Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Đề án thực hiện bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp việt nam thực trạng và giải pháp 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.39 KB, 50 trang )

LờI NóI ĐầU
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đây là một chính
sách mang tính xã hội và nhân đạo cao cả thể hiện sự quan tâm của Nhà nước
đối với đời sống của người dân đặc biệt là đối với người lao động.Tuy nhiên
đối tượng tham gia bắt buộc (trước năm 1995) chỉ giới hạn trong các lao động
thuộc thành phần kinh tế Nhà nước. Vì vậy, mở rộng đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc là mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành
phần kinh tế của cả nước.
Bắt đầu từ năm 1995, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đã mở rộng cho
tới những người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc mở
rộng đối tượng tham gia BHXH đã động viên người lao động yên tâm làm việc
ở các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy thị trường lao động phát triển,
đồng thời cũng tạo nên sự công bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh
nghiệp của các thành phần kinh tế.
Nhưng hiện nay, việc thực hiện BHXH cho người lao động trong các
doanh nghiệp đang là một vấn đề nan giải, thu hút được sự quan tâm của nhiều
ngành, nhiều cấp. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, vì vậy em đã
chọn đề tài “Thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam-Thực
trạng và giải pháp”. Với mục đích nêu lên được tồn cảnh của tình hình thực
hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp. Từ đó thấy được
những nguyên nhân và rút ra những giải pháp cơ bản, góp phần đẩy mạnh hơn
nữa công tác thực hiện BHXH cho người lao động.
Để đảm bảo tính lơgic của một cơng trình nghiên cứu, ngồi lời nói đầu và
phần kết luận, đề án được chia thành 3 phần sau:
Chương I. BHXH cho người lao động một nhu cầu tất yếu khách quan
Chương II. Thực trạng BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Chương III. Các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác thực hiện
BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề án là những phương pháp
cơ bản của phương pháp nghiên cứu khoa học như: so sánh, phân tích, tổng
hợp...dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lich sử.


Do sự phức tạp và rộng lớn của hệ vấn đề, cũng như sự hạn chế trong kiến
thức và kinh nghiệm thực tế cho nên bài viết sẽ khơng tránh khỏi những thiếu
sót. Em mong nhận được sự thông cảm và giúp đỡ của thầy và các bạn.
1


Hà Nội. Tháng 12/2002.
Chương I

BHXH cho người lao động một nhu cầu tất yếu khách quan
I. Sự cần thiết của BHXH đối với người lao động

Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại...
Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó con người, người ta phải lao động để
làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm làm ra ngày càng nhiều thì đời
sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh
hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con
người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế,
không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và
mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn
bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc cho người
ta bị mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm
đau hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và
khả năng tự phục vụ bị suy giảm... Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu
cầu cần thiết trong cuộc sống khơng vì thế mà mất đi, trái lại có cái cịn tăng
lên, thậm chí cịn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa
bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm
sóc ni dưỡng... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã
hội lồi người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau
như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa

vào sự cứu trợ của Nhà nước... Rõ ràng, những cách đó hồn tồn thụ động và
khơng chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hố phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ
biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải
cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để
họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai
sản... Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ
không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra một cách dồn dập,
buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ khơng muốn. Vì thế,
mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực
hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có mâu thuẫn
nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can
2


thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò
của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một số tiền
nhất định hàng tháng được tính tốn chặt chẽ dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy
ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một
quỹ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách
Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp
phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những những mối quan hệ ràng buộc đó
mà rủi ro, bất lợi của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo
ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh
diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn khơng cần thiết. Vì vậy, nguồn
quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng
giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên
được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy,
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người

lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động,
mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một một quỹ tiền tệ tập trung
nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm
an tồn xã hội.
II. BHXH ở Việt Nam
Cịn ở nước ta BHXH là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước
ta nhằm đảm bảo an sinh xã hội và quyền lợi về BHXH cho người lao động khi
gặp phải rủi ro phải tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Cùng với
sự đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, từ
năm 1995, cơng tác BHXH ở nước ta cũng đã chuyển sang một cơ chế thực
hiện các chế độ BHXH hoàn toàn mới so với trước đây. Những nội dung chủ
yếu của sự đổi mới chính sách BHXH là: mở rộng đối tượng tham gia BHXH;
hình thành một quỹ BHXH tập trung, độc lập do người lao động và chủ sử
dụng lao động đóng góp để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động:
thành lập hệ thống BHXH Việt Nam từ Trung ương đến cấp quận, huyện, thị xã
để thực hiện công tác BHXH...
Qua hơn 7 năm thực hiện, đến nay có thể khẳng định rằng những quan
điểm, nội dung và phương pháp đổi mới chính sách BHXH của Đảng và Nhà
nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với mục tiêu đổi mới tồn diện đất
nước. Cơng tác BHXH đã từng bước khẳng định tầm quan trọng và vị thế của
mình đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như việc đảm
3


bảo quyền lợi về BHXH cho người lao động bằng những kết quả cụ thể, to lớn
trong thực tiễn xã hội. Trước hết, là việc đối tượng tham gia BHXH ngày một
mở rộng. Nếu trước kia, chỉ những người trong biên chế Nhà nước mới được
hưởng các chế độ BHXH thì hiện nay người lao động trong các thành phần
kinh tế khác (theo quy định của bộ lao động) cũng có quyền tham gia BHXH.
Cụ thể là số lao động tham gia BHXH năm 1999 so với năm 1996 là 18,2%.

Thứ hai, số thu BHXH hàng năm ngày càng tăng năm sau cao hơn năm trước.
Từ tháng 6 năm 1995 đến ngày 31/12/1999 đã thu được 14.868 tỷ đồng tiền
BHXH, số thu năm 1999 lớn hơn gấp 10 lần số thu của năm 1994 (trước khi
thực hiện cơ chế mới). Thứ 3, do hình thành được quỹ BHXH tập trung độc lập
nên tính tính đến ngày 31/12/1999 quỹ đã đầu tư được trên 10.628 tỷ đồng tiền
tạm thời nhàn rỗi vào việc đầu tư, phát triển các lĩnh vực kinh tế- xã hội cần
thiết của đất nước. Và cuối cùng, là việc giải quyết các chế độ BHXH cho
người lao động thường xuyên được cải tiến theo hướng thuận tiện, chính xác
hơn, hạn chế tối đa việc vi phạm pháp luật về BHXH và thực hiện công bằng
xã hội trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ chính sách BHXH theo cơ chế mới cũng
gặp phải khơng ít khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ. Một trong những khó
khăn lớn nhất là việc người lao động, chủ sử dụng lao động chưa nhận thức đầy
đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của chính sách BHXH. Từ đó, họ chưa có được
thái độ và hành vi đúng đắn trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH
theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, hiện tượng né tránh, trốn nộp
BHXH cho người lao động còn khá phổ biến, nhất là khu vực các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Số tiền nợ đọng BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp cũng
không nhỏ. Trong trường hợp như vậy, cơ quan BHXH có quyền từ chối chưa
giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động theo nguyên tắc “có đóng có
hưởng”. Rất nhiều trường hợp chủ sử dụng lao động đã thu tiền BHXH của
người lao động nhưng không nộp cho cơ quan BHXH. Người lao động bị lợi
dụng, vi phạm quyền lợi của mình về BHXH từ phía chủ sử dụng lao động mà
vẫn không biết, không dám đấu tranh, bảo vệ quyền lợi của mình. Nguyên nhân
đơn giản là vì họ khơng biết đúng đắn, đầy đủ về chế độ, chính sách BHXH do
pháp luật quy định.
Chính vì vậy, cần phải có một cái nhìn khách quan về việc thực hiện
BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó có những
biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác thực thi BHXH cho người
lao động. Đây là việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp bách trong giai

4


đoạn chuyển đổi cơ chế thực hiện chế độ, chính sách BHXH hiện nay. Thiết
nghĩ, đây không chỉ là công việc của ngành BHXH mà là nhiệm vụ chung của
của nhiều ngành, nhiều cấp, của tồn xã hội. Bởi vì đây là việc thực hiện một
chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước, một nội dung quan trọng của Bộ
Luật lao động và quan trọng hơn nữa là việc góp phần vào việc đảm bảo quyền
lợi về BHXH của người lao động trong các doanh nghiêp Việt Nam.
ChươngII

