Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.57 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

A- Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa của đề tài
6. Bố cục của đề tài
B- Nội dung
Chương I: Chủ nghĩa xã hội – con đường phát triển tất yếu của

Trang
2
2
3
3
4
4
5
6
6

nhân loại
1.1. Chủ nghĩa xã hội – Sự phủ định biện chứng chủ nghĩa tư

6

bản
1.2. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Chương II: Con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt



9
13

Nam
2.1. Chủ nghĩa xã hội, sự lựa chọn tất yếu của lịch sử dân tộc
2.2. Điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.3. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
C- Kết luận
D- Tài liệu tham khảo

13
15
16
21
22

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của Mác đã vạch ra rằng tiến
lên chủ nghĩa xã hội là xu thế vận động tất yếu khách quan của lịch sử
nhân loại hiện nay. Cùng với những thăng trầm của lịch sử lúc thành,
lúc bại, cũng như sự chống phá điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc,
những lực lượng quốc tế phản động chống lại loài người, nhưng chúng
ta phải khẳng định một điều rằng chủ nghĩa xã hội đã tạc đấu ấn đậm
nét đóng vai trị to lớn khơng thể phủ nhận trong sự phát triển vươn tới
đỉnh cao của văn minh nhân loại ở thế kỷ XX.

Ngày nay trong bối cảnh thế giới đã thay đổi và đang phải đối
diện với rất nhiều khó khăn nghiệt ngã, thách thức sinh tử, chủ nghĩa xã
hội vẫn đang không ngừng vận động phát triển vươn lên từng bước
khẳng định sứ mệnh lịch sử của nó trước nhân loại, thời đại. Ngọn cờ
xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê nin vẫn trở
thành động lực mạnh mẽ trên con đường phát triển vì sự tiến bộ, phồn
vinh đối với các quốc gia dân tộc trong thời đại ngày nay, thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, xét trên quy mơ tồn cầu.
Đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam, là hoàn toàn phù hợp với tất yếu khách quan, là sự vận
động biện chứng nội tại của lịch sử dân tộc, là nguyện vọng cháy bỏng
của quần chúng nhân dân.
Hơn 15 năm qua, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ
quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã gặt hái được những thành
tựu to lớn.

2


Khoảng khắc bước vào thế kỷ XXI chính là thời điểm có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng để chúng ta nghiên cứu, đánh giá, nhận xét, tổng kết
một bước của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong những năm
qua, từng bước bổ sung và góp phần phát triển lý luận.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đưa sự
nghiệp cách mạng Việt Nam khơng ngừng tiến lên dưới ngọn cờ của
Đảng, qua đó củng cố, xây dựng thêm những cơ sở lý luận và thực tiễn
mới, nhằm củng cố niềm tin vào triển vọng tất yếu của chủ nghĩa xã hội
trong thế kỷ XXI, phấn đấu vì một thế giới hồ bình, phát triển và
không ngừng tiến bộ. Đây là lý do để tôi chọn đề tài: “Con đường xây

dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước” làm tiểu luận nghiên cứu của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
“Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước” là nội
dung vô cùng quan trọng, mang tính cấp thiết cho các nhà làm công tác
lý luận, các nhà lãnh đạo Đảng, nhà nước, cũng như nhu cầu của chính
thực tiễn lịch sử dân tộc đặt ra. Do vị trí, vai trị của vấn đề mà cho đến
nay có khơng ít các cơng trình nghiên cứu đã được đăng, tải, xuất bản
dưới nhiều hình thức như bài viết, giáo trình, văn kiện Đảng…
Tuy nhiên do nhiều yếu tố chủ quan, khách quan, chúng tôi chưa
có điều kiện tiếp cận các cơng trình nghiên cứu, và chỉ mong muốn trên
cơ sở những kiến thức đã được lĩnh hội ở giảng đường đại học, cũng
như nhận thức của một công dân qua 20 năm đổi mới của đất nước,
đóng góp những suy nghĩ của mình về vấn đề trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi mà cán cân tương quan lực
lượng đang nghiêng về chủ nghĩa tư bản, mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện
3


thực Liên Xô và đông âu xây dựng đã không đáp ứng được thực tế lịch
sử, thì nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội cũng như bản chất của nó đã trở thành vấn đề mang tính sống cịn
đối với tương lai của lịch sử dân tộc. Chính vì vậy nhiệm vụ và mục
đích của đề tài là làm sáng tỏ hơn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn, góp phần rút ra những bài học
xương máu, làm tiền đề cho chặng đường tiếp theo của qúa trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ngày hôm

