinh tế diễn ra mạnh mẽ, cộng với sự suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu,
sau các sự kiện đầy kịch tính ở Mỹ, Nga, Trung Đông, nước ta cũng không
thể thoát khỏi những thách thức đầy gam go như các nước khác trong khu
vực. Tuy vậy, năm 2002 đã khép lại bằng những thành tựu kinh tế_xã hội mà
Việt Nam đ
ã đạt được trong bối cảnh không ít khó khăn thách thức đó. Nền
kinh tế tiếp tục tăng tưởng với tốc độ khá cao, đạt 7,04%, giá trị sản lượng
công nghiệp tăng 14,5%. Việt Nam đã khẳng định mình là một quốc gia ổn
định trên con đường phát triển và hội nhập. Trong thành tựu chung đó có sự
đóng góp quan trọng của ngành Dầu khí Việt Nam.
Một thực tế là, nhiều năm nay, Dầu khí là mộ
t trong những ngành đầu tư
hấp dẫn nhất. Kim ngạch xuất khẩu Dầu khí chiếm tỷ trọng đáng kể và đóng
góp quan trọng đối với nền kinh tế nhiều nước .Riêng với ngành Dầu khí
Việt Nam, cơ hội đầu tư có nhiều, nhưng vốn đầu tư còn hạn chế. Thêm vào
đó ta nhận thấy ngành công nghiệp Dầu khí thế giới đang đi vào giai đoạn
đỉ
nh để bước sang giai đoạn suy tàn, cuộc khủng bố ở Newyork ngày
11.9.2001 đã mang lại những thay đổi to lớn trong bức tranh địa lý_ chính trị
Dầu khí toàn cầu. Và những gì chúng ta đã và đang thấy trong hoạt động
chính trị- quân sự của Mỹ ở Trung Cận Đông phần nào nói lên tầm quan

trọng của năng lượng Dầu khí.
Trước sự quan trọng như vậy của năng lượ
ng Dầu khí, cùng với một tiềm
năng Dầu khí không phải là ít ở Việt Nam, thì vấn đề đầu tư vào phát triển
ngành Dầu khí ở Việt nam là vấn đề đang được quan tâm. Chính vì lẽ đó, mà
trong bài viết này em xin trình bày về tình hình huy động vốn đầu tư vào
phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam, nhằm đánh giá một cách cụ thể hơn
các hoạt động đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, cũng như
sự
phát triển ngành Dầu khí nước ta giai đoạn hiện nay, để từ đó có những giải
pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí. Đưa
ngành Dầu khí phát triển xứng đáng với tiềm năng sẵn có của đất nước.
Tuy bài viết đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót
và còn nhiều hạn chế, em mong sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết
được hoàn thành tốt hơn.
Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Thạc sỹ:
Trần Mai Hương. Em xin chân thành cảm ơn cô.
Hà Nội: 11.2003.


Nội dung
Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy
động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam.
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “huy động vốn đầu tư cho sự
phát triển ngành Dầu khí”, em xin trình bày những khái niệm cơ bản về đầu
tư, đầu tư cho phát triển và các nguồn vốn cơ bản cần huy động cho công
cuộc đầu tư.
I / Đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
1. Khái niệm về đầu tư, đầu tư phát triển
“Đầu tư là thuật ngữ có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, sự hi

sinh”. Từ đó có thể coi “Đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó ở
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm đem lại cho người đầu tư các kết
quả nhất định trong tương lai l
ớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra.
Các nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động,
tài sản vật chất khác. Còn những kết quả đạt được có thể là tăng thêm tài sản
tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm
việc với năng suất lao động và hiệu suất công tác cao hơn trong nền sản xuất
xã hội.
Những kết quả đã đạt được ở trên đây, những kết quả là tài sản vật chất,
tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi
lúc, mọi nơi, đối với cả người bỏ vốn và nền kinh tế. Những 1kết quả này
không chỉ riêng người đầu tư mà cả nền kinh tế được hưởng.
Trong hoạt động đầu tư có bao gồm
Đầu tư cho tài chính, Đầu tư thương
mại và Đầu tư cho phát triển. Đầu tư vào ngành dầu khí là hoạt động thuộc
thuộc lĩnh vực Đầu tư phát triển.
Vậy Đầu tư cho phát triển là gì?
Đầu tư cho phát triển được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài
chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ nhằm duy trì tiềm
lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh
tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
* Đặc điểm của đầ
u tư phát triển:
Khác với các hoạt động đầu tư khác, Đầu tư phát triển có đặc điểm sau:
Hoạt động Đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, vốn nằm
khế đọng, không vận động suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây chính là cái
giá khá lớn của Đầu tư phát triển.
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầ
u tư cho đến khi các thành quả

của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều thời gian với nhiều biến động
xảy ra.
Thời gian cần huy động đòi hỏi để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với
các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường là lớn và do
đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt (tích cực, tiêu cực) c
ủa các yếu tố
không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế …
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài
nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn
như các công trình nổi tiếng thế giới ( Kim Tự Tháp cổ ở Ai Cập, nhà thờ La
Mã ở Rome, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Đền AngcoVat của
Campuchia ). Điề
u này nói lên giá trị của các thành quả Đầu tư phát triển.
Các thành quả hoạt động Đầu tư phát triển là công trình xây dựng sẽ hoạt
động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng. Do đó các điều kiện về địa lý, địa
hình nơi đầu tư sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như
tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
M
ọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng
nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện pháp lý của
không gian.
Từ những đặc điểm trên, ta thấy Đầu tư phát triển không những tác động
đến nền kinh tế mà còn tác động đến toàn bộ xã hội. Vì vậy mà Đầu tư phát
triển có những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội
nói chung.
* Vai trò của Đầu tư phát triển:
Các nhà kinh tế đều cho rằng Đầu tư phát triển là chìa khoá của sự tăng
trưởng. Vai trò này được thể hiện ở các mặ
t sau:
Thứ nhất: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước:

+ Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực
mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên
(đường S dịch chuyển sang đường S’), kéo theo sản lượng tiềm năng t
ừ Q1
đến Q2 và do đó giá cả sản phẩm từ P1 đến P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm,
cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích
sản xuất hơn nữa sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ,
phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.
Về mặt c
ầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của
toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường
chiếm khoảng 24% - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế
giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa
kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch
sang D’) kéo theo lượng cân bằng tăng theo từ Qo đến Q1 và giá cả của các
đầu vào của đầu tư tăng từ Po đến P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo đến
E1.
Sự tác động của đầu tư đến cung, cầu được thể hiện qua mô hình sau:






D’
D
E2
E1

S
S’
Eo
Qo
Q1
Q2
Po
P2
P1
Q
P


Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế:
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu
và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù
là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là
yếu tố
phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
+ Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất
nước:
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta
hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ
công nghệ
của Việt nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO,
nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới ra làm 7 giai đoạn thì Việt
nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Chúng ta đều biết rằng có hai con
đường cơ bản để có công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập
từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. M

ọi phương án
đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không
khả thi.
+ Đầu tư và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có
thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo
ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghi
ệp và dịch vụ.
Đối với các ngành nông – lâm nghiệp, thuỷ hải sản do những hạn chế về
đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% - 6% là
rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng nhanh của toàn bộ
n
ền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt cân đối về
phát triển giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát
khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài
nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển
nhanh, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
+ Đầu tư tác động đến tốc độ tă
ng trưởng và phát triển nền kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ phát
triển ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15% - 20% so với GDP,
tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước


ICOR = => Mức tăng GDP =

Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu
tư.

Thứ hai: Xét trên giác độ các đơn vị kinh tế của đất nước, Đầu tư phát
triển có những vai trò sau:
+ Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra
đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳ
ng hạn, để tạo dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà
xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ,
tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn
với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở v
ật chất kỹ thuật vừa được
tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ đang tồn tại, sau một thời
gian hoạt động, các cơ sở vật - chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn hư
hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành s
ửa
chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn
hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển
khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, mua sắm
các thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thờ
i, cũng có nghĩa
là phải đầu tư.
+ Đối với các cơ sở vô vị lợi, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành
sửa chữa lớn định kỳ, các cở sở vật chất - kỹ thuật còn phải thực hiện các chi
phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt
động đầu tư.

Vốn đầu tư


Mức tăng GDP


Vốn đầu tư


ICOR

Như vậy : Đầu tư có một vai trò vô cùng to lớn đối với toàn bộ sự phát
triển của một quốc gia. Muốn hoạt động đầu tư ta cần có vốn đầu tư. Vậy
vốn là gì? Vốn huy động từ đâu?

2. Vốn và nguồn vốn
* Khái niệm về vốn:
Xét một phương diện tổng quát nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để
chỉ
các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư kinh tế đáp ứng nhu
cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn
đầu tư trong nước và nguồn đầu tư nước ngoài.
Nếu chỉ xét theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng thì vốn đầu tư là
tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ, là tiền
ti
ết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử
dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo
ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
* Các nguồn vốn cơ bản:
Có rât nhiều cách phân chia các nguồn vốn huy động vào hoạt động đầu
tư phát triển kinh tế. ở đây tôi xin đưa ra một cách phân chia nguồn vốn huy
động, mà ta s
ẽ dựa vào các nguồn này để xem xét vấn đề huy động vốn vào
ngành đầu khí ở phần sau. Đó là cách phân chia nguồn vốn huy động căn cứ
vào quyền sở hữu nguồn vốn. Có 3 nhà sở hữu vốn ở đây là:

+ Sở hữu của nhà nước (bao gồm ODA)
+ Sở hữu của tư nhân (chủ yếu doanh nghiệp tư nhân)
+ Sở hữu của nước ngoài (chủ yếu FDI)
Đối vớ
i nguồn vốn thuộc sở hữu của nhà nước bao gồm nguồn vốn của
ngân sách nhà nước (trong đó bao gồm cả nguồn vốn viện trợ phát triển
chính thức – ODA từ các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi
chính phủ thực hiện dưới hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ
không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài, lãi suất thấp và hai nguồn
vốn nữa là nguồn vốn tín dụng và nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước : Là nguồn chi của ngân sách nhà nước
cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn này thường được sử dụng cho
các dự
án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, hỗ trợ cho
các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của nhà nước,
chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Cùng với quá trình
đổi mới và mở cửa, tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng
vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nếu như trước năm
1990, vốn tín dụng Đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như
một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991- 2000
nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầ
u có vị trí quan
trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ.
Nguồn vốn tín dụng của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm
đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn
vị sử dụng vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư

phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, s
ử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng của
nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách
sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực
tiếp.
Nguồn vốn đầu tư từ Doanh nghiệp nhà nước(DNNN): Được xác định là
thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các DNNN vẫn nắm giữ
một khối lượng nhà nước khá lớn. Theo báo cáo tổng kết tổng kiểm kê tài
sản và xác định lại giá trị tài sản DNNN tại thời điểm 0h ngày 1 tháng 1 năm
2000 tổng nguồn vốn chủ sở hữu tại các DNNN là: 173857 tỷ đồng. Mặc dù
vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực
kinh tế nhà nước với sự tham gia của các DNNN vẫn đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Nguồn vốn thuộc sở hữu của tư nhân: Bao gồm phần tiết kiệm của dân
cư, phần tích luỹ của các DN dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ
bộ, khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở
hữu một lượng vốn tiềm năng rất
lớn mà chưa được huy động triệt để. Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng
nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái
phiếu của chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc
doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ
đồng và hàng chục tri
ệu USD từ khu vực dân cư.
Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn
lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh
nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Hàng chục ngàn
doanh nghiệp được thành lập mới với số vốn hàng chục ngàn tỷ đồng( chỉ
riêng 8 tháng đầu năm 2001có khoảng 11 ngàn doanh nghi
ệp mới được
thành lập với số vốn 13000 tỷ đồng)

Nguồn vốn đầu tư trực trực tiếp nước ngoài (FDI).
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với
các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Theo số liệu của
ngân hàng thế giới (WB) trong năm 1999 toàn bộ các nước đang phát triển
chỉ thu hút được 165 tỷ USD vốn FDI, thì chỉ riêng M
ỹ đã thu được
mức132,8 tỷ USD.
Nguồn FDI có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác
là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận.
Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi
nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả FDI mang theo
toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào các nước nhậ
n đầu tư vốn nên nó có thể
thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về
kỹ thuật, công nghệ, hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng
cực kỳ to lớn với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư.
Đối với Việt Nam, sau hơn 10 năm thực hiện chính sách mở cửa, nguồ
n
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần bổ sung vốn quan trọng cho đầu
tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện Tính từ năm 1988 đến năm
2000 trên phạm vi cả nước đã có 3251 dự án được cấp phép với tổng số vốn
đăng ký là 44587 triệu USD cho đến nay, Vi
ệt Nam đã thu hút được 65 quốc
gia và vùng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư.
Đánh giá về tỷ trọng các nguồn vốn so với tổng đầu tư toàn xã hội ta xem
xét qua bảng số liệu sau đây:

Bảng 1: Cơ cấu tổng đầu tư xã hội (% giá hiện hành )

1998 1999 2000 2001 2002
Tæng vèn 100 100 100 100 100
I.Vèn Nhμ n−íc 53.97 61.6 61.94 24.7 22.6
1. Vèn ng©n s¸ch Nhμ n−íc 22.82 25.02 23.22 24.7 22.6
2.Vèn tÝn dông 10.49 18.29 20.48 14.4 10.9
3.Vèn cña c¸c doanh nghiÖp 20.66 18.29 18.24 19.3 18.8
II.Vèn ngoμi quèc doanh 21.06 20.21 19.49 23.5 28.8
III.V èn ®Çu t− trùc tiÕp n−íc ngoμi 24.97 18.19 18.57 18.3 18.8

Năm 2002 tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 180,4 nghìn tỷ đồng, đánh giá
mốc cao nhất từ trước tới nay về tỷ lệ tổng vốn đầu tư so với GDP (33,7%).
Đầu tư năm 2002 đã vượt mức 4% mục tiêu kế hoạch đã được quốc hội
thông qua và tăng 10,3% so với năm 2001.
Năm 2002 đầu tư Nhà nước chiếm 52,3% tổng đầu tư xã hội. N
ăm 2001,
vốn tín dụng của nhà nước ước thực hiện chỉ đạt 83,4% so với mục tiêu kế
hoạch. Nguyên nhân chủ yếu là do vốn hỗ trợ phát triển chính thức( ODA)
được giải ngân đạt 1,58 tỷ USD, chỉ bằng 88% kế hoạch. Đầu tư nhà nước
tuy vẫn là nguồn quan trọng nhất, song đã có xu hướng giảm dần xét trong tỷ
trọng vốn đầu tư xã hội (bảng1). Hơn nữa, mức giảm tỷ trọng vốn đầu tư
ngân sách Nhà nước cho thấy giới hạn của nhà nướ
c trong việc tăng đầu tư
từ ngân sách cả về con số tuyệt đối và tương đối (xét trong tương quan giữa
thu và chi, giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển).
Năm 2002, đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tiếp tục tăng
mạnh, đạt 28,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, mức kỷ lục từ trước tới nay.
Mức đóng góp của vốn FDI thực hiệ
n xét theo tỷ trọng trong tổng số vốn
đầu tư toàn xã hội đã có bước sụt giảm đáng kể sau năm 1998 và hầu như
không đổi trong những năm 1999-2000. Xu hướng này còn có thể tiếp tục vì

