Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhất linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.2 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

TƢ DUY NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 822.0121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Hạnh

Thái Nguyên - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự
hƣớng dẫn của TS. Vũ Thị Hạnh. Các kết quả trong luận văn là trung thực và
chƣa từng đƣợc công bố trông bất cứ cơng trình nào.
Thái Ngun, Tháng

năm 2021

Tác giải luận văn

Nguyễn Thị Huyền Trang


i


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Vũ Thị Hạnh, ngƣời đã tận
tình giúp đỡ và hƣớng dẫn tơi trong suốt q trình tôi thực hiện đề tài nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và cán bộ
trong khoa Báo chí truyền thơng và Văn học đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Tơi xin giử lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp, những ngƣời
đã luôn ủng hộ và động viên tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Thái Nguyên, Tháng

năm 2021

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền Trang

ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 8
4. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................... 9
6. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................ 10

7. Kết cấu của luận văn ....................................................................................... 10
NỘI DUNG ......................................................................................................... 11
CHƢƠNG 1. TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ TƢ DUY NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH................................................................... 11
1.1. Tổng quan về tƣ duy nghệ thuật ................................................................... 11
1.1.1. Tƣ duy và những khái niệm gần nghĩa .................................................. 11
1.1.2. Tƣ duy nghệ thuật .................................................................................. 12
1.1.3. Tƣ duy nghệ thuật tiểu thuyết ................................................................ 14
1.2. Nhất Linh trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam hiện đại ............................ 17
1.2.1. Nhất Linh - cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng .................................... 17
1.2.2. Tiểu thuyết của Nhất Linh trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam hiện đại .. 20
1.3. Quan niệm nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nhất Linh ............................... 27
1.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Nhất Linh .............................. 27
1.3.2. Quan niệm về thể loại của Nhất Linh .................................................... 32
CHƢƠNG 2 HÌNH TƢỢNG THẨM MĨ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT
LINH ................................................................................................................... 37
2.1. Hình tƣợng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh ................................. 37
2.1.1. Hình tƣợng nhân vật đại diện luân lý và đạo đức phong kiến ............... 37
2.1.2. Hình tƣợng nhân vật đại diện cho tầng lớp tri thức mới ....................... 44
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ..................................................................... 53
2.2.1. Miêu tả ngoại hình và tính cách nhân vật .............................................. 53
2.2.2. Miêu tả tâm lý nhân vật qua đối thoại, độc thoại nội tâm ..................... 57
iii


2.2.3. Miêu tả tâm lý, tính cách qua các xung đột ........................................... 60
CHƢƠNG 3 NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA
NHẤT LINH ........................................................................................................ 64
3.1. Đa dạng hóa các hình thức kết cấu............................................................... 64
3.1.1. Kết cấu luận đề ...................................................................................... 64

3.1.2. Kết cấu tâm lý ........................................................................................ 69
3.1.3. Kết cấu đa tuyến .................................................................................... 73
3.2. Ngôn ngữ ...................................................................................................... 75
3.2.1. Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, giàu âm thanh và hình ảnh ......................... 76
3.2.2. Ngôn ngữ ngắn gọn, mạch lạc, trong sáng ............................................ 78
3.2.3. Ngơn ngữ giàu tính biểu cảm................................................................. 81
3.3. Giọng điệu giàu sắc thái thẩm mĩ ................................................................. 84
3.3.1. Giọng điệu triết lý, chiêm nghiệm, suy tƣ ............................................. 84
3.3.2. Giọng điệu trữ tình sâu lắng .................................................................. 87
3.3.3. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm ............................................................ 89
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 94

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tƣ duy nghệ thuật là một dạng hoạt động trí tuệ của ngƣời nghệ sĩ
nhằm hƣớng tới quá trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm văn học nghệ thuật. Tƣ
duy nghệ thuật phản ánh sự khái quát hóa hiện thực thế giới xung quanh con
ngƣời, giúp con ngƣời bộc lộ những tƣ tƣởng, suy nghĩ, cảm xúc thông qua
những phƣơng thức diễn đạt để tạo ra những sản phẩm nghệ thuật khác nhau.
Mỗi một hình thức nghệ thuật đều là sản phẩm trong quá trình tƣ duy nghệ thuật
của ngƣời nghệ sĩ.
Tƣ duy nghệ thuật đƣợc thể hiện thông qua sự cắt nghĩa, lý giải của nhà
văn về nhân sinh quan, thế giới quan và nghệ thuật. Các tác phẩm nghệ thuật
đều thể hiện rõ quan niệm của ngƣời nghệ sĩ, tƣ tƣởng thẩm mĩ cũng nhƣ sự lựa
chọn các phƣơng tiện nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật còn là cầu nối giữa ngƣời
nghệ sĩ với ngƣời thƣởng thức. Thông qua một tác phẩm, ngƣời thƣởng thức có

thể cảm nhận đƣợc hết những nội dung, ý nghĩa, tƣ tƣởng mà ngƣời nghệ sĩ
muốn đề cập đến.
Vì thế, nghiên cứu về tƣ duy nghệ thuật trong sáng tác của một tác giả
không chỉ góp phần giúp ngƣời đọc chiếm lĩnh thế giới tác phẩm một cách trọn
vẹn hơn, tìm ra sự chi phối của thế giới quan, nhân sinh quan từ tác giả đến tác
phẩm, chỉ ra mạch nối trong việc xây dựng các hình tƣợng thẩm mĩ, lựa chọn
phƣơng thức biểu đạt,… Điều đó đã khiến cho việc nghiên cứu về tƣ duy nghệ
thuật trở thành một hƣớng đi có nhiều triển vọng trong việc nghiên cứu các tác
phẩm văn học.
1.2. Nói đến tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, chúng ta không thể khơng nói
đến tiểu thuyết Tự lực văn đồn - một tổ chức văn học do Nhất Linh khởi
xƣớng. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là một thành tựu nghệ thuật của văn học
Việt Nam trong thời kỳ 1930-1945. Các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đồn
khơng chỉ sáng tác mà cịn phê bình, đƣa ra những ý kiến trình bày quan niệm
của mình xoay quanh vấn đề nghệ thuật tiểu thuyết. Lịch sử văn học Việt Nam
1


ghi nhận Tự lực văn đồn khơng phải là nhóm duy nhất nhƣng là nhóm quan
trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại. Để Tự lực văn
đồn có một vị thế quan trọng nhƣ vậy, chúng ta khơng thể khơng nhắc đến vai
trị Nhất Linh, ngƣời khởi xƣớng cũng nhƣ ngƣời lãnh đạo duy trì hoạt động của
tổ chức trong khoảng một thập kỉ qua.
1.3. Cho đến nay, lịch sử nghiên cứu về Nhất Linh đã có khá nhiều những
cơng trình nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu chun
sâu về tiểu thuyết của Nhất Linh dƣới góc nhìn tƣ duy nghệ thuật vẫn là một đề
tài mới. Chính điều đó khiến chúng tơi chọn đề tài Tƣ duy nghệ thuật trong tiểu
thuyết của Nhất Linh để thực hiện luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Với vai trị trụ cột của nhóm Tự lực văn đồn, các tài liệu nghiên cứu về