nay chúng ta đứng trước nhiều thời cơ, vận hội mới, tuy nhiên cũng
khơng ít khó khănvà thách thức mà chúng ta phải đối diện. Sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp lâu dài và gian khổ. Do quy mơ
và tính chất nên đề tài sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chủ đạo là
phương pháp lơgích kết hợp với phương pháp lịch sử, nó giúp người
xem có cái nhìn tổng qt, nhưng nó đồng thời cũng thể hiện một vấn
đề cụ thể khi nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
5. Ý nghĩa của đề tài:
- Ý nghĩa về khoa học: Đề tài là sự cụ thể hoá dưới dạng tổng
quát quan điểm của các nhà kinh điển Mác – Lê nin về chủ nghĩa xã hội
và những đặc trưng của nó, cũng như sự vận dụng các quan điểm đó
vào hồn cảnh đất nước ta trong điều kiện hiện nay. Từ đó đem đến cho
người đọc những nhận thức cơ bản nhất về chủ nghĩa xã hội, thực trạng
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

4


- Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Thông qua việc nghiên cứu đề tài
“Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước”. Chúng ta đã
rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu, góp phần bổ sng vào
kho tàng lý luận về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ
đó làm cho con đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng sáng rõ.
6. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở bài và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
nội dung của đề tài gồm hai chương:
Chương I: Chủ nghĩa xã hội – Con đường phát triển tất yếu của
nhân loại.

1.1. Chủ nghĩa xã hội – sự phủ định biện chứng của chủ nghĩa tư
bản.
1.2. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Chương II: Con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
2.1. Chủ nghĩa xã hội – sự lựa chọn tất yếu của lịch sử dân tộc
2.2. Điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.3. Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

5


B - NỘI DUNG

Chương 1
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN TẤT YẾU
CỦA NHÂN LOẠI

Khi cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội dẫn tới sự sụp đổ ở
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu thì khơng ít người
lớn tiếng cho rằng chủ nghĩa xã hội là bước quá độ tiến tới chủ nghĩa tư
bản, những ước mơ của chủ nghĩa tư bản đã thực hiện rồi, với những
luận điểm đó người ta cho rằng những người mác xít bàn về chủ nghĩa
xã hội chẳng khác nào bàn về sự hư vô.
Từ những ý kiến mang sặc mùi tư sản, ta không thể không đặt ra
câu hỏi bản chất – tiền độ của chủ nghĩa tư bản? Liệu chủ nghĩa tư bản
có tồn tại mãi và là tương lại của nhân loại không?
1.1. Chủ nghĩa xã hội – Sự phủ định biện chứng chủ nghĩa tư bản
Trong bức thư gửi cho I.O.Xep Vai-đơ-mai-ơ đề ngày 25-3-1852
tại New yok Mác viết: “Những kẻ ngu ngốc dốt nát như Vai-nơ-txen

(nhà chính trị cấp tiến, nhà dân chủ tiểu tư sản, chống lại C.Mác và
Ph.ănghen) càng ít hiểu biết sự vĩ đại và tính tất yếu nhất thời của bản
thân chế độ tư sản, thì thái độ ấy lại càng ghê tởm bấy nhiêu”.
Cũng từ quan điểm ấy, 20 năm sau, Mác lại chỉ ra rằng: “Chúng
ta đau khổ khơng những vì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà cịn
đaukhổ vì nó phát triển chưa đầy đủ”.
Thực tiễn lịch sử đã xác nhận nhận định của C.Mác về tính tất
yếu nhất thời của chủ nghĩa tư bản, trong những thập kỷ qua, mặc dù
chủ nghĩa tư bản đôi lúc vẫn mắc phải căn bệnh kinh niên là khủng
hoảng, tuy nhiên các nước chủ nghĩa tư bản vẫn duy trì được sự tăng
trưởng kinh tế ở mức khá. Chính điều này tạo ra một bầu khơng khí ảo
mộng của chủ nghĩa tư bản và làm nhồ đi thực chất cốt lõi của vấn đề.
6


Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tìm mọi cách thích nghi nhanh
chóng, tận dụng những thành tựu khoa học và cơng nghệ để phát triển.
Mặc khác sự bóc lột khốc liệt của các nước tư bản đối với thế giới thứ 3
và những khu vực chậm phát triển trên hành tinh vẫn tiếp tục với tốc độ
thu lợi nhuận ngày càng tăng.
Những vấn đề đặt ra là liệu với tất cả sự tăng trưởng và vận động
trên đây có trở thành chiều hướn phát triển bền vững và có khả năng
giải quyết những vấn đề cơ bản của chính chủ nghĩa tư bản hay không?
Như chúng ta đã biết cho dù sự phát triển của chủ nghĩa tư bản có
nhanh chậm đến đâu, những thành tựu đạt được trong lĩnh vực khoa học
cơng nghệ có cải thiện điều kiện thực tại như thế nào thì chủ nghĩa tư
bản vẫn không tự giải quyết được những vấn đề nổi cộm do quy luật
vận hành của chính xã hội này tạo ra. Đó là sự chi phối bởi quy luật
thặng dư tạo ra các cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ là sự phát triển
và chi phối nền kinh tế thế giới, những vẫn phải lệ thuộc vào những yếu

tốc bên ngồi (dầu, mỏ là một ví dụ). Liệu chủ nghĩa tư bản có thể làm
mưa, làm gió, quy luật cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường
hết sức phức tạp, không chỉ là kinh tế mà ngay trong lòng xã hội tư bản
cũng nổi lên những vấn đề hết sức nghiêm trọng như sự khủng hoảng
văn hoá sâu sắc, nạn thất nghiệp luôn là căn bệnh cố hữu, xung đột
khủng bố và nhiều hiểm hoạ khác đang rình rập. Thế nhưng các nhà
cầm quyền tư bản cứ rêu rao một xã hội cơng bằng, bình đẳng, dân chủ
tiến bộ, nhưng khi đi ra ngồi thì lại cần phải dùng tới những đoàn xe
tháp tùng đặc vụ. Vậy liệu những vấn đề nổi cộm đó có phải là một xã
hội lý tưởng mà nhân loại và mọi người trên hành tinh này mong muốn
và khao khát?

7


Với phương pháp tư duy biện chứng, chúng ta không thể phủ
nhận những thành tựu to lớn của chủ nghĩa tư bản mang lại cho nhân
loại. Nhưng những đóng góp ấy lại xuất phát từ mục đích tồn tại của
chính nó.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội, khơng thể tách rời nhận thức một
cách đúng đắn về sự vận động, phát triển diệt vong của chủ nghĩa tư
bản. Thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đạt được trong thời gian qua chứng
tỏ vai trị lịch sử của nó chưa chấm dứt. Song chính những tiền đề đó lại
trở thành những tiền đề vật chất cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Những biến đổi trong thời đại ngày nay không thể tách rời sự biến
đổi của cách mạng khoa học công nghệ, cũng như những thành tựu do
cuộc cách mạng đó mang lại. Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của
Mác đã chỉ ra nguồn gốc và cũng là nguyên nhân sâu xa tạo nên sự biến
đổi của xã hội qua các thời đại là bởi lực lượng sản xuất chi phối và
quyết định. Điều đó thấy rằng xã hội phong kiến chiến thắng, vượt lên

đập tan xã hội chiếm hữu nô lệ là quy luật tất yếu khách quan của lịch
sử. Vì cái mới tiến bộ luôn chiến thắng cái cũ lạc hậu. Cũng như sự
chiến thắng của chủ nghĩa tư bản với phong kiến, đến lượt nó cũng là
điều tất nhiên. Vì sao? Vì chỉ trong vòng vẻn vẹn 300 năm khi chủ
nghĩa tư bản ra đời, nó đã tạo ra được một khối lượng sản phẩm của
hàng ngàn năm trước mà con người đã sản xuất ra. Cái cối xay tay
không thể đối trọng với cối xay bằng hơi nước, sức ngựa không thể thay
cho ô tô, xe lửa… Cũng như vậy, ngày nay chính cuộc cách mạng khoa
học và cơng nghệ sẽ tạo tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa tư bản
bằng một xã hội mới cao hơn – chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Cuộc cách mạng này được bắt đầu vào giữ thế kỷ XX cho đến nay. Nó