vốn FDI cam kết cũng đang có xu hướng giảm.
Xu hướng suy giảm FDI diễn ra trong tình hình Việt Nam được xem là
quốc gia ổn định nhất trong khu vực và Việt Nam đã thực hiện nhiêu biện
pháp để cải thiệ
n môi trường cho Đầu tư Nhà nước kể từ năm 2000. Rõ ràng
những nỗ lực vừa qua là chưa đủ hấp dẫn FDI. Những vấn đề đang cản trở
thu hút FDI vẫn được các nhà Đầu tư Nhà nước liệt kê là: quy trình, thủ tục
hành chính rườm rà và tệ nạn tham nhũng, các hệ thống văn bản pháp luật
chưa đồng bộ và thiếu minh bạch, quy chế hai giá và chi phí dịch vụ hạ tầng
hỗ trợ sản xuất kinh doanh đắt đỏ, thuế thu nhập cá nhân quá cao, quy định
về tuyển dụng lao động cứng nhắc, tổ chức xúc tiến đầu tư chưa hiệu quả.
Nhiều tắc trách, thiếu nhất quán và mâu thuẫn trong xử lý các vấn đề phát
sinh cả đối với FDI và đầu tư.
Các hình thức huy động vốn nói chung:
Hiện nay có rất nhiều hình thức huy động vốn thích hợp trong các điề
u
kiện nhất định, vì vậy, có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau đối với các
nhu cầu khác nhau về vốn. Ta có thể xem xét các hình thức khá phổ biến
như sau : Huy động vố thông qua ngân hàng, các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, thị trường chứng khoán, nguồn tín dụng phi chính thức. Ngoài ra hình
thức huy động vốn theo dự án, phát hành trái phiếu công trình đối với các dự
án lớn cũng là phương thức huy động vốn đáng chú ý.
+ Huy động vốn thông qua các tổ chức ngân hàng.
Đây là hình thức huy động vốn phổ biến nhất đối với nhu cầu vốn ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn. Tuy nhiên hiện nay huy độ
ng vốn trung và dài hạn
qua ngân hàng còn hạn chế, do rất nhiều nguyên nhân. Do đó, bên cạnh
nguồn vốn huy động dưới dạng tín dụng ngân hàng, có thể huy động thêm
vốn của ngân hàng dưới dạng góp vốn ( vốn cổ phần ), theo quyết định mới
đây của ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cách huy động này ngoài tác dụng

đáp ứng nhu cầu về vốn, còn tạo nên sợi dây gắn bó ngân hàng và nhà đầu
tư, do đó giảm bớt độ rủi ro trong ho
ạt động tín dụng của ngân hàng và tăng
cơ hội vay vốn trung và dài hạn của các nhà đầu tư.
+ Huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu bao
gồm các công ty tài chính và các công ty bảo hiểm hoạt động khá khiêm
tốn,phạm vi hẹp, đối tượng phục vụ có giới hạn. Tuy vậy đây là hình thức
huy động vốn mà các nhà đầu tư bắt đầu quan tâm, do đó cầ
n có những
thông tin phổ biến hơn về các điều kiện huy động vốn từ các tổ chức trên, để
đa dạng hoá nguồn vốn nhằm tăng khả năng đảm bảo nhu cầu về vốn, đồng
thời là tăng tính cạnh tranh giữa các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng.
Một trong những hình thức huy động qua các công ty tài chính rất đáng quan
tầm là hình thức tín dụng thuê mua. Tuy nhiên,cần xem lại thủ tục và lãi suấ
t
của tín dụng thuê mua để tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
+ Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán.
Thị trường tài chính thứ cấp ở nước ta còn kém phát triển, mặc dù thị
trường chứng khoán đã hoạt động từ tháng 7 năm 2000, nhưng quy mô hoạt
động còn nhỏ bé, dung lượng giao dịch không đáng kể, hơn nữa phần lớn
mang tính chất thu lợi ngắn hạn. Vì vậy theo em trong tương lai gần khó có
thể coi đây là hình thức huy động vốn nhiều Ưtiĩutytuy vọng. Mặc dù vậy thị
trường tài chính vẫn là một kênh dẫn vốn quan trọng và tạo điều kiện luân
chuyển vốn dễ dàng hơn, đặc biệt có tác động tới hình thức đầ
u tư dưới dạng
góp vốn.
+ Huy động vốn thông qua hình thức tài trợ theo dự án.
Để tăng nguồn vốn cho các dự án, các nhà đầu tư nên sử dụng rộng rãi
hơn hình thức tài trợ theo dự án, bao gồm phát hành trái phiếu theo các công