THựC TRạNG BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam
Bắt đầu từ năm 1995, sự phân biệt giữa người trong biên chế Nhà nước
với người ngoài biên chế Nhà nước đã bị xoá bỏ. Tất cả những người lao động
thuộc đối tuợng quy định đều được quyền tham gia BHXH. Việc mở rộng các
đối tượng tham ra BHXH đã động viên mọi người lao động yên tâm làm việc ở
các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, đồng
thời cũng tạo nên sự cân bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các thành phần
kinh tế.
Chính vì mở rộng đối tượng tham gia BHXH, nên số người đóng ngày
càng tăng. Nêú năm 1995 có 2,2 triệu người tham gia,thì đến năm 1999 đã tăng
lên 4 triệu người: (tăng 51%). Số thu BHXH từ 788.486 triệu đồng (năm 1995)
lên gần 4 nghìn tỉ đồng (năm 1999)... Việc hình thành quỹ BHXH thống nhất ,
tâp trung, do BHXH Việt Nam quản lý, ghi nhận một bước cải cách BHXH rất
hiệu quả và nhiều ý nghĩa... Theo đó số thu vào quỹ ngày càng tăng, nguồn chi
từ Ngân sách Nhà nước giảm dần, số thu trong 5 năm qua luôn lớn hơn số chi,
phần quỹ tạm thời nhàn rỗi đã được đầu tư có hiệu quả theo chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ. Riêng năm 1999, tiền lãi do đầu tư quỹ mang lại khoảng 600
tỷ đồng.
Có thể nói hoạt động BHXH trong những năm qua là rất đáng kể. Nó

ghi nhận nỗ lực lớn lao của CBCC ngành BHXH. ý nghĩa an sinh xã hội thông
qua hoạt động giàu tính nhân văn này càng làm sáng rõ bản chất ưu việt của
chế độ ta, thể hiện sự quan tâm chu đáo của Đảng và Nhà nước đối với lợi ích
chính đáng, hợp pháp của người lao động.
Tuy nhiên, một số vấn đề bất cập đang tồn tại trong quá trình triển
khai chính sách BHXH đã hạn chế hiệu quả chung. Trước hết, trình độ hiểu biết
về pháp luật chính sách BHXH của chủ sử dụng lao động và người lao động
cịn bị hạn chế. Cơng tác thơng tin tun truyền làm chưa sâu, chưa kỹ, nên cả
5


chủ sữ dụng lao và người lao động chưa hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mình
trong việc tham gia BHXH. Một số đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt
buộc, nhưng lẩn trốn, đặc biệt là các doanh nghiệp khối ngồi quốc doanh.
Lương của người lao động nói chung còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu cuộc
sống, lương khi nghỉ hưu càng thấp hơn. Việc mở rộng các đối tượng tham gia
BHXH lại chưa kịp thời. Các tổ chức bán công dân lập của các nghành: giáo
dục, văn hố, du lịch... có th mướn lao động: các hợp tác xã tiểu thủ cơng
nghiệp, các doanh nghiệp ngồi quốc doanh có thuê mướn dưới 10 lao động...
tới đây cần được bổ sung vào diện bắt buộc tham gia BHXH. Luật BHXH khi
ra đời sẽ tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc triển khai rộng rãi và hiệu
quả chính sách BHXH.
Mặt khác, sau 5 năm thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Chính phủ giao
mặc dù đã cố gắng rất nhiều và đạt được nhiều thành tựu, song trước yêu cầu
của thiên niên kỷ mới, nghành BHXH cần được hồn thiện thêm về chức năng
nhiệm vụ. Thí dụ: vấn đề bổ sung thành viên của hội đồng quản lý, thay đổi
hiện đại hoá hoạt động thu, chi, quản lý quỹ ...
I. Tổng quan về tình hình BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam
1. Trong khối doanh nghiệp quốc doanh
Các đơn vị sản xuất kinh doanh các ngành hàng độc quyền: Bưu điện, điện

lực, xăng dầu... có doanh thu cao, nên thực hiện tốt chính sách BHXH. Quyền
lợi của người lao động trong các doanh nghiệp này được đảm bảo.
Còn với các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng không phải là độc
quyền. Trong số các doanh nghiệp thực hiện tốt chính sách BHXH: có các
doanh nghiệp làm ăn phát triển và cả các doanh nghiệp làm ăn khá chật vật
nhưng vẫn có nhận thức tốt về chính sách BHXH và quan tâm, chăm sóc quyền
lợi người lao động. Điển hình như cơng ty Bia rượu ong Thái Bình với150 lao
động, lương trung bình chưa đạt nổi 400.000 đồng/người/tháng nhưng tiền
đóng BHXH cho người lao động thì doanh nghiệp ln trích nộp đúng đủ kịp
thời.
Những tưởng các doanh nghiệp các doanh nghiệp quốc doanh thì thực
hiện tốt chính sách BHXH cho người lao động, việc thu BHXH trong các đơn
vị này thì khơng cần phải bàn đến, mọi người vẫn coi như một hoạt động suôn
sẻ đương nhiên. Vậy mà sự việc lại khơng hẳn thế, vẫn cịn các doanh nghiệp
chưa thực hiện tốt chính sách này như nộp phí chậm hoặc khơng có khả năng
6


nộp phí. Kể cả những doanh nghiệp mà trước đây nổi tiếng một thời, sản phẩm
được xuất khẩu ra nước ngoài. Trong nền kinh tế thị trường với nhiều lý do
khác nhau, chặng đường kinh doanh tiếp nối của doanh nghiệp không suôn sẻ
như mong muốn, chựng lại rồi suy sụp. Sản phẩm làm ra ế ẩm, lãi vay ngân
hàng tăng liên tục với số nợ lên tới hàng tỷ đồng, buộc doanh nghiệp phải thu
hẹp quy mô sản xuất, giảm đồng loạt hàng ngàn lao động.
Tình hình này xuất hiện ở nhiều địa phương trong đó có thể nói đến Thái
Bình. Với 183 doanh nghiệp Nhà nước với 16000 lao động trong tỉnh thì có 1/2
số doanh nghịêp làm ăn hiệu quả, thực hiện tốt chính sách BHXH; 1/2 hoạt
động “cầm chừng” và 1/4 số doanh nghiệp còn lại thì cùng chung số phận đứng
bên bờ vực của sự tan rã. Ngỡ những cánh chim đầu đàn của tỉnh Thái Bình
như: Cơng ty Điện tử Thái Bình, Cơng ty cơ khí Thái Bình, Nhà máy đay Thái

Bình, Nhà máy tơ Thái Bình, Nhà máy thuộc da Thái Bình (nay là Công ty
Giày da), Công ty xây dựng I, II, III Thái Bình, Cơng ty sứ Tiền Hải...vẫn đang
sải cánh tung bay như ngày nào, hoá ra bây giờ chỉ hoạt động cầm chừng, sản
phẩm sản xuất ra tiêu thụ chậm do giá thành, chất lượng, mẫu mã không đáp
ứng được nhu cầu thị trường. Hoạt động ít hiệu quả, doanh thu kém thì việc
thực hiện chính sách BHXH cho người lao động là việc xa vời lắm! Nhiều đơn
vị nợ cả lương cơng nhân thì nghĩ gì đến việc tham gia BHXH.
Đến nay, các đơn vị trong tỉnh nợ đọng tiền BHXH đã lên tới con số 7 tỷ
đồng, trong đó nhiều doanh nghiệp 3- 4 năm khơng nộp được tiền BHXH.
Những đơn vị nợ tiền BHXH dây dưa, kéo dài với số lượng lớn là: Công ty
điện tử, Công ty Giày da xuất khẩu, Công ty đay Thái Bình... theo quy định của
pháp luật 15% tiền trích nộp BHXH cho người lao động được hạch toán vào
giá thành sản phẩm, nhưng sản phẩm sản xuất ra còn nằm đó, chưa tiêu thụ
được thì lấy tiền đâu mà đóng BHXH.
Một minh chứng nữa cho tình hình nộp chậm, nộp thiếu phí BHXH ở trên
đó là một thực trạng đáng lo ngại ở Tuyên Quang với 50% số các doanh nghiệp
Nhà nước nợ tiền BHXH.
Tính đến cuối năm 1999, BHXH Tun Quang quản lý 915 đầu mối, thì
có 64 doanh nghiệp Nhà nước và 7 doanh nghiệp cổ phần với 11.208 lao động
tham gia. Nếu chỉ tính riêng 71 doanh nghiệp này thì kế hoạch 1999 phải nộp là
84 tỷ đồng. Ngồi 32 đơn vị thường xun trích nộp đầy đủ đúng kế hoạch,
50% trong số 71 doanh nghiệp chắc chắn khơng thể hồn thành kế hoạch năm
7


với số tồn hàng tỷ đồng (riêng 10 đơn vị của các ngành lớn như : đường, chè...
đã nợ trên 1,1 tỷ đồng) đó là chưa kể đến số nợ của 38 doanh nghiệp tồn đọng
từ 1993 đến nay 8,5 tỷ đồng. Nợ cao nhất là Công ty chè Sông Lơ có 2000 cơng
nhân song số nợ từ 1993 đến nay lên đến 2 tỷ đồng, bình qn mỗi cơng nhân
nợ 1 triệu đồng BHXH. Giám đốc Công ty cho biết hiện nay Cơng ty đang “có

