Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Diễn án hồ sơ 06. Chu Thị Thanh. Tranh chấp quyền sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.69 KB, 8 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
MÔN: KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM
GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ

MÃ HỒ SƠ SỐ : LS.DS - 06
DIỄN LẦN : 02
NGÀY DIỄN: 13/08/2021

Họ và tên

: ………………………………

Lớp

: Luật sư ………..

Số báo danh : ………
Vai diễn

: ……………………………..

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 08 năm 2021


Bài thu hoạch diễn án dân sự HS-DS 06
HỒ SƠ VỤ ÁN DÂN SỰ
HỒ SƠ SỐ 06: TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
PHẦN 1: TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN:


Cụ Chu Khắc Trường (1910-1945) và cụ Chu Thị Cúc (1909-1990) là vợ chồng
với nhau. Lúc sinh thời, vợ chồng có 04 người con chung là:
1. Chu Thị Thanh (Chu Thị Hồng Thanh), sinh năm 1931;
2. Chu Thị Loan, sinh năm 1934;
3. Chu Văn Sinh (Chu Khắc Sinh), sinh năm 1936;
4. Chu Thị The, sinh năm 1944;
Trong quá trình chung sống, vợ chồng tạo lập được khối tài sản chung là phần
đất có diện tích 777m2, thuộc thửa số: 40, tờ bản đồ số 02, lập năm 1998 tọa lạc tại
Thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Nam Định chưa được cấp Giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất. Trên đất có xây một căn nhà cấp 4 hai gian lợp ngói, vách đất diện
tích 183,4 m2; 14 cây nhãn, 01 cây dừa, 01 bụi tre, 01 cây táo; 01 bể nước. Trước khi
chết bố mẹ không để lại di chúc. Di sản để lại là nhà và đất ở có diện tích nêu trên.
Sau khi bố mẹ mất các người con (Thanh, Loan, Sinh và The) lần lượt đi làm ăn
xa. Ngày 20/01/1994, ông Chu Khắc Sinh về quê làm giấy chuyển giao quyền sử dụng
cho ông Chu Khắc Thuyên gồm: đất thổ diện tích 502 m 2, một nhà 2 gian mái ngói,
vách đất, ao cùng tồn bộ cây cối lâu năm trong vườn. Việc chuyển giao quyền sử
dụng này được trưởng tộc họ Chu Khắc là ông Chu Khắc Chinh, trưởng thôn 6 là ông
Chu Hải Nông và UBND xã Phù Vân xác nhận. Việc chuyển nhượng này các chị em
(bà Thanh, The, Loan) không được bàn bạc, thống nhất. Bà Chu Thị Thanh khi biết sự
việc đã đề nghị chính quyền xã tạm đình chỉ việc chuyển quyền thừa kế.
Ngày 15/4/1994, sau khi bàn bạc thống nhất, bốn chị em bà Thanh lập giấy
chuyển giao mảnh đất trên cho vợ chồng ông Thuyên, bà Tám trông nom, quản lý
quyền sử dụng đất, nhà trên đất và các cây cối lâu năm cho ông Thuyên sử dụng và thu
hoạch, thời hạn giao là 5 năm kể từ ngày 15/4/1994 đến ngày 15/4/1999. Việc giao
quyền trông nom này có sự chứng kiến của đại diện họ nội, họ ngoại và xác nhận của
chính quyền địa phương UBND xã Phù Vân.
Ngày 3/3/1999, ông Thuyên qua đời, bà Đinh Thị Tám (vợ ông Thuyên) vẫn
trông nom, thu hoạch hoa lợi trên phần đất đó và thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế với
cơ quan nhà nước từ đó đến nay.
Đầu tháng 5/2016, bà Đinh Thị Tám xây dựng nhà trên phần diện tích đất nói

trên. Cuối tháng 5/2016, chị em bà Thanh biết được việc xây dựng nhà của bà Tám nên
đã trở về quê ngăn cản và thông báo cho chính quyền địa phương. UBND xã Phù Vân
1