Nhất Linh đến nay tƣơng đối phong phú. Ngay từ khi mới thành lập nhóm Tự
lực văn đồn, đã có nhiều bài phê bình đƣợc đăng trên báo, tạp chí, sách nghiên
cứu, cơng trình biên soạn, luận án, luận văn, các bài viết xoay quanh con ngƣời,
sự nghiệp của Nhất Linh cũng nhƣ đóng góp của ơng đối với Tự lực văn đoàn và
văn học hiện đại Việt Nam.
Giai đoạn trước năm 1945
Đây là giai đoạn đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh cũng
nhƣ nhóm Tự lực văn đồn xuất hiện với nhiều cơng trình nghiên cứu về tác giả,
tác phẩm trong nhóm Tự lực văn đoàn. Nhất Linh là ngƣời sáng lập ra nhóm Tự
lực văn đồn - một hiện tƣợng văn học tiêu biểu, có sức ảnh hƣởng rất lớn tới
đời sống văn chƣơng những năm 1930. Bởi sức ảnh hƣởng mạnh mẽ, cùng với
đó là những đổi mới trên nhiều phƣơng diện nên những sáng tác của Tự lực văn
đồn nói chung và của Nhất Linh nói riêng đã có một sức hấp dẫn rất lớn đối với
độc giả cũng nhƣ giới nghiên cứu, phê bình văn học.
Trƣơng Chính là ngƣời đã ủng hộ những vấn đề mới mẻ đặt ra trong tác
phẩm của các nhà văn Tự lực văn đoàn. Tác giả đã nhận định: “Đoạn tuyệt vẫn
là một kiệt tác trong văn chƣơng Việt Nam. Vì Đoạn tuyệt khơng chỉ có một giá
2


trị xã hội. Nó cịn có một giá trị tâm lý không ai chối cãi đƣợc” [24, tr. 302];
“Đời mưa gió là một kiệt tác, dẫu nhiều ngƣời đã dựa vào luân lý, dựa vào đạo
đức, tìm cớ kết án nó” [24, tr. 333]. Những đánh giá, nhận định của ông phù hợp
với sự cách tân, tiếp nhận cái mới, đả phá cái cũ, lỗi thời, các trật tự đạo đức,
chống lễ giáo phong kiến, coi trọng con ngƣời cá nhân, những quan niệm mới,
đồng thuận với những mẫu ngƣời trẻ trung tân thời.
Bạch Năng Thi đã dành cho Nhất Linh những nhận xét hết sức chân thực:
“Trong Tự lực văn đoàn, nghệ thuật của Nhất Linh vững vàng nhất. Trƣớc hết là do
tác giả có ý thức đấu tranh bằng văn nghệ cho những quan điểm xã hội của mình.
Hai là do ngƣời viết chủ động khi cầm bút, lối văn ngắn ngọn, chính xác, vừa giản

dị, vừa chọn lọc. Nhƣng nếu xét ở nghệ thuật miêu tả của một tác giả nhƣ một quá
trình vận động phát triển thì rõ ràng thành cơng nhất của Nhất Linh ở chỗ tác phẩm
Nhất Linh mang tính chất của một nghệ thuật vận động” [24, tr. 89 - 90].
Nhận xét về Nhất Linh, Trƣơng Chính cũng cho rằng “Về nghệ thuật
trong Tự lực văn đồn phải cơng nhận Nhất Linh là cây bút vững vàng nhất.
Cách bố trí truyện, cách sáng tạo nhân vật, cách sử dụng nhân vật chung quanh
để làm nổi bật tâm lý nhân vật, các nhân vật trong Tự lực văn đồn đều ít nhiều
chịu ảnh hƣởng của ông cả” [24, tr. 89].
Dƣơng Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu đã giới thiệu sơ
lƣợc tôn chỉ về đƣờng văn chƣơng, các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đồn
sáng tác bằng lối văn bình thƣờng, giản dị, ít dùng chữ nho, theo cú pháp mới,
để cho mọi tầng lớp đều có thể hiểu đƣợc. Tác giả cũng chú ý đến những tiểu
thuyết của Nhất Linh và cho rằng “ hầu hết các tác phẩm của ông là những luận
đề tiểu thuyết…” [27, tr. 445] và đánh giá cao những đóng góp của nhóm Tự lực
văn đồn nói chung và nhà văn Nhất Linh nói riêng về mặt ngơn ngữ “phái ấy
lại có cơng trong việc làm cho thể văn quốc ngữ trở nên sáng sủa, bình dị, khiến
cho nhiều ngƣời thích đọc” [27, tr. 447]
Vũ Ngọc Phan với cuốn Nhà văn hiện đại, tập II, tác giả đã dành hơn 100
trang cho Nhất Linh, Khái Hƣng, Hoàng Đạo, Thạch Lam với nhiều ý kiến xác
3


đáng, thừa nhận tài năng sáng tác của các nhà văn, nhất là về tiểu thuyết của
Nhất Linh. Ông cho rằng: “Phần nhiều tiểu thuyết của ông đã đi vào loại tiểu
thuyết tình cảm, rồi đi thẳng vào loại tiểu thuyết luận đề là một lối rất mới ở
nƣớc ta. Đến nay, trong loại tiểu thuyết, tiểu thuyết luận đề Nhất Linh vẫn là
những tiểu thuyết chiếm địa vị cao hơn cả…”[79, tr. 837]
Nhƣ vậy, giai đoạn trƣớc năm 1945, phần lớn các nhà nghiên cứu đánh
giá cao giá trị nội dung tƣ tƣởng của tiểu thuyết Nhất Linh nhƣ đề cao quyền
sống, coi trọng con ngƣời cá nhân, chủ trƣơng cải cách xã hội. Trên phƣơng diện

nghệ thuật, các cơng trình nghiên cứu kể trên đã khẳng định tiểu thuyết của Nhất
Linh có sự đổi mới, cách tân trong việc xây dựng tính cách nhân vật, xây dựng
bối cảnh, lối kể chuyện, cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật.
Bên cạnh những lời khen ngợi, ủng hộ những cách tân mới mẻ trong
những sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn cũng nhƣ những tác phẩm của Nhất
Linh, vẫn có những ý kiến trái chiều. Trƣơng Tửu cho rằng Nhất Linh đã đề cao
sự giải phóng tình dục quá lộ liễu (Lạnh Lùng). Trƣơng Tửu kêu gọi những bậc
phụ mẫu muốn con gái khỏi sự phóng đãng quyến rũ nên cấm cho con đọc cuốn
Lạnh Lùng. Ông cho rằng Lạnh lùng là một cuốn sách mà phụ nữ khơng nên
đọc, bên cạnh đó cách dùng câu văn vẫn còn văn vẻ, sáo rỗng, kết cấu vẫn còn
vụng về: “Phàm những cuốn tiểu thuyết có chủ đề, kết cấu phải hợp sức với kết
thúc để làm nổi rõ ý nghĩa cốt truyện một cách tự nhiên...” [79, tr. 26]
Tóm lại, giai đoạn trƣớc năm 1945, hoạt động phê bình văn học thời kỳ
này khá sôi nổi và đạt đƣợc những thành tự nhất định, các cơng trình nghiên cứu
về Nhất Linh cũng nhƣ nhóm Tự lực văn đồn chủ yếu cao giá trị quyền sống
của con ngƣời, trọng tự do cá nhân, lên án những cái lỗi thời, lạc hậu. Trong các
sáng tác Nhất Linh cũng nhƣ các tác giả trong giai đoạn này đều có sự đổi mới
về nội dung, nghệ thuật, cách sử dụng ngôn ngữ và thành công trong việc xây
dựng nhân vật. Các ý kiến đánh giá ngày càng khách quan hơn, ủng hộ cái mới,
trân trọng những đóng góp của các tác giả trong giai đoạn này.