hướng” trả dần (?). Song, ông cũng lấp lửng tuyên bố: Nếu mỗi năm giỏi lắm
cũng trả được 100 triệu thì cũng phải 20 năm sau mới hết nợ được.
Một nguyên nhân cơ bản là nền kinh tế và các ngành sản xuất ở Tun
Quang khơng phát triển được. Là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển nơng-lâmcơng nghiệp, hàng năm tồn tỉnh cần có 300 tỷ đồng cho hoạt động bộ máy
song chỉ đáp ứng được 1/4 (khoảng 85 đến 90 tỷ đồng) còn 3/4 phải chờ đợi
cấp từ ngân sách Nhà nước. Sản xuất bị đình đốn. Ngay như việc phát triển cơ
sở hạ tầng nhiều thị xã thành phố phát triển khá sôi động, song thị xã Tuyên
Quang vẫn cứ khép mình giản dị như... hàng chục năm trước. Nhiều doanh
nghiệp muốn đầu tư công nghệ, phát triển sản xuất song sợ xé rào đành phải
nằm im. Ngành Ngân hàng không giải ngân được. Lượng hàng hoá cho các cơ
sở sản xuất ra không tiêu thụ được. Công ty đường Sơn Dương, đường Tuyên
Quang hạ giá bán còn 4000đồng/kg nay vẫn tồn đọng 2800 tấn; Xí nghiệp vật
liệu xây dựng tồn 7 triệu viên gạch...7 doanh nghiệp giấy (2000 lao động) và
hàng chục xí nghiệp vật liệu xây dựng, cơ khí, sửa chữa, may... cơng nhân sống
thoi thóp với đồng lương 160.000 đồng/tháng, cả cơng nhân và xí nghiệp đều
khơng có khả năng đóng BHXH. Đã vậy, số chi trả cho ốm đau lại quá cao trở
thành mối nguy cho việc bảo tồn quỹ, ở lâm trường Tân Thành , số tiền chi cho
ốm đau quý 1 và 2/ 1999 là 47 triệu đồng chiếm 11% quỹ lương và 34% tiền
nộp BHXH; Mỏ đất chịu lửa chiếm 46% tiền nộp BHXH... Cũng do những khó
khăn như vậy, việc cấp sổ BHXH trong các doanh nghiệp hết sức chậm chạp.
Triển khai suốt 3 năm nay, cấp sổ BHXH mới chỉ đạt 73% so với tổng số lao
động; Công ty chè Tân Trào có 600 lao động, chưa năm nào hồn thành chỉ tiêu
thu BHXH nên đến nay chưa cấp được một sổ nào? Công ty đường Tuyên
Quang và đường Sơn Dương cũng mới chỉ cấp được sổ BHXH cho khối văn
phịng cơng ty...
Và cịn có thể liệt kê ra đây rất nhiều doanh nghiệp khác nợ đọng phí
BHXH như: các doanh nghiệp thuộc Tổng cơng ty dâu tằm Việt Nam: Xí
nghiệp liên doanh tơ tằm Bảo Lộc (VISINTEX) đang nợ 532 triệu đồng hoạc
8



công ty Dệt may lụa tơ tằm nợ 254,5 triệu đồng, xí nghiệp ươm tơ tháng Tám
nợ 261 triệu đồng (số liệu năm 2001). Công ty ong Nam Định, quý 3-4/1999
tồn cơng ty nợ 541 triệu đồng: 2 q đầu năm 2000 nợ nguyên 40 triệu đồng,
vị chi trên 70 các bộ CNV nợ xấp xỉ 100 triệu đồng tiền BHXH.
Đối mặt với thực trạng trên việc đi tìm giải pháp nhằm vực dậy các
ngành kinh tế, thúc đẩy sản xuất là việc làm cơ bản và cần thiết. Song chúng ta
cũng không nên ngồi chờ sản suất phát triển rồi mới quan tâm đến quyền lợi
người lao động, vì đây là hai mặt của một vấn đề, có tác động với nhau hết sức
chặt chẽ: người lao động không thể làm việc tốt, sản suất không thể phát triển,
nếu quyền lợi và đời sống của không được quan tâm.
Mặt khác, cần phải tăng cường tính pháp lý của các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ khi nộp BHXH. Trong luật BHXH, luật phá sản doanh
nghiệp cũng cần phải có điều khoản qui định về thu nộp BHXH có cơ chế
khuyến khích cho cán bộ BHXH phát hiện và chi thu xử lí nghiêm khắc và truy
thu BHXH, đồng thời xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật BHXH
dây dưa, nợ tồn đọng tiền BHXH. Vấn đề này cần phải nhìn nhận một cách đầy
đủ hơn và có chế tài mạnh, phải xác định thu nộp BHXH tồn nợ đọng BHXH
khơng đơn thuần là góc độ kinh tế, mà chính nó làm gia tăng nhanh chóng số
lao động được đảm bảo về chế độ BHXH.
2. Trong khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
2.1. Trong các doanh nghiệp trong nước
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến
khích phát triển khu vực kinh tế ngồi quốc doanh. Khi thực hiện sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp đã được cổ phần hoá, bán khốn,
cho th..., khu vực hành chính sự nghiệp cũng đang từng bước giảm thiểu
15% công chức Nhà nước nên lực lượng lao động khu vực ngồi quốc doanh
cũng có xu hướng tăng cao. Trong tình hình ấy, Bộ Chính Trị đã có chỉ thị số
15/ CT-TƯ ngày 26/5/1997 về “Tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ
BHXH”, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều ý kiến chỉ đạo hệ thống BHXH Việt

Nam phải tổ chức thực hiện tốt chính sách BHXH để đảm bảo sự công bằng xã
hội đối với người lao động ở khu vực này.
Theo quy định tại điều 141 và điều 3 BHXH ban hành kèm theo Nghị
định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ thì “đối tượng tham gia BHXH là

9


người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
ngồi quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên”.
Thực hiện sự chỉ đạo của BHXH Việt Nam, BHXH các tỉnh thành
phố đã cố tìm những biện pháp sáng tạo thực hiện BHXH khu vực ngoài quốc
doanh và thu được một số kết quả ban đầu.
+ Năm 1997 có 2.305 đơn vị với 83.578 người lao động tham gia BHXH.
+ Năm 1998 có 3.136 đơn vị với 112.223 người lao động tham gia BHXH.
+ Năm 1999 có 3.900 đơn vị với 147.855 người lao động tham gia BHXH.
+ Năm 2000 đã có 4.735 đơn vị với 197.983 người lao động tham gia BHXH.
Công tác tun truyền giáo dục đã có tác động tốt khơng chỉ với người
lao động đã tham gia BHXH mà còn giúp những người chưa tham gia hiểu và
nâng cao nhận thức về quyền lợi và trách nhiệm trong việc thực hiện chính sách
của Đảng và Nhà nước. Người lao động ngồi quốc doanh cũng dần nhận ra:
Tham gia BHXH khơng chỉ được cơng bằng, bình đẳng với các thành phần
kinh tế và loại hình lao động khác mà cịn thuận lợi khi di chuyển từ thành phần
kinh tế này sang thành phần kinh tế khác và quyền lợi vẫn được bảo đảm.
Nhưng đó chỉ là bước khởi đầu tốt vẫn còn những chướng ngại vật mà
nghành BHXH cần phải vượt qua. Tính đến cuối năm 2000, trên 80% doanh
nghiệp với 73% lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thuộc diện BHXH
bắt buộc, nhưng vẫn chưa tham gia. Nói cách khác, nghĩa vụ và quyền lợi của
người lao động trong khu vực kinh tế này chưa được thực hiện.
Theo số liệu thống kê, năm 1997 có 24.571 đơn vị với 560.000 lao động

vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì chỉ có 9,4% số lao động tham gia
BHXH. Năm 1998 có 12,8%; năm 1999 có 16% và năm 2000 có 26,5% và chủ
yếu tập trung ở một số tỉnh, thành phố lớn như : Tp Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình
Dương, Đồng Nai, Hải Phịng, Bà Rịa-VũngTàu, Tp Đà Nẵng, Long An, Cần
Thơ, Quảng Ninh. Chỉ tính riêng 10 tỉnh, thành phố này năm 1999 đã thu bằng
91,58% (121,9 tỷ đồng trong tổng số 133,1 tỷ đồng) số thu BHXH ngoài quốc
doanh của cả nước. Cũng năm 1999, Tp Hồ Chí Minh có 76.180 lao động ngồi
quốc doanh tham gia BHXH (bằng 51,52%) số thu đạt 81,231 tỷ đồng bằng
61% so với số thu BHXH ngoài quốc doanh của cả nước. Thậm chí, một số địa
phương đến nay vẫn chưa có doanh nghiệp ngồi quốc doanh tham gia BHXH,
đó là: Hưng Yên, Bắc Cạn, Lai Châu… hoặc có từ 1-2 đơn vị tham gia BHXH
như ở Sơn La, Yên Bái, Hà Tĩnh…
10


