Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận Nội dung tư tưởng đạo đức của Khổng Tử và vận dụng những giá trị ý nghĩa tư tưởng của ông trong công tác lãnh đạo, quản lý hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.96 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN LÃNH ĐẠO HỌC VÀ CHÍNH SÁCH CƠNG
*****

TIỂU LUẬN
Mơn:
Đề tài: “Nội dung tư tưởng đạo đức của
Khổng Tử và vận dụng những giá trị ý nghĩa tư tưởng của ông trong công tác
lãnh đạo, quản lý hiện nay”

Họ và tên: TẠ THỊ KIM HUỆ
Sinh ngày: 04/4/1987
Đơn vị cơng tác: Tỉnh đồn Vĩnh Phúc
Lớp: K27 Lãnh đạo học Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc, tháng 05 /2021


Chương 1
ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
I. SỰ BIẾN ĐỔI VỀ XÃ HỘI VÀ SỰ BĂNG HOẠI VỀ ĐẠO ĐỨC
TRONG XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI XUÂN THU VỚI QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
1. Sự biến đổi về lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội Trung Quốc thời
Xuân thu
Về mặt lịch sử, thời Xuân thu (770 - 403 trước Công nguyên) là thời kỳ
xã hội Trung Quốc biến chuyển từ chế độ chiếm hữu nô lệ mà đỉnh cao là chế
độ tông pháp nhà Tây Chu sang chế độ phong kiến sơ kỳ, thời kỳ trật tự lễ
nghĩa, chuẩn mực đạo đức của xã hội cũ bị băng hoại và mất dần vai trị lịch sử
của nó, nhưng trật tự thể chế, pháp luật và chuẩn mực đạo đức mới đang hình


thành, chưa đóng vai trị thống trị trong xã hội. Chính điều này là một trong
những ngun nhân hình thành tư tưởng đạo đức của Khởng Tử.
Về mặt kinh tế, với tư cách là cơ sở cho sự tồn tại của xã hội, thời Xuân
thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời kỳ đồ đồng sang thời kỳ đồ
sắt. Sự ra đời của đồ sắt đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất.
Nó thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực:
Nơng nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Đặc biệt, những tiến bộ vượt
bậc trong sản xuất nông nghiệp do sự xuất hiện của đồ sắt đã làm cho chế độ
“tỉnh điền” cơ sở kinh tế của chế độ nô lệ dần dần bị tan rã, chế độ tư hữu về
ruộng đất từng bước hình thành và ngày càng phát triển.
Về chính trị - xã hội, trên cơ sở sự chuyển biến về lịch sử và sự phát triển
về kinh tế đã dẫn đến sự biến động về chính trị - xã hội ở thời kỳ Xuân thu. Có
thể khái quát sự biến đổi về chính trị - xã hội Trung Quốc thời kỳ này ở một số
mặt sau: một là, sự phân hóa giai cấp và nạn “tiếm ngơi việt vị”; hai là, các
cuộc chiến tranh liên miên và ác liệt giữa các nước chư hầu hòng tranh giành
đất đai, quyền lực, làm bá chủ thiên hạ. Điều đó, đã làm cho đời sống nhân dân
vô cùng cực khổ, trật tự xã hội bị đảo lộn.
2. Sự băng hoại về đạo đức trong xã hội Trung Quốc thời Xuân thu.
Cùng với sự biến động về lịch sử, kinh tế và chính trị - xã hội, đạo đức trong
xã hội Trung Quốc thời Xuân thu cũng băng hoại. Điều này được biểu hiện ở sự đảo
lộn trong các mối quan hệ đạo đức dẫn tới cảnh bề tôi giết vua, con hại cha, anh em,


vợ chồng chia lìa thường xuyên xảy ra. Bên cạnh đó, thời Xuân thu, các chuẩn mực
đạo đức xã hội như: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, hiếu, đễ,... cũng băng hoại, khơng
cịn như trước nữa.
Tất cả sự biến đởi đã đặt ra một loạt các vấn đề buộc các nhà tư tưởng và
các bậc vua chúa thời kỳ này phải giải quyết. Trong đó, nởi bật là vấn đề làm
thế nào để có thể ởn định trật tự xã hội và giáo hóa đạo đức con người, đưa xã
hội từ “loạn” trở thành “trị”, con người từ “vô đạo” trở thành “có đạo”, “bất

nhân” trở thành “nhân nghĩa”. Để trả lời và giải quyết vấn đề trên, bên cạnh học
thuyết chính trị, Khổng Tử đã đưa ra tư tưởng về đạo đức, và đây cũng chính là
một trong những vấn đề trung tâm trong triết học của ông.
II. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ NHÂN TỐ CHỦ QUAN HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
1 Tiền đề lý luận hình thành tư tưởng đạo đức của Khổng Tử.
Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử đã kế thừa quan điểm về luân lý đạo đức
trong các thư tịch cổ được coi là cội nguồn của nền văn hóa Trung Hoa, như
Thượng Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch, Quốc Ngữ, Tả Truyện,… Đó là quan điểm
thiên mệnh, quan điểm này cho rằng trời bao bọc tất cả, là đấng linh diệu quyết
định sự biến hóa của mn vật, làm ra sự sống chết của con người và sự linh
thiêng của quỷ thần. Phàm cái đã hiện diện trong vũ trụ, thì khơng có cái gì
thốt khỏi vịng tạo hóa của trời, ngay cả đạo đức, lễ nghĩa, phẩm phục của con
người cũng là do trời sinh. Có lẽ vì thế mà việc kính trời, sợ trời đã trở thành
một quan niệm mang tính thế giới quan truyền thống của người Trung Hoa.
Quan niệm đó đã có ảnh hưởng đến các nhà tư tưởng Trung Hoa sau này, trong
đó có Khởng Tử.
Bên cạnh tư tưởng thiên mệnh, trong Chu Dịch lại có tư tưởng cho
rằng, có một khởi nguyên vũ trụ mang tính tuyệt đối, duy nhất, nhưng tiềm ẩn
không thấy rõ, là cơ sở của vũ trụ vạn vật, gọi là thái cực. Thái cực bao hàm hai
thế lực đối lập nhau, nhưng lại ln thống nhất, điều hịa tương tác nhau để sinh
ra vạn vật, gọi là âm và dương. Quan điểm về thái cực, âm dương bao hàm tính
tự nhiên và biện chứng tự phát. Khổng Tử, vào những năm cuối đời, đã dồn hết
tâm trí để nghiên cứu Chu Dịch và giải nghĩa những tư tưởng này thành phần
Dịch truyện, gọi chung là Kinh Dịch. Vì thế, tư tưởng của Khổng Tử không thể
không chịu ảnh hưởng từ Chu Dịch.


