Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

hoàn thiện và nâng cao công tác lập kế hoạch SXKD tại công ty Cổ phần Sông Đà 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.52 KB, 93 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
Lời nói đầu:
Quản lý là quá trình không thể thiếu được trong mọi tổ chức, hệ thống.
Quá trình quản lý sẽ giúp cho tổ chức tồn tại và phát triển một cách tốt nhất
và hiệu quả nhất. Mọi quá trình quản lý đều được tiến hành theo những chức
năng cơ bản sau:
Lập kế hoach
Tổ chức
Lãnh đạo
Kiểm tra
Mỗi chức năng này đếu có một vai trò, ý nghĩa nhất định trong quá trình
quản lý tổ chức không thể nói chức năng nào quan trọng hơn chức chức
năng nào. Tuy nhiên ta thấy chức năng lập kế hoạch là chức năng đầu tiên
của quá trình quản lý có thể nói nó là gốc rễ của một cái cây, rồi từ cái gốc
này mọc ra những cành, nhánh là tố chức, lãnh đạo, kiểm tra. Có thể nói
chức năng lập kế hoạch là chức năng khởi đầu và trọng yếu đối với quá trình
quản lý. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài “hoàn thiện và nâng cao công tác
lập kế hoạch SXKD tại công ty Cổ phần Sông Đà 11” làm đề tài nghiên cứu.
Đề tài được chia làm ba phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận
Phần 2: Thực trạng công tác lập kế hoạch tại công ty Cổ phần Sông Đà 11
Phần 3: Hoàn thiện và nâng cao công tác lập kế hoạch tại công ty
Thông qua đề tài này ngoài mục đích nâng cao các lý thuyết đã học, vận
dụng các nguyên lý vào trong thực tiễn để giải quyết các vướng mắc tồn tại
qua đó rút ra được các kinh nghiệm trong quản lý. Thì đề tài còn có nhiệm
vụ là tìm hiểu công tác lập kế hoạch tại công ty Cổ phần Sông Đà 11 từ đó
phát hiện ra những vướng mắc, tồn tại cần khắc phục cần được hoàn thiện.
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
1
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
Cuối cùng từ tình hình thực tế và từ nguyên lý của lập kế hoạch mà đưa ra


các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch của công ty làm sao
cho nó tốt hơn hiệu quả hơn.
Trong quá trình nghiên cứu thì tôi có sử dụng nhiều tài liệu khác nhau và
một số phương pháp nghiên cứu do đó không tránh khỏi sai sót nhất định, rất
mong được sự chỉ dẫn góp ý nhiệt tình của thầy cô và đơn vị thực tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Sinh viên: Hoàng Xuân Quỳnh
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
2
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
Chương 1:Cơ sở lý luận
I. Tổng quan về kế hoạch và lập kế hoạch.
1. Khái niệm
Trong tổ chức việc lập kế hoạch có vai trò rất quan trọng. Có thể nói
lập kế hoạch là quá trình không thể thiếu được cho mọi tổ chức. Lập kế
hoạch nó quyết định sự tồn tại và phát triển của tố chức đó.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về lập kế hoạch tuỳ thuộc vào từng
góc độ khác nhau mà lập kế hoạch được định nghĩa theo nhưng cách
khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu đó thì ta có những định nghĩa:
Thứ nhất: kế hoạch là sự xắp đặt, hoạch định trước đối với hành
động trong tương lai và để tổ chức hoạt động trong tương lai, nhà quản
lý trước hết cần lựa chọn và xác định phương hướng mục tiêu và nội
dung hành động.
Ở đây kế hoạch được coi như là quá trình xắp đặt trước tương lai cho
tổ chức. Nhà quản lý khi hoạch định chính sách thì đã phải xác định
được tương lai của tổ chức sẽ như thế nào và mục tiêu của tổ chức trong
tương lai cũng như nội dung hoạt động.( viện nghiên cứu và đào tạo về
quản lý “nguyên lý quản lý thành công lớn bắt đầu rừ đây”)
Thứ hai: lập kế hoạch là xác định mục tiêu và mục đích mà tổ chức phải
hoàn thành trong tương lai và quyết định về cách thức để đạt được mục tiêu

đó.
Theo như cách hiểu này thì lập kế hoạch nó bao gồm ba giai đoạn :
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn thiết lập các mục tiêu cho tổ chức.
Giai đoạn thứ hai là xắp xếp các nguồn lực để tổ chức đạt được mục tiêu
đã định dó
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn quyết định về những hành động của tổ chức
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
3
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
Thứ ba: lập kế hoạch là một quá trình ấn định những mục tiêu và xác
định biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó( Quản trị học PGS TS
nguyễn thị liên diệp)
Hoặc
Thứ tư: hoach định là quá trình chuẩn bị đối phó với sự thay đổi và tính
không chác chắn bằng việc trù liệu những cách thức hành động trong tương
lai.( Quản trị học Nguyễn Hải San)
Thư năm: lập kế hoạch là quá trình xác định những mục tiêu của tổ chức
và phương thức tốt nhất để đạt được những mục tiêu đó.
Như vậy công tác lập kế hoạch theo nghĩa trên phải bao gồm đồng thời
hai quá trình xác định mục tiêu (cái gì cần phải làm); xác định con đường
cần đạt đến mục tiêu (làm cái đó như thế nào).
Hoặc có thể hiểu lập kế hoạch là việc xác định mục tiêu, xây dựng chiến
lược tổng thể để đạt đến mục tiêu, triển khai hệ thống kế hoạch, thống nhất
và phối hợp hành động: lập kế hoạch có thể là chính thức hoặc phi chính
thức:
Kế hoạch chính thức: là kế hoạch được xây dựng bằng văn bản, được
công bố rõ rang và có sự chia sẻ và phân công công việc cụ thể để các thành
viên trong tổ chức đều nắm được.
Kế hoạch phi chính thức : là kế hoạch xây dựng theo ý tưởng của người
lãnh đạo, các thành viên không nắm được vì nó chưa được công bố chính