Thực trạng trên cho thấy nguồn thu BHXH ở khu vực ngồi quốc doanh
cịn rất lớn. Số nợ BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh khá cao. Đầu năm 2000,
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ 14,987 tỷ đồng BHXH trên tổng số phải
thu là 132,466 tỷ đồng (mới thu được 11,3%). Nhiều tỉnh, thành phố nợ đọng
BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh hàng tỷ đồng, như Thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Bình Dương, Long An, Đồng Nai.
Việc thực hiện BHXH khu vực ngồi quốc doanh cịn nhiều hạn chế có
nhiều nguyên nhân của tất cả các bên tham gia:
- Các văn bản quy phạm Nhà nước về thực BHXH ngoài quốc doanh chưa
đầy đủ, kịp thời, chưa bao quát cụ thể hoá trong các quy định về hợp đồng lao
động, tiền lương, xử phạt… Các quy định về thực hiện BHXH có trong nhiều
văn bản luật, Nghị định của Chính phủ thơng tư hướng dẫn của các bộ ngành có
liên quan, nhưng mỗi văn bản lại điều chỉnh một mối quan hệ về BHXH giữa
Nhà nước với các cơ quan, ngành cấp riêng, trong các loại hình doanh nghiệp,
ngành nghề riêng, nên chủ sở dụng lao động và người lao động khó nắm bắt và

khó thực hiện.
- Khả năng quản lý, đôn đốc thu nộp BHXH của cơ quan BHXH chưa đáp
ứng nhu cầu thực tế. Bởi thời gian qua thực hiện BHXH khu vực ngoài quốc
doanh thiếu về cán bộ, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động nghiệp vụ và nhất
là thiếu cơ chế khuyến khích cán bộ cơng chức ngành BHXH làm cơng việc
khó khăn này.
- Nhiều doanh nghiệp ngồi quốc doanh chỉ có giấy phép chứ thực tế
không hoạt động.
- Hầu hết các doanh nghiệp ngồi quốc doanh chưa có tổ chức cơng đồn
và nếu có cũng chỉ là hình thức. Cơng đồn ở đây chưa làm được chức năng
bảo vệ quyền lợi người lao động vì bản thân họ cũng là người lao động có tâm
trạng và hồn cảnh tương tự.
- Chủ doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh chưa thực sự tơn trọng
quyền lợi hợp pháp của người lao động, tìm cách trốn tránh tham gia BHXH
của người lao động bằng cách đăng ký lao động ít hơn 10 lao động hoặc ký hợp
đồng dưới 3 tháng. Doanh nghiệp chỉ thực hiện các hoạt động “Tự bảo hiểm
một số quyền lợi không thể không đáp ứng để động viên người lao động. Cơ
quan BHXH khơng có chức năng kiểm tra, u cầu các doanh nghiệp phải tham
gia BHXH.
11


- Do trình độ hiểu biết về chính sách BHXH của người lao động cịn thấp
đồng thời nhu cầu tìm việc làm là mục tiêu bức thiết, nên người lao động không
chú ý đến quyền lợi vè BHXH, không đốc thúc việc đóng BHXH của chủ sử
dụng lao động, nên cũng ảnh hưởng đến việc mở rộng BHXH.
Vì vậy, cách giải quyết vấn đề tham gia BHXH nói riêng và các chính
sách lao động khác ở khu vực ngồi quốc doanh phải bắt đầu từ việc tổ chức lại
doanh nghiệp ngồi quốc doanh đúng với nghĩa của nó. Ngành kế hoạch đầu tư
từ bộ đến địa phương (Sở) cần xiết chặt hơn các điều kiện bảo đảm cho một

doanh nghiệp được thành lập và hoạt động. Trong đó, rất quan trọng là việc
chấp hành Luật Lao Động và chính sách đối với người lao động.
Một địa phương đại diện cho các nguyên nhân trên đó là tỉnh Phú Thọ,
giống như thực trạng chung của cả nước, BHXH khối ngoài quốc doanh của
tỉnh này cũng đang đứng trước tình trạng bị thất thu nghiêm trọng.
Là vùng trung du bán sơn địa, có khu cơng nghiệp Việt Trì với hàng
chục nhà máy, công ty lớn; nên tuy là tỉnh mới tách ra từ tỉnh Vĩnh Phú, khối
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tỉnh Phú Thọ đã sớm hình thành và phát
triển mạnh. Tính đến cuối năm 1999, Phú Thọ đã có xấp xỉ 100 đơn vị ngoài
quốc doanh đa ngành đa nghề với hàng chục nghìn lao động. Nếu chỉ tính các
đơn vị có 10 lao động trở lên và hợp đồng từ 3 tháng trở lên, Phú Thọ cũng có
66/100 đơn vị thuộc diện đóng BHXH bắt buộc với số lượng 3.625 người.
Nhưng đến nay, ngành BHXH Phú Thọ mới chỉ quản lý được 10 đơn vị với vẻn
vẹn… 218 lao động. Nếu tận thu đúng, thu đủ của 66 đơn vị này, số thu hàng
năm đạt xấp xỉ 1 tỷ đồng; song hiện nay đến hết tháng 9/1999 mới thu được
115 triệu đồng/160 triệu đồng kế hoạch cả năm; và nếu có thu đủ thì tổng thu
khối ngồi quốc doanh cũng chỉ bằng từ 3% - 4% kế hoạch thu tồn tỉnh. Thất
thu nghiêm trọng ở Thành phố Việt Trì: có 42 doanh nghiệp ngồi quốc doanh,
thì có tới 39 đơn vị chậm nộp BHXH. Huyện Thanh Sơn có 8 đơn vị, thì chỉ có
1 đơn vị tham gia với số lượng 3 người là XNXD Xuân Thuỷ. Huyện Phong
Châu có 7 đơn vị thì mới có 1 đơn vị tham gia là công ty TNHH Việt Đức với
118 lao động. n Lập, Hạ Hồ, Thanh Ba… mỗi huyện có 1 doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, song vẫn trắng BHXH khối ngồi quốc doanh. ở Việt Trì, có
39 đơn vị ngồi quốc doanh đăng ký tham gia BHXH, song vẻn vẹn chỉ có 3
đơn vị với 104 người tham gia là xí nghiệp xâp lắp điện nước Hải Hà (19), xí

12


nghiệp thực phẩm Việt Anh (20), và công ty bông vải sợi Nghĩa Hưng (65), 39

đơn vị còn lại chỉ tham gia mồm.
ở các tỉnh khác như Hà Tây, Hà Nội, Đồng Tháp, Thanh Hoá… việc các
chủ sử dụng lao động khơng đóng BHXH cho cơng nhân phần lớn với lý do:
dưới 10 người, và hợp đồng dưới 3 tháng(!). Song việc ở Phú Thọ có 66/100
đơn vị có 10 lao động trở lên và ký hợp đồng 3 tháng trở lên mà chỉ có bấy
nhiêu đơn vị và lao động tham gia BHXH cho thấy: việc viện cớ dưới 10 người
và dưới 3 tháng chỉ là “chiêu bài” để các giới chủ trốn BHXH! Các chủ doanh
nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn khơng qua đào tạo, khơng có quy hoạch,
khơng có tổ chức; ai có tiền là đứng ra kinh doanh theo kiểu chụp giựt, được
năm nào hay năm ấy nên họ chỉ “tận thu” mà không “tận nghĩa” với người lao
động. Người lao động trong các doanh nghiệp ở tứ xứ, họ chỉ cần việc làm,
đồng lương làm đến đâu hay đến đó, đâu lương cao thì đến, đâu thấp thì bỏ đi,
nếu địi hỏi BHXH với chủ doanh nghiệp sợ mất việc làm. Đó là bản chất của
việc người sử dụng lao động thì trốn tránh, người lao động thì thờ ơ với BHXH.
Một ví dụ điển hình là Cơng ty TNHH Việt Hưng (Viêt Trì): Theo dự án từ
năm 1998, Công ty này đăng ký 42 lao động (thực chất có hàng trăm lao động):
đây là một cơng ty ngồi quốc doanh lớn nhất tỉnh Phú Thọ, kinh doanh đa
ngành nghề, phát triển mạnh nhất là kinh doanh vận tải, xe buýt, taxi với hàng
chục đầu xe khác nhau… Trụ sở Công ty to hơn trụ sở BHXH tỉnh Phú Thọ.
Thậm chí, Cơng ty này cịn có cả hệ thống cơng đồn, cịn thực hiện cả việc bù
lỗ cho xe buýt, làm công tác từ thiện… Song suốt từ khi thành lập đến nay,
Công ty chưa đóng một đồng BHXH nào cho cơng nhân, vậy mà cũng khơng
thấy tổ chức cơng đồn này nói gì?. Các công ty Thương mại Mai Khánh (23
lao động), Sơn Ngọc (35 lao động) Việt Hà (15 lao động), Công ty bao bì
Thương mại Quế Hải (52 lao động), Cơng ty dựng Hồ Phong (25 lao động)…
cũng khơng hề có người nào tham gia BHXH?. Xí nghiệp sản xuất bao bì Tân
Phong (Lâm Thao) có hàng trăm lao động, chuyên kinh doanh bao bì cho Cơng
ty Supe phốt phát và hố chất Lâm Thao, bà chủ xí nghiệp là uỷ viên
UBMTTQ tỉnh, sẵn sàng bỏ ra hàng chục triệu đồng để làm “từ thiện”, song
thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH cho cơng nhân thì khơng! Xí nghiệp vật liệu xây

dựng Trung Thành (Việt Trì) có 36 lao động, có cả cần cẩu, băng chuyền với
nhiều thuyền bè khai thác cát trên sông Lô, sản xuất phát triển, BHXH tỉnh mời
dự Hội nghị về công tác BHXH cũng tham gia đầy đủ, nhưng khi yêu cầu đóng
13