4


Giai đoạn từ 1945 đến 1986
Giai đoạn này tập trung khá nhiều ý kiến đánh giá trái chiều xoay quanh
Nhất Linh cũng nhƣ nhóm Tự lực văn đồn.
Ở miền Bắc, các cơng trình nghiên cứu Lược thảo lịch sử văn học Việt
Nam (1957) của nhóm Lê Q Đơn, NXB Xây Dựng; Sơ thảo văn học Việt Nam
(1964) của Viện Văn học, NXB Văn Học;… Hầu hết các cơng trình này đƣa ra

những nhận xét không đồng quan điểm với các sáng tác của nhà văn, có nhiều ý
kiến cực đoan do quan điểm nhìn nhận văn học lãng mạn trong giai đoạn này
cịn bị hạn chế, các nhà phê bình cho rằng văn học phải phản ánh đƣợc những
hiện thực cuộc sống của ngƣời dân, đề cao cái chung cộng đồng, cịn những sáng
tác của nhóm Tự lực văn đồn chủ yếu diễn tả nội tâm của mỗi nhân vật, đề cao
cái tơi, coi trọng cá nhân. Chính vì vậy mà Tự lực văn đồn đƣợc các nhà phê
bình đánh giá không phù hợp, xa vời với thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh những ý
kiến nhận xét trái chiều nhƣng đa phần đều đánh giá cao những cách tân nghệ
thuật trong các sáng tác. Phan Cự Đệ trong cuốn Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
cũng đã nhận định công lao to lớn của Nhất Linh “Về phƣơng diện văn học sử,
công lao chủ yếu của Nhất Linh và Khái Hƣng là đã có những đóng góp trong
việc xây dựng một nền tiểu thuyết hiện đại” [14, tr. 82].
Nếu nhƣ ở miền Bắc, đa phần là các ý kiến cực đoan thì ở miền Nam văn
chƣơng Tự lực văn đồn lại đƣợc coi trọng, ƣu tiên. Các cơng trình nghiên cứu:
Tự lực văn đồn (1960) của Dỗn Quốc Sỹ, NXB Hồng Hà; Văn học Việt Nam
1800 - 1945 (1973) của Vũ Hân, NXB Khái Trí; Lược sử văn nghệ Việt Nam Nhà văn tiền chiến 1930 - 1945… Các cơng trình này đều giới thiệu về nhóm Tự
lực văn đồn cũng nhƣ giới thiệu về Nhất Linh với tƣ cách là một trong những
trụ cột của nhóm Tự lực văn đồn đã có những đóng góp to lớn, nêu nên những
quan điểm nghệ thuật, tôn chỉ hoạt động và đƣờng lối sáng tác của nhóm, chủ
trƣơng cải cách xã hội trên cả hai phƣơng diện tƣ tƣởng và văn học.
Trong giai đoạn này, các nhà phê bình văn học miền Nam khơng chỉ nói
đến Tự lực văn đồn nhƣ một trào lƣu văn học mà còn quan tâm đến nghiệp văn
5


cũng nhƣ quá trình sáng tác của các thành viên trong nhóm. Đặc biệt, các nhà
phê bình văn học ln giành sự ƣu ái đối với Nhất Linh, một cây bút trụ cột của
Tự lực văn đoàn. Trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 3,
Phạm Thế Ngũ khi phân tích về giai đoạn sáng tác của Nhất Linh, ông cho rằng
“Dƣờng nhƣ lúc nào cũng thấy ơng chỉ phản ánh tâm hồn mình, kể lể những băn

khoăn của mình, theo đuổi một giấc mơ của mình” [76,tr.497].
Khi nghiên cứu về tác phẩm Bướm trắng Huỳnh Phan Anh cũng đã nhận
định “Bƣớm trắng là một cái đỉnh quan trọng của nghệ thuật Nhất Linh. Nó đánh
dấu thời kỳ già dặn nhất của tác giả sau những thành cơng của “Đơi Bạn”,
“Đoạn Tuyệt”…[1, tr.130]. Vì vậy mà Nhất Linh đƣợc coi là một cây bút tiêu
biểu của Tự lực văn đoàn cũng nhƣ của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Thế Phong trong Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn tiền chiến 1930 1945, cũng đã khẳng định “Tự lực văn đồn có cơng trong việc tu bổ cho văn
học chúng ta một lối tiểu thuyết mới mẻ, những bài thơ mới giá trị, nổi bật cuộc
đời thời ấy. Một Nhất Linh, Khái Hƣng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, một Thế Lữ,
Xuân Diệu là những ngƣời có cơng lớn với lịch sử văn nghệ chúng ta” [81,
tr.108].
Tóm lại, trong giai đoạn này, các nhà nghiên cứu cũng nhƣ độc giả đã
quan tâm nhiều đến Tự lực văn đoàn, nhất là đề cao, coi trọng Nhất Linh nhƣ
một nhà cách tân nghệ thuật - đặc biệt trên phƣơng diện nghệ thuật tiểu thuyết.
Nhất Linh xứng đáng đƣợc coi là tụ cột của nhóm Tự lực văn đồn.
Giai đoạn năm 1986 đến nay
Từ năm 1986 đến nay, trong xu hƣớng chung là tinh thần nhìn lại, đánh
giá lại các hiện tƣợng văn học phức tạp trong quá khứ, những sáng tác của Nhất
Linh đã có sức hấp dẫn rất lớn đối với những nhà lý luận, phê bình. Các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra những đóng góp của nhóm Tự lực văn đồn cũng nhƣ nhà
văn Nhất Linh đối với nền văn học dân tộc. Nhiều bài báo, các bài chuyên luận,
chuyên đề cũng đã khẳng định Nhất Linh có vai trị rất lớn trong q trình phát
triển của nền văn học nƣớc ta trong những năm 1930.
6


Trong Văn học Việt nam giai đoạn giao thời 1900-1930 nhà nghiên cứu
Trần Đình Hƣợu nhấn mạnh “Tự lực văn đồn đơ thị hóa, Âu hóa, có mới mẻ,
xa lạ nhƣng không phải không dân tộc. Cái đẹp trong văn chƣơng Tự lực văn
đồn là Việt Nam chứ khơng phải Tàu, không phải Tây” [43, tr. 44]

