Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.12 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN KIỂM TOÁN VIỆT NAM

CHUYÊN ĐỀ THẢO LUẬN HỌC PHẦN
‘’ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH’’

ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN
TỘC

NHĨM
LỚP
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

2
K54DD
NGƠ THỊ HUYỀN TRANG
Hà Nội, 2020


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................3
I. Vai trị của đại đồn kết dân tộc theo Tư tưởng Hồ Chí Minh...4
1. Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược , quyết
định thành cơng của Cách mạng..............................................4
2.Đại đồn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng, Cách mạng, dân tộc.......................................................6
II.Lực lượng đại đoàn kết dân tộc................................................9
1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân:...................9
2. Điều kiện để thực hiện đại đoàn kết dân tộc:....................10
III.Hình thức khối đại đồn kết dân tộc.....................................12


1. Hình thức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc
thống nhất:.............................................................................12
2. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của
Mặt trận dân tộc thống nhất:.................................................13
IV. Ý nghĩa.................................................................................18
1.Giá trị lý luận và giá trị thực tiễn:........................................18
2.Liên hệ thực tiễn..................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................23

2


LỜI MỞ ĐẦU
Đại đồn kết dân tộc ln là một truyền thống quý báu
của nhân dân ta trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước.
Dân tộc Việt Nam ta đã đi qua nhiều cuộc chiến tranh giữ nước,
chiến thắng nhiều đế quốc và thực dân xâm lược. Nhân dân ta
đã đổ máu và nước mắt, hi sinh tất cả mọi thứ để đổi lấy hồ
bình, độc lập, tự do cho đất nước. Cuộc tổng tiến công và nổi
dậy mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc hành trình dài đằng đẵng,
gian khổ, đau thương và anh dũng của dân tộc Việt Nam nhỏ bé
nhưng bất khuất, kiên cường. Để có được chiến thắng này,
không thể không kể đến một trong những nhân tố có ý nghĩa
quyết định của Đảng ta, đó là xây dựng và phát huy sức mạnh
đại đồn kết dân tộc. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khái qt đặc điểm có tính chân lý về vai
trị của khối đại đồn kết dân tộc đó là: “ Đồn kết làm ra sức
mạnh, Đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then
chốt của thành công”...


3


NỘI DUNG
I. Vai trị của đại đồn kết dân tộc theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
1. ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC LÀ VẤN ĐỀ CÓ Ý NGHĨA CHIẾN LƯỢC ,
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CƠNG CỦA CÁCH MẠNG
a.Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược:
Khi đề cập đến vị trí, vai trị của đại đồn kết dân tộc, Hồ
Chí Minh khẳng định, đại đồn kết dân tộc là một chiến lược cơ
bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống cịn, quyết định thành
cơng của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng
nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc, của nhân dân.
Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi
thành cơng: “Đồn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để
khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đồn kết, đồn kết,
đại đồn kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng” .
Đại đồn kết dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh
không chỉ đơn giản là phương pháp tổ chức, tập hợp lực lượng,
mà cao hơn là một bộ phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt
trong đường lối chiến lược cách mạng, Người khẳng định: “Đồn
kết là một chính sách dân tộc, khơng phải là một thủ đoạn chính
trị” . Có thể nói đồn kết dân tộc vừa là điều kiện tiên quyết,
sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, đồng thời là tơn chỉ, mục
đích, là nhiệm vụ hàng đầu mà sự nghiệp cách mạng cần hướng
và đạt tới.
Với Hồ Chí Minh, đại đồn kết khơng phải là một chủ
trương, một chiến lược xuất phát từ nguyện vọng, từ ý muốn chủ
quan của lực lượng lãnh đạo mà là sự đúc kết những đòi hỏi

khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng tiến hành.
Nếu như xuất phát từ nhu cầu của lực lượng lãnh đạo cách
mạng, đại đoàn kết dân tộc sẽ chỉ dừng lại là một thủ đoạn chính
4