8


làm cho lực lượng sản xuất thay đổi một cách căn bản, chuyển từ cơng
nghiệp cơ khí lên sản xuất tự động.
Cuộc cách mạng đó đã biến khoa học “trở thành lực lượng phát
triển sản xuất trực tiếp”, làm cho người lao động ngày càng được trí tuệ
hố và lao động trí tuệ trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu. Với vị trí
có tính quyết định của khoa học và cơng nghệ, lao động trí tuệ trong
nền sản xuất hiện đại, kinh tế thế giới đã chuyển lên một trình độ mới
về chất.
Ngày nay với q trình tồn cầu hoá là xu thế phát triển tất yếu
của nhân loại, hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra tất cả các nước. Sự kiện 711-2006 Việt Nam là thanh niên thứ 150 của WTO là bằng chứng cụ
thể.
Những thành tựu đó là kết quả của chủ nghĩa tư bản, nhưng nó lại
trở thành cái đối lập với chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẩn đó tất yếu sẽ được
giải quyết và chủ nghĩa tư bản sẽ mất đi, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản sẽ thay thế. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là kết quả hợp quy

luật do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tạo ra. Cho nêu vấn đề quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng của thời đại, đúng như Đại hội IX
khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành
công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc,
có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến
hố của lịch sử lồi người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
1.2. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội – chủ nghĩa cộng sản, theo các nhà kinh điển
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đó là một xã hội sẽ thay thế cho xã hội
tư bản trong tươnglai. Học thuyết Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa
và xây dựng chủ nghĩa xã hội về lý thuyết đó là một học thuyết mang
9


tính khoa học và cách mạng nhằm giải phóng lồi người khỏi xiềng
xích tàn bạo của chủ nghĩa tư bản, khỏi áp bức bóc lột.
Trên thực tế, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra trên thế
giới đó là cuộc cách mạng tháng 10 vĩ đại, đã mở ra một giai đoạn phát
triển mới cho lịch sử xã hội loài người, kế tiếp sau là hàng loạt các nước
xã hội chủ nghĩa ra đời. Tuy nhiên cho đến nay trên thế giới chưa có
một quốc gia nào xây dựng thành cơng, thắng lợi chủ nghĩa xã hội, có
những thời điểm lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, thậm chí đứt
đoạn, thụt lùi, sụp đổ. Và chính sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở một số nước đang làm đảo lộn nhiều nhận thức về chủ
nghĩa xã hội, phân biệt thành nhiều luồng tư tưởng khác nhau, thậm chí
đối lập nhau cả về tính chất và mức độ. Nhưng cũng khơng ít người
khơng ngừng tin tưởng vào sức sống và tiềm năng của các giá trị xã hội
chủ nghĩa, tin vào xu thế tất yếu và triển vọng của chủ nghĩa xã hội.
Lý luận về chủ nghĩa xã hội là một cống hiến quan trọng của các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Nhưng điều quan trọng chúng ta muốn

nhận thức đúng về nó, bổ sung và phát triển cần có phương pháp luận
đúng đắn. Sẽ là ảo tưởng phi biện chứng khi ai đó nghĩa rằng công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội “một lần cho tất cả”, mà trái lại đó là sự
nghiệp tồn cầu mới mẻ, cho nên những vấp váp, sai lầm trên con
đường đó là khơng thể tránh khỏi.
Lịch sử là một chiều liên tục, có khi quanh co uốn khúc, nhưng
tính chất chuyển tiếp từ chế độ này sang chế độ khác diễn ra một cách
tự nhiên, mặt khác, lịch sử dụng có sự phát triển đột biến với những
bước nhảy vọt, tức xu hướng phát triển không tuần tự. Đây là loại hình
mà nhiều nước bỏ qua một hay hai nấc thang của lịch sử với những
phương pháp trực tiếp hay gián tiếp.
10


Như thế rõ ràng, sự phát triển của xã hội lồi người như một q
trình lịch sử tự nhiên, chịu sự tác động chi phối của những quy luật
mang tính phổ biến, cũng như quy luật đặc thù, nó khơng phụ thuộc vào
ý thức của con người. Dầu cho người ta có làm nổi tung tính ưu việt của
chủ nghĩa tư bản hiện đại, hay những khó khăn mà chủ nghĩa xã hội đối
diện thì rõ ràng tương lai thuộc về chủ nghĩa xã hội, không thuộc về chủ
nghĩa tư bản.
Sự sụp đổ một phần lớn chủ nghĩa xã hội hiện thực đòi hỏi chúng
ta phải tiếp tục kiến giải những nguyên nhân và hậu quả của tình trạng
ấy, để phân biệt rõ ràng đâu là những điều thuộc về nhận thức lý luận,
đâu là những sai lầm do thực tiễn gây ra. Sự tiến hoá của nhận thức
mang ý nghĩa sống cịn, bởi nó là sự phản ánh con đường tiến hố của
lịch sử.
Cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp hoàn toàn mới
mẻ. Sự vấp váp, sai lầm, thậm chí đổ vỡ trong tiến trình xây nó là điều
khơng thể tránh khỏi. Điều đó khơng có nghĩa là chủ nghĩa xã hội đã

hồn tồn bị phá sản như các lý luận gia chủ nghĩa tư bản tun bố, mà
chính điều đó lại tạo ra quyết tâm cách mạng để chủ nghĩa xã hội hiện
thực ngày càng hồn hảo hơn.
Ngày nay trong q trình đổi mới, mơ hình chủ nghĩa xã hội đang
được tiếp nhận nội dung mới của trước đây chưa hề biết đến. Bởi lẽ
chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là cái gì xong xi hẳn và
bất khả xâm phạm, trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng
cho mơn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển
hơn nữa về mọi mặt nếu họ khơng muốn chính họ là những người lạc
hậu, tụt lùi trước lịch sử.