BHXH cho cơng nhân thì cũng đánh bài…lờ! Cơng ty chè Đắc Nhân Tâm (Hạ
Hoà) chuyên sản xuất kinh doanh chè, theo dự án cũng có trên 30 lao động,
doanh thu mỗi năm hàng tỷ đồng song cũng không nộp bảo hiểm cho ai? Thậm
chí, xí nghiệp mộc-xây dựng 30/4 (Việt Trì) cịn có cả cơng văn gửi BHXH
tỉnh tun bố “khơng có điều kiện tham gia!” Trong khi đơn vị này cũng là đối
tượng tham gia bắt buộc.
Đó chỉ là một trong số nhiều địa phương ở nước ta, quyền lợi hợp pháp
của người lao động không được đảm bảo. Có thể thấy được ở mỗi địa phương,
các chủ doanh nghiêp sử dụng lao động đều tìm thấy cho mình những lý do,
những ngun nhân để khơng thực hiện nghĩa vụ với người lao động. Tình
trạng trên khơng thể để kéo dài vì nó sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
người lao động khi cần đến sự trợ giúp của quỹ BHXH. Để đảm bảo quyền lợi
cho người lao động trong các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh cần tăng cường
cơng tác tun truyền chính sách BHXH đối với người lao động bằng nhiều
hình thức, thơng qua cơ quan báo đài, tổ chức đoàn thể, cơ quan đơn vị để
người lao động hiểu được quyền lợi khi tham gia BHXH tự giác tham gia.
Trong khi chờ ban hành luật BHXH, trước mắt đề nghị Chính phủ sửa đổi, bổ
sung những điều bất hợp lý của Nghị định 38/CP về xử phạt vi phạm pháp luật
lao động về BHXH. Đồng thời, có sự chỉ đạo đồng bộ đối với các nghành, các
cấp về lĩnh vực này. Tăng cường sự phối kết hợp giữa cơ quan BHXH với Sở
Lao Động-Thương binh và Xã hội, Liên đoàn lao động tỉnh và các cơ quan hữu
quan để tuyên tuyền giáo dục, vận động và có biện pháp hành chính làm cho
người sử dụng lao động và người lao động thực thi Điều lệ BHXH nghiêm túc.
Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để có biện pháp hỗ trợ cho các

đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh tham gia BHXH.
2.2. Trong các đơn vị có vốn đầu tư nước ngồi.
Xuất khẩu lao động không chỉ là việc đưa người lao động Việt Nam ra
nước ngoài làm việc mà vấn đề còn là xuất khẩu lao động tại chỗ (người lao
động làm việc trong các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam) Nhưng
vấn đề được quan tâm hơn cả là quan hệ lao động trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
Tháng 12/1987, Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được ban hành.
Đến nay, đã có gần 2000 dự án được cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam với số
tiền đầu tư trên 30 tỷ USD. Các khu chế xuất cơng nghiệp tập trung được hình
14


thành. Trên 4 vạn lao động thường xuyên làm việc trong các cơ sở đã đi vào
hoạt động nền nếp, chưa kể nhiều vạn người lao động của nghành xây dựng thi
cơng các cơng trình. Đầu tư sản xuất và dịch vụ có được mở rộng thì người lao
động mới có thêm việc làm, được rèn luyện về kỷ luật lao động, tác phong làm
việc, biết thêm ngoại ngữ và điều quan trọng hơn là con người trở nên năng
động sáng tạo hơn trong việc sủ dụng sức lao động của mình.
Tuy nhiên, đã có khơng ít vướng mắc diễn ra trong quan hệ lao động
ở khu vực này. Đó là vấn đề điều hành sản xuất kinh doanh (mua bán vật tư,
tiêu thụ sản phẩm…), người nước ngồi nói thế nào, người ta biết vậy, bởi việc
mua bán nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị diễn ra ở nước ngồi. Hơn thế,
trong ban lãnh đạo Cơng ty, người Việt Nam chiếm tỷ lệ ít hơn, ít giữ các vai
trị, vị trí trọng trách hơn, cấp bậc cũng thấp hơn (chỉ là phó giám đốc, cịn
giám đốc là người nước ngồi). Vốn đóng góp về phía Việt Nam chưa đến
50%. Mục tiêu cao nhất của chủ đầu tư nước ngồi là lợi nhuận, nên việc th
cơng nhân Việt Nam với giá càng thấp càng tốt, ngồi ra cịn thiết lập kỷ luật
lao động, phạt nặng hơn những sơ suất do công nhân Việt Nam gây ra… gây
nên sự phản đối bất bình. Cán bộ lãnh đạo và cơng nhân Việt Nam luôn chịu

một tâm lý đi làm thuê cho người nước ngồi, coi họ là kẻ bóc lột, coi trọng lợi
nhuận nên quan hệ lại càng trở nên khó gần gũi, gắn bó. Ngơn ngữ bất đồng, dễ
dẫn đến hiểu lầm hoặc mâu thuẫn trong lao động. Trong những năm gần đây,
tiền lương trong các đơn vị có vốn đầu tư nước ngồi cũng khơng hấp dẫn
mạnh, bởi thu nhập và tiền lương của người lao động ở một số ngành nghề của
doanh nghiệp Việt Nam tăng lên. Mặt khác, các đơn vị có vốn đầu tư nước
ngồi làm việc thường không ổn định, tháng này làm, tháng sau nghỉ. Người
lao động có mục tiêu trước mắt, khơng có mục tiêu lâu dài, nên tâm lý không
muốn tham gia BHXH, BHYT. Theo quy định hiện hành cứ một năm đóng
BHXH (12 tháng) khi nghỉ việc được trợ cấp 01 tháng lương, nhưng nếu người
lao động mới đóng 11 tháng thì khơng được trợ cấp, mà bảo lưu kết quả đóng
BHXH để sau này cộng dồn thời gian đóng BHXH thì khơng biết bao giờ
người lao động mới đủ điều kiện để hưởng trợ cấp hàng tháng? Sự bất hợp lý
này khơng khuyến khích người lao động trong đơn vị có vốn đầu tư nước ngồi
tích cực tham gia BHXH và khơng địi hỏi giới chủ phải đóng BHXH cho họ.
Để giảm bớt vướng mắc trong quan hệ lao động, trong đó quan hệ BHXH
ở các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài, thiết nghĩ phải làm cho người nước
15


ngoài điều hành sản xuất tại Việt Nam. Các cơ quan chức năng Việt Nam cần
giải quyết kịp thời những hành vi vi phạm Bộ Luật Lao động. Mặt khác, cần
tuyên truyền giáo dục lao động Việt Nam nhận thức đúng về vị trí của mình
trong sản xuất.
II. Vấn đề hưởng trợ cấp BHXH của người lao động.

Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) các nước trên Thế
giới nên thực hiện trợ cấp 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu trong Công ước 102
tháng 6/1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế

2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho người cịn sống
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều
kiện kinh tế-xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến
nghị ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện 3 chế độ. Trong đó, ít
nhất phải có 1 trong 5 chế độ: (3); (4), (5), (8), (9).
Theo điều 2 của Điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao
gồm 5 chế độ: Chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
1. Chế độ trợ cấp ốm đau.
Chế độ này giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu
nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau. Đối tượng trợ cấp của chế độ
này là người lao động ốm, người lao động có con ốm và người lao động áp
dụng các biện pháp kế hoạch hố gia đình...
Năm 2000 đẵ có trên 1 triệu lao động nghỉ hưởng chế độ ốm đau, với
trên 6 triệu ngày cơng được ngành BHXH thanh tốn trên 80,2 tỷ đồng. 6 tháng
đầu năm 2001 có hơn 523 nghìn lượt người hưởng chế độ ốm đau với trên 3
triệu ngày cơng, số tiền thanh tốn gần 44.8 tỷ đồng.