Bài thu hoạch diễn án dân sự HS-DS 06
đã tiến hành 2 phiên hoà giải ngày 19/6/2016 và ngày 25/10/2016 nhưng khơng có kết
quả. Việc hồ giải được lập thành văn bản.
Ngày 05/11/2016 bà Thanh và ông Sinh gửi đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân
thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để yêu cầu bà Tám trả đất, trả nhà, cây cối trên đất và
50% tổng giá trị thu nhập cây lâu năm kể từ ngày 15/4/1994.
PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN:
1. Thẩm quyền giải quyết:
Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì tranh chấp về
quyền sở hữu được quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 sẽ do
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 trong trường hợp
đối tượng tranh chấp là bất động sản thì Tịa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải
quyết.
→ Vì vậy mà Tịa án có thẩm quyền giải quyết là: Tịa án nhân dân thành phố Phủ
Lý, tỉnh Hà Nam.
2. Thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015 thì đối với tranh chấp
về quyền sử dụng đất thì khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện.
3. Quan hệ pháp luật tranh chấp:
Theo bản đồ địa chính lập năm 1998 thì phần đất tranh chấp là của vợ chồng
ông Trường, bà Cúc. Bà Tám cho rằng ông Sinh đã chuyển quyền thừa kế cho vợ
chồng bà, chồng bà là ông Thuyên đã mất nên đất này là của bà. Nguyên đơn cho rằng
đây là tài của bố mẹ để lại và họ là những người thừa kế theo pháp luật nên đất này là
của họ.

→ Đây là mối quan hệ “Tranh chấp về Quyền sử dụng đất”
4. Thủ tục tiền tố tụng:
Phần đất tranh chấp mặc dù chưa được cấp giấy chứng nhận nhưng theo bản đồ
địa chính số 02 lập năm 1998 thì phần đất tranh chấp là của ông Trường, bà Cúc. Các
bên tranh chấp và cả chính quyền địa phương cũng xác nhận nguồn gốc đất là của ơng
Trường, bà Cúc. Phía Ngun đơn chỉ tranh chấp quyền sử dụng đất khi bà Tám chiếm
hữu, xây nhà trái pháp luật, yêu cầu bà Tám trả lại đất chứ khơng phải tranh chấp ai có
quyền sở hữu quyền sử dụng đất. Do vậy, căn cứ vào điểm b Khoản 3 Điều 8 Nghị
quyết 05/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai
“Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân
sự thì tranh chấp này khơng bắt buộc phải qua hịa giải cơ sở.
2


Bài thu hoạch diễn án dân sự HS-DS 06
PHẦN 3: DỰ THẢO KẾ HOẠCH XÉT HỎI:
1. Mục đích hỏi
- Khắng định thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 tại địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân,
huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam là di sản thừa kế của cụ Trường và cụ Cúc;
- Chứng minh bà Đinh Thị Tám sử dụng, quản lý nhà và đất tại thửa đất số 40 là
không đúng quy định pháp luật;
2. Kế hoạch xét hỏi
2.1 Hỏi để khẳng định thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 tại địa chỉ: thôn 6, xã
Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam là di sản thừa kế của cụ Trường và cụ Cúc
 Hỏi bị đơn bà Đinh Thị Tám:
2.1.1 Bà cho biết nguồn gốc diện tích đất tranh chấp này là của ai?
2.1.2 Phần diện tích đất 777m2 thuộc thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 hiện nay đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa?
2.1.3 Năm 1994 ông Sinh lập giấy chuyển nhượng quyền thừa kế quyền sử dụng đất