Do ảnh hưởng bởi hai luồng tư tưởng trên nên một mặt, Khổng Tử rất tin ở
trời, với ông, trời như vị quan tịa cơng minh, cầm cân nảy mực quyết định sự

sống chết và sự thành bại trong đời sống của con người. Ông coi việc hiểu biết
mệnh trời như là một điều kiện để trở thành con người hồn thiện. Song, mặt
khác, ơng lại khơng tán thành quan điểm cho rằng con người cứ nhắm mắt dựa
vào thiên mệnh. Ơng ln u cầu con người phải chú trọng nỗ lực học tập,
tận lực làm việc, việc thành bại như thế nào, lúc đó mới là tại trời. Đây cũng
chính là sự mâu thuẫn và tính hai mặt trong tư tưởng của ơng nói chung và tư
tưởng đạo đức nói riêng.
2. Nhân tố chủ quan hình thành tư tưởng đạo đức của Khổng Tử.
Lý luận, tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người
sáng tạo ra và được khái quát trên cơ sở nhận thức điều kiện khách quan. Vì
vậy, khi nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Khổng Tử - đặc điểm và ý nghĩa lịch
sử, nhất thiết phải nghiên cứu về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử
với tư cách là nhân tố chủ quan góp phần hình thành nên tư tưởng đạo đức của
ông.
Khổng Tử (551 – 479 TCN), tên Khâu, tự Trọng Ni, người ấp Trâu, làng
Xương Bình, nước Lỗ, nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đơng, Trung Quốc.
Ơng xuất thân trong gia đình q tộc sa sút, cha là Thúc Lương Ngột, mẹ là
Nhan Trưng Tại, hay cịn gọi là Nhan Thị. Ơng là người rất thơng minh, nhân
hậu, hết lịng lo việc cứu đời, vì dân, vì nước. Ơng đã đem cái đạo của thánh
hiền phát triển cho phù hợp với thời thế, lập thành học thuyết lưu trùn cho đời
sau. Vì vậy, Khởng Tử được vinh danh là một trong những nhà đạo đức, nhà
chính trị, nhà giáo dục lớn của Trung Quốc cở đại.
Với tư cách là nhà đạo đức, có thể nói, Khởng Tử là một người trọng lễ
nghĩa, có tính cách ơn hịa, nghiêm trang và kính cẩn. Ơng sống nhân hậu, luôn
đề cao nhân đức, lấy đạo đức làm trọng và là tấm gương sáng trong việc thực
hành đạo đức.
Với tư cách là nhà chính trị, ở thời đại của sự hỗn loạn và những cuộc
chiến tranh không dứt giữa các nước chư hầu, với mong muốn cải biến xã hội,
giáo hóa đạo đức con người, cứu thiên hạ, Khởng Khâu đã qn mình bơn ba khắp
nơi, du thuyết khắp nơi để thực hiện rộng rãi chủ trương nhân trị, khôi phục chế độ

tông pháp nhà Chu đã suy vong. Song, về căn bản, con đường hoạt động chính trị


của ơng gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng điều vĩ đại ở ông là: mặc dù biết
không thể làm được nhưng vẫn cố hết sức làm.
Không chỉ là nhà đạo đức, nhà chính trị, Khởng Tử cịn là một trong những
nhà giáo dục vĩ đại của Trung Quốc. Tư tưởng giáo dục của ông bao gồm cả ý
nghĩa giáo dục mọi người và được mọi người giáo dục. Một đời dạy học của
Khổng Tử cũng là một đời ơng tự rèn luyện mình. Ơng chính là một tấm gương
miệt mài giảng dạy, khiêm tốn học hỏi: “Học đạo mà không biết buồn chán, dạy
người mà không biết mệt mỏi”. Ông mong muốn đào tạo được những con người
lương thiện, có lễ nghĩa, nhất là đào tạo bậc quân tử có đủ nhân, trí, dũng để làm
quan, giúp nước.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, chính từ mơi trường xã hội, cùng với
năng lực cá nhân bẩm sinh và tư chất đề cao nhân trị, luôn lấy đạo đức làm
trọng đã hun đúc lên học thuyết triết học, tư tưởng đạo đức của ông ra đời.
Chương 2
NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN TRONG
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
I. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA
KHỔNG TỬ
1. Tư tưởng của Khổng Tử về vai trò của đạo đức.
Có thể thấy, Khởng Tử khơng đưa ra một định nghĩa, hay khái niệm
mang tính chất tổng quát về đạo đức, mà quan niệm về đạo đức được thể hiện ở
nhiều góc độ, đan xen trong hệ thống tư tưởng của ơng. Theo đó, đạo đức bao
gồm những quan hệ đạo đức như, vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn
bè và các chuẩn mực đạo đức đó là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, dũng, hiếu
đễ,... giữa chúng có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, bở sung, hỗ trợ cho
nhau, nó chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng, thước ngọc để
đánh giá phẩm hạnh của con người. Vì vậy, theo Khởng Tử, đạo đức có những

vai trò sau:
Thứ nhất, đạo đức có vai trò quan trọng trong việc tu dưỡng và rèn luyện
nhân cách con người.
Tu thân tức là sửa mình, là quá trình khắc phục những sai lầm, khiếm
khuyết trong suy nghĩ và hành động của mình để mình ngày càng hồn thiện,
đúng đắn, tốt đẹp. Theo Khởng Tử, muốn sửa mình cho thành người có đức hạnh