trị nhằm đạt được mục đích, một ý đồ nhất định. Ngược lại, nhìn
nhận đồn kết dân tộc như một đòi hỏi tự thân, khách quan của
quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng thì đại
đồn kết là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Do đó, trong
tiến trình lãnh đạo cách mạng, Người u cầu khơng được có bất
cứ lúc nào lơ là nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Xây dựng khối đại đồn kết dân tộc khơng chỉ dừng lại trong
nhận thức mà được cụ thể hóa trong mọi bước đi, giai đoạn phát
triển của cách mạng, Người nói: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây
dựng nước nhà”
b.Đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn sức mạnh, quyết định
thành công của Cách mạng:
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước là một cơng việc hết sức hệ trọng, to lớn và vô cùng khó
khăn. Nhiệm vụ đó chỉ có thể thành cơng khi quy tụ được sức
mạnh đoàn kết của toàn dân tộc vì đồn kết mới tạo nên sức
mạnh, tạo nên lực lượng hùng hậu có thể đương đầu và chiến
thắng kẻ thù. Thực tiễn cách mạng đã trả lời giữa đoàn kết và
thành cơng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bởi phạm vi, mức
độ, quy mô của thành công trước hết phụ thuộc vào chính quy
mơ và mức độ của khối đại đoàn kết. Là người lãnh đạo tối cao
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh nhận thức
sâu sắc đồn kết khơng chỉ tạo nên sức mạnh mà là vấn đề có

ý nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành bại, được mất trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Để lý giải một nước Việt Nam
nghèo nàn, lạc hậu lại có thể đương đầu và đánh bại một tên
thực dân đầu sỏ có ưu thế tuyệt đối về vật chất, phương tiện
chiến tranh, Người nói: “Tồn dân Việt Nam chỉ có một lịng:
Quyết khơng làm nơ lệ, Chỉ có một ý chí: Quyết khơng chịu mất
nước, Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ
thống nhất và độc lập cho tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào
5


ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ
quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu
nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại” .
=> Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ
bản, nhất quán và lâu dài, xun suốt q trình cách mạng,là
vấn đề sống cịn, quyết định thành bại của cách mạng
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã trả lời, có đồn kết mới
có thắng lợi, càng gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn gian khổ bao
nhiêu lại cần phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy
nhiêu. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người đặc biệt
quan tâm tới vấn đề đoàn kết vì đồn kết là mấu chốt của
thắng lợi và rút ra một bài học lớn đồng thời là quy luật mang
tính sống cịn của dân tộc Việt Nam: “Sử ta dạy cho ta bài học
này: Lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta
độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước
ngồi xâm lấn”
Để huy động sức mạnh của tồn dân trong cơng cuộc giải
phóng thực dân Pháp, năm 1941 Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh gọi tắt là Việt Minh đã ra đời với liên hiệp hết thảy

các từng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu
hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh
đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở. Chương trình
cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm mà tinh thần cơ bản là cốt
thực hiện được hai điều: “Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn
được độc lập. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do”.
Việt Minh đã quy tụ được nhiều tầng lớp nhân dân là lập ra
được nhiều hội Công nhân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh
niên cứu quốc…. Mặt trận Việt Minh – hình thức mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi nhằm tập hợp và phát huy nguồn sức
mạnh của quần chúng nhân dân trong quá trình tiến hành cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là là một sách lược tài tình
của Đảng và Hồ Chí Minh nhằm khơi nguồn sức mạnh nội sinh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm thực hiện khát vọng
6


giành đôc lập tự do. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
thành cơng, ngày 2/9/1945, tại Ba Đình (Hà Nội), thay mặt
Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên
ngôn độc lập, tuyên bố nền độc lập của dân tộc trước toàn thể
quốc dân đồng bào và thế giới. Sự thành công của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng sức mạnh tổng hợp của cả
dân tộc, của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự dẫn dắt của
Đảng và Bác Hồ.
2.ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC LÀ MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ HÀNG ĐẦU CỦA
ĐẢNG, CÁCH MẠNG, DÂN TỘC
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước nhân nghĩa - đoàn
kết là sức mạnh, là mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại
đồn kết dân tộc phải được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ

hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh
vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động thực
tiễn của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao
động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng
tuyên bố trước toàn thể dân tộc: "Mục đích của Đảng Lao động
Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng
sự Tổ quốc”. Để thực hiện mục tiêu này, Người thường xuyên
nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần
chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng; vận
động, tổ chức và giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của cách
mạng là ở nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy "dễ trăm
lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".
Đại đồn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng,
đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách
mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn mạnh tới vai trị của thực
lực cách mạng. Bởi vì, cách mạng muốn thành cơng nếu chỉ có
đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở của đường lối đúng,
Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và
phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để
7


lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực
lực đó chính là khối đại đồn kết dân tộc. Năm 1963, khi nói
chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Trước Cách mạng
Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là
làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn
kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để địi độc lập. Chỉ
đơn giản thế thơi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn

luyện là: Một là đoàn kết Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba
là đấu tranh thống nhất nước nhà".
Hồ Chí Minh cịn chỉ ra rằng, đại đồn kết dân tộc khơng
phải chỉ là mục tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu
của cả dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
phải do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong phong trào đấu
tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần
chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Đảng Cộng sản
phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng,
chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của
quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ
chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp
trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân
và hạnh phúc cho con người.