của cụ Trường, cụ Cúc cho gia đình bà phải khơng?
2.1.4 Bà có nhận được Thơng báo của UBND xã Phù Vân về việc tạm đình chỉ việc
chuyển quyền thừa kế từ ông Sinh cho ông Thuyên vào ngày 10/4/1994 khơng?
2.1.5 Bà có biết việc bà Thanh, bà Loan, bà The và ông Sinh làm giấy giao quyền
trông nom cho ơng Thun quản lý tồn bộ phần đất đang tranh chấp vào ngày
15/04/1994 khơng?
2.1.6 Bà có bằng chứng gì chứng minh quyền sử dụng đất của mình đối với diện tích
đất 777m2 đang tranh chấp khơng?
 Hỏi ngun đơn:
Hỏi bà Chu Thị Thanh
2.1.7 Ngày 20/01/1994, ông Chu Khắc Sinh cùng vợ là bà Đỗ Thị Lý viết đơn chuyển
quyền thừa kế cho ông Chu Khắc Thuyên (tức Kha), bà có biết khơng?
2.1.8 Khi các chị em bà giao quyền trơng nom đất cho ơng Chu Khắc Thun quản lí
thì có giấy tờ gì khơng?
2.1.9 Hiện nay diện tích đất 777m2 thuộc thửa số 40, tờ bản đồ số 02 đang đứng tên
ai?
2.1.10 Nghĩa vụ thuế và nghĩa vụ khác đối với thửa đất đang tranh chấp từ trước đến
nay do ai thực hiện?

3


Bài thu hoạch diễn án dân sự HS-DS 06
2.2 Hỏi để chứng minh bà Đinh Thị Tám sử dụng, quản lý nhà và đất tại
thửa đất số 40 là không đúng quy định pháp luật:
 Hỏi nguyên đơn ông Chu Khắc Sinh:
2.2.1 Năm 1994, khi ông lập giấy giao quyền thừa kế cho ơng Chu Khắc Thun thì
các chị em ông có biết hay không?
2.2.2 Việc ông tự ý chuyển giao quyền sử dụng đất của bố mẹ, không thông báo cho
các chị, em trong gia đình, ơng có biết là việc làm này trái pháp luật không?

2.2.3 Sau khi ông chuyển nhượng quyền thừa kế cho ông Chu khắc Thun thì từ thời
gian đó cho tới nay ơng có trở về lại hay khơng? Và có nhận đủ tiền chuyển quyền
thừa kế hay chưa?
2.2.4 Bà Tám phá dỡ nhà cũ và xây nhà mới trên mảnh đất đó ơng có biết khơng?
 Hỏi người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Chu Thị The và Chu Thị
Loan:
2.2.5 Bà cho biết mảnh đất đang tranh chấp hiện đứng tên ai?
2.2.6 Việc ông Chu Khắc Sinh viết giấy chuyển giao quyền sử dụng đất cho ơng
Thun bà có biết khơng?
PHẦN 4: LUẬN CỨ BẢO VỆ
Định hướng bài bảo vệ: bảo vệ cho nguyên đơn theo hướng chấp nhận toàn bộ
yêu cầu của nguyên đơn.
BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO NGUYÊN ĐƠN
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát!
Thưa các vị Luật sư đồng nghiệp và toàn thể q vị đang có mặt trong phiên tịa ngày
hơm nay.
Tôi là …………. - Luật sư thuộc Công ty …….., Đồn Luật sư TP. Hồ Chí
Minh – chi nhánh tỉnh Bình Dương. Tơi có mặt tại phiên tịa ngày hơm nay với tư cách
là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của tơi – bà Chu Thị Thanh –
là nguyên đơn trong vụ án tranh chấp “Quyền sử dụng đất” với bị đơn là bà Đinh Thị
Tám.
Hôm nay, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua phần xét hỏi công khai tại
tịa hơm nay, tơi xin phép HĐXX trình bày luận cứ bảo vệ cho nguyên đơn như sau:
Thứ nhất, về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đối với diện tích 777m 2
tọa lạc tại thơn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam:
Đối với phần diện tích đất này có nguồn gốc từ cụ Chu Khắc Trường và cụ Chu
Thị Cúc. Khi cụ Trường và cụ Cúc lấy nhau và sinh ra các con thì gia đình các cụ đã
4