hoàn toàn, mỗi con người cần phải lấy những chuẩn mực đạo đức nhân, nghĩa,
lễ, tín, chính danh… làm cơ sở, nhân tố quan trọng trong việc điều chỉnh nhận
thức, hành vi của mình trong các mối quan hệ với bản thân, gia đình và xã hội
cho phù hợp. Vì vậy, Khởng Tử rất đề cao đạo đức, coi đó là tiền đề, điều kiện
quan trọng nhất trong việc tu dưỡng và rèn luyện nhân cách con người.
Thứ hai, đạo đức có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì trật tự
kỷ cương, ổn định xã hội
Khổng Tử cho rằng, dùng đạo đức trong giáo hóa và cai trị thì dân mới
nể phục mà khơng sai phạm nữa; cịn nếu dùng pháp luật thì dân sợ nhưng
khơng nể phục. Mặt khác, đạo đức có thể cảm hố được lòng người, thu phục
được lòng dân trong việc trị quốc, bình thiên hạ. Vậy nên, khi ơng Q Khương - tử hỏi Khổng Tử về cách cai trị, Khổng Tử đáp: “Ông muốn cai trị,
cần chi phải dùng sự chém giết? Nếu tự ơng muốn làm thiện, thì dân chúng sẽ
trở nên thiện hết cả”. Kế đến, Khổng Tử cho rằng, đạo đức cịn góp phần khắc
phục, loại trừ tình trạng phi nhân tính, vô đạo đức, bất chấp kỷ cương, phép tắc
trong xã hội. Khởng Tử nói: “Xử kiện, ta cũng biết xử như người: ta cũng biết
xét đoán ai phải, ai quấy và trừng trị kẻ phạm. Nhưng nếu dạy cho dân biết
nghĩa vụ, biết nhường nhịn, biết luật pháp mà giữ gìn, đặng họ chẳng đem nhau
đến tụng đình, như vậy chẳng hay hơn sao?”. Như vậy, theo Khởng Tử đạo đức
có vai trị quan trọng trong việc củng cố, duy trì trật tự kỷ cương, ởn định xã
hội.
Thứ ba, đạo đức và thực hành đạo đức đóng vai trò quyết định đối với
việc tạo lập mẫu người lý tưởng, góp phần tạo lập xã hội lý tưởng

Theo Khổng Tử, mẫu người lý tưởng - người quân tử phải là những người
hội tụ đầy đủ những phẩm chất đạo đức, như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng,
trung, hiếu đễ… phải là người tài đức vẹn tồn. Có thể nói, tồn bộ tâm huyết,
trí tuệ mẫn tiệp của Khổng Tử là nhằm chỉ ra bản chất, con đường thực hành về
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, trung, hiếu đễ,… cho mỗi con người, để họ từng
bước hướng tới mẫu người lý tưởng, góp phần tích cực vào việc xây dựng xã
hội thanh bình, êm ấm.
2. Tư tưởng của Khổng Tử về các quan hệ đạo đức và các chuẩn mực
đạo đức cơ bản
Một là, tư tưởng của Khổng Tử về các quan hệ đạo đức cơ bản.


Khởng Tử xác định, con người có năm mối quan hệ đạo đức cơ bản gọi là
“ngũ luân”, gồm quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè
(quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu).
Trong quan hệ vua tôi, Khổng Tử đề cao đức trung. Ơng cho rằng, dân vì
vua là trung, vua vì dân để được lịng dân tin cũng là trung. Vậy trung của
Khởng Tử có hai chiều giữa dân với vua, đòi hỏi sự hết lòng và thành tâm thật ý
trong quan hệ với nhau.
Quan hệ cha con: Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu làm
đầu, cha đối với con phải lấy lòng từ ái làm trọng. Khổng Tử cũng chỉ ra những
việc người con cần phải làm để thực hiện điều hiếu nghĩa với cha mẹ. Theo ông,
phận làm người con phải thực hiện điều hiếu nghĩa với cha mẹ suốt đời, khi cha mẹ
còn sống cũng như lúc qua đời chỉ cịn lại nấm mộ. Hiếu là phải có tâm, có lịng
thành, khơng có tâm, khơng có lịng thành thì sẽ không được gọi là hiếu. Quan
điểm “cha ra cha, con ra con” của ơng cũng địi hỏi cha mẹ phải đối xử với con cái
cho đúng đạo của mình.
Quan hệ vợ chồng: Khổng Tử cho rằng, đã là vợ chồng phải thủy chung,
hồ thuận, thương u chăm sóc nhau.
Quan hệ anh em: Anh em là những người cùng huyết thống, phải thật sự

u thương, quan tâm chăm sóc, đồn kết giúp đỡ nhau, tạo khơng khí hồ thuận,
kính trên nhường dưới, êm ấm trong ngồi có như vậy gia đình mới hạnh phúc.
Quan hệ bạn bè: Theo Khổng Tử, trong quan hệ bạn bè, trung, tín ln là
tiêu chuẩn của mọi hành vi.
Hai là, tư tưởng của Khổng Tử về các chuẩn mực đạo đức cơ bản
Về phạm trù nhân, theo Khởng Tử, nhân có hai nội dung cơ bản sau: Thứ
nhất là đối với bản thân mình, người có nhân phải luôn tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức để giúp ích cho nước, cho dân. Ơng nói: “người có nhân trước phải
làm những việc khó; sau thì thâu hoạch cuộc thành tựu của mình” . Thứ hai là
đối với người: nhân có nghĩa là thương người. “Phàn Trì hỏi về đức nhân,
Khởng Tử đáp: “nhân là thương người”. Tình u thương con người, theo
Khổng Tử phải được xây dựng trên hai nguyên tắc là trung và thứ. Bàn về chữ
trung, Khởng Tử giải thích: “trung là hết lịng hết dạ, thành tâm thật ý”. Cịn về
chữ thứ có nghĩa là: “việc gì mình khơng muốn chớ làm cho người”.
Về phạm trù nghĩa, Khổng Tử cho rằng, nghĩa là lẽ phải, đường hay việc
đúng phải làm một cách tự nhiên, không suy nghĩ, tính toán lợi hay hại, được hay