Trong cuốn Tự lực văn đoàn - Con người và văn chương, tác giả Phan Cự
Đệ cũng đã nêu “Tự lực văn đoàn đã có cơng lớn trong việc đổi mới nền văn học
vào những năm 1930, đổi mới từ những quan niệm xã hội nhƣ mối quan hệ giữa
cá nhân với cộng đồng xã hội cho đến việc đẩy nhanh các thể loại văn học trên
con đƣờng hiện đại hóa, làm cho ngơn ngữ văn học trở nên trong sáng và giàu
có hơn, cơng cuộc đổi mới đó dƣới những ảnh hƣởng của các trào lƣu văn học,
triết học của phƣơng Đông và phƣơng Tây, nhất là văn học Pháp” [16, tr. 37]
Ngoài ra cịn một số bài viết có giá trị của các nhà nghiên cứu nhƣ: Lê Thị
Đức Hạnh, Trƣơng Chính, Phong Lê, Trịnh Hồ Khoa, Lê Thị Dục Tú…
Năm 1991, trên Tạp chí Văn học số 3, Lê Thị Đức Hạnh đã tổng kết:
“Văn của Khái Hƣng và Nhất Linh trong Tự lực văn đoàn ngay thời kỳ đầu đã là
một bƣớc nhảy vọt” [29, tr. 76].
Trịnh Hồ Khoa trong Những đóng góp của Tự lực văn đồn cho văn xi
hiện đại Việt Nam đã khẳng định những đóng góp của nhóm Tự lực văn đồn
cho việc xây dựng một nền văn xi Việt Nam hiện đại, trong đó khơng thể
khơng kể đến nhà văn Nhất Linh.
Trong cơng trình nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Khánh Dần cũng đã khái
quát về thời đại lịch sử, con ngƣời và quan niệm văn chƣơng của nhà văn Nhất
Linh. Đặc biệt, đối với thể loại tiểu thuyết, tác gải nhấn mạnh: Nhất Linh đã đạt
đƣợc những thành tựu nghệ thuật lớn trên nhiều phƣơng diện khác nhau; ngôn
ngữ trong văn của Nhất Linh ngày càng hiện đại. Tác giả khẳng định: “Tiểu
thuyết của Nhất Linh là biểu hiện sinh động của sự hịa nhập văn hóa phƣơng
Tây, phƣơng Đơng và văn hóa truyền thống, là sự kiếm tìm khơng ngơi nghỉ của
ngƣời nghệ sĩ trên bƣớc đƣờng sáng tạo nghệ thuật” [12, tr. 81]

7


Tóm lại, nhìn lại lịch sử nghiên cứu về tiểu thuyết của Nhất Linh chúng ta
có thể thấy đã có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết của tác giả

trên cả phƣơng diện nội dung, nghệ thuật. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này,
chƣa có một đề tài nghiên cứu vào tiếp cận tiểu thuyết của Nhất Linh từ góc
nhìn tƣ duy nghệ thuật. Kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có từ trƣớc, luận
văn là một sự tổng hợp có hệ thống hơn về tƣ duy nghệ thuật trong tiểu thuyết
của Nhất Linh để từ đó nhằm ghi nhận đúng những đóng góp của Nhất Linh đối
với nền văn học hiện đại Việt Nam
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là tƣ duy nghệ thuật trong tiểu thuyết
của Nhất Linh. Khi nghiên cứu, chúng tôi luôn đặt tƣ duy nghệ thuật trong mối
quan hệ với đặc trƣng thể loại để chỉ ra: quan niệm nghệ thuật, hình tƣợng nghệ
thuật và phƣơng thức trần thuật trong tiểu thuyết của Nhất Linh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong sự nghiệp văn chƣơng, Nhất Linh viết riêng và viết chung khá
nhiều tiểu thuyết nhƣ Đoạn tuyệt (1934), Đôi bạn (1936-1937), Lạnh
lùng (1936), Bướm trắng (1939 - 1940); Gánh hàng hoa (1934 – viết chung
Khái Hƣng), Đời mưa gió (1934 – viết chung Khái Hƣng). Tuy nhiên, trong
khuôn khổ luận văn, để làm rõ vấn đề tƣ duy nghệ thuật trong tiểu thuyết của
Nhất Linh, chúng tôi lựa chọn đi sâu khảo sát những tiểu thuyết tiêu biểu nhƣ:
Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1936 - 1937), Bướm trắng (1939
- 1940) và tác phẩm viết chung với Khái Hƣng là Đời mưa gió (1934), Gánh
hàng hoa (1934). Đây là những tiểu thuyết đƣợc ghi nhận là thành công hơn cả
của Nhất Linh trên phƣơng diện thể loại.
Trong quá trình phân tích, chúng tơi sẽ đặt tiểu thuyết của Nhất Linh
trong tƣơng quan so sánh với tiểu thuyết của các nhà văn khác cùng thời để thấy
đƣợc những tƣơng đồng và khác biệt trong tƣ duy nghệ thuật tiểu thuyết của
Nhất Linh.
8



4. Mục đích nghiên cứu
Chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết
của Nhất Linh nhằm hƣớng tới mục đích:
Thứ nhất: tác giả luận văn tiến hành hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ
bản về tƣ duy, tƣ duy nghệ thuật và tƣ duy nghệ thuật tiểu thuyết
Thứ hai: luận văn phân tích tƣ duy nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh
trên phƣơng diện các hình tƣợng thẩm mĩ với tƣ cách là một yếu tố quan trọng
kết tinh tƣ duy nghệ thuật của nhà văn
Thứ ba: luận văn phân tích tƣ duy nghệ thuật của Nhất Linh trên phƣơng
diện nghệ thuật trần thuật
Cuối cùng, trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra những đổi mới của Nhất Linh
trên phƣơng diện tƣ duy nghệ thuật tiểu thuyết. Đó cũng đóng góp của Nhất
Linh đối với tiến trình phát triển văn học hiện đại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, trong luận văn này, chúng
tơi có sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học: là phƣơng pháp chủ đạo và xuyên
suốt luận văn. Tác giả luận văn nghiên cứu tƣ duy nghệ thuật trong mạch nối từ
quan niệm nghệ thuật đến việc xây dựng các hình tƣợng thẩm mĩ và lựa chọn
các phƣơng thức trần thuật.
Phƣơng pháp loại hình: phƣơng pháp này giúp tác giả luận văn làm rõ loại
hình tƣ duy, kiểu tƣ duy trong sáng tác của nhà văn trên cơ sở của việc chỉ ra
những nét tƣơng đồng và khác biệt.
Phƣơng pháp tiểu sử: Nhằm chỉ ra mối liên hê giữa những yếu tố về tiểu sử của
nhà văn có chi phối đến sự hình thành và phát triển tƣ duy nghệ nghệ thuật tiểu thuyết.
Ngồi ra, trong q trình thực hiện đề tài tác giả luận văn còn sử dụng các
phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ phƣơng pháp tiếp cận văn học từ góc nhìn
văn hóa học.
9



6. Đóng góp mới của luận văn
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có ý nghĩa về mặt lý luận và thực
tiễn. Tác giả luận văn đã khái quát diện mạo tiểu thuyết Việt Nam những năm 30
của thế kỷ XX (đặc biệt là tiểu thuyết Tự lực văn đồn) thơng qua tác giả Nhất
Linh. Qua việc nghiên cứu tƣ duy nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh để chỉ ra
những hình tƣợng nhân vật chủ đạo cũng nhƣ sự vận động của hình tƣợng trong
khơng gian và thời gian. Trên cơ sở này, tác giả luận văn khẳng định những đổi
mới của Nhất Linh trong việc xây dựng nhân vật, không gian, thời gian. Việc
xây dựng kết cấu, phƣơng thức trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu…đã đem đến
cái nhìn mới, sự sáng tạo về hình thức nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nhất
Linh. Bởi vậy, luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo bổ sung thêm cho những
nghiên cứu về tƣ duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Nhất Linh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn đƣợc triển
khai trong 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Tƣ duy nghệ thuật và tƣ duy nghệ thuật trong tiểu thuyết của
Nhất Linh
Chƣơng 2. Hình tƣợng thẩm mĩ trong tiểu thuyết của Nhất Linh
Chƣơng 3. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Nhất Linh