16


Trong khối hành chính sự nghiệp, người lao động hưởng mức lương cố
định theo thang, bậc lương do Nhà nước quy định và đó cũng chính là quỹ tiền

lương tham gia BHXH, được cấp bởi ngân sách Nhà nước. Ngoài những trường
hợp thai sản, điều trị bệnh dài ngày trong các bệnh viện, người lao động thường
hạn chế việc nghỉ ốm, nếu có đầy đủ chứng từ nghỉ ốm, họ cũng chỉ được thanh
toán 75% mức lương tham gia BXHX do ngành BHXH chi trả theo quy định,
do vậy thanh tốn nghỉ ốm khơng có lợi cho họ. Năm 2000, với trên 1,5 triệu
lao động tham gia BHXH, chỉ có 70.000 lượt người nghỉ ốm với 760.000 ngày
công, chi trả 9,68 tỷ đồng, 6 tháng đầu năm 2001, cũng với số lao động trên 1,5
triệu người, có 32.000 lượt người nghỉ ốm, với 444.000 ngày công, chi trả trên
5,2 tỷ đồng.
Khối doanh nghiệp Nhà nước, có số lao động tham gia BHXH xấp xỉ
HCSN, cũng trên 1,5 triệu người, nhưng số người nghỉ ốm năm 2000 lên đến
770.000 lượt người, với trên 4,7 triệu ngày công và số tiền chi trả từ quỹ
BHXH lên đến 52,4 tỷ đồng; 6 tháng đầu năm 2001 đã có gần 400 lượt người
nghỉ ốm với 2,3 triệu ngày nghỉ và số tiền phải chi từ quỹ BHXH là 29,88 tỷ
đồng, so với khối HCSN, mỗi chỉ số trong nghỉ ốm tăng gấp nhiều lần.
Hiện nay trong các doanh nghiệp, thu nhập thực tế của người lao động
thường cao hơn quỹ lương tham gia đóng BHXH, thậm chí gấp nhiều lần. Thu
nhập này phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vào
khối lượng sản phẩm khốn, vào cơng việc được doanh nghiệp giao cho. Với
những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát đạt và ổn định, thu nhập thực tế
của người lao động khá cao, họ chỉ quan tâm đến việc làm, đến thời gian sản
xuất trong doanh nghiệp. Do vậy đối với người lao động trong các doanh
nghiệp này, ngoài nghỉ thai sản và điều trị bệnh dài ngày bắt buộc tại Bệnh
viện, việc thanh tốn ngày cơng ốm qua cơ quan BHXH trở nên không cần
thiết.
Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, việc trả
đủ lương cho người lao động cũng trở thành vấn đề nan giải, chứ chưa nói đến
đóng đủ BHXH cho người lao động. Nhiều lao động tại các đơn vị này luân
phiên nhau nghỉ ốm để được cơ quan BHXH thanh toán, như là một biện pháp
tăng thu nhập hoặc lấy tiền từ BHXH để quay lại đóng BHXH. Xí nghiệp gạch

Tuy-nen (Lào Cai), có số lao động tham gia BHXH là 153 người, quý 1 năm
2001 có 144 lượt người nghỉ ốm với 1017 ngày cơng; Xí nghiệp Dệt len Sài
17


Gịn có 587 lao động, số người nghỉ ốm trong quý 1 năm 2001 là 638 lượt
người với 1881 ngày, Cơng ty cao su Phước Hồ (Bình Phước), chỉ trong thời
điểm quý 1 năm 2001 đã thanh toán cho 2336 lượt người nghỉ ốm với số ngày
công là 9287 ngày cơng; Cơng ty Dệt Thanh Sơn (Đà Nẵng) có 238 lao động,
chỉ trong quý 1 năm 2001 đã có 395 người nghỉ ốm với số ngày nghỉ là 2786
ngày, Xí nghiệp gạch ngói Lai Nghi (Đà Nẵng) cũng trong quý 1 năm 2001 chỉ
với 53 lao động đã có số lượt người nghỉ là 123 lượt người… Trong những
doanh nghiệp đang gặp khó khăn, việc cấp các chứng từ nghỉ ốm dễ dàng hơn
với những doanh nghiệp lớn có hệ thống Y tế trực thuộc, dễ dàng có sự thoả
thuận hay chỉ đạo của chủ sử dụng lao động. Vậy trong các thí dụ nhỏ trên, khi
số lượng người nghỉ ốm lớn như vậy, thử hỏi cịn có bao nhiêu lao động làm
việc trong ngày? Cá biệt có đơn vị có số chi chế độ này quá cao, chiếm gần 8%
so với tổng quỹ lương khi tham gia bảo hiểm.
Để đảm bảo cho sự chính xác, địi hỏi ngành Y tế cần kiên quyết trước
hiện tượng ốm giả có trách nhiệm với những giấy tờ, hồ sơ đã cấp. Có thể chi
trả chế độ BHXH ngắn hạn có thể thay đổi cách làm như hiện nay và thực hiện
thí điểm ở một số doanh nghiệp, một số vùng để xác định hiệu quả chắc chắn
của nó, trước khi đưa vào luật BHXH thành cơ sở pháp lý. Đó là với khối hành
chính sự nghiệp với đặc điểm tập trung tại các thành phố, đơ thị, trung tâm
hành chính quận huyện, nơi tập trung hệ thống Y tế thuận tiện cho việc khám
bệnh điều trị, việc chi trả chế độ vẫn áp dụng như hiện nay, thanh toán trên cơ
sở hồ sơ, bệnh án và do cơ quan BHXH thực hiện; với nhiều doanh nghiệp,
nhất là với những doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp hoạt động phân tán, lưu
đông như ngành dệt may, xây dựng, cầu đường, địa chất…, có thể khốn chi
chế độ này cho doanh nghiệp. Điều đó tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khơng

mất nhiều thời gian thanh tốn BHXH, chủ động chi ốm đau và đó cũng chính
là mong mỏi của nhiều doanh nghiệp, thuận lợi cho cơ quan BHXH, và khi đó
nhiều doanh nghiệp sẽ khống chế tỷ lệ người ốm của người lao động.
2. Chế độ trợ cấp thai sản
Chế độ này như hiện nay đã giúp lao động nữ có được khoản trợ cấp thay
thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh con. Đối tượng trợ cấp
của chế độ này là lao động nữ trong thời gian mang thai, sinh con và nuôi con
và cả lao động nữ nuôi con sơ sinh.

18


Theo số liệu thống kê năm 2000, có gần 160.000 người nghỉ hưởng chế độ
thai sản với số tiển bảo hiểm xã hội trên 228,6 tỷ đồng. 6 tháng đầu năm 2001,
có 150.000 người nghỉ chế độ thai sản được thanh toán từ quỹ BHXH với số
tiền gần 179 tỷ đồng.
Đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao đông nữ, đặc biệt là các
doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng may mặc thời trang… Số lao động nữ
nghỉ sinh con được hưởng chế độ thai sản của BHXH thường cao hơn các
doanh nghiệp khác như: Công ty Dệt Thanh Sơn (Đà Nẵng) có 238 lao động,
chỉ trong quý 1 năm 2001 có số người nghỉ thai sản là 23 người…
Hầu hết các trường hợp này đều được quỹ BHXH thực hiện chi trả đầy
đủ. Tuy nhiên tại các doanh nghiệp vẫn cịn hiện tượng doanh nghiệp khơng
thực hiện đóng BHXH cho người lao động do đó quyền lợi về thu nhập, nghỉ
dưỡng sức của người lao động nữ không được đảm bảo.
Với khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, đặc điểm nổi bật là
người lao động đóng BHXH với mức lương cao và khi thanh toán các chế độ
BHXH họ cũng được hưởng cao. Nhiều doanh nghiệp loại hình này đã nhận
vào làm việc những người đang có thai, đóng BHXH vài tháng để sau đó được
hưởng BHXH với số tiến lớn. Cá biệt như trường hợp bà Lê Thị Hồng Vân,

làm việc tại văn phòng BTR POWER SYSTEM, đóng BHXH được 7 tháng,
với mức đóng là 344 USD/tháng thì nghỉ thai sản, được cơ quan BHXH thanh
tốn trên 120 triệu đồng, sau đó bỏ việc khơng tham gia BHXH.
Chế độ thai sản được quy định cụ thể trong Nghị định 93/1998 NĐ-CP
ngày12/11/1998 bổ sung một số điều kèm theo Nghị định 12 CP, dư luận rất
đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên cũng cịn có một số điều cịn chưa hợp lý: đối với
trường hợp thai có bệnh lý, thai khơng bình thường mà trong suốt q trình
mang thai chỉ được nghỉ việc để khám thai 3 lần , mỗi lần 2 ngày là chưa bảo
đảm. Trong thực tế có rất nhiều trường hợp để bảo vệ đứa con, người mẹ phải
hạn chế làm một số công việc hoặc phải nghỉ việc một thời gian đẻ dưỡng thai
nhi. Và để tránh trường trường hợp như bà Vân cần quy định điều kiện và thời
gian tham gia BHXH ít nhất là 9 tháng trước khi sinh con mới được hưởng trợ
cấp thai sản. Trong thực tế hiện nay, đa số lao động đều thoát ly để đi làm việc,
vì vậy chỉ có 2 vợ chồng, khi sinh con người chồng phải có trách nhiệm và bổn
phận chăm sóc vợ con, lo toan cuộc sống gia đình trong một khoản thời gian