mất cho bản thân, biết tri ân đối với người đã giúp đỡ, cưu mang mình trong những
lúc khốn khó, bần hàn, kính trọng người tài năng và nhân đức. Khởng Tử đã từng
nói: “Nghĩa là cư xử cho thích hợp (nghi); nhưng đại để phải tơn trọng bậc hiền”.
Ngồi ra, trong các mối quan hệ xã hội của con người, như: vua tôi, cha con, anh
em, vợ chồng, bạn bè, nghĩa thể hiện với tư cách là trách nhiệm. Như vậy, nghĩa
trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử giúp cho con người biết phân minh việc phải
trái, làm việc tốt, việc thiện ở đời và hành xử công bằng theo lẽ phải. Cho nên,
người có nghĩa, theo Khởng Tử là người thường biết làm và dám làm những việc
lớn, đại sự, suốt đời phấn đấu cho sự thành cơng của sự nghiệp chung, lợi ích của
tồn thể.
Lễ theo Khổng Tử, không chỉ là quy định, phép tắc, chuẩn mực về mặt
đạo đức trong quan hệ ứng xử giữa người với người, mà lễ còn là trật tự, kỷ

cương, phép nước mà mọi người đều phải thực hiện. Mọi người thực hiện lễ
không được thái quá mà phải đúng mực. Theo ông, bất luận thái độ, hành vi
nào của con người, mặc dù về bản chất là tốt, nhưng thái quá, vượt khỏi lễ đều
phản tác dụng, thậm chí cịn gây nguy hại. Ơng nói: “cung kính q lễ thành ra
lao nhọc thân hình; cẩn thận quá lễ thành ra nhát gan; dũng cảm quá lễ thành ra
loạn nghịch; ngay thẳng quá lễ thành ra gắt gỏng, cấp bách”.
Đức trung trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử chỉ rõ thái độ, trách nhiệm,
nghĩa vụ của dân, bề tôi đối với nhà vua trong quan hệ vua - tôi. Tức là, bề tơi phải
hết lịng, hết dạ phụng sự nhà vua. Ơng nói: “Vua khiến bầy tơi thì phải giữ lễ phép;
bầy tơi thờ vua thì phải cho hết lòng”. Lòng trung phải xuất phát từ trong tâm con
người. Theo quan niệm của Khổng Tử, trung với vua không có nghĩa là bề tơi lúc
nào cũng hồn tồn tn theo mệnh lệnh của bề trên, mà phải có lịng dạ ngay
thẳng, biết can ngăn, khuyên nhủ vua theo đúng điều nhân, tránh cho vua phạm
những điều lầm lỗi.
Chữ tín có nghĩa là tạo được lịng tin đối với mọi người bằng sự trung
thực, lời nói phải đi đơi với việc làm. Trong ngũ luân, tín được xem là điều kiện
đầu tiên của mối quan hệ bạn bè “bằng hữu hữu tín” (bạn bè có lịng tin). Tuy
nhiên, theo quan điểm của Khởng Tử, nội hàm của đức tín khơng chỉ bó hẹp
trong mối quan hệ bạn bè mà cịn bao hàm cả lịng tin vơ hạn vào đạo lý của
bậc thánh hiền, các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ,…
Khổng Tử cho rằng, để nhận thức và hành động đúng bản chất của nhân,
nghĩa, lễ, trung, tín,… địi hỏi phải là những người có trí, dũng.


Theo Khởng Tử, trí là sự minh mẫn, sáng suốt của con người, phân biệt
được người chính, kẻ tà; xác định đúng tình huống để có cách ứng xử phải
đạo, có tình, có lý. Khi Phàn Trì hỏi về trí, Khởng Tử nói: “Trí là biết người”.
Về nguồn gốc của trí, bên cạnh việc thừa nhận có loại tri thức bẩm sinh do
trời phú cho những hạng người cao thượng; nhưng mặt khác, Khởng Tử cũng
thấy được vai trị to lớn của sự học trong việc hình thành, mở rộng và nâng

cao tri thức con người.
Trong tư tưởng Khổng Tử, dũng không chỉ sức khỏe thể chất, sức lực của
con người mà là ý chí, sức mạnh chí khí của con người. Vì vậy, người có dũng,
theo Khởng Tử khơng phải là kẻ ỷ vào bạo lực, vì lợi mà hành động bất chấp đạo
lý. Người có đức dũng, phải là người có ý chí quả cảm, hành động xả thân vì
nghĩa, “lập thân” và “đạt nhân”. Dũng cịn là tinh thần can đảm, dám bày tỏ ý
kiến đúng đắn của mình, có những hành động trung thực, thanh cao, dù ở trong
bất cứ hồn cảnh nào.
Theo Khởng Tử, các chuẩn mực đạo đức trên có mối liên hệ thống
nhất với nhau về nội dung, trong đó nhân được coi là chuẩn mực gốc, là toàn
đức, các chuẩn mực nghĩa, lễ, trí, tín, trung, dũng, hiếu, đễ,… cũng từ nhân
mà hình thành và có vai trị bở sung, chỉ ra cách thức, làm sáng tỏ nội dung
của nhân. Các chuẩn mực đạo đức này trở thành trục chính trong tư tưởng
đạo đức của Khổng Tử.
3. Tư tưởng của Khổng Tử về các phương pháp giáo dục đạo đức cho
con người trong xã hội.
Thứ nhất, phương pháp chính danh: Danh theo Khởng Tử có nghĩa là tên
gọi, địa vị, cơng dụng; chính có nghĩa là ngay thẳng, đúng đắn. Do đó, chính danh
là làm cho mọi người ai ở địa vị nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí và danh
phận của mình, cũng khơng dành vị trí của người khác, khơng lấn vượt và làm rối
loạn. Mặt khác, chính danh còn đòi hỏi mỗi người phải xứng đáng với cái danh mà
mình đang mang. Với những nội dung trên, ý nghĩa tích cực của phương pháp
chính danh là làm cho con người ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình
một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội.
Thứ hai, phương pháp thuyết giáo tùy nghi: Đó là phương pháp dạy học
tùy từng đối tượng. Trong sự nghiệp dạy học của mình, ơng ln tìm hiểu kỹ về
khả năng của học trị, trên cơ sở đó đề ra nội dung, yêu cầu, phương pháp giáo
dục đạo đức phù hợp với từng người.