thức.
Thứ sáu: hoạch định là quá trình chuẩn bị đối phó với những thay đổi và
tình huống không chắc chắn bằng việc trù liệu những cách thức hành động
trong tương lai. Hai nguyên nhân chính đòi hỏi các nhà quản trị phải tiến
hành công việc hoạch định xuất phát từ những nguồn tài nguyên hạn chế và
sự biến động thường xuyên của môi trường bên ngoài.
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
4
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
Có nhiều cách định nghĩa về kế hoạch như vậy thì trên giác độ quản lý
thì: lập kế hoạch là một loại ra quyết định đặc thù để xác định một tương lai
cụ thể mà các nhà quản lý mong muốn cho tổ chức của họ. (khoa học quản
lý tập 1)
Khái niệm trên cũng là quan điểm được sư dụng để viết chuyên đề nay.
Lập kế hoạch là chức năng quan trọng đầu tiên của nhà quản lý đây có thể
nói là chức năng khởi đầu và trọng yếu đối với nhà quản lý, từ chức năng
này mà tổ chức mới có những chức năng tiếp theo đó là tố chức, lãnh đạo và
kiểm tra. Tổ chức có thể tồn tại và phát triển được thì tổ chức đó phải có
được những bản kế hoạch tốt và hiệu quả.
Xét về mặt bản chất, lập kế hoạch là một hoạt động chủ quan, có ý thức
có tổ chức của con người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật
khách quan nhằm xác định mục tiêu, phương án bước đi, trình tự và cách
thức tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính bản chất này là cái
phân biệt sự hoạt động có ý thức của con người với sự hoạt động theo bản
năng của loài vật. Do đó, kế hoạch hoá là yêu cầu của quá trình lao động của
con người và gắn liền với quá trình đó.
Kế hoạch hoá là quá trình lặp đi lặp lại có tính chu kỳ bao gồm các hoạt
động xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá tình hình
xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch đã xây dựng.
Lập kế hoạch:

Trong các doanh nghiệp, lãnh đạo doanh nghiệp thường coi trọng những
cơ hội kinh doanh trong tương lai luôn rộng mở, và họ giữ những kế hoạch
cuả mình trong đầu. Còn những doanh nghiệp có tầm cỡ lớn hơn, người ta
có thể lên những kế hoạch tài chính chi tiết và thực hiện hang loạt công việc
nghiên cứu thị trường.
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
5
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
Việc lập kế hoạch kinh doanh có thể đáp ứng được cả hai yêu cầu trên thì
kết quả sẽ có là một tài liệu tương đối súc tích, bản kế hoạch kinh doanh này
cũng có thể được sử dụng cho nhiêu mục đích khác nhau, và như vậy hình
thức trình bày bản kế hoạch tuỳ thuộc vào mục đích cụ thể của nó.
2. Mục đích của kế hoạch
Nghiên cứu và quản lý sự thay đổi: Môi trường phát triển tất yếu
dẫn đến sự thay đổi. Một lĩnh vực được ưu tiên sẽ là nghiên cứu
những thay đổi mới có liên quan đến hang hoá và thị trường. Sự thay
đổi của môi trường và những yếu tố nội bộ sẽ là những yếu tố làm cản
trở việc thực hiện kế hoạch.
Vạch ra những con đường phát triển gắn bó: Đó là đảm bảo tính liên kết
giữa các mục tiêu và phân chia các nguồn vốn của doanh nghiệp. Các mục
tiêu phối hợp sẽ được phản ánh ở các kế hoạch sản xuất, tài chính, tiếp thị,
ngân sách ……
Cải thiện hiệu năng của doanh nghiệp: Công tác kế hoạch cho phép tối ưu
hoá nguồn vốn của doanh nghiệp, thông qua việc thực hiện hoạch định kinh
doanh mà tài nguyên không bị lãng phí, từ đó doanh nghiệp ấn định mục tiêu
tiến độ, và có tính khả thi.
Hợp thành phương tiện quản lý: Kế hoạch hoá thuộc kỹ thuật hợp lý hoá
quá trình ra quyết định và tạo thành nền tảng cho hoạt động quản trị kinh
doanh. Kế hoach hoá là một trong những phương tiện quản lý gồm các nội
dung cơ bản sau: Chuẩn đoán, xây dựng chiến lược, kế hoạch hoá thực sự.

3. Vai trò công tác lập kế hoạch
Lập kế hoạch là công cụ đắc lực trong công việc phối hợp nỗ lực của
các thành viên trong doanh nghiệp, nó cho biết hướng đi của doanh nghiệp.
Khi lập kế hoạch, sẽ xác định được mục tiêu, các thành viên trong doanh
nghiệp sẽ phối hợp hoạt động vì mục tiêu chung của tổ chức. Thiếu kế
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
6
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
hoạch, sẽ khó khăn trong việc xác định quỹ đạo của doanh nghiệp, lập kế
hoạch có tác dụng làm giảm tính bất ổn định của doanh nghiệp, lập kế hoạch
buộc các nhà quản trị phải nhìn về phía trước, dự đoán những thay đổi trong
nội bộ và ngoài môi trường.
Lập kế hoạch giảm được sự chồng chéo và những hoạt động lãng phí, tạo
mục tiêu và tiêu chí rõ ràng, không lãng phí tài nguyên khi đi lệch quã đạo.
Lập kế hoạch cung cấp những tiêu chuẩn cho công tác kiểm tra, lập kế hoach
và công tác kiểm tra là những công việc không thể tách biệt, không có kế
hoạch cũng không có công tác kiểm tra (vì ta biết kiểm tra giữ cho hoạt động
theo đúng kế hoạch bằng cách điều chỉnh các sai lệch. Như vậy kế hoạch
cung cấp cho ta những tiêu chuẩn để kiểm tra)
Kế hoạch hoá là quá trình định hướng và điều khiển theo định hướng đối
với sự phát triển sản xuất theo quy luật tái sản xuất mở rộng ở mọi cấp của
nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, quá trình xã
hội hoá sản xuất và nở rộng phân công hiệp tác lao động, phạm vi và trình
độ kế hoạch hoá ngày càng được nâng cao tương xứng. Trên phương diện
đó, kế hoạch hoá là thành quả chung của mọi hình thái kinh tế xã hội.
Đối với nhà quản trị, khả năng lập kế hoạch chính là yếu tố quan trọng
nhất phản ánh trình độ năng lực, nó quyết định rằng anh ta có điều hành
được hay không. Nói cách khác, khả năng và kỹ năng lập kế hoạch được coi
là những tiêu chuẩn quan trọng nhất về năng lực của cán bộ quản lý. Sự
thành công hay thất bại trong hoạt động của tổ chức do anh ta điều hành sẽ

chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng của kế hoạch hoạt động do anh ta chủ
động soạn thảo hoặc lãnh đạo soạn thảo.
Ngoài ra, việc chuẩn bị bản kế hoạch tạo cơ hội hoàn thiện những
phương pháp kế hoạch hoá được sử dụng trong công việc kinh doanh, đồng
thời giúp cho việc trình bày về doanh nghiệp của tổ chức trước các đối tác
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
7
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
mang tính chuyên nghiệp hơn, tổ chức có thể quyết định lập một kế hoạch
nhằm đáp ứng một hay nhiều nhu cầu như:
− Tìm kiếm nguồn tài trợ, một kế hoạch kinh doanh tốt là công cụ có
tính thuyết phục nhất mà tổ chức có thể sử dụng, đồng thời cũng là tài
liệu bắt buộc phải có đối với các tổ chức.
− Đưa ra định hướng, quá trình chuẩn bị bản kế hoạch giúp tổ chức suy
nghĩ một cách khách quan về doanh nghiệp của mình, về những điểm
mạnh điểm yếu nội tại, những cơ hội và mối đe doạ từ bên ngoài, sự
cần thiết và thời điểm ra những quyết định chiến lược.
− Truyền đạt được tới đối tác tới nhà đầu tư cũng như những nhân viên
chủ chốt, qua đó củng cố nềm tin vào các mối quan hệ, sự tín nhiệm
cũng như khuyến khích và tập trung hơn nữa những nỗ lực của nhân
viên, tóm lại là tạo ra được một tầm nhìn chung.
− Tạo ra những công cụ quản lý mới, quá trình chuẩn bị một bản kế
hoạch sẽ cung cấp những phương tiện quản lý có lợi về lâu dài cho tổ
chức. Những phương pháp này có thể được sử dụng lại khi các bản kế
hoạch được cập nhật hoặc lập cho những mục đích khác.
Vd: vì sao các doanh nghiệp nhỏ ít lập kế hoạch kinh doanh:
Như ta biết kế hoạch kinh doanh là một bản tổng hợp các công việc từ ý
tưởng kinh doanh, hoạch định kinh doanh của một dự án kinh doanh, đầu tư
… một kế hoạch kinh doanh tốt chỉ ra các vấn đề cần thiết để chuẩn bị trước
khi thực hiện dự án đầu tư và những việc cần phải làm khi thực hiện dự án

đầu tư.
Thực tế các doanh nghiệp nhỏ thường không chú trọng đến công tác lập
kế hoạch sản xuất kinh doanh bởi vì:
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
8
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
Trước hết, các doanh nghiệp nhỏ thường không có phòng kế hoạch đầu
tư. Bộ phận bán hàng và kinh doanh thường chỉ chú trọng vào công việc của
mình mà không quan tâm tới công tác lập kế hoạch cho cả doanh nghiệp,
chủ doanh nghiệp lại quá bận rộn với công tác quản lý không có thời gian để
tập trung vao công tác lập kế hoạch vạch ra chiến lược và mục tiêu do dó
công tác lập kế hoạch thường ngắt quãng hoặc năm có năm không.
Các chủ doanh nghiệp nhỏ trực tiếp tham gia quản lý điều hành doanh
nghiệp, họ thường nghĩ rằng mình có chiến lược trong đầu cộng với một đội
ngũ nhân viên kinh doanh và sản xuất giỏi là đủ, họ thường chỉ nghĩ kế
hoạch chỉ là một xấp giấy chứ không mang lại lợi ích nào cho doanh nghiêp.
Thực ra để có được một bản kế hoạch kinh doanh, phải giành một thời gian
nhất định để phân tích tình hình thị trường, vạch ra mục tiêu định hướng một
cách đầy đủ hơn là chỉ suy nghĩ trong đầu.
Một lý do quan trọng nữa là các doanh nghiệp nhỏ thường thiếu thông
tin, không có đầy đủ nhân viên để theo dõi biến động trên thị trường và tình
hình cạnh tranh, chưa áp dụng công nghệ thông tin đặc biệt là internet, để
tổng hợp phân tích thông tin trên thị trường trong nước và thế giới, các
doanh nghiệp này cũng chưa quan tâm tới các tổ chức hỗ trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ và những thông tin mà tổ chức này cung cấp.
Doanh nghiệp nhỏ còn có nguồn tài chính nhỏ không có điều kiện để mua
thông tin thị trường từ các công ty nghiên cứu thị trường nên các doanh
nghiệp nhỏ thường đi sau các tập đoàn lớn trong việc phát triển ý tưởng kinh
doanh và sản phẩm. Lý do cơ bản vẫn là do nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có
khả năng lập kế hoạch kinh doanh, điều này không có nghĩa là các doanh