10


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ TƢ DUY NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH
1.1. Tổng quan về tƣ duy nghệ thuật
1.1.1. Tư duy và những khái niệm gần nghĩa
Tƣ duy chính là hoạt động nhận thức lý trí của con ngƣời. Ở mỗi một khía

cạnh, góc độ và phƣơng diện khác nhau lại có những cách định nghĩa khác nhau
về tƣ duy.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “tƣ duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức,
đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình
thức nhƣ biểu tƣợng, khái niệm, phán đoán và suy lý…”[80, tr. 1070].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành trong Tư duy thơ hiện đại Việt Nam
khi nghiên cứu về tƣ duy thơ Việt Nam đã dẫn lại và đặc biệt nhấn mạnh định
nghĩa của nhà triết học Rodentan, P.Iudin: “Tƣ duy là một hoạt động nhận thức
lý tính của con ngƣời. Khí quan của tƣ duy chính là bộ óc ngƣời với một hệ
thống tinh vi gần 16 tỷ tế bào thần kinh” [92, tr.38]
Nhƣ vậy, xem xét tƣ duy nhƣ một giai đoạn của q trình nhận thức thì
chúng ta có thể thấy tƣ duy chính là một giai đoạn phát triển cao của quá trình
nhận thức, dựa trên sự hoạt động tinh vi của hệ thống thần kinh nhằm giúp con
ngƣời có thể đi sâu khám phá, phát hiện bản chất của sự vật cũng nhƣ đƣa ra
những biểu tƣợng, khái niệm, phán đoán và suy lý.
Trong thực tiễn, khái niệm tƣ duy có mối quan hệ gần gũi với khái niệm ý
thức. Tuy nhiên, chúng ta không thể đồng nhất tƣ duy với ý thức. Nói đến ý thức
là nói đến sự phản ánh hiện thực của con ngƣời ở trạng thái tĩnh còn tƣ duy là ý
thức ở trạng thái động.
Tƣ duy cũng nghĩa gần với tƣ tƣởng nhƣng cũng không thể đồng nhất tƣ
duy với tƣ tƣởng. Nếu tƣ duy thiên về phạm trù phƣơng pháp thì tƣ tƣởng lại
thiên về phạm trù nội dung.

11


Tƣ duy cịn có nghĩa rất gần với lý trí nhƣng nói đến lý trí là nói đến
những “cái lơgic có tính ngun tắc của nhận thức” [92, tr. 11] cịn tƣ duy là nói
đến sự vận động của các yếu tố nhƣ tình cảm, cảm xúc, tƣ tƣởng và lý trí nhằm
mục đích nhận thức. Tuy giữa các khái niệm này đều có điểm khác biệt nhƣng

chúng vẫn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đặc trƣng của tƣ duy chính là
phản ánh các mối quan hệ của con ngƣời với thế giới khách quan, giữa các sự
vật hiện tƣợng với nhau, giữa con ngƣời với con ngƣời. Nói đến tƣ duy chính là
nói đến hoạt động của bộ óc con ngƣời ở trạng thái động.
1.1.2. Tư duy nghệ thuật
Tƣ duy nghệ thuật chính là một trong những vấn đề quan trọng trong sáng
tạo cũng nhƣ nghiên cứu, lý luận và phê bình văn học. Mọi sự đổi mới văn học
trong mỗi thời kỳ đều là kết quả của sự đổi mới tƣ duy nghệ thuật của nhà văn.
Nói cách khác, nếu khơng có những đổi mới trong tƣ duy nghệ thuật thì sẽ
khơng có sự đổi mới sáng tạo nào của nghệ thuật. Bởi vậy, trên thực tế, đã có rất
nhiều những cơng trình nghiên cứu của các nhà lí luận - phê bình văn học xoay
quanh vấn đề tƣ duy nghệ thuật nhƣ: Trần Đình Sử với cơng trình Mấy ghi nhận
về sự đổi mới của tư duy nghệ thuật và h nh tượng con người trong văn học ta
thập kỷ qua (1986); Mai Hƣơng với cơng trình Đổi mới tư duy văn học và đóng
góp của một số cây bút văn xuôi (2006), nhiều tác giả với Đổi mới tư duy tiểu
thuyết, Nguyễn Thị Bình (1998), “Tƣ duy mới về tiểu thuyết”, Tạp chí Văn học
(7), tr.69 -75… Những cơng trình nghiên cứu kể trên đã góp phần khẳng định rõ
vai trị của tƣ duy nghệ thuật trong đổi mới văn học. Bên cạnh hoạt động sáng
tạo nghệ thuật, tƣ duy nghệ thuật cũng có vai trò quan trọng đối với hoạt động
tiếp nhận văn học. Mỗi một tác phẩm đƣợc đem ra bình luận, nhà phê bình lại
phải có tƣ duy nghệ thuật để đi sâu, xâm nhập vào từng tác phẩm ấy mới có thể
khám phá những giá trị thẩm mỹ ẩn chìm bên trong tác phẩm.
Nhƣ vậy, “tƣ duy nghệ thuật là dạng hoạt động trí tuệ của con ngƣời
hƣớng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Tƣ duy nghệ thuật dựa trên
nền tảng tâm sinh lý khác hẳn với tƣ duy lý luận” [67, tr. 381]. Ở đây, mục đích
12


cuối cùng của tƣ duy chính là tìm ra bản chất của sự vật, hiện tƣợng để nắm bắt
quy luật, hiện tƣợng đời sống khách quan.

Khác với tƣ duy hành động trực quan là tƣ duy thực tiễn hằng ngày và tƣ
duy lơgic chính là kiểu tƣ duy khoa học thì tƣ duy hình tƣợng chính là kiểu tƣ
duy đặc thù của nghệ thuật. Mục đích của tƣ duy nghệ thuật là tìm ra bản chất
của sự vật, hiện tƣợng để nắm bắt quy luật của đời sống khách quan. Tƣ duy
nghệ thuật là loại hình tƣ duy vận dụng phƣơng pháp tƣ duy hình tƣợng vào
sáng tác nghệ thuật. Bởi vậy, “tƣ duy nghệ thuật có thể sử dụng hƣ cấu, tƣởng
tƣợng để xây dựng những hình tƣợng có tầm khái quát lớn lao, tác động mãnh
liệt đến ngƣời đọc” [57, tr. 226].
Tƣ duy nghệ thuật có vai trị quan trọng trong sáng tác, nghiên cứu và phê
bình văn học. Mỗi một tác phẩm nghệ thuật có giá trị đều là kết quả của một quá
trình tƣ duy sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Bởi thế, tác phẩm nghệ thuật là kết tinh
của trí tuệ và cảm xúc, là sự phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, năng lực tƣ
duy và trình độ nhận thức của ngƣời nghệ sĩ.
Văn học phản ánh hiện thực thơng qua các hình tƣợng nghệ thuật. Tuy
nhiên, khơng thể đồng nhất hình tƣợng nghệ thuật với hiện thực đời sống (kể cả
với những hình tƣợng nghệ thuật đƣợc xây dựng dựa trên những nguyên mẫu
của đời sống). Bởi nguyên mẫu của đời sống là hình tƣợng trực tiếp cịn hình
tƣợng văn học là hình tƣợng mang tính gián tiếp. Để xây dựng hình tƣợng nghệ
thuật, ngƣời nghệ sĩ đã bằng trí tƣởng tƣợng của mình cùng với đó là sự chuyển
hóa đa dạng và phong phú của tình cảm, cảm xúc với lý trí và ý thức xã hội để
tạo ra những hình tƣợng nghệ thuật mới lạ, giàu sức biểu cảm, có sức sống mãnh
liệt đối với ngƣời đọc.
Nhƣ vậy, cách thức để văn học nghệ thuật phản ánh cuộc sống không đơn
giản, thuần túy, nhất nhất đi theo cái thực tại đang diễn ra mà ở một mức độ cao
hơn, phức tạp hơn. Nói cách khác, tác phẩm văn học là tấm gƣơng phản chiếu
những nghiền ngẫm của nhà văn về nhân sinh quan, thế giới quan và nghệ thuật.
Đặc biệt, để xây dựng nên các hình tƣợng nghệ thuật thì nhà văn còn cần đến sự
13