Thứ ba, phương pháp làm gương: Khổng Tử cho rằng, giáo dục đạo đức
có điều dạy mà khơng nói, học trị nhìn vào thái độ, cử chỉ, hành vi của thầy là
có thể rút ra bài học. Mỗi sự mẫu mực, sự hoàn thiện nhân cách, sự nghiêm túc
của thầy đều có thể trở thành những bài học sinh động cho trị. Vì vậy, với ơng
sự làm gương của người thầy quan trọng hơn lời giảng. Người thầy phải gương
mẫu trong mọi hành vi, thái độ, cử chỉ của mình; đồng thời, phải có kiến thức
thâm cao, là tấm gương sống để người học nhìn vào đó noi theo. Đạt được
những tiêu chí đó mới làm thầy trong thiên hạ được, mới có thể giáo hóa được
mọi người.
Thứ tư, phương pháp tự tu dưỡng bản thân
Khổng Tử cho rằng, người học phải biết quan sát người để xét mình, biết
tìm những ưu điểm của người khác để học tập, đồng thời cũng biết nhìn ra
những khuyết điểm của họ để tự sửa chữa bản thân. Thậm chí, không ngại học
hỏi từ những người có địa vị thấp hơn mình. Ơng nói: “Thấy ai hiền đức, mình
nên tư tưởng để cố gắng cho bằng người. Thấy ai chẳng hiền, mình nên tự xét,
đừng bắt chước theo”. Mỗi ngày xem xét lại bản thân là cách tự giáo dục hiệu
quả tốt nhất, sẽ nhanh chóng sửa lỗi, hồn thiện bản thân, tránh được sai lầm.
Thứ năm, phương pháp thống nhất giữa học với hành, giữa tri thức và
cuộc sống
Khổng Tử luôn đề cao phương pháp học đi đôi với hành. Theo ông, học để
hiểu biết, nhưng không coi hiểu biết là mục đích cuối cùng mà cao hơn thế là
phải kết hợp học với hành, đem những tri thức đã học vận dụng vào trong cuộc
sống, tránh nói sng, học sng. Theo Khổng Tử, nếu chỉ biết thế nào là nhân,
lễ, nghĩa,… mà khơng thực hành nó thì đó mới chỉ là cái biểu hiện hời hợt bên
ngồi, khơng có ý nghĩa, nên ơng địi hỏi học trị phải thực hành những điều đã
học được với những người khác như với vua, với cha mẹ, anh em, bạn bè.
II. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA
KHỔNG TỬ
Từ việc nghiên cứu những nội dung trong tư tưởng đạo đức của Khởng Tử,
có thể thấy nởi lên một số đặc điểm cơ bản trong tư tưởng đạo đức của ông như sau :

1. Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện sự thống nhất giữa đạo
đức và chính trị


Sở dĩ, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện sự thống nhất giữa vấn đề
đạo đức với vấn đề chính trị - xã hội là vì, Xuân thu là thời kỳ xã hội Trung Quốc
có sự biến đởi sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực; đạo đức xã hội suy đồi, trật
tự thể chế và các chuẩn tắc xã hội đảo lộn,… đã khiến cho ông khơng thể bàng
quan trước thời cuộc và vận nước. Có thể nói, vấn đề ởn định chính trị - xã hội vừa
là động lực, vừa là mục đích tối cao trong việc đưa ra học thuyết đạo đức của
Khổng Tử. Hay nói cách khác, muốn ởn định chính trị - xã hội, theo Khổng Tử,
cần phải nghiên cứu về đạo đức con người, giáo hóa đạo đức con người. Ngược
lại, đạo đức được coi là phương tiện, công cụ chủ yếu và hiệu quả nhất của giai cấp
thống trị trong việc trị nước, quản lý xã hội. Không những thế, đạo đức cịn là điều
kiện quan trọng nhất để hình thành, hoàn thiện đạo đức con người và đạo đức xã
hội, là phương tiện hữu hiệu nhất để khắc phục những hành vi bất nhân của con
người, từ đó góp phần củng cố, duy trì, ởn định kỷ cương của xã hội.
Sự thống nhất giữa đạo đức và chính trị trong tư tưởng của Khổng Tử
được thể hiện trước hết trong quan điểm của ông về phẩm chất, nhân cách của
người cầm quyền. Thứ hai, các phạm trù nhân, lễ, chính danh khơng chỉ là
ngun tắc đạo đức cơ bản mà còn là hạt nhân trong học thuyết chính trị của
Khổng Tử, là đường lối trị nước trong tư tưởng của ông. Thứ ba, sự thống nhất
giữa tư tưởng đạo đức và chính trị còn được thể hiện qua mục đích và nội dung
giáo dục đạo đức trong tư tưởng của Khởng Tử nhằm tạo ra những con người có
kỉ cương, có đạo đức và những người lý tưởng.
2. Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện tính thống nhất giữa ý
thức cá nhân, gia đình và ý thức cộng đồng
Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, ngay từ đầu đã đặt các cá thể trong các
mối quan hệ xã hội khơng tách rời; xuất phát từ gia đình, lấy mơ hình gia đình mà
mở rộng đến làng, nước, điều này làm cho mỗi cá nhân khơng chỉ có ý thức trách

