Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Nghiên cứu cơ sở khoa học phục hồi rừng sau cháy tại huyện hòa an, tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.66 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HÀ ĐỨC LINH

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC
PHỤC HỒI RỪNG SAU CHÁY TẠI
HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM NGHIỆP

THÁI NGUYÊN - 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HÀ ĐỨC LINH

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC
PHỤC HỒI RỪNG SAU CHÁY TẠI
HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG
Ngành: Lâm học
Mã số: 8620201

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THU HOÀN

THÁI NGUYÊN - 2020



I

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của bản thân
tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu là quá trình điều tra trên thực địa hồn
tồn trung thực, chưa cơng bố trên các tài liệu, nếu có gì sai tơi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm.
Thái nguyên, ngày 10 tháng 10 năm
2020
Học viên

Hà Đức Linh


II

LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hồn thành theo chương trình đào tạo thạc sĩ lâm học tại
Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên. Được sự nhất trí của của
Nhà trường và Khoa lâm nghiệp, tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp với đề tài:
"Nghiên cứu cơ sở khoa học phục hồi rừng sau cháy tại huyện Hòa
An, tỉnh Cao Bằng".
Để có được kết quả đó, trước hết tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất
đến TS. Nguyễn Thị Thu Hoàn là người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình
giúp đỡ, cung cấp thơng tin bổ ích, tạo điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình
thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn tới: Ban Giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Lâm
nghiệp - Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên, thư viện trường
Đại học Nông Lâm, lãnh đạo cơ quan, cùng bạn bè đồng nghiệp và gia đình

đã tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Mặc dù đã cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng do kiến thức, kinh nghiệm
của bản thân và điều kiện về thời gian cũng như tư liệu tham khảo cịn hạn
chế nên luận văn khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong
nhận được những ý kiến đóng góp chỉ bảo của thầy cơ giáo.
Cuối cùng tơi xin kính chúc tồn thể các thầy cơ giáo sức khỏe, hạnh
phúc và thành đạt trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 10 năm
2020

Học viên

Hà Đức Linh


1

MỞ ĐẦU
1.

Đặt vấn đề
Rừng là một bộ phận của môi trường sống, là nguồn tài nguyên tài

nguyên vô cùng quý giá, đa dạng và có khả năng phục hồi, tái tạo. Rừng có
vai trị quan trọng trong việc giữ nước, điều tiết dịng chảy và hạn chế xói mịn
đất và bảo vệ mơi trường, hấp thụ CO 2 và góp phần giảm hiệu ứng nhà kính,
thích ứng với biến đổi khí hậu. Sự suy giảm của rừng kéo theo sự suy giảm
chức năng phòng hộ, tăng nguy cơ xuất hiện lũ lụt vào mùa mưa, hạn hán vào
mùa khô và gây xói mịn bồi lấp lịng sơng, suối, hồ. Hiện nay do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà chủ yếu là do cháy rừng đã làm cho diện tích rừng

bị suy giảm một cách nhanh chóng. Việc phục hồi và phát triển rừng là rất cần
thiết, đặc biệt ở những nơi chưa có rừng, những nơi đã xảy ra cháy rừng.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Lâm Nghiệp: Năm 2016, nước ta đã
xảy ra hàng chục vụ cháy rừng. Diện tích rừng thiệt hại hơn 3000 ha.Năm
2017, cả nước xảy ra 182 vụ cháy rừng lớn nhỏ, diện tích rừng thiệt hại là hơn
350 ha. Đến đầu năm 2018, có nhiều vụ cháy rừng đã xảy ra trên nhiều địa
phương. Chẳng hạn như Lạng Sơn, Lai Châu, Điện Biên, Gia Lai, Đắc Lắc,
Vũng Tàu, Bình Thuận, Kiên Giang, Cà Mau.
Hòa An (Kết quả theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp của
huyện Hòa An năm 2018) là huyện lớn của tỉnh, có tổng diện tích tự nhiên
60.952,08ha, diện tích quy hoạch cho lâm nghiệp (theo quy hoạch 3 loại rừng)
là 47248.2ha, trong đó diện tích có rừng là 34418.21ha. Trong đó rừng đặc
dụng là 27.18 ha; phịng hộ là 7965.21ha; sản xuất là 26425.82 ha.
Trong những năm gần đây, do q trình biến đổi khí hậu, tác động của con
người, các vụ cháy rừng thường xuyên xảy ra trên địa bàn huyện. Năm 2015 xảy
ra 20 vụ cháy rừng với tổng diện tích thiệt hại là 57,57ha; năm 2016 xảy ra 16 vụ
cháy rừng với tổng diện tích thiệt hại là 25,31ha; năm 2017 xảy ra


2

9 vụ cháy rừng với tổng diện tích thiệt hại 29,52ha; năm 2018 xảy ra 02 vụ
cháy rừng với tổng diện tích thiệt hại là 10,07ha. Nhờ làm tốt cơng tác phòng
cháy chữa cháy rừng nên số lượng các vụ cháy và diện tích cháy cũng giảm
dần qua các năm. Tuy nhiên việc khắc phục hậu quả, khôi phục lại hiện trạng
rừng vẫn chưa được quan tâm. Hiện nay có rất ít các đề tài nghiên cứu đến
việc khơi phục, phục hồi rừng sau cháy tại huyện.
Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp lâm sinh để phục hồi rừng sau
cháy nhằm bảo vệ và phát triển rừng tại huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng là yêu
cầu cấp thiết, cần được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ

quan quản lý và sản xuất lâm nghiệp và sự nỗ lực cố gắng của mỗi người dân
trên địa bàn huyện. Với lý do nêu trên, tôi lựa chọn đề tài "Nghiên cứu cơ
sở khoa học phục hồi rừng sau cháy tại huyện Hòa An, tỉnh Cao
Bằng" làm đề tài luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sĩ Lâm học.
2.
-

Mục tiêu
Phân tích được hiện trạng và đặc điểm của thảm thực vật phục hồi tự

nhiên trên đất rừng sau cháy làm cơ sở phân loại khả năng phục hồi tại khu
vực nghiên cứu.
-

Phân loại tiềm năng phục hồi rừng thông qua thời gian phục hồi sau

cháy nhằm đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh thích hợp.
3.

