Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Vốn FDI có vai trò quan trọng đối với tăng năng suất lao động trong nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.55 KB, 5 trang )

VỐN FDI CĨ VAI TRỊ QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI TĂNG NĂNG SUẤT LAO
ĐỘNG TRONG NƢỚC
ThS. Phạm Thị Thu Hà
Tóm tắt:
Thời gian qua, năng suất lao động của Việt Nam đã cải thiện đáng kể nhưng trước mục
tiêu tăng trưởng GDP khoảng 7 – 8%/năm từ nay đến năm 2020 mà Chính phủ đã đề ra, Việt
Nam cần nâng mức tăng năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế lên hơn 1,5 lần, từ mức
4,7%/năm hiện nay lên 6,4%/năm. Nguồn vốn FDI được coi là một trong những giải pháp góp
phần tăng năng suất lao động. Bài viết đi sâu phân tích ảnh hưởng vốn FDI gia tăng năng suất
lao động.
Từ khóa: Vốn FDI, năng suất lao động, cơng nghiệp cao, nông nghiệp...
I. NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách cho biết, mặc dù duy trì được tốc độ
tăng trưởng tương đối cao, nhưng năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức thấp khi so sánh
với năng suất lao động bình qn của các nhóm quốc gia phân chia theo thu nhập. Năm 2017,
năng suất lao động của Việt Nam là 4,7% gấp 2 lần năng suất lao động trung bình của nhóm nước
thu nhập thấp, bằng hơn 50% nhóm nước thu nhập trung bình thấp và bằng 18,3% nhóm các
nước thu nhập trung bình cao. Năng suất lao động của Việt Nam thấp thứ hai, chỉ cao hơn
Campuchia ở các nhóm ngành nơng nghiệp, điện, nước, khí đốt, bán bn, bán lẻ, sửa chữa.
Trong đó ngành nông lâm và thủy sản vẫn nằm trong số các ngành có mức năng suất lao động
thấp nhất nền kinh tế. Ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo có năng suất lao động chưa cao. Còn
các ngành kinh tế vẫn duy trì năng suất lao động ở mức cao là ngành khai khống, sản xuất và
phân phối điện, khí, nước nóng, hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm, hoạt động kinh
doanh bất động sản, cung cấp nước. Cần chú ý ngành cơng nghiệp khai khống và cơng nghiệp
chế biến là nơi có năng suất lao động cao nhất từ trước đến nay vẫn là những lĩnh vực tập trung
vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Năng suất lao động của khu vực FDI thường cao hơn nhiều so với
lao động trong khu vực Nhà nước, góp phần đẩy năng suất lao động của Việt Nam nói chung tăng
lên. Thêm nữa, sự hiện diện của khu vực FDI còn giúp tạo ra áp lực cạnh tranh ngày càng lớn,
buộc các doanh nghiệp nội địa phải đổi mới để từ đó cải thiện năng suất. Đây chính là tác động
tích cực vốn FDI góp phần tăng năng suất lao động nói chung.
II. ẢNH HƢỞNG VỐN FDI ĐẾN TĂNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG


Nguồn vốn FDI giữ vai trò quan trọng trong việc trực tiếp đóng góp vào tốc độ tăng
trưởng năng suất lao động của Việt Nam. Số liệu giai đoạn 2006 - 2016, kết quả tính tốn cho
thấy, FDI đóng góp đứng thứ 2 (29%) vào tăng trưởng năng suất lao động bình quân hàng năm
92


của khu vực FDI. Nguyên nhân là do sự khác biệt về lĩnh vực đầu tư, khu vực FDI tập trung chủ
yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, khai khống và những ngành có năng suất lao động
cao trong khi khu vực nội địa lao động vẫn chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nơng nghiệp, ngành
có có năng suất lao động tuyệt đối rất thấp. Điều này dẫn tới năng suất lao động bình quân của
khu vực FDI cao.

Tăng năng suất lao động theo thành phần kinh tế
Nhà nước

Ngoài Nhà nước

FDI

23%

29%

48%

Tác động này được thể hiện ở 2 khía cạnh gián tiếp và trực tiếp:
FDI tác động trực tiếp đến năng suất lao động thông qua việc dịch chuyển cơ cấu lao động
trong nước từ khu vực có năng suất lao động thấp sang khu vực có năng suất lao động cao hơn.
Đồng thời, với lợi thế về công nghệ, về thị trường, quản lý, các doanh nghiệp FDI được kỳ vọng
sẽ có mức tăng trưởng năng suất lao động cao hơn so với với khu vực trong nước. Điều này được