nhiệm đối với bản thân mình hay đối với gia đình (cao nhất là trách nhiệm báo
hiếu) mà cịn có trách nhiệm với quốc gia, xã tắc theo nguyên lý tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ.
3. Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện tính mâu thuẫn giữa
quan điểm tiến bộ với quan điểm bảo thủ, lạc hậu.
Trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử ln có sự mâu thuẫn, giằng co
giữa quan điểm tiến bộ với quan điểm bảo thủ, lạc hậu, phản ánh tâm trạng bị
giằng xé của ông trước biến chuyển của xã hội. Mặc dù vậy, tư tưởng đạo đức


của Khởng Tử vẫn có giá trị và ý nghĩa to lớn về mặt lý luận cũng như thực tiễn
trong chủ trương ổn định trật tự xã hội và giáo dục đạo đức con người.
Trên cơ sở tìm hiểu nội dung, đặc điểm cơ bản trong tư tưởng đạo đức
của Khổng Tử, tác giả nhận thấy, tư tưởng đạo đức của ơng thể hiện một trình
độ tư duy phong phú và sâu sắc. Điều này được biểu hiện qua việc Khởng Tử
khơng chỉ đưa ra quan điểm về vai trị của đạo đức mà ơng cịn xây dựng lên
một học thuyết đạo đức tương đối hoàn chỉnh, bao gồm các quan hệ đạo đức và
các chuẩn mực đạo đức hết sức cụ thể để điều chỉnh hành vi đạo đức của con
người.
Bên cạnh đó, Khổng Tử cũng chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho
người dân, coi đó là nhiệm vụ quan trọng nhất để đào tạo ra con người có đạo đức
và xã hội có đạo đức. Ơng đã đưa ra những phương pháp giáo dục đạo đức hết sức
tích cực và tiến bộ như: Phương pháp chính danh, phương pháp tùy nghi thuyết
giáo; phương pháp nêu gương; thống nhất giữa học với hành, giữa tri thức và cuộc
sống,… Chính điều này đã làm cho Khổng Tử không những trở thành nhà tư
tưởng kiệt xuất, mà còn là một nhà giáo dục vĩ đại, người thầy của muôn đời (vạn
thế sư biểu).
Những nội dung trong tư tưởng đạo đức của Khởng Tử, nhìn một cách khái
qt, nởi lên những đặc điểm chủ yếu sau: Một là, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử
thể hiện sự thống nhất giữa đạo đức và chính trị. Hai là, tư tưởng đạo đức của

Khổng Tử thể hiện tính thống nhất giữa ý thức cá nhân, gia đình và ý thức cộng
đồng. Ba là, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện tính mâu thuẫn giữa quan
điểm tiến bộ với quan điểm bảo thủ, lạc hậu.
Chương 3
GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
I. NHỮNG GIÁ TRỊ TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA
KHỔNG TỬ.
Thứ nhất, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử góp phần xây dựng một xã hội
có tôn ti trật tự từ trên xuống dưới, từ bản thân mỗi cá nhân đến gia đình và xã
hội.
Trước thực trạng xã hội thời Xuân thu rối loạn, trật tự kỷ cương đảo lộn,
con người sống bất nhân, bất nghĩa, cha không ra cha, con không ra con, vua


không ra vua, tôi không ra tôi, Khổng Tử đã đưa ra các tiêu chuẩn như, như
cha hiền, con thảo, anh tốt em ngoan, chồng biết tình vợ nghe lẽ phải, bề trên
từ hiếu, bề dưới kính thuận, vua nhân từ, tôi trung thành; cùng với các chuẩn
mực đạo đức như: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, dũng,… nhằm định hình
trong mỗi con người cách ứng xử cho phải đạo. Không chỉ đưa ra các yêu cầu,
chuẩn mực đạo đức để con người tu dưỡng, rèn luyện, mà Khổng Tử còn rất
đề cao việc học và việc dạy đạo đức để thực hiện đạo làm người, trở thành
người có đạo đức, có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội. Với
những nội dung trên, tư tưởng đạo đức của Khởng Tử đã góp phần xây dựng
một cộng đồng xã hội có trật tự, kỷ cương, nền nếp từ gia đình đến ngồi xã
hội.
Thứ hai, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử hàm chứa giá trị nhân bản, nhân
văn khá sâu sắc.
Với tư tưởng chọn con người làm yếu tố căn bản, trung tâm, coi trọng xây
dựng và xử lý các mối quan hệ giữa người với người dựa trên các quy tắc, tiêu

chuẩn nhân luân. Tin vào khả năng hoàn thiện của con người. Coi đạo đức tối
cao của con người là nhân, phạm vi hành động là lễ, phương pháp đối xử với
mọi người là trung thứ,… Khổng Tử đã chủ trương quý trọng sinh mạng, vì yêu
thương người thân mà yêu thương mọi người, vì yêu thương loài người nên ủng
hộ nền chính trị nhân chính để xây dựng thế giới đại đồng cùng với những nỗ
lực để thực hiện khát vọng hạnh phúc cho con người gắn với việc đánh giá mức
độ “thành nhân” của họ; trong đó, bao gồm cả việc hồn thiện nhân cách và
hoàn thành nghĩa vụ làm người, khẳng định vai trò của dân, nhấn mạnh cả yếu
tố vật chất và tinh thần, khơng bỏ qua vai trị của cá nhân, tập thể đứng đầu…
đã cho thấy giá trị nhân bản, nhân văn đáng được ghi nhận trong tư tưởng đạo
đức của Khổng Tử.
II. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA
KHỔNG TỬ TRONG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ.
Thứ nhất, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện quan điểm duy tâm,
và phiến diện về lịch sử
Khổng Tử đã quan niệm đạo đức là nhân tố duy nhất quyết định sự hưng
vong, thịnh suy của triều đại mà quên mất vai trò quyết định của kinh tế, của tồn
tại xã hội đã thể hiện quan điểm duy tâm về lịch sử trong tư tưởng đạo đức của
ông. Bên cạnh đó, tư tưởng đạo đức của Khởng Tử đã đề cao đến mức tuyệt đối