*Vận dụng vào thực tiễn nước ta hiện nay
Trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, dao vậy, nước ta đang
đứng trước nhiều cơ hội lớn, nhưng cũng sẽ gặp nhiều thách
thức, khó khăn lớn trên con đường phát triển, như các thế lực
phản động khơng ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn
biến hịa bình”, chống phá sự nghiệp Cách mạng của Nhân dân
ta, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn
đề “nhân quyền”, “ dân tộc”, “tơn giáo” hịng li gián, chia rẽ nội
8


bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Bên cạnh đó là nạn tham
nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên

đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và làm
giảm niềm tin trong nhân dân.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng, Nhà nước phải xây dựng và
phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong công cuộc đổi
mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tính chất là một tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn nhất của nhân dân
ta, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân
dân. Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam phải chủ động góp phần cùng Đảng và Nhà nước xây dựng
và hồn thiện một số chính sách chung để sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc trở thành động lực chủ yếu và là nhân tố có ý
nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ
trương “đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chân thành mọi thành viên
trong xã hội có thể đồn kết được, khơng phân biệt quá khứ,
thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước
ngoài trên cơ sở mục tiêu chung là giữ vững độc lập thống nhất
chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ quốc gia vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”; đoàn kết
giữa nhân dân với nhân dân các nước trên thế giới; phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để trở thành động lực chủ
yếu để xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc”.

9


II.Lực lượng đại đồn kết dân tộc

1. ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC LÀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN:
Thứ nhất, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân và
Nhân dân đã được đề cập một cách rõ ràng, toàn diện, có sức
thuyết phục, thu phục lịng người. Các khái niệm này có nội
hàm rất rộng lớn. Người dùng các khái niệm này để chỉ “mọi
con dân nước Việt”, “con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân
tộc thiểu số với dân tộc đa số người tín ngưỡng với người khơng
tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo, quý
tiện”. Nói đến đại đồn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp
được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Người đã nhiều lần nêu rõ :“Đoàn kết của ta khơng những rộng
rãi mà cịn đồn kết lâu dài…Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây
dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ
quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”. Từ “Ta” trong
câu nói của Người là chủ thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam
nói riêng, vừa là mọi người dân Việt nam nói chung.
Thứ hai, dân và nhân dân là chủ thể của khối đại đoàn kết
dân tộc. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái
niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng
khối đồn kết tồn dân trong suốt tiến trình cách mạng , bao
gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Muốn thực hiện được đại
đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lịng khoan
dung , độ lượng với con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở : "
Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây
giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ ". Để thực hiện được
đồn kết, Người cịn căn dặn: Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến,
cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
để phục vụ nhân dân. Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh có

lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại đồn kết toàn dân với
10


nịng cốt là khối liên minh cơng - nơng trí thức do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo.
Thứ ba, muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn
như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn
kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó.
Người đã chỉ rõ : Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại
đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Người coi công
nông cũng như: cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền
vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác.
"Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông,
cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc
thống nhất ".
Về sau, Người nêu thêm : lấy liên minh công - nơng - lao
động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền
tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc
càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm
suy yếu khối đại đồn kết dân tộc .

2. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC:
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa
truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đồn kết của dân tộc.
Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong
suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân
tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình
cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua

các thế hệ từ thời các Vua Hùng dựng nước tới Bà Trưng, Bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, QuangTrung... Truyền thống đó là
cội nguồn sức mạnh vơ địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến
thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn,
bản sắc dân tộc được giữ vững.