vận động tƣ duy nhằm lựa chọn ngôn ngữ biểu đạt nhƣ một chất liệu nghệ thuật
quan trọng nên quá trình sử dụng chất liệu này cũng là một hành trình sáng tạo
mà ở đó nhà văn thể hiện đƣợc trình độ tƣ duy ngơn ngữ của mình nhằm xây
dựng nên những hình tƣợng nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn.
Tƣ duy nghệ thuật vừa phản ánh nét chung của các nhà văn trong hành
trình sáng tạo nghệ thuật (tƣ duy bằng hình tƣợng) nhƣng đồng thời cũng phản
ánh nét riêng biệt trong tƣ duy nghệ thuật của từng nhà văn. Mỗi ngƣời nghệ sĩ
sẽ có cách lựa chọn biểu tƣợng khác nhau để bộc lộ tƣ duy và cách nhìn thế giới
của riêng mình. Mỗi nhà văn nhà thơ nhìn thế giới theo những cách riêng, có cá
tính sáng tạo riêng, có sự lý giải, cắt nghĩa riêng về hiện thực đời sống và con
ngƣời. Chính những nét riêng đó đã góp phần hình thành nên phong cách nghệ
thuật độc đáo của từng nhà văn.
1.1.3. Tư duy nghệ thuật tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thể loại tự sự cỡ lớn, giữ vị trí trung tâm trong đời sống
văn học. Một nền văn học lớn không thể thiếu vắng những thành tựu quan trọng
của những bộ tiểu thuyết vĩ đại. Bởi vai trị quan trọng đó mà tiểu thuyết đƣợc
xem là thể loại máy cái trong đời sống văn học. Mặc dù vậy, cho đến nay, trong
hầu hết các cuốn sách công cụ lý luận văn học, vấn đề định nghĩa tiểu thuyết vẫn
cịn gặp khá nhiều khó khăn.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, tiểu thuyết đƣợc định nghĩa là
“một tác phẩm tự sự cỡ lớn, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới
hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc
đời, nhiều bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt
giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [69, tr.328]. Định nghĩa này đã phản
ánh khá chính xác những đặc trƣng của thể loại (đặc biệt là với những tiểu
thuyết truyền thống). Tuy nhiên, trải qua một hành trình của sự vận động và biến
đổi không ngừng, tiểu thuyết đã có sự xác lập các nguyên tắc – phá vỡ nguyên
tắc – tái thiết lập những chuẩn mực thẩm mĩ mới. Ít nhiều những nội hàm trong
định nghĩa trên (phản ánh nhiều cuộc đời, nhiều bức tranh phong tục, tái hiện
14



nhiều tính cách đa dạng…) đã khơng cịn hồn tồn phù hợp với những tiểu
thuyết đƣơng đại ngày nay. Điều này bị chi phối bởi nhiều yếu tố (sự ra đời của
Internet, sự đi xuống của văn hóa đọc và sự lấn át, lên ngơi của văn hóa nghe
nhìn, tâm lý ngƣời tiếp nhận…) nên những bộ tiểu thuyết đồ sộ phản ánh nhiều
số phận, nhiều cuộc đời, nhiều tính cách đang dần nhƣờng chỗ cho những tiểu
thuyết ngắn đi sâu khai thác trải nghiệm đời tƣ của một số phận, một cuộc đời…
Cũng bởi tiểu thuyết luôn vận động và biến đổi không ngừng nên nhà lý
luận tiểu thuyết M. Bakhtin đã khẳng định bản chất năng động của tiểu thuyết
nhƣ một thể loại văn chƣơng duy nhất đang biến chuyển và chƣa định hình,
nịng cốt của thể loại chƣa hề rắn lại và chúng ta chƣa thể đoán định đƣợc hết
những bƣớc đi uyển chuyển của nó. M. Bakhtin đã khẳng định tiểu thuyết là
“thể loại văn chƣơng duy nhất đang biến chuyển và cịn chƣa định hình….Nịng
cốt thể loại của tiểu thuyết chƣa hề rắn lại và chúng ta chƣa thể dự đoán đƣợc
hết những khả năng uyển chuyển của nó” [3, tr.21] “Tiểu thuyết là thể loại văn
chƣơng duy nhất ln biến đổi, do đó nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn,
nhạy bén hơn biến chuyển của bản thân hiện thực” [3, tr.30]. Tiểu thuyết miêu tả
cuộc sống hiện tại không ngừng biến đổi, sinh thành, phản ánh đời sống con
ngƣời cá nhân đời tƣ ở một phạm vi không giới hạn (không bị giới hạn bởi
không gian và thời giam). Tiểu thuyết khám phá thế giới nội tâm bên trong mỗi
ngƣời thông qua những tính cách đa dạng, tái hiện cuộc sống với chất văn xi,
khơng thi vị hóa, lãng mạn hóa, lý tƣởng hóa.
Trong sáng tạo, nghiên cứu và phê bình văn học, việc phân loại tƣ duy
thƣờng đƣợc dựa trên các đặc trƣng về thể loại. Nói cách khác, “mỗi một thể
loại thể hiện một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn
nhận, giải minh thế giới và con ngƣời” [3, tr.7] chính vì vậy mà tƣ duy nghệ
thuật thƣờng gắn liền với những đặc trƣng cơ bản của thể loại.
Về đặc trƣng thể loại, nếu nhƣ tƣ duy trong thơ thƣờng quan tâm đến cảm
xúc tập trung thể hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của chủ thể trữ tình

thì tƣ duy tiểu thuyết lại mang những nét riêng. Nói đến tiểu thuyết, M. Kundera
15