11


Nhưng dù thế nào chủ nghĩa xã hội vẫn có mục tiêu và nguyên tắc
của nó - đó là thước đo về sự trung thành và tính sáng tạo của những
người cộng sản. Những mục tiêu và nguyên tắc đó là sự phấn đấu để
tiến tới một xã hội tự do, cơng bằng, hạnh phúc trong đó khơng có sự
bóc lột và đàn áp.
Trong cuộc đổi mới hiện nay điều quan trọng là chúng ta phải
mạnh dạn tìm tịi nhằm tạo ra một sự chuyển biến căn bản trong sự
phát triển lý luận cách mạng sao cho lời nói gắn liền với việc làm, lý
luận phải được cụ thể hoá bằng thực tiễn.
Tất nhiên chúng ta cũng không nên quá máy móc và cứng nhắc
khi tuyệt đối hố vai trị lý luận, nhưng cũng không nên coi lý luận là
một điểm tựa để giải quyết mọi vấn đề. Cuộc sống luôn diện ra hết sức
phức tạp muôn màu muôn vẻ, vơ cùng sinh động, ở những thời điểm có
tính bước ngoặt thì nhiều vấn đề này sinh. Muốn giải quyết những cơng
việc đó một cách kịp thời và đúng đắn cần phải nâng cao trí tuệ và hiệu
quả hoạt động của Đảng với tư cách là mắt khâu điểm nối giữa lý thuyết

và thực tiễn.
Muốn làm được điều đó thì ngay trong mọi tổ chức, mọi cơ quan
cần phải nâng cao trình độ lý luận chính trị của Đảng, khơng ngừng
củng cố và đổi mới mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân với quần
chúng. Trong đội ngũ lãnh đạo Đảng khơng chỉ cần nâng cao trình độ lý
luận mà cũng cần phải nâng cao trình độ tư duy, tầm nhìn chiến lược,
đúng như quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh từ những ngày đầu
sáng lập Đảng: Có thể những người ưu tú không phải là đảng viên,
nhưng đã là đảng viên thì phải là người thực sự ưu tú. Nếu khơng như
thế thì vai trị và trách nhiệm của Đảng đối với việc bảo vệ và phát triển

12


chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói
riêng sẽ chỉ là ảo tưởng mà thôi.

13


Chương 2
CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

2.1. Chủ nghĩa xã hội, sự lựa chọn tất yếu của lịch sử dân tộc
Cách mạng tháng 10 Nga nổ ra và giành thắng lợi đã mở ra một
chương mới cho lịch sử tiến hố của xã hội lồi người. Cũng như bao
dân tộc thuộc địa đang chịu cảnh áp bức, đô hộ của tư bản thực dân.
Chủ nghĩa đề quốc, người dân An Nam thấy ở cuộc cách mạng này như
một làn gió xuân thổi tan đi gió độc, mây mù, như vầng thái dương xoá
đi màn đêm u tối. Cách mạng tháng 10 giống như một anh lính tiên

phong, phát đại bác mở đường cho một học thuyết, một đường lối, một
hệ tư tưởng trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Đó là học
thuyết Mác – Lênin.
Sự ra đời của nước Nga xô viết nó thể hiện xu thế vận động, quy
luật phát triển tất yếu mang tính biện chứng, là sự thắng lợi của công lý
đối với bạo tàn, của sự tiến bộ đối với sự phản động, lạc hậu của loài
người đối với thiếu số.
Cách mạng Việt Nam lịch sử dân tộc Việt Nam lựa chọn con
đường cách mạng vô sản, lấy học thuyết chủ nghĩa Mác – Lênin làm
kim chỉ nam cho mọi hành động trong bối cảnh ngọn cờ phong kiến đã
thất bại, chấm dứt vai trò, sứ mệnh lịch sử của nó. Giai cấp tư sản dân
tộc ốm yếu cả về thế và lực, không đủ sức để tạo nên sự thay đổi về
chất, cũng như dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc vì bấtlực. Và sự
kiện ngày 17-7-1920, Nguyễn Ái Quốc bắt gặp bài luận cương do Lênin
soạn thảo là một sự kiện mang tính ngẫu nhiên, nhưng nó là tất yếu
trong tâm hồn một thanh niên u nước đang mong mỏi tìm ra con
đường giải phóng cho q hương. Sự kiện đó khơng chỉ tạo ra bước