Ý nghĩa thực tiễn, khoa học
-

Ý nghĩa khoa học

Đề tài đã xác định được mối quan hệ giữa tiềm năng phục hồi cây gỗ
trên đất sau cháy với tổ hợp nhân tố điều kiện thổ nhưỡng, thời sau cháy và
thời gian phục hồi rừng.
- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài đề xuất các giải pháp tác động cụ thể nhằm rút ngắn thời gian
phục hồi rừng trên đất sau cháy.



3

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm rừng
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng,

vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó thành phần
chính là một hoặc một số lồi cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau có chiều cao
được xác định theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá, đất ngập nước, đất cát
hoặc hệ thực vật đặc trưng khác; diện tích liên vùng từ 0,3 ha trở lên; độ tàn
che từ 0,1 trở lên (Nguồn: Theo Điều 2 Luật Lâm nghiệp năm 2017).
1.1.2. Khái niệm cháy rừng
Cháy rừng là sự xuất hiện và lan truyền của những đám cháy trong rừng
mà không nằm trong sự kiểm soát của con người; gây lên những tổn thất nhiều
mặt về tài nguyên, của cải và môi trường.
1.1.3. Khái niệm thực vật rừng
Thực vật rừng hay cây rừng gồm tất cả các loài cây, loài dây leo, loài cỏ
thuộc thực vật bậc cao có mạch phân bố trong rừng. Chúng là thành phần
chính của hệ sinh thái rừng và là nguồn tài nguyên quan trọng mang lại nhiều
lợi ích cho con người.Ở từng nơi, từng lúc thành phần thực vật rừng có thể
thay đổi; đó là kết quả sinh trưởng phát triển của từng lồi và sự thích ứng của
chúng với những biến động của nhân tố ngoại cảnh. Vì vậy, thực vật rừng ở
mỗi địa phương trong thời điểm nhất định không chỉ phản ánh hiện trạng tài
nguyên, tính đa dạng sinh học mà cịn phản ánh tình trạng môi trường rừng.
Nơi lập địa khắc nghiệt thành phần thực vật thường đơn giản, chất lượng thấp;
nơi lập địa tốt, ít bị tác động khơng những chất lượng rừng cao mà thành phần

thực vật rừng cũng phong phú đa dạng. Tái sinh rừng, được hiểu theo nghĩa


4

rộng là sự tái sinh của cả hệ sinh thái rừng. Tái sinh rừng, hiểu theo nghĩa hẹp
là quá trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng (Phùng Ngọc Lan (1986).
1.1.4. Khái niệm phục hồi rừng
Phục hồi rừng được hiểu là quá trình tái tạo lại rừng trên những diện tích
đã bị mất rừng. Theo quan điểm sinh thái học thì phục hồi rừng là một quá
trình tái tạo lại một hệ sinh thái mà trong đó cây gỗ là yếu tố cấu thành chủ
yếu. Đó là một quá trình sinh địa phức tạp gồm nhiều giai đoạn và kết thúc
bằng sự xuất hiện một thảm thực vật cây gỗ bắt đầu khép tán. Để tái tạo lại
rừng người ta có thể sử dụng các giải pháp khác nhau tuỳ theo mức độ tác
động của con người là: phục hồi nhân tạo (trồng rừng), phục hồi tự nhiên và
phục hồi tự nhiên có tác động của con người (xúc tiến tái sinh).
Theo Trần Đình Lý (1995), phục hồi rừng là một quá trình sinh địa
phức tạp gồm nhiều thời gian và kết thúc bằng sự xuất hiện một thảm thực vật
cây gỗ (hoặc tre nứa) bắt đầu khép tán. Nói một cách khác, phục hồi rừng là
q trình tái tạo lại một hệ sinh thái, một quần xã sinh vật mà trong đó cây gỗ
là yếu tố cấu thành chủ yếu, nó chi phối các q trình biến đổi tiếp theo.
1.2. Các kết quả nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Kết quả nghiên cứu trên thế giới
1.2.1.1. Quan niệm về phục hồi
Phục hồi (toàn phần) là tái lập lại thành phần, cấu trúc, năng suất và ĐDSH
các loài đặc trưng cho khu vực đã bị suy thoái, tổn thương hoặc bị phá hủy. Theo
thời gian, các q trình và chức năng sinh thái của mơi trường sống dần được khôi
phục gần như môi trường sống ban đầu (Mudappa và Raman, 2010).

Phục hồi sinh thái là quá trình hỗ trợ sự phục hồi của một HST đã bị suy

thoái, hư hại, hoặc bị phá hủy (Society of Ecological Restoration, 2010). Thực
tiễn phục hồi sinh thái bao gồm các hoạt động như kiểm sốt xói mịn, tái trồng
rừng, sử dụng các loài bản địa, loại bỏ các loài ngoại lai và cỏ dại, tái phủ xanh


5

khu vực bị tác động, trồng các loài bản địa, cũng như cải thiện môi trường
sống và phạm vi đối với các lồi chính. "Phục hồi sinh thái" là thuật ngữ chỉ
việc ứng dụng trên thực tiễn chuyên ngành “Sinh thái học phục hồi”
(Restoration Ecology).
Từ những năm 1930 giải pháp phục hồi rừng bằng biện pháp tái sinh
rừng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, trong đó vấn đề được quan
tâm đặc biệt là thế hệ cây tái sinh có tổ thành giống hay khác biệt với tổ thành
tầng cây cao (Mibbread, 1930; Richards, 1933, 1939, 1965; Aubrerille, 1938;
Beard, 1946; Lebrun và Gibert, 1954; Jones, 1955, 1956; Schultz, 1960; Baur,
1964; Rollet, 1969).
Phục hồi rừng cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong cải thiện sinh kế
và sức khỏe con người. Những lợi ích này bao gồm nâng cao năng lực thích ứng,
góp phần đảm bảo an ninh lương thực và cải thiện sinh kế của người dân phụ
thuộc vào HST rừng, trao quyền cho cộng đồng (ITTO/IUCN, 2009).
1.2.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến cháy rừng và phục hồi rừng sau cháy
Các nghiên cứu liên quan đến cháy rừng: Những cơng trình nghiên cứu