thể hiện qua 2 kênh
- Kênh di chuyển lao động: Doanh nghiệp FDI tuyển dụng lao động tại các nước nhận
đầu tư và tiến hành đào tạo đội ngũ lao động này. Tác động chỉ xảy ra khi đội ngũ lao động có
trình độ này chuyển từ doanh nghiệp FDI sang làm việc tại các doanh nghiệp trong nước hoặc tự
thành lập doanh nghiệp và sử dụng những kiến tức này trong quá trình làm việc sau đó. Mức độ
di chuyển lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như sự phát triển của thị trường lao động,
cầu về lao động có trình độ, kỹ năng…
- Kênh liên kết sản xuất: Xuất hiện khi có sự trao đổi hoặc mua bán nguyên vật liệu hoặc
hàng hoá trung gian giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước. Loại tác động
này có thể sinh ra theo hai chiều. Tác động thuận chiều xuất hiện nếu doanh nghiệp trong nước sử
dụng hàng hoá trung gian của doanh nghiệp FDI. Tác động ngược chiều có thể xuất hiện khi các
doanh nghiệp FDI sử dụng hàng hóa trung gian do các doanh nghiệp trong nước sản xuất. Việc
các doanh nghiệp trong nước cung cấp hàng hoá trung gian cho doanh nghiệp FDI sẽ tạo điều
93


kiện cho các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất, từ đó giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm do
tăng quy mơ. Đồng thời, để duy trì, mối quan hệ mua bán ổn định lâu dài, các doanh nghiệp trong
nước phải áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng mới trong sản xuất và vì vậy gia tăng cải tiến quản
lý và đầu tư công nghệ mới…Qua liên kết, các doanh nghiệp trong nước ngày càng có khả năng
vượt lên chiếm lĩnh thị phần, thậm chí có thể xuất khẩu sản phẩm của mình vào hệ thống các
cơng ty đa quốc gia này. Do vậy tác động ngược chiều đã trở thành mục tiêu phấn đấu không
ngừng của doanh nghiệp tại các quốc gia đang phát triển.

FDI tác động gián tiếp đến năng suất lao động thông qua hiệu ứng lan tỏa thông qua 2 kênh:
- Kênh phổ biến và chuyển giao công nghệ: Đây là một trong những mục tiêu quan trọng
của các nước nghèo khi nghĩ đến thu hút nguồn vốn FDI. Ngoài việc bổ sung nguồn vốn đầu tư
cho nền kinh tế, các doanh nghiệp FDI cịn du nhập cơng nghệ tiên tiến vào nước nhận đầu tư.
Điều này gây áp lực về đổi mới công nghệ nhằm tăng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước. Về phía các doanh nghiệp trong nước muốn được áp dụng cơng nghệ tiên tiến hoặc

trực tiếp thì phải liên doanh hoặc nhận chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI. Vấn đề đặt
ra là các điều kiện trong nước có đủ đón nhận sự chuyển giao này hay không. Mức độ phổ biến
và chuyển giao công nghệ phụ thuộc rất lớn vào khả năng hấp thụ của các doanh nghiệp trong
nước, đồng thời khoảng cách công nghệ phù hợp giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư là yếu tố
quan trọng để hiệu ứng lan tỏa có thể xảy ra.
- Kênh cạnh tranh: Khu vực FDI làm gia tăng áp lực cạnh trạnh buộc các doanh nghiệp
nội địa cải tiến. Từ đó, khu vực FDI sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa cho khu vực nội địa và gián tiếp
cải thiện năng suất lao động chung. Tác động này phụ thuộc vào cấu trúc thị trường và trình độ
cơng nghệ của nước nhận đầu tư. Trong nhiều trường hợp tác động của cạnh tranh của FDI rất
khốc liệt. Nó có thể dẫn đến tình trạng giảm sản lượng, thậm chí ảnh hưởng tới sự tồn tại của
doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp bị tác động hoặc phải rời khỏi thị trường hoặc nếu
muốn tồn tại phải điều chỉnh nhằm thích nghi với mơi trường.

94


Có thể nói FDI giữ vai trị quan trọng trong việc trực tiếp đóng góp vào tốc độ tăng
trưởng năng suất lao động của Việt Nam. Tuy nhiên, đóng góp của khu vực FDI vào tăng trưởng
năng suất lao động phần lớn do dịch chuyển lao động từ khu vực năng suất lao động thấp sang
khu vực FDI với năng suất lao động cao hơn (chiếm 64%). Trong khi đó, đóng góp vào tăng
trưởng năng suất lao động thực sự từ khu vực FDI (đã trừ phần đóng góp do dịch chuyển lao
động) chiếm tỷ lệ nhỏ hơn rất nhiều (36%). Điều này có nghĩa là Việt Nam đã nhận được tác
động tích cực từ FDI, nhưng nhìn chung mức độ tác động tích cực cịn thấp, chủ yếu do khả năng
cạnh tranh, học hỏi, nhất là liên kết sản xuất, tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp
trong nước còn yếu. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản hạn chế nhận được tác động lan tỏa từ FDI
III. GIẢI PHÁP THU HÖT FDI NHẰM TĂNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG LÊN 6%
Theo dự báo của Chính phủ, giai đoạn 2010-2020, lực lượng lao động Việt Nam sẽ chỉ
tăng 0,6%/năm, nghĩa là chỉ bằng gần 1/4 mức tăng 2,8%/năm trong những năm 2000 – 2010.
Thị trường lao động đang có xu hướng dần thắt chặt. Giá lao động tại Bangladesh và Campuchia
sau khi điều chỉnh tỷ giá hiện nay đều thấp hơn Việt Nam. Rõ ràng, một khi chi phí nhân cơng và