Bài thu hoạch diễn án dân sự HS-DS 06
sinh sống ổn định trên thửa đất này từ rất lâu. Sau khi cụ Trường chết năm 1945, cụ
Cúc vẫn ở lại trên mảnh đất đó, bốn người con chung của các cụ trưởng thành đều
thốt ly gia đình ra ở riêng và đi làm kinh tế xa. Cụ Cúc qua đời vào năm 1990, tồn
bộ phần diện tích đất trên do ông Chu Khắc Thuyên (chồng bà Tám) trông nom, quản
lý cho đến khi ông Thuyên qua đời vào năm 1999 thì bà Tám chiếm đất.
Điều này được chứng minh thơng qua các chứng cứ như sau:
- Bản đồ địa chính lập năm 1998 (BL 21); Bản trích đo vị trí tranh chấp (BL 22);
Bản đồ lập năm 1990 (BL 24) đều thể hiện tên người có quyền sử dụng đối với thửa
đất 777m2, thuộc thửa 40, tờ bản đồ số 02 là bà Chu Thị Cúc.
- Giấy giao quyền trông nom ngày 15/4/2994 (BL10) thể hiện 04 chị em bà
Thanh chỉ giao quyền quản lý cho ông Chu Khắc Thuyên trong thời hạn 05 năm từ
ngày 15/04/1994 – 15/4/1999. Văn bản được sự thống nhất giữa các bên, cùng với sự
chứng kiến của họ nội, ngoại, trưởng thôn và Ủy ban nhân dân xã Phù Vân đã xác
nhận với nội dung “…thống nhất tạm thời giao trong 05 năm (còn quyền sở hữu về
ruộng đất tài sản trong thời gian 5 năm đã ghi trên chưa phải là bà Thanh đã giao
hẳn cho ơng Thun sử dụng)…”. Có thể thấy giữa các bên đã có sự thỏa thuận về việc
quản lý trơng nom thửa đất, với mục đích khơng để thửa đất bị bỏ hoang, khơng có
người khai thác hoa lợi từ thửa đất nhưng chưa thực sự chuyển giao tồn bộ quyền
định đoạt cho ơng Thun, bà Tám. Bởi lẽ, bản chất nguồn gốc thửa đất là của cụ
Trường và cụ Cúc, khi 02 cụ mất các người con vẫn chưa làm thủ tục khai nhận di sản
thừa kế, nhưng các người con đã có văn bản họp gia đình và thống nhất đây là tài sản
chung chưa chia.
- Biên bản làm việc ngày 27/11/2016 của Tòa án nhân dân TP.Phủ Lý về nguồn
gốc đất tranh chấp (BL 62). Theo đó, ơng Phạm Trường Sinh – là trưởng thơn 6, xã
Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho biết nguồn gốc thửa đất thửa đất tranh chấp
là của vợ chồng ông Chu Khắc Trường và bà Chu Thị Cúc, sau khi ơng Trường chết
thì bà Cúc là người trực tiếp quản lý sử dụng.
- Biên bản lấy lời khai của bà Thanh, Loan, The, ông Sinh, (BL 35-37, BL 41, 42,

BL 71-73) đều cùng nhìn nhận nguồn gốc thửa đất tranh chấp là của cụ Trường và cụ
Cúc. Tại biên bản lấy lời khai của bị đơn ngày 21/11/2016, bà Đinh Thị Tám cũng đã
xác nhận “Nguồn gốc thửa đất này là của ông bà nội chồng tôi và ông bà nội ông Sinh
để lại cho bố mẹ đẻ ông Sinh, bà Thanh (ông Chu Khắc Trường và bà Chu Thị Cúc).
Sau khi ông Trường chết (tôi không nhớ rõ năm nào) thì bà Cúc và các con của bà
Cúc, ông Trường ở trên thửa đất này”.
Từ những phân tích và lập luận trên có thể thấy được phần đất tranh chấp trên là
của ông Trường, bà Cúc mất để lại. Ông Trường mất năm 1945 (BL 6), bà Cúc mất
năm 1990 (BL 17) không để lại di chúc cho nên các con là ông Sinh, bà Thanh, bà
The, bà Loan là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất căn cứ vào
điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005. Nên, việc ông Sinh chuyển quyền thừa
5