11


Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí
Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có
những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu... Cho nên, vì lợi
ích của cách mạng, cần phải có lịng khoan dung, độ lượng, trân
trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể
tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: "Sông to,
biển rộng bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng
và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước đầy tràn, vì
độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái
chén, cái đĩa cạn"[1]. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có
ngón ngắn ngón dài, nhưng cả năm ngón cùng thuộc về một
bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết.
Người cho rằng: "Trong mấy triệu người cũng có người thế này
thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên
ta. Vậy nên phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận ra rằng đã là
con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc. Đối
với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình nhân ái
để cảm hóa họ. Có như thế mới thành đồn kết, có đại đồn kết
tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang"
Lòng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh khơng phải là
một sách lược nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp

nối và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc,
từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời theo
đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán được thể hiện trong đường
lối, chính sách của Đảng đối với những người làm việc dưới chế
độ cũ và những người nhất thời lầm lạc biết hối cải. Người tuyên
bố: "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hịa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta,
bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ"
Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lịng u nước,
khơng phân biệt tầng lớp. tín ngưỡng, chính kiến và trước đây
đã từng đứng về phe nào, hãy cũng nhau đồn kết vì nước, vì
dân. Để thực hiện được đồn kết, cần xóa bỏ hết mọi thành
12


kiến, cần phải thật thà hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ. Người cho rằng, trong mỗi con người Việt Nam "ai cũng có ít
hay nhiều tấm lịng u nước" tiềm ẩn bên trong. Tấm lịng u
nước đó có khi bị bụi bặm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương
tri con người thì lịng u nước đó lại bộc lộ. Với niềm tin vào sự
hướng thiện của con người vì lợi ích tối cao của dân tộc. Hồ Chí
Minh đã chân thành lơi kéo, tập hợp được chung quanh mình
nhiều người trước đây vốn là quan đại thần của Nam triều cũ,
như: Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm sai đại thần Phan Kế
Toại, .vào khối đại đoàn kết tồn dân, tạo điều kiện để họ có
đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.

Để thực hành đồn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân
dân. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu
tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên

tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc "nước lấy dân
làm gốc", "chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân", đồng
thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít "cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng". Theo Người, dân là chỗ dựa vững chắc
của Đảng, là nguồn sức mạnh vơ tận và vơ địch của khối đại
đồn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nềngốc và
chủ thể của Mặt trận. Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu
Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, tháng 1-1955. Người chỉ rõ: "Đại
đoàn kết tức là trước hết là phải đoàm kết đại đa số nhân dân.
mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng
lớp nhân dân lao động khác. Đó là nề, gốc của đại đồn kết. Nó
cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững,
gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác".

13


III.Hình thức khối đại đồn kết dân tộc
1. HÌNH THỨC CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC LÀ MẶT TRẬN
DÂN TỘC THỐNG NHẤT:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc không
thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, những lời
hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, phải
trở thành khẩu hiệu hành động của tồn Đảng, tồn dân tộc. Nó
phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất
có tổ chức. Tổ chức đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất.
Về một phương diện nào đó, có thể khẳng định rằng, q
trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là q trình tìm
kiếm mơ hình và cách thức tổ chức quần chúng nhân dân,
nhằm tạo sức mạnh cho quần chúng trong cuộc đấu tranh để tự

giải phóng mình và giải phóng xã hội. Chính vì vậy, ngay sau
khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đưa
quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với
từng giai cấp, từng ngành nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng
tôn giáo, phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Đó có thể
là các hội ái hữu hay tương trợ, cơng hội hay nơng hội, đồn
thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay hội phụ
lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước hay những
nghiệp đồn... Trong đó, bao trùm nhất là mặt trận dân tộc
thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và
cá nhân yêu nước, nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không
chỉ ở trong nước mà con bao gồm cả những người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm
lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt Nam,
đều được coi là thành viên của mặt trận.
Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ
cách mạng, cương lĩnh và điều lệ của mặt trận dân tộc thống

14


nhất có thể có những nét khác nhau, tên gọi của mặt trận dân
tộc thống nhất theo đó, cũng có thể khác nhau:
+ Hội phản đế đồng minh (1930)
+ Mặt trận dân chủ (1936)
+ Mặt trận nhân dân phản đế (1939)
+ Mặt trận Việt Minh ( 1941 )
+ Mặt trận Liên Việt (1946)
+ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960)

+ Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (1955-1976)


Thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng

lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các
giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và
cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu
chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và
hạnh phúc của nhân dân.

2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT:
a. Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền
tảng khối liên minh cơng - nơng - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng:
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc, nơi quy tụ mọi con dân nước Việt. Song, đó
khơng phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát của
quần chúng nhân dân, mà là một khối đồn kết chặt chẽ, có tổ
chức trên nền tảng khối liên minh cơng-nơng-trí thức, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo.


Ngun tắc cốt lõi trong chiến lược đại đồn kết của Hồ

Chí Minh, hoàn toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực
lượng của các nhà yêu nước Việt Nam trong lịch sử.