14


ngoặt trong cuộc đời hoạt động của người mà còn là lời giải đáp cho
câu hỏi mà lịch sử dân tộc đang đặt ra.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngay từ đầu đã khẳng định vai
trò, sự mệnh lịch sử của nó trước tồn thể dân tộc. Ngay từ đầu nó đã
được vũ trang bằng thứ vũ khí sắc bén - đó là chủ nghĩa Mác – Lênin,
chủ nghĩa Mác – Lênin là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo của
Đảng và là nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Ngày từ khi ra đời đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân cũng như
chính đảng có nó đã dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội. Độc lập dân tộc là tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng
chủ nghĩa xã hội là yếu tố đảm bảo cho nền độc lập dân tộc. Chính vì
vậy khi nền độc lập dân tộc đã giành được thắng lợi thì cũng là lúc
Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân tiến lên thực hiện mục tiêu thứ hai
được nêu ra trong cương lĩnh tháng 2 của Đảng đó là xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Việc bỏ qua sự xác lập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta không chỉ
phù hợp với điều kiện của lịch sử dân tộc, mà nó đáp ứng được xu thế
phát triển của thời đại, có nghĩa là nó vừa đảm bảo được tính phổ biến,
nhưng lại phù hợp với cái đặc thù, vừa đáp ứng được cái riêng nhưng
không ngược lại với cái chung, nó thể hiện sự biến đổi về chất khi
lượng đã có đủ.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh lực lượng thù
địch không ngừng chống phá cách mạng Việt Nam cả trong lẫn ngoài,
chia sẻ sự đoàn kết của cộng đồng các dân tộc, bao vây, cấm vận nhưng
ngược lại với những điều đó chúng ta lại được sự hậu thuẩn của các làn
sóng cách mạng đang dâng lên cao sự đồng tình của anh em, bạn bè và
15


lực lượng tiến bộ ưa chuộng hồ bình trên thế giới. Điều quan trọng
nhất là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trên dưới một lòng quyết tâm
tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là yếu tố quyết định cho
sự phát triển của lịch sử dân tộc hiện đại và tương lai.
2.2. Điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Các tác giả kinh điển trong tác phẩm của mình đã nêu rõ những
điều kiện để các nước đi sau có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến
lên CNXH. Ở thời điểm hiện nay của bối cảnh quốc tế, Việt Nam vẫn
hội đủ những điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản

vì những lẽ sau đây.
Thứ nhất, nếu như các tác giả kinh điển cho rằng đối với các nước
tiền tư bản chủ nghĩa phải có được tấm gương của một cuộc cách mạng
vơ sản đã thắng lợi để làm bài học, làm hình mẫu cho việc rút ngắn con
đường đi tới chủ nghĩa xã hội, thì đối với Việt Nam cho đến nay các
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà đặc biệt là hơn 70 năm xây dựng
chủ nghĩa xã hội; ở Liên Xô gần 50 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội; ở
Trung Quốc bao hàm trong nó khá nhiều bài học sinh động về sự thành
công và thất bại.
Thứ hai: Nếu như các tác gia kinh điển chỉ ra rằng cần phải có sự
giúp đỡ tích cực của các nước tiên tiến và giai cấp vô sản quốc tế, các
nước tiền tư bản mới có thể rút ngắn được con đường đi tới chủ nghĩa
xã hội, thì hiện nay Việt Nam đã có được khơng ít kinh nghiệm phong
phú trong việc tranh thủ sự ủng hộ của các nước phát triển, cũng như
thu hút sự giúp đỡ của giai cấp công nhân quốc tế, để tiến hành cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Đương nhiên từ sau chiến tranh lạnh, tính chất của sự giúp đỡ
quốc tế đã có nhiều thay đổi. Bối cảnh quốc tế hố, tồn cầu hố và hội
16