trình để huy động vốn. Hình thức này rất có lợi do mang tính độc lập tương
đối đối với các kết quả hoạt động khác các ngành cần vốn lớn, nhưng đã vay
nợ nhiề
u nên không thể huy động thêm vốn theo cách thông thường. Tuy
nhiên, đây là hình thức đòi hỏi có sự hỗ trợ của các tổ chức tín dụng, đồng
thời phải được chuẩn bị chu đáo để tạo lập uy tín cho dự án và tăng cường
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng phi chính thức.
Mặc dù nguồn vốn phi chính thứ
c coi như là nguồn vốn không được kiểm
soát và không được khuyến khích. Tuy vậy không thể phủ nhận một thực tế
là hình thức huy động không chính thức này hiện nay khá hấp dẫn. Điều đó
là do tính đơn giản trong việc huy động vốn, chi phí giao dịch thấp. Đây
cũng là một cách làm rất có hiệu quả để huy động các nguồn vốn đa dạng
còn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư theo hình thức tài trợ
trực tiếp.
II. Đặc điểm của ngành dầu khí và vấn đề huy động vốn đầu tư
vào ngành dầu khí.
1.Đặc điểm của ngành dầu khí.
“Dầu khí là thuật ngữ gọi tắt cho “dầu mỏ” và “khí đốt”. Chúng là những
hợp chất hữu cơ tự nhiên. Riêng khí đốt còn gọi là khí tự nhiên. Khí này tồn
tại cùng với dầu thô gọi là “ khí đồng hành”. Dầu khí không chỉ là nhiên liệu
mà còn là nguyên liệu nên nó ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế thế giới.
Khác với than đá, hay các khoáng sản khác, việc thăm dò – khai thác chế
biến phân phối dầu thô đã rất nhanh chóng mang tính toàn cầu. Do đó về mặt
công nghệ, trình độ công nghiệp dầu khí ở tất cả các nước đều gần như nhau,
không phân biệt đó là nước phát triển cao hay lạc hậu.
Ngành dầu khí là ngành công nghiệp bao gồm rất nhiề
u công đoạn không
những thăm dò, khai thác mà còn phải chế biến từ dầu thô trở thành dầu tinh.

Theo thông lệ, ngành dầu khí được chia là ba nhóm loại hình hoạt động gọi
là thượng nguồn, trung nguồn, và hạ nguồn. Nhóm thượng nguồn gồm các
hoạt động nghiên cứu địa chất, tìm kiếm, thăm dò, khai thác mỏ. Nhóm
trung nguồn gồm các hoạt động tàng trữ vận chuyển, và nhóm hạ nguồn gồm
các hoạt động xử lý, ch
ế biến ( lọc dầu, hoá dầu, hoá khí ) và phân phối. Ba
nhóm này có những đặc điểm riêng nhưng gắn kết với nhau tạo thành một
vòng khép kín của một ngành công nghiệp hoàn chỉnh.
Trong ngành công nghiệp dầu khí để khai thác được một tấn sản phẩm thì
phải mất nhiều năm từ việc thăm dò khai thác, khảo sát địa chất công trình,
thẩm định trữ lượng, đánh giá tiềm năng, phát triển đưa mỏ vào khai thác
cũng phải qua rất nhiều công đoạn. Thêm vào đó điều kiện địa lý thiên nhiên
ngày càng xấu đi, việc khai thác vận chuyển đòi hỏi chi phí tăng nhanh. Nói
cách khác, đối với ngành dầu mỏ càng khai thác được nhiều thì ngày càng
khó khai thác. Một vấn đề nữa của ngành dầu khí là công nghệ rất hiện đại,
vốn đầu tư cực kỳ lớn, rủi ro cao, lợi nhuận nhiều và tính quốc tế cao. Vì các
đặc
điểm đó mà cho đến giữa thế kỷ 20, ngành này hoàn toàn nằm trong tay
các nước phát triển cao, cùng các tập đoàn siêu quốc gia mang tính độc
quyền. Cho nên các quốc gia đang phát triển dù có một tiềm năng lớn về tài
nguyên dầu khí thì vấn đề phát triển dầu khí vẫn còn khó khăn.
2/ Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam
Từ nhiều năm nay dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn nhất.
Kim ngạch xuất khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng góp quan trọng
đối với nền kinh tế nước. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, đặc
biệt là trong môi trường thềm lục địa và tiềm năng dầu khí của Việt Nam, cơ
hội đầu tư có nhiều nhưng vố
n đầu tư có hạn. Vì vậy vấn đề huy động vốn
đầu tư vào phát triển ngành dầu khí không những phục vụ cho lĩnh vực thăm
dò khai thác dầu thô, mà điều quan trọng nữa là chúng ta cần vốn để trang bị

công nghệ, kiến thức tơi tinh lọc dầu. Khi đó mới hy vọng đất nước đi theo
con đường CNH-HDH mà ngành dầu khí là ngành dẫn đầu.
Nếu đặt nền kinh tế Việt Nam trong qu
ỹ đạo kinh tế thế giới: ta thấy hiện
nay năng lượng và nhiên liệu luôn được coi là đầu tàu cho sự phát triển kinh
tế-xã hội, vậy mà vẫn chưa tìm ra một năng lượng, nhiên liệu nào thay thế
than, dầu khí. Dự báo trong vòng 15 năm tơi tiêu thụ dầu mỏ trên toàn thế
giới sẽ đạt mức cao nhất, khoảng 90-95 triệu thùng/ngày, so với hiện tại là
70-77 triệu thùng. Sau đó sẽ giảm dần vì khai thác giảm
đi, giá dầu tăng vọt,
các nước có thể rơi vào khủng hoảng năng lượng. Thực tế là hiện nay, giá
dầu thô tăng kỷ lục. Ngày 14/2/2000, giá dầu trên thị trường NewYork tăng
vượt quá mức giá 30USD/ thùng tại thời điểm này năm 1999. Đây là mức
giá cao nhất kể từ cuộc chiến tranh vùng vịnh 1991. Nguyên nhân khiến cho
giá dầu tăng mạnh là do tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu đã
đẩy mạnh nhu
cầu sử dụng dầu thô, đặc biệt là ở châu á và Nhật Bản. Dự báo giá dầu thô
vẫn có thể tăng trong thời gian tới.
Chính vì nhu cầu dầu trên thế giới ngày một tăng lên Việt Nam cần có sự
ưu tiên trong vấn đề khai thác dầu khí, nguồn năng lượng mà thiên nhiên ban
tặng.
Một thực tế ở Việt Nam hiện nay trong vấn đề phát triển ngành dầu mỏ
là: Chúng ta chỉ mớ
i tập trung thăm dò và khai thác dầu khí, còn khâu chế
biến thành dầu tinh hầu như ta chưa có khả năng. Một trong những nguyên
nhân của vấn đề này là ta chưa có nguồn vốn đủ lớn để tập trung công nghệ
và trí tuệ chế biến dầu tinh. Mặt khác nếu chỉ riêng vấn đề khai thác thăm dò
và khai thác chúng ta vẫn gặp nhiều trở ngại do thiếu vốn, thiếu máy móc
thiết bị. Vì vậy việc huy động vốn vào ngành dầu khí là việc cần thiết.