nghiệp này làm ăn dở, mà nhiều khi ngược lại. Nhưng nếu không có chiến
lược kinh doanh và kế hoạch kinh doanh cụ thể thì dù các doanh nghiệp có
làm ăn khấm khá nhưng vẫn gặp phải nhiều khó khăn, nhất là khi gặp phải
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
9
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
những cơ hội đầu tư mới, phải ra những quyết định quan trọng, chủ doanh
nghiệp không biết quyết định của mình đúng hay không, khả năng có mang
lại lợi nhuận hay không.
4. Sự cần thiết của kế hoạch
Lập kế hoạch, định hướng cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
xuất phát từ những cơ sở chủ yếu sau:
a) Các nguồn tài nguyên hạn chế
sự khan hiếm tài ngưyên là một vấn đề đặc biệt quan trọng bởi nó
sẽ là một căn cứ chủ yếu để có thể dự báo tương lai của cong người.
Các nguồn tài nguyên như dầu mỏ, nước sạch không khí trong lành...
đang ngày càng trở nên khan hiếm là một thách thức ngày càng quan
trọng đối với nhà hoạch định. Nguồn tài nguyên hạn chế đòi hỏi các
doanh nghiệp phải có kế hoạch để sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn
tài nguyên đó.
b) Tính không chắc chắn của môi trường
Tình trạng không chắc chắn và hậu quả không chắc chắn của môi
trường tác động đến những dự định cho kế hoạch tương lai của nhà
doanh nghiệp, đòi hỏi họ phải dự đoán trước những bất ổn, những rủi
ro có thể xảy ra, những hậu quả không mong muốn đối với hoạt động
kinh doanh của họ.
5. Các loại kế hoạch.
Có nhiều quan điểm khác nhau về kế hoach do đó cũng có rất nhiều loại
kế hoach khác nhau tuỳ theo từng cách phân chia mà người ta chia kế hoạch
thành những loại sau:

a) Căn cứ vào bản chất của kế hoạch thì nó bao gồm bốn lĩnh vực sau.
− Kế hoạch hoá nguyên tắc kinh doanh.
Kế hoạch hoá nguyên tắc kinh doanh mô tả các nguyên tắc kinh
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
10
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
doanh chung. Các nguyên tắc kinh doanh được biểu hiện rõ nét ở các
nhân tố như truyền thống, hình thức pháp lý, tư duy của chủ sở hữu.
Trong mọi trường hợp chúng phải được biểu hiện bằng các văn bản và
phải được chứng minh theo khả năng. Chỉ có thế thì mới giải thích
chúng một cách hớp lý nhất, loại bỏ mâu thuẫn và nhận thức với cách
là hướng đích liên tục cũng như với tư cách như là nhân tố “ý muốn”
của quản trị gia và người lao động. Tất nhiên các nguyên tắc kinh
doanh không phải là cố định. Ngay cả trong hình thức văn bản cũng
cho phép kiển tra chúng trong mọi lúc, duy trì chúng hay làm cho
chúng thích hợp với hoàn cảnh thay đổi.
− Kế hoạch hoá chiến lược gắn với kế hoạch hoá chiến lược dài hạn về
sự kết hợp sản phẩm - thị trường trong vùng kinh doanh chiến lược và
từ đó cũng gắn với kế hoạch đề cập đến việc tạo ra và duy trì các khả
năng dẫn đến kết quả và cuối cùng là việc xác định kế hoạch chương
trình sản xuất có tính chiến lược. Việc phân tích khả năng hiện có dẫn
đến kết quả của doanh nghiệp cũng là đối tượng của kế hoạch hoá dài
hạn nó được xây dựng trên cơ sở các dự đoán về sức hấp dẫn về thị
trường xác định.
− Kế hoạch hoá chiến thuật: Nhiệm vụ của kế hoạch hoá chiến thuật là
dựa trên cơ sở của kế hoạch hoá chiến lược để phát triển các kế hoạch
đó thành các chương trình sản xuất- kinh doanh ngắn và trung hạn và
xác định các biện pháp để thực hiện kế hoạch của từng bộ phận chức
năng riêng biệt. Phải chú ý đến vấn đề xác định kế hoạch bộ phận cho
mọi chức năng khác nhau.

− Kế hoạch hoá khả năng thanh toán và kết quả: Mọi bộ phận của hệ
thống kế hoạch hóa đều phải gắn với kế hoạch hoá khả năng thanh
toán và kết quả. Các tính toán kết quả, các cân đối kế hoạch và các kế
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
11
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
hoạch tài chính liên quan đến toàn doanh nghiệp là các công cụ điển
hình của công tác kế hoạch khả năng thanh toán và kết quả. Hệ thống
kế hoạch của doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường rất
đa dạng.
b) Căn cứ vào độ dài thời kỳ kế hoạch, hệ thống kế hoạch bao gồm.
− Kế hoạch dài hạn (kế hoạch chiến lược thường gọi là chiến lược)
thường có độ dài thời gian từ 5 năm tới 10 năm. Kế hoạch dài hạn
nhằm xác định các lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp sẽ tham gia, đa
dạng hàng hoá hoặc cải thiện các lĩnh vực hiện tại; xác định các mục
tiêu , chính sách và giải pháp dài hạn về tài chính, đầu tư, nghiên cứu,
phát triển con người….
− Kế hoạch trung hạn (thường chỉ là 2 – 3 năm) nhằm phác thảo các
chương trình trung hạn để thực hiện hoá các lĩnh vực mục tiêu, chính
sách giải pháp được hoạch định trong chiến lược lựa chọn.
− Kế hoạch hàng năm: kế hoạch hàng năm là sự cụ thể hoá của nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược và
kế hoạch trung hạn, vào kết quả nghiên cứu, diều chỉnh các căn cứ
xây dựng kế hoạch cho phù hợp với điều kiện của năm kế hoạch.
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
12
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
Ta có sơ đồ sau:
Hôm nay 3 tháng 1 năm 5 năm
Hình 1: Khoảng thời gian tương ứng đối với từng loại kế hoạch