đã đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố đời tƣ, những khám phá bí ẩn của tâm hồn con
ngƣời cá nhân nhƣ một đặc trƣng quan trọng của tƣ duy tiểu thuyết: “tất cả mọi
tiểu thuyết của thời đại đều chăm chú vào bí ẩn của cái tơi” [64, tr.27]. Trên nền
tảng quan niệm này, M. Kundera chỉ ra sự khác biệt giữa tiểu thuyết với khoa
học và triết học: “Nếu quả thật khoa học và triết học đã bỏ quên bản thể con
ngƣời, thì càng rất rõ ràng là với Cervantes đã hình thành một nền nghệ thuật
châu Âu vĩ đại mà thực chất khơng có gì khác hơn là khảo sát chính cái bản thể
bị bỏ qn đó... Lần lƣợt từng cái một, tiểu thuyết đã khám phá, theo kiểu của
nó, bằng logic riêng của nó, những mặt khác nhau của tồn tại” [64, tr. 9].
Ở Việt Nam, những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết đã đƣợc tập thể các
nhà nghiên cứu Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trình bày trong Từ
điển thuật ngữ văn học. Trong cơng trình này, tập thể đã chỉ ra những đặc trƣng
tiêu biểu của tiểu thuyết nhƣ: “đặc điểm tiêu biểu nhất của tiểu thuyết là cái nhìn
cuộc sống từ góc độ đời tƣ… Yếu tố đời tƣ càng phát triển thì tính chất tiểu
thuyết càng tăng, ngƣợc lại, yếu tố lịch sử dân tộc càng phát triển thì chất sử thi
càng đậm đà… Nét tiêu biểu thứ hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ,
trƣờng ca, thơ trƣờng thiên và anh hùng ca là chất văn xuôi, tức là một sự tái
hiện cuộc sống, không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tƣởng hóa… Cái làm cho
nhân vật tiểu thuyết khác với các nhân vật sử thi, nhân vật kịch, nhân vật truyện
trung cổ là ở chỗ: nhân vật tiểu thuyết là “con ngƣời nếm trải”, tƣ duy, chịu khổ
đau, dằn vặt của cuộc đời…Thành phần chính yếu của tiểu thuyết khơng phải
chỉ là cốt truyện và tính cách nhân vật... Ngồi hệ thống sự kiện, biến cố và
những chi tiết tính cách, tiểu thuyết miêu tả suy tƣ của nhân vật về thế giới, về
đời ngƣời, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm…Tiểu thuyết xóa bỏ khoảng
cách về giá trị giữa ngƣời trần thuật và nội dung trần thuật của anh hùng ca, để
miêu tả hiện thực nhƣ cái hiện tại đƣơng thời của ngƣời trần thuật… Tiểu thuyết

là thể loại có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của cá thể
loại văn học khác” [69, tr. 329- 330].
Nhƣ vậy, nghiên cứu về tƣ duy nghệ thuật trong tiểu thuyết không chỉ
quan tâm đến việc cắt nghĩa, lý giải của các nhà văn về những vấn đề liên quan
16


đến con ngƣời (quan niệm nghệ thuật về con ngƣời), hiện thực (quan niệm nghệ
thuật về hiện thực) mà còn quan tâm đến sự cắt nghĩa lý giải về nghệ thuật (quan
niệm về thể loại với những đặc trƣng tiêu biểu, quan niệm về chức năng của
nghệ thuật…). Đặc biệt, đối tƣợng của nghệ thuật chính là những phƣơng diện
thẩm mỹ của đời sống nên tƣ duy nghệ thuật trong tiểu thuyết luôn hƣớng con
ngƣời ta đến khám phá và thể hiện những phƣơng diện thẩm mỹ phong phú đa
dạng của đời sống. Chính vì thế mà tƣ duy nghệ thuật trong tiểu thuyết là quá
trình kết tinh của những cái đẹp dƣới con mắt thẩm mĩ của ngƣời nghệ sĩ cộng
với trí tuệ, sức sáng tạo phong phú đã làm nên một tác phẩm nghệ thuật đa dạng,
đồng nhất trong một khối chỉnh thể thẩm mĩ. Chính vì vậy mà tƣ duy nghệ thuật
đóng vai trị quan trong việc hình thành nên một tác phẩm văn học nghệ thuật.
1.2. Nhất Linh trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
1.2.1. Nhất Linh - cuộc đời và sự nghiệp văn chương
Nhất Linh, tên thật là Nguyễn Tƣờng Tam (1905 - 1963). Ông là một nhà
văn, nhà báo, một họa sĩ đã để lại những dấu ấn đặc biệt trong văn học Việt Nam
thế kỷ XX. Mỗi một chặng đƣờng hoạt động hay một lĩnh vực đặc thù thì tên
tuổi ơng lại gắn với một bút danh riêng biệt: Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn,
Lãng Du, Tân Việt, Đông Sơn (khi vẽ).
Nguyễn Tƣờng Tam sinh ra trong một gia đình dịng dõi quan lại nhà nho
tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dƣơng. Khi lên năm tuổi, ông đƣợc cha gửi
lên học tại phố Hàng Bạc (Hà Nội). Con đƣờng học vấn của Nhất Linh bị giãn
đoạn khi cha ông mất. Ngay từ khi còn nhỏ, Nhất Linh đã sớm bộc lộ năng
khiếu văn chƣơng của mình. Khi mƣời sáu tuổi, ông làm thơ Đƣờng luật và đã

có bài đƣợc đăng trên báo Trung Bắc Tân (một tờ báo có uy tín lúc bấy giờ).
Nhất Linh vốn là ngƣời “pháp văn và khoa học đều giỏi, lại có tài vè, thích làm
thơ văn quốc âm” [15, tr.14].
Khi còn làm việc cho Sở Tài chính Đơng Dƣơng, Nhất Linh bắt đầu viết
tiểu thuyết Nho Phong (1925) và tập truyện ngắn Người quay tơ (1927). Đây là
hai tác phẩm đầu tay của Nhất Linh đƣợc in thành sách. Năm 1927, Nhất Linh
17


xuất ngoại sang Pháp để theo học Ban Khoa học, trở thành Cử nhân lý hóa. Nhất
Linh “sang Pháp chủ yếu là nghiên cứu nghề làm báo, để khi về sẽ mở một tờ
báo với đề tài mới, khác hẳn các báo. Còn cái bằng cử nhân khoa học chỉ là cứu
cánh để phòng xa, nếu làm báo thất bại sẽ làm giáo sƣ cũng tốt” [40, tr. 526]
Trong thời gian ở Pháp, ngồi việc học trên lớp ơng cịn học đƣợc lối sống,
phong tục tập quán của ngƣời dân nơi đây cũng nhƣ tìm hiểu về văn chƣơng,
báo chí Pháp. Với một trí tuệ nhạy bén, Nhất Linh sớm nhận ra đƣợc những
khác biệt trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Với khả năng tƣ duy phản
biện sâu sắc, ông đã soi chiếu những quan niệm nhân sinh mới mẻ vào nền tảng
văn hóa xã hội Việt Nam và nhận thấy luân lý đạo đức phong kiến chính là yếu
tố đã bóp nghẹt con ngƣời cá nhân. Bởi vậy, ơng chủ trƣơng giải phóng con
ngƣời cá nhân, trƣớc hết là giải phóng trong tình u và hơn nhân, hƣớng tới sự
thỏa mãn những khát vọng tự do của con ngƣời. Bởi vậy, Nhất Linh đã ý thức
đƣợc việc dùng chính ngịi bút của mình để đấu tranh: “trở về nƣớc, trong đầu
óc với một chân trời mới, những quan niệm thay đổi hẳn về xã hội và văn
chƣơng. Con ngƣời “Nho Phong” đã nhƣờng chỗ cho nhà “cách mạng xã hội”.
Nhà văn chỉ biết khâm phục truyện Kiều thấy cần phải đổi mới cái khơng khí
văn học do phái Nam Phong thổi ra từ trên 10 năm nay” [41, tr.11].
Năm 1932 Nguyễn Tƣờng Tam đứng ra làm chủ bút báo Phong hóa và
đến năm 1933 ơng tun bố thành lập nhóm Tự lực văn đồn. Nhóm hoạt động
nhƣ một tổ chức độc lập, tuân theo một đƣờng lối do chính họ đặt ra, chủ trƣơng