19


nhất định. Do đó, cần xem xét cho người chồng được nghỉ việc, có thể là 2
tuần?
3. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN).
Chế độ này nhằm đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao
động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Người lao động sẽ
được trợ cấp một lần nếu như khi hồi phục sức khoẻ mà bị suy giảm khả năng
lao động dưới 31% và được trợ cấp hàng tháng nếu người lao động bị suy giảm
sức lao động từ 31%-100%, ngoài ra nếu tỷ lệ mất sức lao động từ 81% trở lên
thì cịn được hưởng trợ cấp tự phục vụ bằng 80% lương tối thiểu. Mức trợ cấp
phụ thuộc vào mức suy giảm khả năng lao động. Trong trường hợp người lao
động bị chết BHXH phải trợ cấp một lần cho gia đình người lao động 24 tháng

lương tối thiểu và thực hiện trợ cấp tuất theo quy định.
3.1. Tai nạn lao động
Nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã có sự tăng trưởng đáng kể.
Do những nhu cầu bức thiết về xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và
sinh hoạt xã hội, nguồn kinh phí, nguồn vốn đầu tư cho những cơng trình trọng
điểm này đã chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng Ngân sách Nhà nước. Đông
đảo lực lượng công nhân lao động được huy động vào lĩnh vực xây dựng. Song
có một thực tế đáng buồn đang trở thành mối quan tâm của toàn xã hội: Số vụ
TNLĐ mỗi năm một gia tăng, chiếm tỷ lệ cao nhất ở ngành xây dựng và tai nạn
giao thông đường bộ. Thực trạng tình hình trên khơng những gây những hậu
quả nghiêm trọng về tính mạnh, sức khoẻ của người lao động mà còn ảnh
hưởng xấu đến vấn đề an sinh xã hội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia tăng
số vụ TNLĐ đó là:
- Chế độ ATLĐ đã bị vi phạm hoặc bị xem thường từ phía người SDLĐ
và chính bản thân người lao động. Nhiều quy định về ATLĐ, các quy trình kỹ
thuật an tồn trong q trình lao động sản xuất đã khơng được tn thủ một
cách nghiêm ngặt.
- Nhiều doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận tối đa nên hạn chế chi phí mua
sắm hoặc cải tiến các trang thiết bị bảo hộ lao động.
- Bản thân người lao động, nhất là bộ phận công nhân hợp đồng lao động
theo thời vụ, chưa được hướng dẫn một cách tường tận các biện pháp an toàn
lao động, nên rất dễ chủ quan, mắc sai phạm.

20


- Các cơ quan giám sát, kiểm tra tiêu chuẩn an tồn lao động thực sự chưa
có biện pháp chế tài, xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm.
NTLĐ, nhất là TNLĐ trong nghành xây dựng, theo số liệu thống kê ở
Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1992 đến năm 1998, chiếm 4% tổng số người

chết so với tổng số người thiệt mạng trong các ngành nghề lao động khác nhau
gây ra. Số lượng người có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên còn cao hơn nhiều so
với số bị tử vong. Tình hình TNLĐ ở tỉnh Thừa Thiên- Huế nói chung và
TNLĐ trong ngành xây dựng nói riêng tuy chưa đến mức báo động nhưng mỗi
năm số vụ TNLĐ có hưởng chế độ trợ cấp BHXH đều tăng. Từ tháng 10/1995
đến tháng 6/1998, BHXH tỉnh đã giải quyết trợ cấp hàng tháng cho 54 trường
hợp TNLĐ, trong đó tai nạn giao thơng chiếm đến 20 trường hợp; giải quyết trợ
cấp 1 lần cho 71 trường hợp, trong dó tai nạn giao thơng có 26 trường hợp.
Cịn biết bao nhiêu vụ việc TNLĐ khác xảy ra cho những cơng nhân
khơng được tham gia BHXH thì chưa có số liệu cụ thể! Đã xảy ra nhiều trường
hợp TNLĐ đáng thương cho những người lao động ở dạng hợp đồng ngắn hạn
hoặc lao động thời vụ chỉ được người sử dụng lao động chi cấp cho một khoản
tiền nhỏ hồn tồn khơng tương ứng với mức độ tổn thương. Tình cảnh của
những đối tượng này rất thê thảm, bản thân bị mất sức lao động, nhiều khi kéo
dài, gia đình phải chịu nhiều phí tổn y tế. Đời sống kinh tế càng lâm vào cảnh
bế tắc! Điều gì sẽ xảy ra cho gia đình, xã hội một khi người ta cùng đường,
tuyệt vọng? BHXH là phương án tối ưu để đảm bảo sự ổn định cho người lao
động trong những trường hợp như thế. Nhưng thực tế còn rất nhiều đối tượng
lao động ở khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã bị chủ doanh nghiệp
đẩy ra ngoài “hành lang an tồn”. Tình trạng “rơi tự do” của người lao động lại
bắt nguồn từ những cú “lách” của người sử dụng lao động với những lý do: lao
động theo thời vụ, đơn vị sử dụng dưới 10 lao động!...
3.2. Bệnh nghề nghiệp
Bệnh nghề nghiệp (BNN) là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại
của nghề nghiệp tác động tới người lao động. Từ năm 1976 đến nay, tại Việt
Nam đã có 21 bệnh được Nhà nước cơng nhận là BNN, được BHXH thực hiện
trả trợ cấp. Tổng số ca mắc BNN và được giám định qua 10 năm 1991 đến
2000 là 9977 trường hợp. Số công nhân bị BNN được giám định trong giai
đoạn 1996 - 2000 đã tăng gấp 3 lần so với giai đoạn 1991- 1995, từ 2553 lên
7424 trường hợp. Trên Thế giới, chi phí cho TNLĐ và BNN ước tính chiếm tới

21


4% tổng sản phẩm quốc nội của một số nước. ở Việt Nam các chi phí này chưa
được ước tính.
Trong số 21 BNN, nhóm các bệnh phổi nghề nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất
(73%), rồi đến các bệnh do yếu tố vật lý (18,5%), các bệnh nhiễm độc nghề
nghiệp (4,5%), cuối cùng nhóm các bệnh nhiễm khuẩn nghề nghiệp (0,9%).
Những địa phương có số người lao động mới mắc BNN cao chủ yếu tập trung
vào các thành phố và tỉnh có các ngành cơng nghiệp phát triển như: Thái
Ngun, Quảng Ninh, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng Nai...
Nhìn chung, BNN có xu hướng tăng ở tất cả các nhóm BNN, đặc biệt là
các bệnh bụi phổi silic và điếc do tiếng ồn. Tính tới tháng 6/2001, số trường
hợp bị bệnh bụi phổi silic đã được giám định và được hưởng trợ cấp là 7125
trường hợp (chiếm trên 70% so với tổng số các BNN). Số trường hợp điếc do
tiếng ồn với 1868 trường hợp (chiếm trên 18%). Các BNN khác có số mắc cao
là nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật nghề nghiệp (214 trường hợp) bệnh sạm da
nghề nghiệp (212 trường hợp), bệnh nhiễm độc chì (166 trường hợp). Bệnh
nhiễm độc nicơtin nghề nghiệp được cơng nhận từ năm1998 nhưng cũng đã có
131 trường hợp phải giám định.
Số lượng nêu trên vẫn chưa phản ánh đúng thực tế tình hình BNN ở nước
ta. Trong những năm gần đây, đặc biệt là giai đoạn 1996- 2000, công tác khám
bệnh nghề nghiệp đã và đang được các địa phương cũng như các Bộ, nghành
chú trọng và quan tâm. Công tác khám BNN được triển khai rộng rãi do vậy số
phát hiện mắc BNN cũng đã tăng lên một cách đáng kể, Mặc dù vậy, số công
nhân được khám BNN mới chỉ đạt khoảng 1-5% trong tổng số công nhân tiếp
xúc với nguy cơ. Tỷ lệ phát hiện BNN chiếm 14,7% tổng số khám và tỷ lệ được
giám định là 37,5%. Tỷ lệ phát hiện số người mới mắc bệnh bụi phổi silic trên
tổng số công nhân được khám trung bình hàng năm là 15,75% trên tổng số
được giám định là 43%. Với sự đóng góp tích cực của cơ quan BHXH, Bảo

hiểm Y tế, người lao động bị BNN đã được hưởng các chế độ theo đúng quy
định của Nhà nước. Tuy nhiên, số công nhân được khám bệnh nghề nghiệp quá
thấp so với tổng số lao động tiếp xúc với các yếu tố có nguy cơ. Cơng tác giám
định cịn phức tạp và thiếu cán bộ nên mới giám định được 40% số đã phát hiện
bệnh. Các bệnh chưa khám phát hiện trong 10 năm qua là nhiễm độc asen,
mangan và bệnh giảm áp nghề nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng
BNN là:
22