về cháy rừng đã được một số nhà khoa học tiến hành từ những năm đầu thế kỷ
XX tại các nước có nền kinh tế và lâm nghiệp phát triển như: Mỹ, Thụy Điển,
Australia, Pháp, Canada, Nga, Đức,…
* Nghiên cứu bản chất của cháy rừng
Kết quả nghiên cứu đã khẳng định rằng cháy rừng là hiện tượng ơxy hố
các vật liệu hữu cơ do rừng tạo ra ở nhiệt độ cao. Nó xẩy ra khi có mặt đồng thời

của 3 yếu tố, hay cịn gọi là tam giác cháy: nguồn nhiệt (lửa), ôxy và vật liệu
cháy. Tuỳ thuộc vào đặc điểm của 3 yếu tố trên mà cháy rừng có thể được hình
thành, phát triển hay bị ngăn chặn hoặc suy yếu đi (Brown, 1979; Belop, 1982;
Chandler, 1983). Vì vậy, về bản chất, những biện pháp phịng cháy, chữa cháy
rừng chính là những biện pháp tác động vào 3 yếu tố trên theo chiều hướng


6

ngăn chặn và giảm thiểu quá trình cháy. Vì vậy, về bản chất, những biện
phápphịng cháy, chữa cháy rừng chính là những biện pháp tác động vào 3 yếu
tố trên theo chiều hướng ngăn chặn và giảm thiểu quá trình cháy. Các nhà
khoa học phân biệt 3 loại cháy rừng.
Cháy dưới tán cây hay cháy mặt đất rừng, là trường hợp chỉ cháy một
phần hay toàn bộ lớp cây bụi, cỏ khô và cành rơi lá rụng trên mặt đất.
Cháy tán rừng (ngọn cây) là trường hợp lửa lan tràn nhanh từ tán cây
này sang tán cây khác.
Cháy ngầm là trường hợp xẩy ra khi lửa lan tràn chậm, âm ỉ dưới mặt
đất, trong lớp thảm mục dày hoặc than bùn. Trong một đám cháy rừng có thể
xẩy ra một hoặc đồng thời 2, 3 loại cháy rừng trên.
Tuỳ theo loại cháy rừng mà người ta đưa ra những biện pháp phòng và
chữa cháy khác nhau.
* Các nghiên cứu liên quan đến phục hồi rừng sau cháy
Các cơng trình đi sâu nghiên cứu đến khả năng phụ hồi của thực vật rừng
sau cháy, các nghiên cứu đã đề cập đến khả năng tái sinh rừng và khả năng
chống chịu lửa của thực vật. Khi nghiên cứu về thảm thực vật sau cháy, các tác
giả Lloret & Vila (2003); pausas và cộng sự (2004); Arnan và cộng sự (2007) cho
thấy khả năng tái sinh sau cháy là rất cao và phụ thuộc nhiều vào các thảm thực
vật trước khi cháy. Theo Science Daily, nhóm Catalan đã thực hiện nghiên cứu
về sự thay đổi tập tính của quần thể động vật sau vụ cháy rừng. Nghiên cứu đã

lấy mẫu từ các khu vực bị ảnh hưởng bởi một đám cháy rừng diễn ra từ hồi tháng
8/2003 ở vùng ngoại ô Sant Llorenc del Munti L’Obac Natural Park, Catalonia
(Tây Ban Nha). Sau khi phân tích mẫu đã có kết luận rằng: sự xuất hiện của các
loài nhuyễn thể là một dấu hiệu cho thấy rừng đang phục hồi và quá trình rừng
phục hồi sau cháy rừng khơng gây hại đến lồi động vật vốn nhạy cảm với các
môi trường đất và cấu trúc thảm thực vật; Science Direct khi


7

nghiên cứu với rừng thông ở Địa Trung Hải cho thấy sự phục hồi, tái sinh
rừng cũng bị ảnh hưởng bởi tần số các đám cháy ở khu vực nghiên cứu.
Nghiên cứu chỉ ra rằng cháy rừng là một trong những tác nhân chọn lọc đối
với các loài cây chống chịu lửa tốt, tái sinh mạnh. Ở khu vực có tần số xảy ra
cháy rừng lớn sẽ chọn lọc được các lồi cây có khả năng tái sinh mạnh mẽ.
1.2.1.3. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Tái sinh rừng là một q trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh
thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những
loài cây gỗ ở những nơi cịn hồn cảnh rừng: dưới tán rừng, chỗ trống trong
rừng, đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp
cây con này là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy tái sinh từng hiểu theo nghĩa
hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được
xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc
điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và
tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930;
Richards, 1933; 1939; Aubreville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert,
1954; Joné, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969). Do tính chất
phức tạp về tổ thành lồi cây, trong đó chỉ có một số lồi có giá trị nên trong
thực tiễn, người ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.

Q trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vơ cùng phức tạp và cịn ít
được nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng
mưa thường chỉ tập trung vào một số lồi cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện
rừng đã ít nhiều bị biến đổi. Van steenis (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái
sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các lồi
cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng.