Chương II : Thực trạng và giải pháp huy động vốn đầu
tư vào ngành Dầu khí ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.

I/ Thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt
Nam.
1/ Tình hình phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam những năm qua.
Ngành dầu khí Việt Nam đến nay về cơ bản đã được xây dựng gần hoàn
chỉnh, bao gồm các hoạt động đầu tư thượng nguồn đến hạ nguồn. Các tổ
chức được xếp vào ngành này hiện ở Việt Nam là:
1. Tổng công ty dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam)
2. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (PetroLimex)
3. Công ty xăng dầu hàng không (Vinapco)
4.
Công ty dầu khí TPHCM (Saigon Petro)
5. Công ty dầu khí Hà nội (Hanoi Petro)
Trong các tổ chức kể trên chỉ có tổng công ty dầu khí Việt Nam với tiền
thân của nó là “ Tổng cục dầu khí Việt Nam “ hoạt động trong tất cả các
khâu từ nghiên cứu tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, tàng trữ, kinh
doanh dầu thô, khí đốt và sản phẩm dầu khí, dịch vụ dầu khí.
Một thực tế là Việt Nam có một tiềm năng dầu khí không phải là nhỏ.
Cùng với việc công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước, ngành dầu khí Việt
Nam cũng từng bước phát triển. Từ chỗ phải nhập từng lít dầu hoả để thắp
đèn, sau 27 năm thành lập, Tổng cục dầu khí Việt Nam đã đưa ngành công
nghiệp dầu khí Việt Nam phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Theo
thống kê của thế giới, nước ta được xếp hạng thứ 35 từ năm 2001 và năm
2002 được nâng thứ 31 trong danh sách các nước sản xuất dầu khí. Như vậy
trong 27 năm từ khi được thành lập đến nay, ngành dầu khí Việt Nam đã có
những bước phát triển to lớn, là một trong những ngành kinh tế hàng đầu của
đất n
ước, đóng góp đáng kể cho nguồn thu ngân sách của quốc gia, phục vụ

Tích cực cho công cuộc phát triển và đổi mới nền kinh tế Việt Nam.
Ta xem xét tình hình phát triển của ngành dầu khí Việt Nam qua các lĩnh
vực như sau:
Về hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí:
“ở hoạt động tìm kiếm thăm dò” với phương châm chủ yếu là phát huy
Nội lực, kết hợp tăng cường hợp tác quốc tế
, thu hút đầu tư về khoa học và
công nghệ của nước ngoài. Hiện nay, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đang
quản lý giám sát và tham gia hoạt động điều hành 19 hợp đồng trong giai
đoạn tìm kiếm thăm dò, nghiên cứu TM và chuẩn bị phát triển.
Bên cạnh đó, PetroVietnam đã triển khai nhiều dự hợp tác nghiên cứu,
Khảo sát khu vực với các công ty dầu khí nước ngoài để đánh giá tiềm năng
dầu khí tổng thể củ
a Việt Nam, quy hoạch khí tổng thể, nghiên cứu địa lý,
vật lý vùng thềm lục địa Việt Nam Tổng công ty đã triển khai một số đề án
độc lập đạt kết quả tốt, khẳng định trình độ, khả năng quản lý và điều hành
của mình.
Theo kết quả nghiên cứu, khảo sát thu thập được tiềm năng dầu khí của
Việt Nam dự báo có khoảng 3-3,5 tỷ tấn dầu quy
đổi. Cho đến nay công tác
tìm kiểm thăm dò khai thác dầu khí mới được thực hiện trên 30% diện tích
vùng biển Việt Nam, phát hiện xác minh khoảng 30-35% trữ lượng báo, đảm
bảo cho khai thác với sản lượng 22-24 triệu tấn quý đầu vào năm 2005.
“ở hoạt động khai thác dầu khí” của Tổng công ty dầu khí Việt Nam
Được duy trì tại 6 mỏ: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông, PM3 và
Ruby. Toàn ngành đã đặt mức khai thác 100 triệu tấn dầu vào ngày
13/2/2001. Sản lượng khai thác của xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro năm
2001 đạt 13,46 triệu tấn bằng 105,15% kế hoạch năm.
“Về công nghiệp khí”: Được triển khai tích cực theo quy hoạch tổng thể
Sử dụng khí, nhiều dự án khí sẽ phát huy hiệu quả ngay trong giai đoạn