Bài thu hoạch diễn án dân sự HS-DS 06
kế cho ông Thuyên (BL 7) là không hợp pháp vì không được sự đồng ý của các đồng
thừa kế còn lại là bà Thanh, bà Loan, bà The. Cụ thể việc chuyển quyền này đã bị đình
chỉ bởi UBND xã Phù Vân bằng quyết định số 05/TB-UB ngày 10/04/1994. Vì những
lẽ trên, bà Tám khơng có quyền sở hữu đối với thửa đất 777m 2 tọa lạc tại thôn 6, xã
Phù Vân, việc chiếm hữu quyền sử dụng đất và xây nhà của bà Tám là trái pháp luật,
xâm phạm quyền và lợi ích của nguyên đơn. Căn cứ Điều 256 BLDS năm 2005 về
quyền đòi lại tài sản, xét thấy bà Thanh, ơng Sinh có đủ cơ sở u cầu bà Tám trả lại
đất cho 4 chị em mình.
Thứ hai, nguyên đơn yêu cầu bà Tám tháo dỡ tài sản trên đất để trả lại cho
bà Thanh, ông Sinh, bà Loan, bà The là có căn cứ, cụ thể:
Phần diện tích đất trên là đất thừa kế của 4 chị em bà Thanh, ơng Sinh. Do đó, các
ơng bà Thanh, Loan, Sinh, The có quyền sử dụng và định đoạt thửa đất. Bà Tám là
người thừa kế nghĩa vụ từ ông Thuyên thực hiện việc trông nom, quản lý thửa đất, bà
Tám khơng có quyền sở hữu quyền sử dụng đất và cũng khơng có quyền xây dựng nhà
và các cơng trình khác trên đất. Tại Giấy giao quyền trơng nom khi giao những tài sản

nêu trên cho ông Thuyên ngày 15/4/1994, các bên đã thống nhất giao ước“nhà cửa tu
sửa để ở không để dột nát, đất đai tự sản xuất ra sản phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ
với nhà nước (trồng các cây ngắn ngày) không được xây dựng cơ bản như: làm nhà,
đất phải giữ nguyên mặt bằng khơng được đào kht”. Do đó, việc bà Tám và con gái
là Chu Thị Mai tập kết vật liệu xây dựng đào móng và xây nhà trái phép là vi phạm
vào thỏa thuận ban đầu và không được sự chấp thuận của những người có quyền sở
hữu quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại điểm b mục 2.4 – Nghị quyết số 02/2004/HĐTP của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2004 thì tranh chấp của ông Sinh, bà Thanh
với bà Tám thuộc trường hợp: “Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế
nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác
chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền... thì các thừa kế có
quyền khởi kiện người khác đó để địi lại di sản”
Vì vậy, Ngun đơn u cầu bà Tám tháo dỡ nhà và cơng trình trên đất là phù
hợp quy định pháp luật và không phải bồi thường.
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Từ những căn cứ, nhận định nêu trên, tơi kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
chấp thuận yêu cầu của nguyên đơn như sau:
- Công nhận tài sản đang tranh chấp là thuộc quyền sở hữu chung, hợp
pháp của các nguyên đơn và bà Loan, bà The;
- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám và con gái là Chu Thị Mai trả lại thửa đất
cho các chị em bà Chu Thị Thanh, bà Chu Thị Loan, bà Chu Thị The, ông Chu
Khắc Sinh.
6


Bài thu hoạch diễn án dân sự HS-DS 06
- Yêu cầu bà Tám cùng con gái phải bồi thường giá trị 50% hoa lợi từ
thửa đất từ năm 1994 đến nay.
Trên đây là quan điểm của Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

nguyên đơn – bà Chu Thị Thanh, ơng Chu Khắc Sinh. Kính đề nghị HĐXX xem xét để
ra một bản án khách quan và đúng pháp luật bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho thân
chủ tôi.
Xin trân trọng đề nghị và cảm ơn HĐXX!
Luật sư ……………….

7



×