15



Trên thực tế và theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết khơng chỉ
là tình cảm của "người chung một nước phải thương nhau cùng"
nữa., mà đã được xây dựng trên một cơ sở lý luận vững chắc.
- Xây dựng trên nền tảng khối liên minh công – nông - tri thức:
Hồ Chí Minh viết: "Lực lượng chủ yếu trong khối đồn kết
dân tộc là cơng nơng, cho nên liên minh công nông là nền tảng
của mặt trận dân tộc thống nhất". Người chỉ rõ ràng, sở dĩ phải
lấy liên minh cơng - nơng làm nền tảng "Vì họ là người trực tiếp
sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đơng hơn
hết, mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách
mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác"'.
Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trị nịng cốt của liên
minh cơng nơng, cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng
cố khối liên minh cơng nơng mà khơng thấy vai trị và sự cần
thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là tầng
lớp trí thức. Làm cách mạng phải có trí thức và tầng lớp trí thức
rất quan trọng đối với cách mạng. Người nói; " trong sự nghiệp
cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao
động trí óc có một vai trị quan trọng và vẻ vang: và cơng,
nơng, tri cần đồn kết chặt chẽ thành một khối"'.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất
và liên minh công - nông luôn được Người xem xét trong mối
quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Mặt trận dân tộc
thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của khối liên minh công nông - trí thức càng được tăng cường; ngược lại, liên minh cơng
- nơng - trí thức càng được tăng cường, Mặt trận dân tộc thống
nhất càng vững chắc, càng có sức mạnh mà khơng một kể thù
nào có thể phá nổi.
- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng:

Sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận vừa là vấn đề mang
tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho mặt trận tồn
tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Bởi vì chỉ có chính
đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác 16


Lênin mới đánh giá đúng được vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến lược và sách
lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn
kết trong mặt trận, biến tiến trình cách mạng trở thành ngày
hội thật sự của quần chúng.



Hồ Chí Minh ln xác định, mối quan hệ giữa Đảng và Mặt

trận là mối quan hệ máu thịt. Khơng có Mặt trận. Đảng khơng
có lực lượng không thể thực hiện được những nhiệm vụ cách
mạng; không có sự lãnh đạo của Đảng. Mặt trận khơng thể hình
thành, phát triển và khơng có phương hướng hoạt động đúng
đắn.


Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một thành viên của Mặt

trận dân tộc thống nhất, vừa là lực Lượng lãnh đạo mặt trận.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất yếu,
vừa phải có điều kiện. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt
thực tiễn, phát hiện ra các quy luật khách quan của sự vận
động lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng

phù hợp, lãnh đạo Mặt trận thực hiện thành công các nhiệm và
cách mạng mà không một lực lượng nào, một tổ chức chính trị
nào trong Mặt trận có thể làm được. Mục tiêu của Đảng là đấu
tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Ngồi lợi ích của giai cấp và lợi ích
của dân tộc, Đảng khơng có lợi ích nào khác. Mặc dù vậỵ,
quyền lãnh đạo Mặt trận của Đảng không phải do Đảng tự
phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi chưa giành được chính quyền.
"Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo
của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất hoạt
động nhất và chân thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và trong
công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính
17


sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới
giành được vị trí lãnh đạo"
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải có chính sách Mặt trận
đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn. từng thời kỳ cách mạng,
phù hợp với quyền lợi và nguvện vọng của đại đa số nhân dân.
Người viết: "Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan
trọng. Cơng tác mặt trận là một cơng tác rất quan trọng trong
tồn bộ cơng tác cách mạng".
Trong quá trình lãnh đạo mặt trận, Đảng phải đi đúng
đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò
ép các thành viên trong mặt trận, phải dùng phương pháp vận
động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lịng chân thành để
đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tuyệt đối
không được lấy quyên uy của mình để buộc các thành viên

khác trong mặt trận phải tuân theo. Nói chuyện tại lớp bồi
dưỡng cán bộ về cơng tác mặt trận, Hồ Chí Minh căn dặn: "Phải
thành thật lắng nghe ý kiến của người ngồi Đảng. Cán bộ và
đảng viên khơng được tự cạo, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn
mọi người: trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt ở mọi
người...phải tích cực và phải chủ động...làm việc phải kiên
nhẫn, phải thiết tha với công tác Mặt trận. Cán bộ và đảng viên
có quyết tâm làm như thế thì cơng tác Mặt trận nhất định sẽ
tiến bộ nhiều”
b. Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo
đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng
lớp nhân dân.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại
đoàn kết toàn dân, song khối đại đồn kết đó chỉ có thể thực
hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao độ về mục
tiêu và lợi ích. Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại
đồn kết, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện đồn
kết khi có chung một mục đích, một số phận. Nếu khơng suy
nghĩ như nhau, nếu khơng có chung một mục đích, chung một
18