8

Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các
cách thức sử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các
kiểu rừng. Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương
thức chặt tái sinh. Nội dung chi tiết các bước và hiệu quả của từng phương
thức đối với tái sinh đã được Baur (1964) tổng kết trong tác phẩm: Cơ sở sinh
thái học của kinh doanh rừng mưa.
Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, A.Obrevin (1938) (Dẫn
theo Phùng Ngọc Lan, 1986) nhận thấy cây con của các loài cây ưu thế trong
rừng mưa là rất hiếm. A.Obrevin đã khái quát hoá các hiện tượng tái sinh ở
rừng nhiệt đới Châu Phi để đúc kết nên lý luận bức khảm tái sinh, nhưng phần
lý giải các hiện tượng đó cịn bị hạn chế. Vì vậy lý luận của ơng cịn ít sức
thuyết phục, chưa giúp ích cho thực tiễn sản xuất các biện pháp kỹ thuật điều
khiển tái sinh rừng theo những mục tiêu kinh doanh đã đề ra.
Tuy nhiên, những kết quả quan sát của Davit và P.W Risa (1933), Bơt
(1946), Sun (1960), Role (1969) (Dẫn theo Phùng Ngọc Lan, 1986) ở rừng
nhiệt đới Nam Mỹ lại khác hẳn với nhận định của A.Obrevin. Đó là hiện
tượng tái sinh tại chỗ và liên tục của các loài cây và tổ thành lồi cây có khả
năng giữ ngun khơng đổi trong một thời gian dài.
Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng
cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927), với diện tích ơ

đo đếm thơng thường từ 1 đến 4 m 2. Diện tích ơ đo đếm nhỏ nên thuận lợi
trong điều tra nhưng số lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình
tái sinh rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard
(1950) đã đề nghị một phương pháp "điều tra chẩn đốn" mà theo đó kích
thước ơ đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở
các trạng thái rừng khác nhau.


9

Các cơng trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới
đáng chú ý là cơng trình nghiên cứu của Richards, P.W (1952), Bernard Rollet
(1974), tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự nhiên đã
nhận xét: trong các ơ có kích thước nhỏ (1 x 1m, 1 x 1.5m) cây tái sinh tự
nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson. ở Châu Phi trên cơ
sở các số liệu thu thập Tayloer (1954), Barnard (1955) xác định số lượng cây
tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ sung bằng trồng rừng
nhân tạo. Ngược lại, các tác giả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới
Châu á như Budowski (1956), Bava (1954), Atinot (1965) lại nhận định dưới
tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, do
vậy các biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh
có sẵn dưới tán rừng (dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1995).
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng
(thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi,
thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng,
cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. Baur
G.N. (1962) cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây
con còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm, ảnh hưởng này
thường không rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng của
cây tái sinh. ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển

nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới,
tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn. Nhưng số lượng lồi cây có
giá trị kinh tế thường khơng nhiều và được chú ý hơn, cịn các lồi cây có giá
trị kinh tế thấp thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở các
trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy.
H.

Lamprecht (1989) căn cứ vào nhu cầu ánh sáng của các loài cây trong

suốt quá trình sống để phân chia cây rừng nhiệt đới thành nhóm cây ưa sáng,


10

nhóm cây bán chịu bóng và nhóm cây chịu bóng. Kết cấu của quần thụ lâm
phần có ảnh hưởng đến tái sinh rừng. I.D.yurkevich (1960) đã chứng minh độ
tàn che tối ưu cho sự phát triển bình thường của đa số các loài cây gỗ là 0,6 0,7.
Độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống
của cây con. Trong cơng trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa cây con và
quần thụ, V.G.Karpov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh
tranh về dinh dưỡng khoáng của đất, ánh sáng, độ ẩm và tính chất khơng
thuần nhất của quan hệ qua lại giữa các thực vật tuỳ thuộc đặc tính sinh vật
học, tuổi và điều kiện sinh thái của quần thể thực vật (dẫn theo Nguyễn Văn
Thêm, 1992).
Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cỏ và cây
bụi qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của
tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các lồi cây gỗ.
Những quần thụ kín tán, đất khơ và nghèo dinh dưỡng khống do đó thảm cỏ
và cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh
không đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì

thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này chúng là nhân
tố gây trở ngại rất lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973) (dẫn
theo Nguyễn Văn Thêm, 1992).
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào làm
sáng tỏ việc đặc điểm tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Đó là cơ sở để xây
dựng các phương thức lâm sinh hợp lý.
Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy được một số tác giả
nghiên cứu. Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới ở Colombia và
Venezuela nhận xét: Sau khi bỏ hố số lượng lồi thực vật tăng dần từ ban đầu
đến rừng thành thục. Thành phần của các loài cây trưởng thành phụ thuộc vào


11

tỷ lệ các lồi ngun thuỷ mà nó được sống sót từ thời gian đầu của q trình
tái sinh, thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ, tần số canh tác
của khu vực đó (dẫn theo Phạm Hồng Ban). Kết quả nghiên cứu của các tác
giả Lambert et al (1989), Warner (1991), Rouw (1991) đều cho thấy quá trình
diễn thế sau nương rẫy như sau: đầu tiên đám nương rẫy được các loài cỏ xâm
chiếm, nhưng sau một năm loài cây gỗ tiên phong được gieo giống từ vùng
lân cận hỗ trợ cho việc hình thành quần thụ các lồi cây gỗ, tạo ra tiểu hồn
cảnh thích hợp cho việc sinh trưởng của cây con. Những loài cây gỗ tiên
phong chết đi sau 5-10 năm và được thay thế dần bằng các loài cây rừng mọc
chậm, ước tính cần phải mất hàng trăm năm thì nương rẫy cũ mới chuyển
thành loại hình rừng gần với dạng nguyên sinh ban đầu.
Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy
từ 1-20 năm ở vùng Tây Bắc ấn Độ, Ramakrishnan (1981, 1992) đã cho biết
chỉ số đa dạng loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của
quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hoá. Long Chun và cộng sự
(1993) đã nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại

Xishuangbanna tỉnh Vân Nam, Trung Quốc nhận xét: tại Baka khi nương rẫy
bỏ hố được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 lồi thực vật, bỏ hố 19 năm thì có
60 họ, 134 chi, 167 lồi. (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000).
Tóm lại, kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng
trên thế giới cho chúng ta những hiểu biết các phương pháp nghiên cứu, quy
luật tái sinh tự nhiên ở một số nơi. Đặc biệt, sự vận dụng các hiểu biết về quy
luật tái sinh để xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm quản lý tài
nguyên rừng bền vững.
1.2.2. Kết quả nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.2.1. Quan niệm về phục hồi
Phục hồi rừng trước hết là phục hồi lại thành phần chủ yếu của rừng, là
thảm thực vật cây gỗ; sự hình thành nên thảm cây gỗ này sẽ tạo điều kiện cho