2001-2005. Hệ thống đường ống dẫn khí đồng hành vận hành ổn định công
Suất cấp khí đạt 4,8-5,3 tri
ệu m
3
/ ngày. Năm 2001 đã đưa vào bờ trên 1,7 tỷ
m
3
khí đồng hành. Đề án Nam Côn Sơn chính thức phát động cuối tháng
5/2001, hiện đang được triển khai khẩn trương để hoàn thành công trình vào
cuối năm 2002. Dự án đường ống dẫn khí PM3-Cà Mau nhà máy Đạm và
nhà máy Điện Cà Mau đang triển khai các công tác chuẩn bị.
Về lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Trong điều kiện chưa có được nhà máy
lọc dầu và một liên hợp lọc hoá dầu hoàn chỉnh. Tổng công ty Dầu khí Việ
t
Nam đã triển khai kế hoạch phát triển ngành công nghiệp hoá dầu theo
hướng nhập nguyên liệu trung gian từ nước ngoài để chế biến và sản xuất
các sản phẩm hoá dầu, sau đó dần dần phát triển và tiến tới chuyển sang sử
dụng nguyên liệu trong nước tạo thành một chu trình khép kín từ khâu lọc
dầu đến hoá dầu.
Về các dịch vụ kỹ thuật dầu khí: Trong những năm gần
đây, Tổng công
ty Dầu khí Việt Nam đã đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển các dịch vụ
kỹ thuật chuyên ngành và dịch vụ phục vụ sinh hoạt hết sức đa dạng với quy
mô từ thấp đến cao, từng bước vươn lên cung cấp các dịch vụ có hàm lượng
công nghệ cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, mở rộng ra thị trường khu vực và quố
c
tế. Mức tăng trưởng của lĩnh vực dịch vụ dầu khí trong giai đoạn 1996-2000
đạt từ 15-20%/năm, doanh số thực hiện khoảng 3000 tỷ đồng.
Về công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ:
Trong nghiên cứu khoa học; giai đoạn 1996-2000 Tổng công ty Dầu khí

Việt Nam đã thực hiện được 150 đề tài. Nhiều đề án trong lĩnh vực nghiên
cứu địa chất, dầu khí, công nghệ trong các lĩnh vực khoan và khai thác, kỹ
thuật an toàn, bảo vệ môi trường được đánh giá cao.
Đội ngũ cán bộ khoa học, các nhà quản lý, kỹ sư, công nhân lành nghề
của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đang tự khẳng định năng lực của mình,
đảm nhiệm hầu hết các khâu quan trọng của ngành công nghiệp dầu khí.
Tổng số cán bộ công nhân viên ngành dầu khí đến nay khoảng 14000
người, t
ỷ lệ cán bộ khoa học công nghệ và công nhân kỹ thuật là khá cao
(chiếm 83%).
2/ Quy mô và tốc độ huy động vốn vào ngành Dầu khí ở Việt Nam.
Từ nhiều năm nay, dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn
nhất. Kim ngạch xuất khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng góp quan
trọng đối với nền kinh tế nhiều nước. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác
dầu khí, đặ
c biệt là trong môi trường thêm lục địa và tiềm năng dầu khí của
Việt Nam cơ hội đầu tư có nhiều nhưng vốn đầu tư của ta có hạn. Tuy vậy,
đến nay vốn đầu tư vào ngành dầu khí đã đạt mức độ đáng kể.
 Ta xem tổng vốn đầu tư vào ngành khai thác mỏ, cớ cấu nguồn vốn
thuộc khu vực Nhà nước và nguồn vốn không thuộc khu vự
c Nhà nước ( bao
gồm vốn khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài).
Qua bảng số liệu các năm sau:

Bảng 2:
(Nguồn niên giám thống kê 2001).






Tổng vốn đầu tư Vốn thuộc khu
vực Nhà nước
Vốn ngoài quốc
doanh

Năm
Tỷ
đồng

cấu(%)
Tỷ
đồng

cấu(%)
Tỷ
đồng

cấu(%)
1995 3645 100 1089.8 30 2555.2 70
1996 3788.7 100 1458.8 38.5 2329.9 61.5
1997 4374.6 100 1789.5 40.9 2543.1 59.1
1998 3735.5 100 2492.1 66.7 1243.4 33.3
1999 3688.6 100 2864.5 77.66 824.1 22.34
2000 3737.7 100 2778 74.32 959.7 25.68
Giá
thực
tế
2001 4140 100 3080 74.4 1060 25.6
1995 3255.4 100 973 29.9 2282.4 70.1

1996 3221.7 100 1263.4 39.2 1958.3 60.8
1997 3576.8 100 1463.2 40.9 2113.6 59.1
1998 2900.5 100 1935.1 66.7 965.4 33.3
1999 2808.3 100 2180.6 77.6 6282 22.4
2000 2845.3 100 2114.7 74.3 730.6 25.7
Giá
thực
tế
2001 3143.4 100 2338.6 74.4 804.8 25.6