số phận thì cộ kêu gọi đồn kết thế nào đi nữa, đồn kết vần
khơng thể nào có được.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ
Chí Minh xác định cụ thể phù hợp với từng giai đoạn cách
mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào
khối đại đoàn kết. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di
bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các
tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc. tơn giáo vào trong Mặt

trận, vấn đề cịn lại là ở chỗ phải làm thế nào để tất cả mọi
người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong Mặt trận
cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết, trước hết. Bởi lẽ lợi
ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi
bộ phận, mỗi người mới thực hiện.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc những
quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí
Minh kết tinh vào tiêu chí của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
là độc lập tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này được Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong từng lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội... phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng
trong mỗi thời kỳ lịch sử.

c. Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc
hiệp thương dân chủ bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và
bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội
rộng lớn của cả dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng
phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau với nhiều lợi ích khác nhau.
Do vậy, hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất phải theo
nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề
của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên
cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự
áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo mặt
trận, nhưng cũng là một thành viên của mặt trận. Do vậy, tất cả
19


mọi chủ trương, chính sách của mình. Đảng phải có trách nhiệm

trình bày trước Mặt trận, cùng với các thành viên khác của Mặt
trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các giải pháp
tích cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần
chúng thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã vạch ra.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng
vững trên lập trường giai cấp cơng nhân, giải quyết hài hịa mối
quan hệ giữa lợi ích dân tộc và ích lợi giai cấp, lợi ích chung và
lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt… Phải làm cho
tất cả các thành viên trong mặt trận thấm nhuần lợi ích chung,
lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết
trước hết. Những lợi ích riêng chính đảng phù hợp với lợi ích
chung của đất nước và dân tộc phải được tơn trọng. Ngược lại,
những lợi ích bộ phận không phù hợp sẽ dần dần được giải
quyết cùng với tiến trình chung của cách mạng, thơng qua lại
ích chung, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi
người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lại ích chung và lợi ích
riêng. Trong q trình hoạt động, mặt trận cần quan tâm, xem
xét, giải quyết thỏa đáng, thấu tình đạt lý mối quan hệ lợi ích
giữa các thành viên bằng việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
hiệp thương dân chủ.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận
dân tộc thống nhất sẽ góp phần củng cố sự bền chặt, tạo sự
đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện được mục tiêu: "Đồng
tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh". Đồng thời, đó cũng là cơ
sở để mở rộng khối đại đồn kết, lơi kéo thêm các lực lượng
khác vào mặt trận dân tộc thống nhất.
d. Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ lâu
dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ.
Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng

phái, bên cạnh những điểm tương đồng, giữa các thành viên
20


của Mặt trận vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc,
hiệp thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục
bộ, nhân lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi đến
thống nhất, đồn kết. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh phương châm: "cầu đồng tồn dị" - lấy cái
chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu
rõ: "Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường
đoàn kết" Người thường xuyên căn dặn mọi người cần phải khắc
phục tình trạng đồn kết xi chiều, đồng thời phải có tấm lịng
nhân ái, khoan dung, độ lượng, khắc phục thiên kiến, hẹp hòi,
thiển cận, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để
biêu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, nhằm củng cố và
mở rộng khối đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất.
Người viết: "Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và
lập trường cũng phải nhất trí. Đồn kết thực sự nghĩa là vừa
đồn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình
những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì
nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tồn
dân cần đồn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến
bộ"
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong q trình xây dựng,
củng cố và phát triển mặt trận dân tộc thống nhất, một mặt
Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh hướng cơ độc, hẹp hịi,
coi nhẹ việc tranh thủ tất cả mọi lực lượng có thể tranh thủ
được vào mặt trận; mặt khác, ln đề phịng và đấu tranh
chống mọi biểu hiện của khuynh hướng đoàn kết một chiều, về

nguyên tắc, đồn kết mà khơng có đấu tranh đúng mức trong
nội bộ mặt trận.