- Môi trường lao động bị ô nhiễm nặng. Dây chuyền cơng nghệ sản xuất
nhiều nơi cịn lạc hậu, trang thiết bị bảo hộ lao động cũ, hỏng, hoặc thiếu làm
cho môi trường lao động bị ô nhiễm bởi: bụi, tiếng ồn, ánh sáng, hơi khí độc...
Hiện nay số mẫu đo mơi trường vượt tiêu chuẩn cho phép vẫn cịn cao (chiếm
khoảng 23%).
- Cơ cấu sản xuất mới, dây chuyền cơng nghệ mới, hình thành những
ngành sản xuất mới làm nảy sinh yếu tố có hại đến sức khoẻ người lao động và
hình thành những bệnh nghề nghiệp chưa có trong danh mục.
- Sức khoẻ người lao động chưa được quan tâm đúng mức cả từ phía
người sử dụng lao động và người lao động. Tại nhiều tỉnh, các doanh nghiệp
chưa quan tâm đến công tác giám sát môi trường lao động, khám sức khoẻ định
kỳ và khám bệnh nghề nghiệp cho cơng nhân. Người lao động ít hiểu biết về
quyền lợi và phịng chống các tác hại trong mơi trường độc hại. Việc không
thực hiện thường xuyên công tác giám sát môi trường lao đông, khám sức khoẻ
định kỳ dẫn tới khó khăn khi làm hồ sơ thủ tục cho người bị BNN đi giám định
và hưởng trợ cấp.
- Chi phí để giám sát mơi trường lao động và phát hiện BNN chưa được
đưa vào kế hoạch thường xuyên của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp
làm ăn kém hiệu quả khơng chú trọng đến cơng tác này. Chỉ có hơn 20% đối
tượng sau bị bệnh bụi phổi nghề nghiệp được chụp lại phim và đo chức năng hô

hấp, theo dõi tiến triển.
- Công tác tổ chức khám, phát hiện và giám định cho những công nhân sau
khi đã nghỉ hưu phát triển bệnh chưa được thực hiện kể cả phía doanh nghiệp
và cơ quan Nhà nước.
- Một số chế độ chính sách chưa phù hợp với người lao động bị BNN.
Những doanh nghiệp khơng đóng BHXH, BH Y tế thì việc khám phát hiện và
giám định bệnh nghề nghiệp càng không được chủ sử dụng lao động quan tâm
và làm mất quyền lợi của người lao động.
- Một số văn bản của Nhà nước chưa cụ thể, vì vậy việc thực hiện đối với
tuyến dưới còn lúng túng.
3.3. Một số giải pháp
Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp của người lao động như hiện nay la
rất đáng báo động, nó khơng những ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, quyền

23


lợi của người lao động mà còn làm ảnh hưởng đến việc bảo tồn quỹ BHXH do
đó cần phải:
+Bổ sung điều kiện về thời gian tham gia BHXh ít nhất là 6 tháng trước
khi xảy ra tai nạn lao động mới được hưởng trợ cấp tai nạn lao động (cũng như
ốm đau thuộc các bệnh dài ngày và trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động
hiện nay không khống chế thời gian đóng BHXH sẽ dẫn đến việc điều chỉnh dễ
dàng theo chủ quan của người lao động và người lao động để được hưởng
BHXH). Trong khoảng thời gian 6 tháng trước khi hưởng trợ cấp tai nạn lao
động do BHXH chi trả, nếu xảy ra tai nạn lao động thì chủ sử dụng lao động
phải chịu tồn bộ chi phí điều trị và phải trả trợ cấp tai nạn lao động cho người
lao động. Có như vậy, mới ràng buộc người sử dụng lao động trong việc sắp
xếp, bố trí cơng việc cho người lao động mới vào làm việc một cách phù hợp
và thực hiện tốt cơng tác huấn luyện an tồn vệ sinh lao động, trang bị bảo hộ

lao động.
+Thay đổi lại trợ cấp thương tật theo hướng cứ mất 1% sức lao động do
thương tật thì được trợ cấp một mức tương ứng. Thay cho quy định: mất sức
lao đông từ 31% đến 40% được trợ cấp như nhau, bằng 0,4 tháng tiền lương tối
thiểu.
+Bỏ quy định khi bị tai nạn lao động trên tuyến đường đi và về từ nơi ở
đến nơi làm việc được xác định là tai nạn lao động, vì chế độ BHXH hiện nay
khơng cịn gới hạn trong cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước mà đã được
mở rộng đến người lao động làm việc có tham gia BHXH ở các thành phần
kinh tế, đồng thời loại bỏ kẽ hở dễ dàng lạm dụng.
Đối với việc giải quyết chế độ tiền tuất cho thân nhân người lao động bị
tai nạn lao động, BNN chết nên áp dụng thống nhất như người đang làm việc
chết do bệnh tật, rủi ro.
4. Chế độ hưu trí
Đây là chế độ nhằm cung cấp một khoản trợ cấp thay thế cho phần thu
nhập không được nhận nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hưu. Người lao động được
hưởng trợ cấp hưu trí nếu như có thời gian đóng BHXH ít nhất là 20 năm. Cứ
15 năm đóng BHXH thì được lĩnh 45% lương bình qn 5 năm cuối, cứ thêm 1
năm đóng BHXH thì được cộng thêm vào lương hưu 2% tháng lương làm căn
cứ. Tức là người lao động đóng BHXH 30 năm thì được hưởng lương hưu 75%
tháng lương làm căn cứ, nếu cơng tác lớn hơn 30 năm thì cứ 1 năm tăng thêm
24


được cộng thêm 1/2 tháng lương căn cứ đóng BHXH (nhưng không quá 5
tháng).
Người lao động về hưu và được hưởng trợ cấp hưu trí thì thời gian tối
thiểu tham gia BHXH là 20 năm và tài liệu làm căn cứ chứng tỏ số năm đóng
BHXH đó chính là sổ BHXH. Một trong những chính sách BHXH là người lao
động dược bảo lưu q trình đóng BHXH từ nơi này sang nơi khác để cộng đủ

thời gian, đủ điều kiện hưởng chế độ BHXH hàng tháng. Đây cũng là mục tiêu
nhằm bảo đảm cho người lao động khi hết tuổi lao động được hưởng chế độ đãi
ngộ, an sinh xã hội. Nhưng hiện nay, người lao động không muốn bảo lưu sổ
BHXH, vấn đề này có thể là do một số nguyên nhân sau:
- Trong nền kinh tế thị trường, việc làm không ổn định, bản thân người lao
động vẫn cịn nặng tâm lý “người đâu của đó” sợ chính sách thay đổi.
- Các doanh nghiệp không muốn tiếp nhận giải quyết chế độ cho người lao
động, nên chưa quan tâm việc chuyển sổ BHXH hay các chế độ khác của người
lao động.
- Nhiều doanh nghiệp cịn tìm cách né tránh không nộp BHXH, các cơ sở
sản xuất không thuộc diện bắt buộc, nếu người lao động chuyển sổ BHXH sẽ
không được giải quyết.
- Theo quy định hồ sơ hưởng chế độ do người sử dung lao động lập
thường không cịn mối quan hệ mật thiết. Vì vậy, nếu người lao động bảo lưu
qua nhiều đơn vị, nhưng đến đơn vị cuối cùng không nộp BHXH, muốn trở về
đơn vị cũ để làm thủ tục liệu có được thuận lợi hay không hay là lại lý do thay
đổi thủ trưởng, doanh nghiệp giải thể... để người lao động đành ôm sổ BHXH
nhưng không làm được thủ tục để hưởng chế độ, cụ thể là chế độ hưu trí.
Do vậy, muốn phát huy tính ưu việt của chính sách BHXH mới nhất là chế
độ bảo lưu thì nghành BHXH cần nghiên cứu thêm:
+ Tuyên truyền mạnh mẽ tính xã hội của chế độ BHXH, vì hiện nay đa số
người lao động chỉ xem việc nộp BHXH như gửi tiết kiệm, so đo hơn thiệt, ít
chú ý tính an sinh xã hội lâu dài.
+ Bằng mọi biện pháp bắt buộc, các đơn vị sử dụng lao động, dù dưới 10
người, cũng phải nộp BHXH để tạo mặt bằng cạnh tranh đồng đều, giảm đi
những sơ hở mở đường cho người sử dụng lao động né tránh việc đóng BHXH.

25



×