Kế hoach dài hạn Kế hoạch trung hạn Kế hoạch ngắn hạn
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
Kế hoạch ngắn hạn:
Phân công công việc
Đặt hàng
Điều độ công việc…
Dành ưu tiên
Kế hoạch trung hạn:
Kế hoạch bán hàng
Kế hoạch sản xuất và dự thảo ngân
sách
Sắp xếp nhân lực và hợp đồng dịch
vụ
Kế hoạch dài hạn:
Nghiên cứu và phát triển
Kế hoạch sản phẩm mới
Sử dụng đồng vốn
Định vị và phát triển
DN
Công suất
Hoạch định
tổng hợp
Phân bổ Điều độ
13
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
Phản hồi Phản hồi Phản hồi Phản hồi
Hình 2: Sự liên quan giữa các loại kế hoạch theo thời gian
c) Căn cứ vào mối quan hệ gắn bó giữa các hoạt động kế hoạch trong
phạm vi doanh nghiệp, các loại kế hoạch của doanh nghiệp bao gồm:
− Các kế hoạch mục tiêu: Đây là bộ phận kế hoạch quan trọng nhất của

doanh nghiệp, nhằm hoạch định các mục tiêu, chính sách giải pháp về
sản phẩm, thị trường quy mô và cơ cấu các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Nó cũng xác định các chỉ tiêu tài chính cơ bản nhằm xác định
hiệu quả của sản xuất kinh doanh gắn với từng phương án được hoạch
định.
− Các kế hoạch điều kiện hay hỗ trợ (về lao động, tiền lương, vật tư,
vốn…) nhằm xác định các mục tiêu giải pháp, phương án huy động,
khai thác các tiềm năng và nguồn lực thực hiện có hiệu quả các
phương án kế hoạch mục tiêu. Việc xây dựng và thực hiện các kế
hoạch điều kiện là nhằm đảm bảo nâng cao tính khả thi của các
phương án và chương trình kế hoạch của doanh nghiệp.
d) Theo phạm vi hoạt động, kế hoạch của doanh nghiêp bao gồm.
− Kế hoạch tổng thể của doanh nghiệp: Kế hoạch tổng thể của doanh
nghiệp luôn đề cập đến toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, thiết lập những mục tiêu chung của doanh nghiệp và
giá trị của nó đối với môi trường.
− Kế hoạch bộ phận: Kế hoạch bộ phận chỉ đề cập đến từng phần quá
trình sản xuất kinh doanh. Loại kế hoạch này gắn liền với từng lĩnh
vực hoạt động chức năng như: Kế hoạch marketing, kế hoạch sản
xuất, kế hoạch vật tư, kế hoạch tài chính, kế hoạch đầu tư, kế hoach
tiền lương….
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
14
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
e) Về phân cấp kế hoạch, trong một tổ chức có hai loại kế hoạch chính:
− Các kế hoach chiến lược: Được lập để hướng tới các mục tiêu của tổ
chức - thực hiện những sứ mệnh ấy là lý do duy nhất đối với sự tồn tại
của tổ chức.
− Các kế hoạch tác nghiệp: Là kế hoạch trình bày rõ chi tiết cần phải
làm như thế nào để đạt được những mục tiêu đã được đặt ra trong kế

hoach chiến lược. Gồm có:
 Kế hoạch sử dụng một lần (single – use plans) là những kế hoạch cho
những hoạt động không lặp lại.
 Kế hoạch cố định (standing plans) loại kế hoạch này được quy chuẩn
hóa cho việc tiếp cận và giải quyết các tình huống thường xuyên gặp
và dự đoán sẽ còn tiếp tục diễn ra.

Hình 3: Lập kế hoạch và các cấp quản lý doanh nghiệp
f) Căn cứ vào đối tượng kế hoạch hoá, có thể phân biệt kế hoạch xây
dựng doanh nghiệp, kế hoạch trương trình và kế hoạch kinh doanh.
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
Quản trị
cấp cao
Quản trị
cấp trung
Quản trị
cấp thấp
Lập kế hoạch
chiến lược
Lập kế hoạch
tác nghiệp
Lập kế hoạch
tác nghiệp
15
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
− Kế hoạch xây dựng doanh nghiệp xác định việc xây dựng tổng thể
doanh nghiệp về phương diện tổ chức, tài chính, kỹ thuật và chịu ảnh
hưởng rất mạnh của kế hoạch chiến lược.
− Kế hoạch chương trình xác định chương trình sản xuất kinh doanh và
sản lượng sản xuất cho từng thời kỳ nhất dịnh. Kế hoạch chương trình

thường được xác định cho từng thời kỳ trung hạn và ngắn hạn.
− Kế hoạch sản xuất kinh doanh xây dựng trên cơ sở kế hoạch chương
trình và có nhiệm vụ xác định chính xác các nhân tố sản xuất thành kế
hoạch mua sắm, kế hoạch vật tư, kế hoạch sản xuất, kế hoạch dự trữ
và kế hoạch tiêu thụ.
Các thủ tục: là những hoạt động cần thiết phải làm, một sự hướng dẫn về
hành động thực tiễn một công việc cụ thể nào dó. Ví dụ: thủ tục thanh
toán, thủ tục xuất kho, thủ tục đăng ký kinh doanh…
Các quy tắc: Là những quy định phải tuân theo, quy tắc không cho phép
lựa chọn không cho phép là theo ý riêng.
6. Những nhân tố ảnh hưởng tới quá trình lập kế hoạch
Trong quá trình lập kế hoạch thì có rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng
tới. Tuỳ theo từng loại kế hoach mà các nhân tố đó tác động tới mạnh
yếu khác nhau. Có thể loại nhân tố này ảnh hưởng tới loại kế hoạch
này mạnh hơn loại nhân tố khác và ngược lại. Những nhân tố chủ yếu
tác động tới quá trình lập kế hoạch:
 Cấp quản lý:
Cấp quản lý khác nhau thì tồn tại những loại kế hoach khác nhau.
Cấp quản lý càng cao thì kế hoạch càng mang tính chiến lược và
ngược lại. Cấp quản lý cao co vai trò rất quan trọng tới sự tồn tại và
phát triển của tổ chức do cấp quản lý cao thì vạch ra các kế hoạch
mang tính chiến lược dài hạn. Nếu kế hoạch đó đúng phù hợp với xu
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
16
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
hướng thì tổ chức đó phát triển, nếu kế hoạch đó là sai lầm thì dẫn tới
tổ chức có thể bị suy thoái và không tồn tại được.
 Môi trường:
Tính chất kế hoạch phụ thuộc vào sự biến động của môi trường.
Các tổ chức luôn phải hoạt động trong một môi truờng nhất định.