hóa vai trị đạo đức của nhà vua trong việc ổn định xã hội. Ông coi đạo đức của
người quân tử, tức giới cầm quyền, mang tính quyết định đến đạo đức của tiểu
nhân (thảo dân). Đó là quan niệm hết sức siêu hình, phiến diện và một chiều.
Khởng Tử rất quan tâm đến lĩnh vực giáo dục con người. Mục đích của ơng là
nhằm giáo hóa, đào tạo, hồn thiện con người. Theo ơng, sự hồn thiện con người
vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện hoàn thiện xã hội, nhưng ông lại chú trọng
đến con người chủ yếu ở phương diện đạo đức. Quan niệm của Khổng Tử về con
người như vậy không thể tránh khỏi tính chất siêu hình.
Thứ hai, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử còn mang dấu ấn đẳng cấp,

danh phận.
Bất cứ một thời đại nào trong lịch sử, các nhà triết học ít hay nhiều cũng đều
bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng ở thời đại của mình đang sống và giai cấp hay
tầng lớp mà mình là người đại diện, như C.Mác nhận định: “Các triết gia không
mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình”. Khổng Tử cũng
vậy, sinh ra và lớn lên trong giai đoạn chiến tranh triền miên, đạo đức con người bị
băng hoại, ơng lại là người có dịng dõi q tộc, vì muốn khơi phục lại xã hội như
thời Tây Chu cho nên tư tưởng của ông không thể không mang dấu ấn đẳng cấp,
danh phận.
Vì vậy, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử trên thực chất chỉ đề cao đạo đức
của giai cấp thống trị, hệ thống chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng của ông được
coi là “khuôn vàng thước ngọc” buộc mọi người phải thực hiện trong suy nghĩ
và hành động nhằm mục đích phục vụ cho giai cấp thống trị, bảo vệ chế độ
phong kiến trì trệ, lạc hậu. Do đó, nó rất khó có thể dung nạp được những tư
tưởng mới mẻ, cách mạng, và khi trình độ dân trí đã phát triển thì những mặt hạn
chế đó trong tư tưởng đạo đức của Khởng Tử nếu không được khắc phục sẽ trở
thành lực cản và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA
KHỔNG TỬ.
1. Ý nghĩa về mặt lý luận trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử.
Thứ nhất, Khổng Tử đã đưa ra các quan hệ đạo đức và các chuẩn mực
đạo đức khá phong phú, sâu sắc.
Các yêu cầu, chuẩn mực trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử vẫn còn
những giá trị nhân văn và học thuật sâu sắc. Những giá trị đó, chính là tinh thần


trọng điều nhân, nghĩa, quý người hiền, khinh lợi, ghét kẻ bất hiếu, bất trung,
giữ vững nghĩa khí trong mọi hồn cảnh. Chính vì vậy, sau khi Khởng Tử mất,
tư tưởng đạo đức của ơng đã được học trị và các thế hệ Nho gia sau này kế
thừa, phát triển, khơng những thế nó cịn ảnh hưởng tới rất nhiều nước trên thế

giới, trong đó có Việt Nam.
Thứ hai, phương pháp giáo dục đạo đức cho con người trong tư tưởng
của Khởng Tử là một đóng góp to lớn và quý báu vào sự hình thành, phát triển
lý luận về tâm lý và lý luận về giáo dục trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.
2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử
Thứ nhất, tư tưởng đạo đức của Khởng Tử có ý nghĩa trong việc xác định
rõ yêu cầu và trách nhiệm của mỗi người trong các quan hệ xã hội.
Thư hai, tư tưởng đạo đức của Khởng Tử có ý nghĩa trong việc điều
chỉnh hành vi đạo đức của con người.
Khổng Tử đã đưa ra những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức hết sức cụ
thể đó là nhân, nghĩa, lễ, dũng, tín, hiếu,... để điều chỉnh hành vi đạo đức của
con người trong các mối quan hệ.
Thứ ba, tư tưởng đạo đức của Khởng Tử có ý nghĩa trong việc cai trị và
quản lý xã hội.
Các phạm trù, nhân, lễ, chính danh trong tư tưởng đạo đức của Khởng
Tử có ý nghĩa tích cực trong việc thực hiện đường lối cai trị và quản lý xã hội,
là phương tiện, công cụ nhằm duy trì, bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị và trật
tự kỉ cương của chế độ phong kiến. Mặc dù trải qua bao biến thiên của lịch sử,
cũng như sự thay đổi của các triều đại phong kiến, tư tưởng đạo đức của
Khởng Tử vẫn cịn ghi dấu ấn trong các kế sách chính trị của các vua chúa
phong kiến và đời sống nhân dân Trung Hoa trong lịch sử. Khơng những thế,
nó cịn ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống đạo đức xã hội ở một số nước
phương Đông như, Việt Nam, Nhật bản, Triều Tiên…
IV. VẬN DỤNG GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG KHỔNG TỬ TRONG
CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ HIỆN NAY.
Trong thực tiễn công tác cải cách quản lý doanh nghiệp liên quan đến hai
đặc tính lớn là tính dân tộc và tính thời đại của quản lý, về khách quan cũng tồn
tại hai thái độ cực đoan đối với hai đặc tính lớn này. Đó chính là: Hoặc là chủ
nghĩa bảo thủ dân tộc chỉ nhấn mạnh tính dân tộc của quản lý mà coi nhẹ tính