nhập kinh tế quốc tế đã mở ra giai đoạn mới rất phức tạp về những vấn
đề quan hệ quốc tế. Tuy nhiên có thể nói Đảng cộng sản Việt Nam đã
sớm nắm bắt và xử lý được các mối quan hệ của mình, đây là một trong
nhiều nguyên nhân tạo nên những thành tựu to lớn và rất quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ ba: Có một điều kiện quốc tế cực kỳ quan trọng cho phép
Việt Nam có thể đi tắt đón đầu đó là tiếp cận, tiếp nhận những thành
quả mới nhất mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang tạo
ra, nó sẽ tạo ra những cơ sở hiện thực cho xây dựng thành công chủ

nghĩa xã hội.
Cuốic cùng, là hiện nay chúng ta có một chính đảng kiên trì chân
lý cách mạng, kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Vì những lí lẽ trên, có cơ sở để tin tưởng rẳng con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước đang
phát triển là con đường hợp quy luật và chắc chắn sẽ giành được thắng
lợi.
2.3. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, liên quan trực tiếp
đến phương hướng phát triển của đất nước.
Đảng ta ngay từ khi ra đời (1930) đã khẳng định mục tiêu lý
tưởng phấn đấu của nước ta là độc lập dântộc và chủ nghĩa xã hội. Từ
đó đến nay chúng ta ln phấn đấu cho mục tiêu và lý tưởng ấy.
Năm 1960 Đại hội III của Đảng đã hoạch định đường lối cơ bản
xây dựng chủ nghỉa xã hội ở miền Bắc. Năm 1976 Đại hội IV của
Đảng đã phát triển một bước đường lối của Đại hội III. Tuy nhiên trong
17


việc thiết kế mơ hình cụ thể và tổ chức chỉ đạo thực hiện, chúng ta đã
phạm phải những sai lầm trong tổ chức và thực hiện.
Đại hội VI của Đảng đã phân tích nguyên nhân sâu xa của những
sai lầm đó là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn
giản, máy móc, nóng vội không tôn trọng quy luật khách quan, nhận
thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế ở Việt Nam.
Đại hội VI đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, là cột mốc đánh
dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã

hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội VII của Đảng họp vào tháng 6 – 1991 lúc này chế độ xã
hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, Liên Xơ có nguy cơ tan rã. Đại hội
đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định phát triển kinh tế đến năm 2000.
Cương lĩnh đã xác định phát triển kinh tế đến năm 2000. Cương lĩnh đã
xác định 6 đặc trưng, 7 phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ.
Đại hội VIII trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình, đại hội nhận
định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác
định rõ hơn…”. “Xét trên tổng thể việc hoạch định và thực hiện đường
lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Như vậy đến trước đại hội IX của Đảng, nhận thức về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, theo mơ hình đổi
mới đã được xác lập và từng bước bổ sung, hồn thiện dần. Đó là kết
quả của q trình tìm tịi thử nghiệm, suy tư đấu tranh rất gian khổ, kết
tinh trí tuệ và cơng sức của toàn Đảng, toàn dân ta trong nhiều thập kỷ.
Nó được rút ra từ thực tiễn và được thể hiện đậm nét ở các Nghị quyết
18


đại hội Đảng của Ban chấp hành TW Đảng. Đặc biệt Nghị quyết đại hội
V tháng 3 – 1982 với việc khẳng định coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, được coi là bước đột phá trong phát triển nông nghiệp. Nghị quyết
TW8 khoá V về giá, lương, tiền, Nghị quyết đại hơi VI năm 1986 đổi
mới tồn diện. Đại hội VII thông qua cương lĩnh và chiến lược, đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố được xác định tại đại hội VIII
(tháng 6 – 1996)… Tuy nhiên vẫn còn khơng ít vấn đề chưa đủ sáng tỏ.
Đến đại hội IX của Đảng mới tổng kết, bổ sung, làm sáng tỏ thêm một

số vấn đề.
Đại hội IX đã bổ sung những nội dung cơ bản sau:
- Về mục tiêu của cách mạng, lý tưởng của Đảng.
Đại hội chỉ rõ: “thực tiễn phong phú và những thành tựu được qua
15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh thông qua
Đại hội VII, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng
định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định
hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ
tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênnin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, báo cáo chính trị đại hội
IX chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tự mà nhân loại đã đạt được