12

sự xuất hiện các thành phần khác của rừng như tầng cây bụi, tầng cỏ quyết,
khu hệ động vật, vi sinh vật… và các yếu tố khác của rừng như: chế độ nhiệt,
chế độ ẩm… (Võ Đại Hải và cộng sự, 2003). Vì vậy, khái niệm phục hồi rừng
sẽ có một ý nghĩa rộng lớn hơn là phục hồi lại cả một quần lạc sinh địa hay
một hệ sinh thái rừng hồn chỉnh; trong thực tế, q trình phục hồi rừng được
đánh giá bằng sự xuất hiện và chất lượng của thế hệ mới các cây gỗ.
Phục hồi rừng là một quá trình sinh học, gồm nhiều giai đoạn và kết
thúc bằng sự xuất hiện một thế hệ mới thảm cây gỗ bắt đầu khép tán; quá trình
phục hồi sẽ tạo điều kiện cho sự cân bằng sinh học xuất hiện, đảm bảo cho sự
cân bằng này tồn tại liên tục và cũng vì thế mà chúng ta có thể sử dụng chúng
liên tục được (Võ Đại Hải và cộng sự, 2003).
1.2.2.2. Nghiên cứu cấu trúc rừng
Trong vòng vài chục năm qua, nghiên cứu về cấu trúc rừng là một trong
những nội dung quan trọng nhằm đề xuất các giải pháp kỹ thuật phù hợp. Thái

Văn Trừng (1978), Trần Ngũ Phương (1970) cũng đã nghiên cứu cấu trúc sinh
thái để làm căn cứ phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam.
Trần Ngũ Phương (1970) đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của các
thảm thực vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát
về tình hình rừng miền Bắc Việt Nam từ 1961 đến 1965. Nhân tố cấu trúc đầu
tiên được nghiên cứu là tổ thành và thơng qua đó một số quy luật phát triển
của các hệ sinh thái rừng được phát hiện và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất.
Khi nghiên cứu kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở nước ta Thái
Văn Trừng (1963, 1970, 1978) (Theo Phùng Ngọc Lan, 1986) đã đưa ra mơ hình
cấu trúc tầng như: tầng vượt tán (A 1), tầng ưu thế sinh thái (A2), tầng dưới tán (A3),
tầng cây bụi (B) và tầng cỏ quyết (C). Thái Văn Trừng đã vận dụng và cải tiến, bổ
sung phương pháp biểu đồ mặt cắt đứng của Davit - Risa để nghiên cứu cấu trúc
rừng Việt Nam, trong đó tầng cây bụi và thảm tươi được vẽ phóng đại với


13

tỷ lệ nhỏ hơn và có ghi ký hiệu thành phần loài cây của quần thể đối với những đặc
trưng sinh thái và vật hậu cùng biểu đồ khí hậu, vị trí địa lý, địa hình. Bên cạnh đó,
tác giả này còn dựa vào 4 tiêu chuẩn để phân chia kiểu thảm thực vật rừng Việt
Nam, đó là dạng sống ưu thế của những thực vật trong tầng cây lập quần, độ tàn che
của tầng ưu thế sinh thái, hình thái sinh thái của nó và trạng mùa của tán lá. Với
những quan điểm trên Thái Văn Trừng đã phân chia thảm thực vật rừng Việt nam
thành 14 kiểu. Như vậy, các nhân tố cấu trúc rừng được vận dụng triệt để trong phân
loại rừng theo quan điểm sinh thái phát sinh quần thể.

1.2.2.3. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Rừng nhiệt đới Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt
đới nói chung, nhưng do phần lớn là rừng thứ sinh bị tác động của con người
nên những quy luật tái sinh đã bị xáo trộn nhiều. Đã có nhiều cơng trình

nghiên cứu về tái sinh rừng nhưng tổng kết thành qui luật tái sinh cho từng
loại rừng thì cịn rất ít. Một số kết quả nghiên cứu về tái sinh thường được đề
cập trong các cơng trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong các báo cáo khoa
học và một phần cơng bố trên các tạp chí.
Trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch rừng
đã điều tra tái sinh tự nhiên theo các "loại hình thực vật ưu thế" rừng thứ sinh ở Yên
Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn (1969). Đáng chú ý là
kết quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu (1962-1964) bằng phương pháp
đo đếm điển hình. Từ kết quả điều tra tái sinh, dựa vào mật độ cây tái sinh, Vũ Đình
Huề (1969) đã phân chia khả năng tái sinh rừng thành 5 cấp, rất tốt, tốt, trung bình,
xấu và rất xấu. Nhìn chung nghiên cứu này mới chỉ chú trọng đến số lượng mà chưa
đề cập đến chất lượng cây tái sinh. Cũng từ kết quả điều tra trên, Vũ Đình Huề
(1975) đã tổng kết và rút ra nhận xét, tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc Việt Nam
mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới. Dưới tán rừng nguyên sinh, tổ
thành loài cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ; dưới tán rừng thứ sinh tồn tại nhiều


14

loài cây gỗ mềm kém giá trị và hiện tượng tái sinh theo đám được thể hiện rõ
nét tạo nên sự phân bố số cây không đồng đều trên mặt đất rừng. Với những
kết quả đó, tác giả đã xây dựng biểu đánh giá tái sinh áp dụng cho các đối
tượng rừng lá rộng, miền Bắc nước ta.
Thái Văn Trừng (1978) khi nghiên cứu về thảm thực vật rừng Việt
Nam, đã kết luận: ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và điều khiển quá
trình tái sinh tự nhiên trong thảm thực vật rừng. Nếu các điều kiện khác của
môi trường như đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng chưa thay đổi thì tổ
hợp các lồi cây tái sinh khơng có những biến đổi lớn và cũng khơng diễn thế
một cách tuần hồn trong khơng gian và theo thời gian mà diễn thế theo
những phương thức tái sinh có qui luật nhân quả giữa sinh vật và môi trường.