Công tác lập kế hoạch có thành công thì phải nắm bắt đựơc những
thay đổi đó. Ví du khi tổ chức hoạt động trong môi trường ổn định thì
các kế hoach đó sẽ là các kế hoach dài hơi mang tính hoạch định chiến
lược hơn nhưng khi mà môi trường bất ổn luôn biến động thì kế hoạch
đó là những kế hoạch ngắn hạn và luôn luôn phải điều chỉnh cho nó
phù hợp.
 Chu kỳ kinh doanh:
Ta có sơ đồ sau:
Hình 4: Kế hoạch với chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
Hình thành
Tăng trưởng
Chín muồi
Suy thoái
Kết
quả
kinh
doanh
17
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
Ta thấy chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp gồm 4 giai đoan, ứng với
từng giai đoạn thì tổ chức lại có những kế hoạch riêng. Khi tổ chức trong
giai đoạn hình thành thì tổ chức sẽ dùng các kế hoạch mang tính định hướng
cho cả quá trình khi tổ chức tiến tới giai đoạn tăng trưởng thì tổ chức lại sử
dụng các kế hoạch ngắn hạn, nhằm đảm bảo cho quá trình phát triển đúng
hướng, tới khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh khi nó bước vào thời kỳ suy
thoái thì các kế hoạch được thực hiện lại là các kế hoạch mang tính định
hướng cho quá trình kinh doanh tiếp theo.
 Chính sách của nhà nước:
Các kế hoach cũng chịu tác động rất lớn từ phía chính sách của nhà nước,

các kế hoạch được đặt ra phải phù hợp với các quy định, chính sách của nhà
nước điều này là rất quan trọng. Khi tổ chức lập một kế hoạch nào đó thì tổ
chức đó phải tìm hiểu xem công việc minh định làm có trái với các chính
sách của nhà nước không nếu tổ chức đó không tìm hiểu kỹ rất có thể kế
hoạch đó của tổ chức không phù hợp không được Nhà Nước cho phép thực
hiện gây lãng phí cho tổ chức.
 Thời gian thực hiện mục tiêu:
Thời gian cũng có tác động rất lớn tới kế hoạch, kế hoạch có thể đúng
trong một thời gian ngăn nhưng lại là sai lầm khi mà thời gian thực hiện các
kế hoạch đó là dài. Do các kế hoạch là sự dự trù các mục tiêu cần đạt tới
trong tưong lai mà trong tương lai thì không ai có thể biêt chính xác được do
đó thời gian càng dài thì các kế hoạch càng mang tinh định hứớng và các kế
hoạch đó rất dễ mắc sai lầm.
 Năng lực của người lập kế hoạch:
Kế hoạch là do con người đặt ra và đưa ra các mục tiêu xác định một
tương lai cụ thể của tổ chức đó. Do đó nó rất dễ mắc phải các sai lầm, nó
phụ thuộc vào năng lực của người lập kế hoạch rất lớn, nếu người lập kế
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
18
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
hoạch là người có chuyên môn trình độ và có sự nghiên cứu kĩ lưỡng thì kế
hoạch đó sẽ có giá trị, nếu như kế hoạch được lập ra chỉ vì ý chủ quan của
người lập kế hoạch thì nó rất có thể làm cho tổ chức thiệt hại.
 Thị trường:
Các kế hoạch của các tổ chức sản xuất đều phải theo định hướng của thị
trường. Nhu cầu của thị truờng là một trong những yếu tố mà các tổ chức
cần phải đáp ứng, thị trường hướng cho tổ chức phải sản xuất cái gì, giá cả
như thế nào không thể sản xuất những sản phẩm mà thị trường không mong
muốn.
 Các nguồn lực của tổ chức:

Ta biết rằng các nguồn lực của tổ chức đều mang tính khan hiếm. Do đó
các kế hoach được đưa ra phải phù hợp với tình hình thực tế của tổ chức
không thể lập kế hoạch mà tổ chức không đủ nguồn lực thực hiện được,
nguồn lực cũng là một nhân tố tác động tới các kế hoach của tổ chức.
II. Quy trình công tác lập kế hoạch:
Để lập được một kế hoạch tốt thì nó phải bao gồm nhiều bước khác
nhau. Bước trước là tiền đề để cho bước tiếp theo cứ như vậy cho tới bước
cuối cùng. Mỗi bước có một công việc cụ thể khác nhau đảm bảo cho việc
lập kế hoạch được tốt nhất. Quy trình lập kế hoạch bao gồm các bước:
1. Bước 1: Nghiên cứu và dự báo.
Nghiên cứu và dự báo là điểm bắt đầu của việc lập kế hoạch. Để
nhận được cơ hội thì phải có những hiểu biết về môi trường, thị
trường, về sự cạnh tranh, về điểm mạnh và điểm yếu của mình so với
các đối thủ cạnh tranh. Chúng ta phải dự đoán được các yếu tố không
chắc chắn và đưa ra phương án đối phó. Do đó nhất thiết phải có
nhưng nghiên cứu và dự báo trước khi lập kế hoạch. Việc nghiên cứu
và dự báo càng chính xác, cụ thể bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu nó
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
19
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
giúp ta đưa ra đưa ra được những dự đoán thực tế phù hợp như vậy thì
mới có được những kế hoạch tốt.
2. Bứoc 2: Thiết lập các mục tiêu.
Xong bước thứ nhất tiếp tục tới bước thư 2. Khi đã nghiên cứu và
dự báo kỹ lưỡng thì việc tiếp theo là thiết lập các mục tiêu cần thực
hiện. Các mục tiêu đưa ra cần phải xác định rõ thời gian thực hiện và
được lượng hoá đến mức cao nhất có thể. Mặc dù tổ chức có cả hai
loại mục tiêu định lượng và định tính nhưng những loại mục tiêu định
lượng có vẻ rõ ràng hơn và dễ thực hiện hơn. Ngoài ra, mục tiêu cũng
cần phân nhóm theo các thứ tự ưu tiên khác nhau. Tổ chức cũng có