IV. Ý nghĩa
1.GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ GIÁ TRỊ THỰC TIỄN:
- Về giá trị lý luận:

21


Đại đồn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một
chiến lược cách mạng. Từ khi Đảng ta ra đời, tư tưởng đại đồn
kết Hồ Chí Minh trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách
mạng Việt Nam, là động lực chủ yếu làm nên thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết góp
phần bổ sung quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng của
chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có lý luận về đồn kết. Như
chúng ta đã biết, trong điều kiện của giai đoạn chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh tức là khi chưa xuất hiện vấn đề dân tộc
thuộc địa. c.Mác và Ph.Ăngghen chủ yếu bàn đến đồn kết cơng
nơng trong mỗi nước và “Vơ sản tất cả các nước, đồn kết lại!”
để lật đổ chủ nghĩa tư bản. Từ khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển
sang chủ nghĩa đế quốc (từ thập kỷ 60. 70 thế kỷ XIX trở đi),
tức là đã xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa, ách áp bức giai
cấp và dân tộc đã diễn ra trên phạm vi thế giới, tư tưởng liên
minh công nông và “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” của
c.Mác được V.I. Lênin và Quốc tế Cộng sản mở rộng ra trên quy
mơ tồn thế giới với khẩu hiệu nổi tiếng: "Vơ sản tất cả các
nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Khẩu hiệu này trở
thành lý luận đoàn kết quan trọng, định hướng cho phong trào

cách mạng thế giới. Tuy nhiên, do nhiều lý do mà Lênin và Quốc
tế Cộng sản cũng chưa nhận thức đầy đủ vấn đề dân tộc thuộc
địa và vì vậy.Tư tưởng đồn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc
thống nhất chưa thật sự được quan tâm.
Hồ Chí Minh khơng những “đứng ở đỉnh cao hai cực" dân
tộc và giai cấp, mà còn lấp đầy khoảng giữa. Sinh ra và hoạt
động cách mạng trong điều kiện một nước thuộc địa, ở đó ách
áp bức dân tộc bao trùm và chi phối mọi ách áp bức khác. Hồ
Chí Minh nhận thức đầy đủ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc,
mà hạt nhân là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Đi theo chủ
nghĩa Mác - Lênin tức là Hồ Chí Minh ln luôn nhận thức và giải
quyết mọi vấn đề trên lập trường của giai cấp công nhân.
Nhưng, nhờ hiểu rõ vấn đề thuộc địa nên Hồ Chí Minh đã bổ
sung vào chủ nghĩa Mác - Lênin những vấn đề thuộc địa mà ở
thời mình Mác chưa có điều kiện nắm bắt. Vì vậy đồn kết trong
tư tưởng Hồ Chí Minh là “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết!”,
chứa đựng trong đó nội dung đoàn kết trong Đảng, đoàn kết
dân tộc, đoàn kết quốc tế. Người không chỉ thấy sự cần thiết
giai cấp vơ sản tất cả các nước đồn kết lại: giai cấp vô sản và
22


các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại mà đặc biệt Người đã xây
dựng hệ thống lý luận về Mặt trận dân tộc thống nhất chứa
đựng nhiều quan điểm về đại đồn kết dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất bảo đảm tính bền vững,
rộng rãi, lâu dài, là ngọn cờ tập hợp mọi giai tầng xã hội vào sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Trong sự nghiệp đổi mới tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
dân tộc tiếp tục được Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo

trong bối cảnh mới của thời đại và dân tộc. Nói cách khác, tư
tưởng đồn kết của Đảng từ khi đất nước bước vào đổi mới luôn
luôn dựa trên nền tảng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Đó là
tư tưởng đại đồn kết tồn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Đại đoàn kết dân tộc lấy mục tiêu giữ vững
độc lập, thống nhất của Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ
mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần,
giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng
hướng tới tương lai. Đại đoàn kết hiện nay là sự nghiệp của cả
dân tộc ,của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các
tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Về giá trị thực tiễn: Tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh trở
thành ngọn cờ quy tụ tất cả mọi con dân nước Việt từ miền
ngược tới miền xuôi, từ nông thôn tới thành thị, từ rừng núi tới
hải đảo vào Mặt trận dân tộc thống nhất, tạo nên sức mạnh vô
địch đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1940, trong kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong xây dựng miền Bắc xã hội
chủ nghĩa. Ngày nay tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh tiếp tục
truyền sức mạnh vào sự nghiệp đổi mới. quy tụ giai cấp công
nhân giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân, thế hệ
trẻ, phụ nữ. cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc, các tôn
giáo, đồng bào định cư ở nước ngồi. Đặc biệt, dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân đã đóng được vai trị tập hợp, vận động, đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích

hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của
23


Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phịng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự
đồng thuận trong xã hội, tạo động lực chủ yếu phát triển kinh
tế - xã hội xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh
2.LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay :
Chúng ta có thể thấy trong tình hình hiện nay đại dịch
tồn cầu COVID 19 đang diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến
tồn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Mặc dù tình hình
dịch bệnh căng thẳng làm ảnh hưởng tiêu cực rất nhiều nhưng
Việt Nam ta ln đồng lịng và phát huy truyền thống đoàn kết
tương thân tương ái... Để có thể kiểm sốt được tình hình dịch
khơng bùng phát mất kiểm soát như ở các nước trên thế giới
khơng hề đơn giản mà trong khi đó ở Việt Nam, chỉ có hơn 240
ca dương tính với virus Covid 19 trong đó hơn 90 ca đã khỏi
bệnh, 0 ca nào tử vong. Đó là sự nỗ lực của tồn dân tộc, là kết
quả của sự đoàn kết của toàn thể dân tộc:
- Việt Nam đưa ra quyết sách huy động tồn Đảng, tồn qn,
tồn dân đồn kết một lịng, cùng chung tay quyết chiến thắng
đại dịch Covid-19. Một Việt Nam gắn kết đồng lịng giữa Đảng,
Chính phủ và tồn thể quân đội nhân dân trong trận chiến
chống đại dịch Covid 19
- Hàng chục nghìn “thiên thần áo trắng”, các y, bác sỹ trong bộ
đồ bảo hộ kín mít, nhìn và đối thoại với đồng nghiệp qua ánh
mắt, cử chỉ, hành động, tạm gác lại tình thân, những ngày

tháng chung sống cùng gia đình, người thân để làm nhiệm vụ;
những nhà khoa học sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy để nuôi
cấy, phát hiện cơ chế hoạt động của virus, điều chế vaccine
phòng dịch, sáng tạo bộ kit xét nghiệm, buồng khử khuẩn toàn
thân di động, dung dịch sát khuẩn…
- Hàng nghìn y, bác sỹ đã về hưu và sinh viên trường y trong
tồn quốc tình nguyện xin ra tuyến đầu chống dịch.
24


- Hàng trăm nghìn người Việt ở các vùng dịch khắp thế giới
được đón miễn phí về nước, được cách ly, điều trị miễn phí.
- Hơn 700 tiếp viên hàng không - những người đang làm công
việc mà nguy cơ lây nhiễm nằm trong top 3, đăng ký xin không
nhận lương hoặc nghỉ không lương 2,3 tháng để đảm đương
nhiệm vụ.
- Hơn 10.000 chiến sĩ quân đội hàng tháng trời sẵn sàng hy sinh
thầm lặng, ngủ bạt giữa rừng, bên ngoài sân, sảnh các khu tập
thể, nhường doanh trại để làm khu cách ly tập trung, và chính
họ thâu đêm suốt sáng lo từng bữa ăn miễn phí cho gần nửa
triệu người Việt Nam từ nước ngoài về và cả người nước ngoài
đến Việt Nam trong khu cách ly tập trung.
- Những cán bộ ngoại giao ở các cơ quan đại diện trên khắp thế
giới không quản ngày đêm bám trụ ở địa bàn, liên tục đưa ra
những khuyến cáo kịp thời cho cơng dân Việt Nam ở nước
ngồi, bất chấp nguy cơ lây nhiễm để tiến hành các biện pháp
bảo hộ cơng dân khi cơng dân gặp khó khăn như mất hộ chiếu,
"kẹt" ở sân bay do đóng cửa đường hàng không...
- Những bài thơ, bài đồng dao, những ca khúc tuyên truyền, vận
động toàn dân chung tay đoàn kết, lan tỏa tình thương, chung

sức đồng lịng chống dịch luôn xuất hiện trên các phương tiện
truyền thông đại chúng, trong đó có ca khúc “Ghen Covi” bản
tiếng Việt và tiếng Anh tạo tiếng vang trên truyền thông quốc
tế.
- Rất nhiều khách sạn 4, 5 sao ở Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí
Minh... chủ động xin nhà nước cho làm cơ sở cách ly, tiêu biểu
là Bao Minh Radiant Hotel gồm 122 phịng, đã đón 157 người từ
Hàn Quốc, Nga, Mỹ. Chủ khách sạn quyết định miễn phí tồn bộ
tiền phòng và tiền ăn (ba bữa/ngày) cho 157 khách. Toàn bộ
nhân viên khách sạn được cho nghỉ việc đều tình nguyện ở lại
chung tay chống dịch.

25


×