giá cả tăng lên thì Việt Nam bắt đầu trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư FDI. Để giữ nhịp
tăng trưởng đạt được trong thời gian qua, Việt Nam cần bù đắp sự suy giảm lợi thế cơ cấu dân số
vàng bằng cách tăng năng suất của nền kinh tế.
Thứ nhất, chính sách thu hút FDI hiện chưa làm tốt vai trò tạo liên kết giữa doanh nghiệp
FDI với doanh nghiệp trong nước. Do đó tới đây cần tập trung tăng năng lực của khu vực doanh
nghiệp trong nước, đặc biệt doanh nghiệp tư nhân, để tạo điều kiện và cơ hội cho khu vực trong
nước nhận được tác động lan tỏa từ FDI. Một số chuyên gia kiến nghị, để lĩnh vực FDI thực sự
hiệu quả thì cần có những chính sách bắt buộc đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư tại Việt
Nam, chẳng hạn như yêu cầu họ phải đạt tỷ lệ nội địa hóa 60%, thay vì cam kết tỷ lệ nội địa hóa
10% như đa số các nhà đầu tư hiện nay. Có như vậy, FDI mới tạo được sức lan tỏa tới khu vực
doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó Việt Nam cần phải nâng cao năng lực doanh nghiệp trong
nước thông qua các dự án phát triển công nghiệp phụ trợ, phát triển nhà cung cấp cho cả doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cần khuyến khích tăng cường cơ chế hợp tác, liên kết
giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Việc thu hút FDI hiện nay thông qua nhiều
công cụ ưu đãi nhưng cần phải gắn chặt với việc tạo dựng mạng lưới cung cấp trong nước...
Thứ hai, cần chú trọng chất lượng của dòng vốn FDI thu hút thay vì số lượng. Cùng với
đó, tập trung phát triển cơng nghiệp hỗ trợ và có những hành động cụ thể hơn. Trong đó, ưu tiên
tiếp cận tín dụng đối với những ngành/lĩnh vực hỗ trợ ưu tiên phát triển. Chính phủ, bộ, ngành
tiếp tục tổ chức các cuộc đối thoại, trao đổi giữa các tập đoàn FDI lớn và nhằm tìm kiếm đối tác
cung cấp đầu.
Thứ ba, trình độ lao động thấp của Việt Nam là nhân tố cản trở tác động tích cực của
nguồn vốn FDI với năng suất lao động. Ở cấp độ doanh nghiệp, trình độ lao động thấp sẽ hạn chế
95


khả năng tiếp thu và chuyển giao công nghệ. Như vậy, nếu thiếu lao động có trình độ đáp ứng ở
một mức nào đó, việc phổ biến cơng nghệ sẽ khó hoặc khơng xảy ra. Do đó cần đào tạo nâng cao
trình độ, ý thức nguồn lao động.
Ngồi trình độ lao động, chênh lệch lớn về công nghệ và năng suất lao động cũng đang
gây khó khăn cho việc di chuyển lao động có chun mơn giữa các doanh nghiệp FDI và doanh

nghiệp trong nước. Bởi vậy cần thiết phải thu hẹp khoảng cách này.
Hơn nữa để tăng hiệu ứng tích cực từ khu vực FDI theo chiều dọc, khu vực nội địa phải
tham gia liên kết được với khu vực các doanh nghiệp nước ngồi thơng qua cung ứng đầu vào và
ngược lại.
IV. KẾT LUẬN
Việt Nam được đánh giá đã khá thành công trong thu hút FDI và khẳng định FDI có tác
động lan tỏa đến năng suất lao động. Tuy nhiên mức độ tác động lan tỏa vẫn còn thấp, chưa
tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng của định hướng thu hút FDI có chọn lọc và hiệu quả. “Mức
độ liên kết ngược và liên kết xuôi giữa khu vực FDI với khu vực nội địa còn thấp ở tất cả các
ngành, đặc biệt nhóm ngành cơng nghệ và kỹ thuật cao. Điều đó ngụ ý rằng, khả năng tác động
gián tiếp vào năng suất lao động của khu vực FDI thông qua hiệu ứng tràn về công nghệ và kỹ
năng lao động là thấp”, đại diện Viện Kinh tế Việt Nam cho hay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệu quả của FDI và đòi hỏi việc thay đổi chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Cục đầu tư nước ngoài Bộ Kế hoạch và đầu tư
2. TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh (2018), Tác động lan tỏa năng suất của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam;
3. TS. Lê Văn Hùng (2017), FDI và tăng trưởng năng suất lao động ở Việt Nam - Ngụ ý đối với
dòng vốn FDI từ EU;
4. Viện Nghiên cứu Toàn cầu McKinsey (2012), Giữ nhịp tăng trưởng bền vững tại Việt Nam:
Thách thức về năng suất.

96



×