thể có hai loại mục tiêu hàng đầu và mục tiêu hàng thứ hai, những
mục tiêu hàng đầu liên quan tới sự sống còn và sự thành đạt của tổ
chức. Đối với một công ty đó là những mục tiêu về lợi nhuận, doanh
số hay thị phần. Không đạt được một mức lợi nhuận, mức doanh thu
hay mức thị phần nhất định trong một thời kỳ nào đó công ty có thể bị
phá sản. Mục tiêu hàng thứ hai lại liên quan tới tính hiệu quả của công
ty hay tổ chức. Chúng cũng rất quan trọng đối với sự thành công của
tổ chức nhưng không phải lúc nào cũng ảnh hưởng tới sự sống còn
của tổ chức. Các mục tiêu này thể hiện ở sự quan tâm của khách hàng
tới sản phẩm của tổ chức, sự phát triển sản phẩm mới hay tính hiệu
quả của công tác quản lý hành chính.v..v.. Trong những năm gần đây,
các tổ chức cả khu vực nhà nước và tư nhân dường như đều chú trọng
tới các mục tiêu hàng thứ hai để thu hút khách hàng, được coi là ảnh
hưởng lâu dài tới sự sống còn của tổ chức và cả các mục tiêu hàng thứ
nhất với sự ảnh hưởng trực tiếp và trước mắt hơn. Cho dù có chú
trọng tới mục tiêu nào hơn chăng nữa thì điều quan trọng la phải xác
định các mục tiêu thạt rõ ràng, có thể đo lường được và mang tính khả
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
20
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
thi. Ngoài ra, cũng cần xác định rõ trách nhiệm trong việc thực hiện
mục tiêu và thời hạn hoàn thành.
3. Bước 3: Phát triển các tiền đề
Bước tiếp theo là bước phát triển các tiền đề. Từ bước thứ hai khi
đã thiết lập được các mục tiêu của tổ chức thì tiếp theo ta phải phát
triển các tiền đề để thực hiện các mục tiêu đó. Tiền đề lập kế hoạch là
các dự báo, các chính sách cơ bản có thể áp dụng. Chúng là giả thiết
cho việc thực hiện kế hoạch. Đó có thể là địa bàn hoạt động, mức giá ,
sản phẩm gì, triển khai công nghệ gì, mức chi phí mức lương, mức cổ
tức và các khía cạnh tài chính, xã hội chính trị khác.

Một số tiền đề là những dự báo, các chính sách còn chưa ban hành Vd
như khi xây dựng các kế hoạch phát triển đô thị của một thành phố , người ta
sẽ dựa trên một tiền đề là mạng lưới buýt và các phương tiện đi lại công
cộng sẽ như thế nào trong vòng 5 năm tới.
Các tiền đề được giới hạn theo giả thiết có tính chất chiến lược hoặc cấp
thiết để đẫn đến một kế hoạch. Các tiền đề này có ảnh hưởng nhiều nhất đến
sự hoạt động của kế hoạch đó. Sự nhất trí về các tiên đề là điều kiện quan
trọng để lập các kế hoạch phối hợp. Vì vậy không nên đòi hỏi những kế
hoạch và ngân quỹ từ cấp dưới khi chưa có, trước hết cần có những chỉ dẫn
cho những người đứng đầu các bộ phận của mình.
4. Bước 4: Xây dựng các phương án
Khi có các tiền đề ở bứơc trên thì ở bước tiếp theo ta xây dựng các
phương án hành động. Chúng ta cần xây dựng và tìm ra các phương
án hành động để lựa chọn. Cần giảm bớt các phương an lựa chọn, chỉ
có những phương án có triển vọng nhất mới được đưa ra phân tích.
Các phương án phải được xây dựng dựa trên các tiền đề đã được đưa
ra để đảm bảo cho kế hoach được lập ra là tốt nhất.
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
21
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
5. Bước 5: Đánh giá các phương án
Khi xây dựng được các phương án thì ở bước này tổ chức phải đánh giá
các phương án theo các tiêu chuẩn phù hợp với mục tiêu và trung thành cao
nhất với các tiền đề đã xác định. Các phương án tốt là các phương án mà phù
hợp với các tiêu chuẩn đánh giá, các tiền đề đã đưa ra. Có thể nói đánh giá
phương án là bước rất quan trọng. Nếu đánh giá không chính xác không
đúng sẽ có thể làm cho tổ chức đó lựa chọn phương án không tốt gây tổn
thất cho tổ chức và xã hội.
6. Bước 6: Lựa chọn phương án và ra quyết định
Bước cuối cùng của quy trình lập kế hoạch là lựa chọn các phương án và

ra quyết định. Sau quá trình đánh giá các phương án thì một vài phương án
tốt nhất sẽ được lựa chọn. Các phương án được lựa chon không nhất thiết
phải là các phương án mang lại hiệu quả kinh tế cho tổ chức mà có thể
phương án được lựa chọn lại mang lại môi trường tốt hơn hay mang lại ý
nghĩa xã hội. Các phưong án được lụa chọn tuỳ thuộc vào tổ chức đó là tổ
chức vì lợi nhuận hay là tổ chức phi lợi nhuận.
Vd: Có hai phương án một là tối đa hoá lợi nhuận và thứ hai là mục tiêu
tổng hợp cả về lợi nhuận lẫn kinh tế xã hội tuy nhiên mức lợi nhuận mà
phương án thư hai có thể rất thấp hay có khi là không có. Nếu là tổ chức
hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận thì nhất định tổ chức đó sẽ chọn phương án
thứ nhất nhưng nếu là tổ chức hoạt động phi lợi nhuận như nhà nước, các tổ
chức nhân đao thì chưa chắc họ đã chon phương án thứ nhất mà rất có thể họ
sẽ chon phương án thứ hai.
Khi đã ra quyết định chon được một vài phương án phù hợp thì lúc này
cần ra quyết định để phân bổ con người và các nguồn lực khác của tổ chức
cho việc thực hiện các kế hoạch đó. Quá trình lập kế hoạch không chỉ dừng
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
22
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
ở đây mà tiếp theo sẽ là việc xây dựng các kế hoạch phụ trợ và lượng hoá kế
hoạch bằng ngân quỹ để thực hiện kế hoạch đó một cách tốt nhất.
III. Một số mô hình phân tích và lập kế hoạch
Trong quá trình lập kế hoạch thì tổ chức sử dụng rất nhiều các phương
pháp và các công cụ để giúp cho quá trình lập kế hoach một cách tốt nhất.
Các phương pháp phân tích mà tổ chức thường hay sử dụng là:
Sở đồ mạng Pert
Sơ đồ đường Gantt
Mô hình ma trận BCG
Giá trị
Đánh giá