thời đaị, hoặc chủ nghĩa hư vô dân tộc chỉ nhấn mạnh tính thời đại của quản lý
mà coi nhẹ tính dân tộc. Hai thái độ này, về nhận thức để phiến diện, trong thực
tiễn đều là có hại. Noi gương kinh nghiệm của Nhật Bản, trong hai thái độ cực
đoan này cũng nên tìm được “Trung đạo” và kiên trì “trung dung”. Đó chính là
một mặt biểu hiện khác của đạo trung dung trong quản lý doanh nghiệp. “Trung
đạo” này địi hỏi sự thống nhất hồn mỹ giữa tính dân tộc và tính thời đại hoá
quản lý doanh nghiệp, thực hiện việc hiện đại hoá quản lý doanh nghiệp có bản
sắc dân tộc, cũng tức là quản lý doanh nghiệp có đặc sắc của Trung Quốc.
Từ góc độ quản lý hiện đại, tiến hành phân tích, giám định toàn diện một
lượt đối với quản lý truyền thống của Trung Quốc, cũng chính là xem xét một
cách hệ thống “hiện thực” quản lý doanh nghiệp. Đối với những tư tưởng, lý
luận, chế độ, phương pháp quản lý doanh nghiệp được chứng minh qua thực
tiễn lâu dài, đã có đặc điểm văn hoá dân tộc, lại phù hợp với đặc trưng cơ bản
của quản lý doanh nghiệp hiện đại, phải tiến hành khẳng định, kế thừa và phát
triển một cách đầy đủ. Đối với những cái có đặc điểm văn hố dân tộc, nhưng
khơng hồn tồn phù hợp với đặc trưng cơ bản của quản lý doanh nghiệp hiện
đại, nên căn cứ yêu cầu của quản lý hiện đại. Dưới tiền đề giữ gìn đặc tính cơ
bản dân tộc, tiến hành cải tạo, loại bỏ, làm cho nó phù hợp với đòi hỏi của quản
lý hiện đại. Chẳng hạn thực tiễn công tác giáo dục tư tưởng tiến hành mấy chục
năm lại đây trong các xí nghiệp của Trung Quốc đại lục đã phù hợp với quan
niệm nghĩa lợi trong truyền thống văn hố dân tộc, lại nhất trí ở trình độ tương
đối lớn với quản lý mềm, quản lý của thế giới ngày nay rất chú trọng đối với các
doanh nghiệp.
Về thực tiễn, quản lý đã có từ lâu. Nhưng quản lý trở thành một khoa học
thì khởi đầu phải nói là phương Tây. Ở thế kỷ này, nhất là trước thập kỷ 70,
quản lý học phát triển nhanh chóng, các học phái mọc ra như nấm, một cảnh
tượng phát triển rực rỡ. Cần phải nói rằng, về mặt khoa học hố, định lượng hố
về quản lý thì quản lý phương Tây có cơng đầu.
Đường lối đức trị trong quản lý, chủ yếu là dựa vào xây dựng quan niệm

giá trị chung của mọi người, dựa vào quyền lực phi chính thức của bản thân
người lãnh đạo như phẩm chất đạo đức, tài năng, tình cảm…, dẫn dắt mọi người
hồn thiện cuộc sống tinh thần và tu dưỡng đạo đức, trên cơ sở đó, thực hiện


khống chế bên trong của hành vi, khiến cho hành vi của mọi người tự giác đảm
bảo nhất trí với mục tiêu tổ chức.
Cái lợi và cái hại của quản lý đức trị, hầu như ngược lại với quản lý pháp
trị, ưu điểm, khuyết điểm trái ngược nhau. Pháp trị dựa vào sức răn đe, ln
ln có hiệu quả ngay. Đức trị dựa vào giáo hoá, dựa vào tư tưởng để giải quyết
vấn đề. Như vậy, hiệu quả sẽ nhìn thấy chậm. Nhất là hình thành đạo đức nếp
sống lí tưởng, xây dựng quan niệm giá trị chung thì mất thời gian, quyết không
thể một sớm một chiều. Do vậy, dùng nó để ngăn cấm ác, giảm lan trùn thì tỏ
ra lực bất tòng tâm. Nhất là trong khi quản lý xuất hiện hỗn loạn, đòi hỏi dẹp
loạn để xây dựng lại trật tự, làm cho quản lý nhanh chóng từ khơng nền nếp
chuyển biến thành có nền nếp thì đức trị tỏ ra mềm yếu đuối sức. Nhưng sau khi
một loại tư tưởng, một loại quan niệm giá trị được mọi người tiếp nhận, thì thời
gian phát huy tác dụng của nó tương đối dài, thậm chí là rất sâu xa. Điểm này
quản lý pháp trị khơng sao bì kịp. Do vậy, có thể nói pháp trị theo đởi là hiệu
quả thời gian ngắn, đức trị theo đổi là hiệu quả thời gian dài. Pháp trị là quản lý
tính chiến thuật, đức trị là quản lý tính chiến lược.
Còn chức năng đức trị ở chỗ “khun thiện”. Nó khơng phải là giảm lưu
truyền, ngăn chặn “ác” một cách tiêu cực mà là tích cực tiêu diệt tận gốc cái
“ác”, thực hiện “chặt đứt gốc rễ”, giải quyết vấn đề từ căn bản.
KẾT LUẬN
Quan niệm của Khổng Tử về người lãnh đạo: Quân – Thần. Quan niệm
của Không tử về người lãnh đạo chia ra làm 2 loại: Quân là Vua, là lãnh đạo tối
cao, chỉ chịu mệnh trời; Thần là tầng lớp lãnh đạo trung gian, trên vạn người
nhưng vẫn dưới một người.
Vua quan vừa có quyền dẫn dắt (lãnh đạo) nhưng phải có trách nhiệm lo

cho dân như lo cho con cháu trong gia tộc.
Không cần giữ vị trí chính thức vẫn có thể lãnh đạo, miễn là người đó có
tư cách của “Quân tử”, làm sáng tỏ truyền bá và thi hành “đạo”, qua đó ảnh
hưởng đến các người khác ngay cả khi mình khơng trực tiếp lãnh đạo họ.Vi
chính – yếu tố cốt lõi của lãnh đạo.
Yếu tố chủ đạo để làm nên sự hiệu quả trong vai trị lãnh đạo đó là
“Chính”. Lãnh đạo cần làm những điều “chính đáng”, là “vi chính”, mà cụ thể


là “vi chính dĩ đức” , làm các điều chính đáng để tơn vinh đạo đức, lấy đó làm
giá trị cốt lõi. Chỉ có “chính” mới làm nên sự ảnh hưởng chứ không phải sự
cưỡng bức.



×