19


dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là khoa học và công nghệ để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
- Về mơ hình kinh tế tổng qt: Đại hội IX của Đảng đã xác định
đường lối phát triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ đó là:
“Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời

tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập nền kinh tế quốc tế
để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đơi
với phát triển văn hố, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện
môi trường, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với bảo vệ quốc phòng, an
ninh”.
- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Đại hội VII xác
định tồn tại ba hình thức sở hữu: Toàn dân; tập thể và tư nhân. Đại hội
VIII xác định chung ta có 5 thành phần kinh tế, Đại hội IX bổ sung
thêm 1 thành phần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
- Về nền tảng tư tưởng của Đảng: Đại hội VII của Đảng đã khẳng
định: Chủ nghĩa Mác – Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Có thể nói chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là 2 nhưng là một, là một
nhưng lại là hai, đó là mối quan hệ biện chứng.
- Về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập
nền kinh tế quốc tế: Đảng xác định muốn giữ được độc lập, tự chủ về
kinh tế, nhất thiết phải có hai điều kiện: một là đường lối chính sách
độc lập tự chủ, hai là thực lực kinh tế đủ mạnh.
20


Nguyên tắc cơ bản bao trùm hội nhập kinh tế quốc tế là: “bảo
đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ lợi ích dân
tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ
mơi trường”.
“Trong mối quan hệ song phương hay đa phương đều phải giữ
vững nguyên tắc bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau đơi bên cùng có lợi”.
Trên đây là một số vấn đề cơ bản liên quan trực tiếp đến vấn đề lý
luận và thực tiễn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã

được đại hội IX của Đảnglàm sáng tỏ thêm. Điều đó vừa khẳng định
cương lĩnh, đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng đã được vạch ra
tại các đại hội trước. Trong các Nghị quyết của trung ương của Bộ
chính trị vừa bổ sung, vừa phát triển hồn thiện thêm một bước đường
lối quan điểm của Đảng. Điều này cũng góp phần quan trọng vào sự
nghiệp cách mạn chung của nước ta và nhân dân thế giới. Tại đại hội IX
của Đảng ta, đồng chí Giodeca danêva, trưởng đồn đại biểu Đảng cộng
sản Bồ Đào Nha nói: “Những thành tựu trong việc cụ thể hoá một con
đường quá độ, thích hợp lên chủ nghĩa xã hội khơng chỉ là tài sản vô giá
của những người cộng sản Việt Nam mà còn là nguồn cảm hứng tin
tưởng đối với những người cộng sản và cách mạng trên toàn thế giới.

21


C. KẾT LUẬN
Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước là khơng mới.
Nhưng nó ln thể hiện tính thời sự cấp thiết ở mọi thời điểm trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là một tiến trình dài trên đó rất nhiều khó khăn và thử thách đang đợi
chúng ta ở phía trước. Đúng như Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định nó
phải trải qua nhiều chặng đường, nhiều giai đoạn mà chúng ta bây giờ
đang ở giai đoạn chặng đường đầu tiên. Trong tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội chúng ta giống như một anh lính tiên phong khám phá những
miền đất mới mà nhân loại chưa từng đặt chân.
Nếu như ai xem lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học là một học
thuyết hoàn bị khơng cần chỉnh sửa, bổ sung thì đó là một sai lầm, một
phương pháp tư duy không biện chứng. Chúng ta biết rằng học thuyết
Mác nói chung và những quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học

nói riêng mới chỉ là cái nền móng chắc chắn đầu tiên mà trên đó địi hỏi
những nhà xã hội chủ nghĩa phải xây lên lâu đài của chủ nghĩa xã hội.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng vậy, điều cốt yếu
đầu tiên được xem là bất di, bất dịch, nhân tố khởi đầu cho mọi quyết sách
đó là chúng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tàng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Tuy nhiên chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là liều thuốc vạn năng có thể
giải quyết mọi vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
và nó chỉ có chức năng định hướng, cịn biểu hiện như thế nào thì phải
xuất phát chính thực tiễn đặt ra. Điều đó đặt ra vấn đề bức thiết là trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà cộng sản, các nhà xã hội chủ
nghĩa phải không ngừng bổ sung, đúc kết những bài học từ thực tiễn, rút
ra những kinh nghiệm cần thiết, áp dụng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
những chặng đường tiếp theo. Phải khơng ngừng bổ sung, phát triển, hồn
thiện học thuyết Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng,
có như vậy người cộng sản mới có khả năng đảm đương vai trị, vị trí mà
lịch sử thời đạo giao phó.

22


D – TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Đức Bình; Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2003.
2. Nguyễn Huy Quý; Độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2003.
3. Lê Nhị; Một số suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến
thực tiễn, NXB lao động Hà Nội, 2002.
4. Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện đại hội Đảng tồn quốc lần

IX, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
5. Ban tư tưởng văn hoá TW – Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại
hội IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001.

23



×