Động cơ
Mô hình năm lực lượng
Mô hình chuỗi giá trị
Mô hình điểm mạnh điểm yếu cơ hội và đe doạ (SWOT)
……..
Có nhiều phương pháp phân tích như vây do đó khi lập kế hoạch tổ chức
cần căn cứ vào tình hình thực tế của tổ chức mình mà sử dụng các phương
pháp cho hiệu quả và hợp lý. Ơ đây tôi xin giới thiệu một số phương pháp
hay được các tổ chức sử dụng cho quá trình lập kế hoạch của mình:
1. Mô hình điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe doạ ( SWOT )
Ở mô hình này nó đánh giá cả môi trường bên trong tổ chức lẫn môi
trường bên ngoài tổ chức. Có thể nói mô hình không chỉ có ý nghĩa với
doanh nghiệp trong việc hình thành chiến lược kinh doanh nội địa mà nó còn
có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành chiến lược kinh doanh quốc tế nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Một khi doanh nghiệp muốn
phát triển, từng bước tạo lập uy tín, thương hiệu cho mình một cách chắc
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
23
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý
chắn và bền vững thì phân tích SWOT là một khâu không thể thiếu trong
quá trình hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Đánh giá điểm mạnh và điểm yếu hay còn gọi là phân tích bên trong mà
tổ chức phải đối mặt trên những giác độ như nhân sự, tài chính, công nghệ,
uy tín, tiếng tăm, mối quan hệ, văn hoá, truyền thống của tổ chức.
Việc so sánh này chỉ mang tính tương đối, chủ yếu có sự so sánh với mặt
bằng chung trong ngành.
Phân tích về cơ hội, đe doạ hay còn gọi là phân tích các yếu tố bên ngoài
vì những nhân tố đó đến từ môi trường bên ngoài. Những nhân tố này là
những nhân tố ngoại cảnh tác động vào tổ chức. Nếu như việc phân tích này
được thực hiện một cách kỹ lưỡng và sáng suốt, các chiến lược cấp ngành đề

ra sẽ có thể nắm bắt được các cơ hội và sẵn sàng đối phó với các đe doạ có
thể xảy ra. Trong thực tế, mô hình SWOT được sử dụng khá rộng rãi và
được coi là một công cụ phân tích chiến lược hiệu quả. Người ta có thể dựa
vào kết quả của việc phân tích theo mô hình SWOT để lập lên ma trận
SWOT nhằm giúp cho việc đưa ra các giải pháp chiến lược. Ma trận SWOT
có dạng như mô tả trong sơ đồ sau:
Cơ hội Đe doạ
o
1
o
h
t
1
t
k
s
1
Điểm
mạnh
s
n
w
1
Điểm
yếu
w
m
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
24
s

1
o
1
s
1
o
h
s
1
t
1
s
1
t
k

s
i
o
j
s
i
t
j
s
n
o
1
s
n

o
h
s
n
t
1
s
n
t
k
w
1
o
1
w
1
o
h
w
1
t
1
w
1
t
k

w
i
o

j
w
i
t
j
w
m
o
1
w
m
o
h
w
m
t
1
w
m
t
k
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Khoa học quản lý

Hình 5 : Ma trận SWOT
Các thành phần của ma trận SWOT có thể gợi ý về các giải pháp chiến
lược nhằm phát huy các điểm mạnh để tận dụng cơ hội và ngăn chặn các
mối đe doạ, hay biết được các diểm mạnh điểm yếu có thể hạn chế ra sao
trong việc nắm bắt các cơ hội và tạo ra sự khó khăn trong việc chống đỡ
được các mối đe doạ.
Kết quả của quá trình phân tích SWOT phải đảm bảo được tính cụ thể,

chính xác thực tế và khả thi vì doanh nghiệp sẽ sử dụng kết quả đó để thực
hiện những bước tiếp theo như: Hình thành chiến lược, mục tiêu chiến lược
chiến thuật và cơ chế kiểm soát chiến lược cụ thể. Chiến lược hiệu quả là
những chiến lược tận dụng được các cơ hội bên ngoài và sức mạnh bên trong
cũng như vô hiệu hoá được những nguy cơ bên ngoài và hạn chế hoặc vượt
qua được những yếu kém của bản thân doanh nghiệp.
VD vào thời kỳ 1990, khi khối Đông âu sụp đổ Công ty Công nghiệp cao
su miền nam (Casumina) mất một thị trường quan trọng với 15 triệu vỏ
lốp/năm trong lúc đang gánh lên vai món nợ của những năm trước, công ty
chỉ còn sản xuất khoảng 20% công suất.
Vào thời kỳ đó, công ty đã kịp thời có những thay đổi đúng đắn trong
chiến lược kinh doanh quốc tế đó là ban đầu thì tiếp cận công nghệ cao với
chi phí thấp khi kí hợp đồng liên doanh và chế biến cho các đối tác của
Nhật, khai thác sự trợ giúp kỹ thuật từ đối tác sau đó áp dụng chiến lược tạo
ra sự khác biệt cho sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ vào
kết quả của việc phân tích SWOT cho điều kiện môi trường kinh doanh của
Casumina, cụ thể là: S: công ty có đội ngũ lãnh đạo có năng lực, đội ngũ
công nhân gắn bó với công ty, W : công ty chưa có kinh nghiệm về sử dụng
Hoàng Xuân Quỳnh Lớp: QLKT 46A
25

×