chống lại những phong tục cổ hủ, lạc hậu, mê tín dị đoan trong xã hội phong
kiến thối nát, ca ngợi những con ngƣời mới với những khát vọng mới.
Nhất Linh không chỉ dừng lại ở sáng tác văn học mà còn tham gia vào
cơng cuộc cải cách xã hội. Ơng là ngƣời sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng,
từng làm Bí thƣ trƣởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính
Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và
giữ chức Bộ trƣởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Tháng
4/1951, ơng vào Nam, mở nhà xuất bản Phƣợng Giang, tái bản những cuốn sách
do Tự lực văn đoàn sáng tác. Năm 1953, ông lên Đà Lạt sống, đến năm 1958
18


ơng về Sài Gịn chủ trƣơng tờ Văn hóa Ngày nay, tập hợp phong trào văn nghệ,
chống lễ giáo phong kiến, tuyên truyền lối sống mới, đề xƣớng cải cách xã hội.
Tờ báo phát hành đƣợc 11 số thì bị đình bản. Do dính líu đến vụ đảo chính ngày
11/11/1960, ơng bị chính quyền Ngơ Đình Diệm bắt và đƣa ra xử ngày
08/7/1963. Nhất Linh đã tự tử ngày 07/7/1963 để phản đối chính quyền Ngơ
Đình Diệm trong việc đàn áp đảng phái đối lập Quốc gia.
Trong suốt quá trình hoạt động chính trị và văn học của mình, Nhất Linh
đã có nhiều đóng góp cho kho tàng văn học hiện đại Việt Nam. Hầu hết các sáng
tác của ông đều là sự kết tinh của những tƣ tƣởng mới mẻ. Chúng ta có thể thấy
rằng, trƣớc năm 1930, các sáng tác của Nhất Linh đều lấy quan niệm nho giáo
làm thƣớc đo để sáng tác. Tƣ tƣởng, quan niệm ấy khơng cịn xuất hiện sau
những năm 1930 khi ơng từ Pháp trở về mà thay vào đó là những sáng tác mới,
mang khuynh hƣớng cải cách xã hội, nhƣng tất cả các sáng tác của ông đều phải
dựa trên bốn mục đích và mƣời tơn chỉ hoạt động của nhóm Tự lực văn đồn đã
đặt ra.
Với mục đích và tơn chỉ hoạt động rõ ràng (“Tự sức mình làm ra những
sách có giá trị về văn chƣơng… nhằm làm giàu thêm cho văn sản trong nƣớc;
theo chủ nghĩa bình dân…; dùng lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn

có tính cách An Nam; lúc nào cũng mới, trẻ, u đời, có chí phấn đấu và tin ở sự
tiến bộ; ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nƣớc mà có tính cách bình dân…;
trọng tự do cá nhân; làm cho ngƣời ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa;
Đem phƣơng pháp khoa học Thái Tây ứng dụng vào văn chƣơng Việt Nam),
tiểu thuyết của các nhà văn Tự lực văn đồn nói chung và Nhất Linh nói riêng
đã mở ra một quan niệm văn chƣơng hết sức mới mẻ và tiến bộ, phản ánh khát
vọng xây dựng một nền văn học dân tộc theo xu hƣớng hiện đại, đấu tranh cho
tự do cá nhân, giải phóng con ngƣời khỏi những áp bức bóc lột, những ràng
buộc của hệ tƣ trƣởng trong xã hội thực dân nửa phong kiến, đồng thời làm hiện
đại hóa ngơn ngữ và các thể loại văn học nƣớc nhà, nhất là thể loại tiểu thuyết.

19


Với một tâm hồn nghệ sĩ, đa cảm, cùng với đó là lịng trắc ẩn sâu sắc đối
với sự đau khổ của những con ngƣời bất hạnh trong xã hội, Nhất Linh chủ
trƣơng dùng chính ngịi bút của mình để làm vũ khí tranh đấu chống lại những
đạo đức lễ giáo phong kiến kiềm tỏa hạnh phúc của con ngƣời trên tinh thần đề
cao quyền sống, quyền tự do các nhân. Đây chính là một điểm nhấn đặc biệt
quan trọng góp phần xác lập nên một nét đổi mới tiến bộ trong quan niệm nhân
sinh nói riêng và đồng thời cũng là điểm xuất phát quan trọng trong tƣ duy nghệ
thuật của Nhất Linh. Với ƣu thế sớm đƣợc tiếp nhận với những tri thức Tây học
mới mẻ, ý thức đƣợc sâu sắc quyền sống cá nhân của con ngƣời, đặc biệt là
trong tình u và hơn nhân. Ý thức về con ngƣời cá nhân đời tƣ, ý thức giải
phóng quyền tự do cá nhân của con ngƣời chính là xuất phát điểm hết sức quan
trọng trong tƣ duy nghệ thuật của Nhất Linh. Đây chính là yếu tố góp phần quan
trọng đƣa đến nhiều đổi mới trong tƣ duy nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh –
điều mà trƣớc đó, trong tiểu thuyết Việt Nam, mầm mống tƣ duy tiểu thuyết
hiện đại đã xuất hiện (sự ý thức về con ngƣời cá nhân trong Tố Tâm của Hoàng
Ngọc Phách) nhƣng đã chƣa tạo ra đƣợc một bƣớc nhảy quan trọng nhƣ giai

đoạn 1930 – 1945 (mà Nhất Linh đƣợc xem là ngƣời có cơng lao đóng góp quan
trọng trong việc tạo ra bƣớc nhảy này). Điều này đƣợc thể hiện rõ nhất trong các
tác phẩm của ông nhƣ: Đoạn tuyệt (1935); Lạnh lùng (1936); Đôi bạn (1937);
Bướm trắng (1939) và trong các tác phẩm viết chung với Khái Hƣng: Gánh
hàng hoa (1934); Đời mưa gió (1934).
1.2.2. Tiểu thuyết của Nhất Linh trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
Không phải ngẫu nhiên mà tiểu thuyết đã đƣợc coi là hình thái chủ yếu
của nghệ thuật ngơn từ. Trải qua hơn một thế kỉ văn học, thể loại tiểu thuyết vẫn
giữ đƣợc vị trí then chốt trong lịch sử văn học tồn nhân loại. Là một loại hình
tự sự cỡ lớn, tiểu thuyết có những khả năng riêng trong việc tái hiện với một quy
mô lớn những bức tranh hiện thực đời sống, trong đó chứa đựng những vấn đề
sâu sắc của đời sống xã hội, của số phận con ngƣời, của lịch sử... tiểu thuyết
phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động theo hƣớng tiếp cận cả bề
rộng lẫn chiều sâu của nó.
20


×