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy: Tổng vốn đầu tư vào ngành khai thác có xu
hướng ổn định đến năm 2001 đã tăng nhanh cho thấy đầu tư vào ngành dầu
khí ngày càng hấp dẫn. Riêng khu vực nhà nước những năm 1995, 1996,
1997 đầu tư vào ngành còn thấp, nhưng đến năm 2001 đã tăng lên nhanh
chóng, cho thấy rằng ngành dầu khí ngày càng được nhà nước quan tâm đầu
tư phát triển, nhất là lĩnh vực khai thác mỏ.
Nhìn chung, ngành dầu khí ngày càng thu hút các nhà đầ
u tư, đầu tư vào
ngành từ lĩnh vực tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí đến lĩnh vực chế biến,
lọc hoá dầu.
Nếu năm 2000 tổng vốn đầu tư vào ngành dầu khí là 4200 tỷ đồng, thì
năm 2001 tăng lên 5600 tỷ đồng và năm 2002 ước tính trên 700 tỷ đồng,
trong đó, vốn ngân sách lấy từ phần lãi dầu được để lại chiếm 25%, vốn vay
các loại 63% và vốn tự bổ sung 12%.
Một ngành công nghiệp muốn phát triển, nhất là ngành công nghiệp mũi
nhọn như ngành dầu khí rất cần nguồn vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài.
Và thực tế, những năm gần đây để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài,
pháp luật Việt Nam đã thông thoáng đối với đầu tư nước ngoài nên vốn FDI
vào lĩnh vực dầu khí tăng nhanh. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư,

vốn FDI thực hiện trong năm 2002 dạt 2345 triệu USD, tăng 2% so với năm
2001. Trong số các ngành kinh tế, ngành công nghiệ
p dầu khí có số vốn trực
tiếp thực hiện lớn nhất, đạt gần 1 tỷ USD do có nhiều hợp đồng thăm dò khai
thác dầu khí chuẩn bị phát triển mỏ và do dự án đường ống dẫn khi Nam
Côn Sơn với vốn đăng ký 581 triệu USD đi vào giai đoạn kết thúc.
Như vậy: Nguồn vốn huy động được vào ngành dầu khí ở Việt Nam
trong thời gian qua là những con số không nhỏ, từ
đó đã mang lại những kết
quả khả quan trong ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp dầu
khí nói riêng. Song ngành dầu khí như ta đã thấy đặc điểm của công nghiệp
dầu khí là cần vốn lớn, chịu nhiều rủi ro, hơn nữa Dầu khí còn là ngành công
nghiệp mũi nhọn của Việt Nam và tiềm năng vốn có của thiên nhiên ban
tặng. Việt Nam trong thế kỷ 21 này cần có nhiều biện pháp để huy động vố
n
vào ngành dầu khí.
II/ Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí
ở Việt Nam thời gian qua:
1./ Những kết quả đạt được:
Trong thời gian qua, ngành dầu khí đã được đầu tư phát triển, nguồn vốn
đầu tư vào không phải là nhỏ. Nhìn chung, các mỏ dầu khí được đầu tư vào
những năm trước đây đã và đang phát huy hiệu quả. Ta có thể thấy kết quả
mà ngành dầu khí đã làm được trong những năm gần đây như sau:
- Trong hoạt động tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí, những năm gần
đây Việt Nam đã ký 43 hợp đồng dưới nhiều hình thức với công ty nước
ngoài (riêng năm 2000 đã ký 6 hợp đồng), thu hút trên 3 tỷ USD vào lĩnh
vực này. Nhiều mỏ d
ầu và khí có giá trị thương mại đã được phát hiện và
đưa vào khai thác.
- Về hoạt động khai thác dầu khí tính đến ngày 13/2/2001 PetroVietnam

đã khai thác được 100 triệu tấn dầu thô và 50722 tỷ m
3
khí, đóng góp đáng
kể cho ngân sách nhà nước (trong giai đoạn 1996-2000 khoảng 5 tỷ USD và
5000 tỷ VND) PetroVietnam được xếp trong số 100 công ty có doanh số bán
ra lớn nhất tại khu vực châu á- Thái Bình Dương (không kể Nhật Bản và
Trung Quốc). Hiện nay liên doanh Vietsovpetro là đơn vị có sản lượng khai
thác lớn, chiếm trên 80% toàn bộ sản lượng dầu thô và 1,58 tỷ m3 khí đồng
hành.
- Tính đến hết tháng 6/2002, sản lượng khai thác dầu khí đạt 9,505 triệu
tấn dầu thô quy đổi, trong
đó 8,423 triệu tấn dầu thô bằng 50,4% kế hoạch
năm, khai thác khí đạt 1082 triệu m
3
khí, bằng 54% kế hoạch; xuất khẩu dầu
thô đạt 8,31 triệu tấn, bằng 50,36% kế hoạch, kim ngạch xuất khẩu đạt
256771 tỷ đồng, đạt 56% kế hoạch, nộp ngân sách 13411 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực công nghiệp khí. Hệ thống đường ống dẫn khí đồng
hành Bạch Hổ vận hành ổn định, đạt mức công suất thiết kế 6 triệu m
3
/ngày.
Lượng khí đồng hành đưa vào bờ 6 tháng đầu năm dạt 1082,6 triệu m
3
. Đề
án khí Nam Côn Sơn đang được triển khai theo đúng tiến độ ở hầu hết các
khâu để công trình hoàn thành vào cuối năm 2002.
Trong lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Ngoài đề án nhà máy lọc dầu số 1
Dung Quất, đề án Đạm Phú Mỹ (800 000 tấn/ năm) là dự án hoá dầu đầu tiên
và lớn nhất Việt Nam đang được triển khai theo tiến độ nhằm đưa nhà máy

×