1.2.2.3. Một số nghiên cứu về rừng phục hồi sau nương rẫy ở Việt Nam
Canh tác nương rẫy là hoạt động canh tác truyền thống của nhiều dân
tộc sống ở miền núi nước ta, hiện nay nó vẫn đang tồn tại, nhưng đã có nhiều
thay đổi so với trước đây. Ở nước ta, tài liệu nghiên cứu về canh tác nương
rẫy cịn rất ít, tuy nhiên có thể kể đến một số cơng trình như:
Viện khoa học Lâm nghiệp (2001) xây dựng chuyên đề về canh tác
nương rẫy. Chuyên đề đã giới thiệu các cơng trình nghiên cứu về đánh giá
hiện trạng canh tác nương rẫy ở Tây Nguyên (1998-1999). Các tác giả đã
phân tích khá sâu sắc về tập quán canh tác nương rẫy ở Tây Nguyên và các
chính sách, giải pháp sử dụng hợp lý đất rừng. Giới thiệu kết quả bước đầu
khảo nghiệm 4 mơ hình sử dụng cây họ đậu để làm tăng độ che phủ, phục hồi
nhanh độ phì đất bỏ hố và làm tăng năng suất cây trồng nông nghiệp.
Đặng Kim Vui (2002) khi nghiên cứu cấu trúc rừng phục hồi sau nương
rẫy ở huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn với đối tượng là rừng phục hồi tự nhiên ở
các giai đoạn tuổi khác nhau, đã nghiên cứu về cấu trúc tổ thành lồi, cấu trúc
dạng sống, cấu trúc hình thái, mật độ, độ phủ,... của các trạng thái rừng và kết


15

luận: Tổng số loài cây của hệ sinh thái rừng phục hồi giảm dần khi giai đoạn tuổi
tăng lên, đồng thời số loài cây gỗ tăng dần, số loài cây cỏ, cây bụi giảm nhanh.
Theo quá trình phục hồi, trạng thái rừng có sự thay đổi về tầng thứ và thành phần
thực vật ở các tầng, ở giai đoạn cuối của quá trình phục hồi (từ 10 -

15 tuổi) rừng có cấu trúc 5 tầng rõ rệt. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả phục hồi rừng sau nương rẫy.
1.2.2.4. Các nghiên cứu liên quan đến cháy rừng và phục hồi rừng sau
cháy ở Việt Nam
* Các nghiên cứu liên quan đến cháy rừng



Việt Nam, cháy rừng thường xuất hiện vào mùa hanh khô từ tháng 11

năm trước đến tháng 5 năm sau tại tất cả các vùng Nam Bộ, Tây Nguyên,
Trung bộ và Bắc Bộ. Cháy rừng do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bên cạnh
nguyên nhân khách quan do thời tiết hanh khô là các tác động của con người
như di dân tự do, đốt đất làm nương, đốt cỏ để chăn ni, hun khói lấy mật,
khai thác gỗ trái phép, du lịch sinh thái… Vì vậy ở nước ta đã có nhiều nhà
khoa học nghiên cứu liên quan đến cháy rừng như:
* Các nghiên cứu liên quan đến phục hồi rừng sau cháy


Việt Nam cũng giống như trên thế giới các nghiên cứu về khả năng

phục hồi của rừng sau cháy còn rất mới mẻ.
Tác giả Nguyễn Văn Thêm (2002), khi nghiên cứu đặc điểm tái sinh rừng
khộp sau khi cháy rừng ở vùng Tây Nguyên nhận thấy rằng một số loài cây họ
dầu (Dipterocarpaceae) ở khu vực này chỉ có thể sinh trưởng và phát triển “bình
thường” khi có lửa tràn qua. Năm 2005, Vương Văn Quỳnh và các cộng sự đã
thực hiện đề tài cấp Nhà nước: “Nghiên cứu xây dựng các giải pháp phòng chống
và khắc phục hậu quả cháy rừng cho vùng U Minh và Tây Nguyên”. Trong đó
các tác giả đã nghiên cứu về đặc điểm tái sinh rừng tràm (vùng U


16

Minh), tái sinh ở một số trạng thái rừng tự nhiên (vùng Tây nguyên) sau cháy,
từ đó đề xuất giải pháp phục hồi các trạng thái rừng này.
Việc nghiên cứu đặc điểm tái sinh rừng sau cháy giúp tăng cường sự

phục hồi tài nguyên rừng tự nhiên, rừng trồng cũng góp phần đánh giá được
lồi cây nào có sức chống chịu tốt đối với lửa và khả năng tái sinh mạnh để đề
xuất các loài cây trồng trên băng cản lửa.
Tóm lại, trong thời gian qua đã có nhiều kết quả nghiên cứu đặc điểm
cấu trúc và tái sinh rừng, những cơng trình đề cập ở trên là những định hướng
quan trọng cho việc giải quyết các vấn đề nghiên cứu của đề tài. Cho đến nay,
vấn đề nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi sau nương rẫy cịn ít, đặc
biệt là ở huyện Hịa An, tỉnh Cao Bằng, vấn đề này còn khá mới mẻ. Trên cơ
sở lựa chọn và vận dụng những kết quả của các tác giả đi trước để nghiên cứu
một số đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi tự nhiên sau nương rẫy, thơng qua đó
đề tài đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp, đáp ứng mục tiêu
kinh doanh, góp phần khơi phục và phát triển rừng.
1.3. Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật cho phục hồi rừng
Các nghiên cứu liên quan đến phục hồi rừng tự nhiên ở Việt Nam đã
được bắt đầu từ những năm 1960, các đề tài nghiên cứu về phân loại rừng,
nghiên cứu cấu trúc, động thái, các kỹ thuật khai thác bảo đảm tái sinh, kỹ
thuật làm giàu rừng, với các hệ sinh thái rừng đặc trưng của Việt Nam. Trong
giai đoạn 1991 - 2000, các nghiên cứu về rừng tự nhiên hầu như bị gián đoạn
để tập trung cho nghiên cứu trồng rừng, bắt đầu từ năm 2001 trở lại đây, các
nghiên cứu về rừng tự nhiên mới được khởi động trở lại.
Trong một cơng trình nghiên cứu về cấu trúc, tăng trưởng trữ lượng và
tái sinh tự nhiên rừng thường xanh lá rộng hỗn lồi ở ba vùng kinh tế (sơng
Hiếu, Yên Bái và Lạng Sơn), Nguyễn Duy Chuyên (1988) đã khái qt đặc
điểm phân bố của nhiều lồi cây có giá trị kinh doanh và biểu diễn bằng các


17

hàm lý thuyết. Từ đó làm cơ sở định hướng các giai pháp lâm sinh cho các vùng
sản xuất nguyên liệu. Tiếp theo, sự ra đời của thuật ngữ phục hồi rừng bằng

“khoanh nuôi xúc tiến tái sinh” những năm 1990 được coi như một bước tiến
vượt bậc về mặt khoa học trong phục hồi rừng khi hàng loạt công trình nghiên
cứu về lĩnh vực này được triển khai và tập trung theo hai hướng chủ yếu: lựa
chọn đối tượng là thảm thực vật rừng phục hồi sau nương rẫy ở các giai đoạn
khác nhau xây dựng mơ hình phục hồi rừng với quy mô 0,5 ha/ô mẫu, 5-10 ô
mẫu/ mơ hình/ địa điểm. Và tìm kiếm các mơ hình sử dụng đất bỏ hố sau nương
rẫy có hiệu quả ở địa phương để tìm hiểu các biện pháp tác động. Kết quả điều
tra, theo dõi một số mơ hình, tác giả kết luận: Mơ hình khoanh ni tái sinh kết
hợp trồng bổ sung, làm giàu rừng là mơ hình dựa trên cơ sở triệt để lợi dụng tái
sinh, diễn thế tự nhiên của thực vật chi phí ban đầu thấp, góp phần rút ngắn thời
gian phục hồi rừng, cải thiện cấu trúc tổ thành, mật độ theo hướng làm tăng giá
trị phòng hộ và kinh tế của rừng trong hiện tại cũng như trong tương lai. Một số
loài cây như: Hồi, Lát hoa, Quế là những cây có giá trị kinh tế, phù hợp với điều
kiện tự nhiên của địa phương, được người dân lựa chọn, đó là những cây có triển
vọng phù hợp với biện pháp kỹ thuật khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung
và làm giàu rừng.Kết quả nghiên cứu của các đề tài trên không chỉ là tiền đề cho
các hoạt động khoanh nuôi phục hồi rừng mà cịn đặt nền móng cho sự ra đời của
các quy phạm về phục hồi rừng đã được Nhà nước ban hành trong những năm
1990, bao gồm quy phạm "Các giải pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho rừng sản
xuất gỗ và tre nứa" (QPN 14 - 92) và "Phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến
tái sinh tự nhiên kết hợp trồng bổ sung" (QPN 21 - 98).

1.4. Đặc điểm khu vực nghiên cứu
1.4.1. Điều kiện tự nhiên
1.4.1.1. Vị trí địa lý


18

Hoà An là một huyện miền núi thuộc tỉnh Cao Bằng, nằm ở vị trí trung

tâm của tỉnh và bao quanh thành phố Cao Bằng. Có toạ độ địa lý từ 106 000’00”
đến 106024’33” kinh độ Đông và từ 22030’33” đến 22052’30” vĩ độ Bắc.

Ranh giới theo địa giới hành chính có giới hạn:
-

Phía Bắc giáp các huyện Hà Quảng và Trà Lĩnh;

-

Phía Nam giáp huyện Thạch An;

-

Phía Đơng giáp các huyện Quảng Un và Phục Hịa;

- Phía Tây giáp các huyện Ngun Bình và Thơng Nơng.
Sơ đồ huyện Hịa An:

Hình 2.1. Sơ đồ huyện hịa An, tỉnh Cao Bằng
Hiện nay, huyện Hịa An có tổng diện tích tự nhiên là 60.710,33 ha, dân
số là 53.726 người, chia thành 21 đơn vị hành chính gồm 20 xã và 01 thị trấn.
Trung tâm huyện Hòa An là thị trấn Nước Hai, nằm trên tỉnh lộ 203 cách


19

thành phố Cao Bằng 16 km về hướng Tây Bắc. Trên địa bàn huyện, giao thông
đường bộ chủ yếu là các tuyến đường huyết mạch trong tỉnh gồm có Quốc lộ 3,
Quốc lộ 34, tỉnh lộ 204, tỉnh lộ 203 và nhờ có các tuyến đường này mà Hịa An

đã trở thành cầu nối giữa trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh
Cao Bằng với các huyện, thành phố trong tỉnh, với các tỉnh trong vùng và nước
láng giềng Trung Quốc (Hòa An cách cửa khẩu Sóc Giang 40 km). Nhìn chung,
huyện Hịa An có vị trí tương đối thuận lợi để giao lưu phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội với các địa bàn khác trong và ngồi tỉnh và với nước Cộng hịa nhân
dân Trung Hoa qua cửa khẩu Sóc Giang.

1.41.2. Địa hình
Huyện Hịa An có kiến tạo địa hình dạng lịng máng dọc theo sông Bằng
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Độ cao trung bình 350 m so với mực nước
biển. Núi đồi chiếm 2/3 diện tích huyện, bao gồm núi đá và núi đất. Độ cao trung
bình là 300m so với mặt biển, thấp dần từ tây sang đông. Các ngọn núi cao của
huyện đáng kể là: Khau Mjà (xã Đức Long) cao 508m, Khau Hân (xã Bình
Long) cao 524m, Khau Sầm (xã Vĩnh Quang) cao 618m, Khau Luôn (xã Lê
Chung) cao 769m, Nà Mấn (xã Ngũ Lão) cao 1.011, Pá Diển (xã Quang Trung)
cao 1.000m, Lũng Xen (xã Công Trừng) cao 854m. Dãy núi đá vơi Lam Sơn (cịn
gọi là dãy Phja Ngả) nằm án ngữ phía tây huyện, địa hình khá hiểm trở, có nhiều
hang sâu. Huyện có nhiều sông suối chảy qua, đáng kể nhất là sông Bằng (đoạn
chảy qua Đề Thám gọi là sông Mãng). Sông Bằng bắt nguồn từ Trung Quốc,
chảy từ hướng tây bắc xuống Hà Quảng, nhập lưu với các nhánh sông Nặm
Thoong tại Nà Niền (xã Đức Long), Dẻ Rào từ Thông Nông chảy xuống và sơng
Tả Sla từ Ngun Bìnhra gặp sơng Bằng tại Nước Hai; một nhánh từ Đại Tiến ra
gặp sông Bằng tại Bản Sẩy xã Bế Triều, chảy qua các xã Hồng Việt, Hoàng Tung,
Hưng Đạo, Vĩnh Quang, Đề Thám, thành phố Cao Bằng, Quang Trung, Hà Trì,
Chu Trinh, Hồng Nam, sang huyện Phục Hòa rồi chảy qua Trung


20

Quốc. Sơng Bằng có lịng rộng và sâu, thuận tiện cho giao thông vận tải. Hệ

thống sông Bằng và các nhánh đã bồi đắp nên những cánh đồng tương đối
bằng phẳng và phì nhiêu vào loại nhất tỉnh. Các sơng, suối cịn là nguồn cung
cấp tơm cá cho con người, nguồn dự trữ thủy điện khá dồi dào.
Địa hình ở đây chia cắt phức tạp, đại bộ phận có đồi núi thấp xen kẽ địa
hình castơ (đá vơi) với các thung lũng sâu, kín và bồn địa giữa núi. Sự phân
hóa nền địa hình chia thành 3 dạng chính: địa hình đồi núi đất, địa hình thũng
lũng và địa hình núi đá.
-

Dạng địa hình đồi núi đất: có độ cao trung bình từ 300 - 350 m, phân

bố ở các xã phía Bắc, Đơng Bắc và phía Nam của huyện. Địa hình có độ dốc
thoải ở ven rìa các khối núi, càng tiến vào trong càng dốc. Đất đai phần lớn có
độ dốc trên 250 xen kẽ có các thung lũng hẹp và chân sườn đồi dốc thoải, có
độ dốc dưới 200, dạng địa hình này chiếm khoảng 63% diện tích tồn huyện.
-

Dạng địa hình thung lũng bồn địa: có độ cao trung bình 140 - 200 m

so với mực nước biển, phân bố chủ yếu trên địa bàn 8 xã, thị trấn trung tâm
huyện dọc theo 2 bờ sông Bằng. Đây là một bồn địa lớn của tỉnh, được hình
thành do sự bồi đắp phù sa của các sơng, suối thuộc hệ thống sơng Bằng, có
địa hình tương đối bằng phẳng và là vùng sản xuất lúa màu tập trung lớn của
huyện. Dạng địa hình này chiếm khoảng 17% diện tích tồn huyện.
-

Dạng địa hình núi đá: có độ cao trung bình từ 350 - 400 m, phân bố

chủ yếu ở các xã phía Đơng, Đơng Bắc và phía Tây của huyện trên địa bàn 6
xã, trong đó tập trung chủ yếu ở 4 xã phía Đơng huyện. Dạng địa hình này chủ

yếu là các dãy núi đá vơi dốc đứng xen kẽ các thung lũng nhỏ, hẹp. Khả năng
khai thác sử dụng đất vào mục đích nơng nghiệp bị hạn chế, chỉ có thể canh
tác được ở các thung lũng. Một hạn chế khác của dạng địa hình này là thiếu
nước, thậm chí nước sinh hoạt cũng thiếu vào mùa khơ. Vùng địa hình này
chiếm khoảng 20% diện tích tồn huyện.


21

Đặc điểm địa hình của huyện Hịa An cho thấy sự phân hóa rõ rệt, các
dạng địa hình khác nhau gây khó khăn cho việc đi lại và xây dựng cơ sở hạ tầng
nhưng lại mang sự đa dạng trong khả năng khai thác sử dụng đất. Vì vậy, việc
khai thác sử dụng đất cần chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đặc biệt là

ở các vùng đồng bằng, nơi tập trung đông dân cư gắn liền với q trình đơ thị
hóa và cơ sở hạ tầng phát triển mạnh gây sức ép lớn. Các vùng địa hình đồi
núi cần gắn việc khai thác sử dụng với việc bảo vệ tài ngun, mơi trường
nhằm đảm bảo tính bền vững trong q trình sử dụng.
1.4.1.3. Khí hậu, thuỷ văn
* Khí hậu: Huyện Hịa An chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu lục địa
nhiệt đới gió mùa và phân hố thành 2 mùa:
- Mùa đơng nhiệt độ thấp, khơ lạnh, ít mưa, đơi khi có sương muối.
- Mùa hè nhiệt độ và độ ẩm cao, mưa nhiều, đôi khi có mưa đá.
Những đặc trưng trong chế độ khí hậu thời tiết như sau:
- Chế độ nhiệt: nền nhiệt độ trung bình cả năm vào khoảng 20 - 22 0C, nhiệt
độ trung bình tối cao là 32,3 0C (tháng 7), nhiệt độ trung bình tối thấp là 10,4 0C
(tháng 1). Nền nhiệt độ phân hóa theo 2 mùa rõ rệt trong năm. Mùa nóng ẩm từ
tháng 5 - 9, mùa lạnh khô từ tháng 10 - 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình các tháng

mùa nóng đạt 26,20C. Nhiệt độ trung bình các tháng mùa lạnh khoảng 18,90C.

Biên độ nhiệt trung bình giữa các tháng trong năm khoảng 8,40C.
- Tổng tích ơn: hàng năm đạt khoảng 7.8900C, trong đó vụ đông xuân
đạt 3.3180C, vụ mùa đạt khoảng 4.7520C. Với nền nhiệt độ như trên có thể
canh tác được 2 - 3 vụ cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới và ơn đới.
- Chế độ mưa: huyện Hịa An có lượng mưa bình quân khoảng 1.300 1.500 mm/năm, tuy nhiên phân bố không đều trong năm: lượng mưa trong
mùa mưa (từ tháng 3 - 8) chiếm tới 80% lượng mưa cả năm.
- Lượng bốc hơi: bình quân 800 - 1.000 mm/năm.
- Độ ẩm: trung bình cả năm đạt 82%.


×