Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tại sao nói, con đường cứu nước mà nguyễn ái quốc tìm thấy cho dân tộc việt nam đầu thế kỷ XX là hoàn toàn phù hợp với điều kiện lịch sử của xã hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.26 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ BÀI : Tại sao nói, con đường cứu nước mà Nguyễn Ái Quốc tìm
thấy cho dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX là hoàn toàn phù hợp với
điều kiện lịch sử của xã hội Việt Nam ? Nghiên cứu vấn đề này có ý
nghĩa gì với bản thân em ?

Họ và tên sv
MSV
Lớp
GV Hướng Dẫn
Giảng Đường

Phạm Xuân Thương
11195012
ESOM2
PGS -TS Trần Thị Thu Hoài
A2516

HN-Tháng 2-2020


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG

1



MỤC LỤC

Trang

Phần I Hoàn cảnh lịch sử VN cuối thế kỷ XIX, đầu XX

1

Phần II Nội dung con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc

3

Phần III Lý giải tại sao nói: “Con đường cứu nước mà...”

6

Phần IV Liên hệ bản thân- Bài học rút ra

9

Kết Luận

10

Tài liệu tham khảo

11

1



Phần I : Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam cuối TK XIX Và đầu TK XX
Sự lạc hậu, kém phát triển của nước Việt Nam đã khiến cho quốc gia này khơng đủ sức
mạnh duy trì, phát triển các quyền dân tộc, quyền con người. Hậu quả là, cuối thế kỷ
XIX, nước Việt Nam mất độc lập, đại bộ phận nhân dân Việt Nam lầm than, cơ cực,
mất tự do. Chính quyền đại diện cho người Việt Nam trong hệ thống chính trị thuộc địa
nửa phong kiến đã khơng làm đúng chức năng đảm bảo an toàn và hạnh phúc cho
người dân. Yêu cầu lịch sử đặt ra là phải tìm ra con đường cứu nước, thực hiện được
giải phóng dân tộc, giải phóng con người, phải thiết lập được chính quyền đảm bảo tốt
nhất sự an tồn và hạnh phúc của nhân dân.
Trước thách thức của lịch sử, nhân dân Việt Nam đã tiến hành giải phóng dân tộc, giải
phóng con người bằng nhiều phong trào đấu tranh theo những con đường cứu nước
khác nhau. Trong đó có các Phong trào Cách Mạng nổi bật phải kể đến như Trương
Định với lá cờ “ Bình Tây Ngun Đại Sối”, cuộc tấn công Pháp ở Huế (T7-1885),
Phong Trào Cần Vương, Khởi nghĩa Yên Thế đánh thắng nhiều trận và gây được tiếng
vang lớn nhưng chỉ kéo dài được đến năm 1913. Thêm vào đó là các phong trào Đơng
Du của Phan Bội Châu, Duy Tân của Phan Chu Trinh... Đặc điểm của con đường cứu
nươcs thời này theo khuynh hướng canh tân, phong kiến và tư sản. Con đường canh
tân ở Việt Nam dưới triều Nguyễn trước nguy cơ và sự xâm lược của Pháp: hầu hết đều
xuất phát từ tinh thần yêu nước, muốn cho nước nhà giàu mạnh, có thể đương đầu với
sự tấn cơng ngày càng dồn dập của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Trong hoàn cảnh bế
tắc của xã hội phong kiến Việt Nam hồi đó, theo các nhà canh tân, lối thốt duy nhất
cho Việt Nam là mạnh dạn đi theo con đường phát triển của Chủ nghĩa tư bản. Nhưng
những đề nghị cải cách có tính chất lẻ tẻ, rời rạc, nặng về chịu ảnh hưởng bên ngoài mà
thiếu cơ sở bên trong, chưa động chạm đến vấn đề cơ bản của thời đại là giải quyết hai
mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam bấy giờ là giữa nhân dân ta với thực
dân Pháp xâm lược và giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Đứng trước nguy cơ mất
nước, các nhà cải cách duy tân việt Nam bấy giờ chỉ biết chộp lấy mơ hình của các xã
hội phát triển ở bên ngoài đem vào áp dụng ở nước ta, ít ai nghĩ rằng cần phải có

những hậu thuẫn về mặt xã hội làm cơ sở vật chất bên trong thì các chương trình cải
cách mới có thể thực hiện thành cơng được. Chính vì ra đời tìm nhu cầu cách tân vội
vàng, cấp thiết để cứu vãn nền độc lập của đất nước, mà khi quốc gia mất độc lập thì
trào lưu cải cách duy tân cũng chấm dứt ln sự tồn tại của chính mình – sự thất bại đó
là điều khơng tránh khỏi. Cịn các phong trào mang khuynh hướng tư bản và phong
kiến ra đời đã thể hiện vai trị của mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và
dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức trên, do những hạn chế về giai cấp, về
đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa tập hợp được rộng rãi lực
lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã hội cơ bản là công nhân
và nông dân, nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các phong trào yêu
nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đã phản ánh địa vị
kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp này trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản
ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.Sự thất
bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã
bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về
giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới,
một giai cấp đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín
và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
1


Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước hoàn toàn bị thực dân Pháp xâm lược, chứng
kiến cảnh nhân dân bị áp bức, nô lệ, cuộc đời lầm than tủi nhục dưới sự thống trị của
Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ được con đường của các bậc tiền bối không đem lại
kết quả, Người đã nung nấu ý định, quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước và Pháp là
điểm đến đầu tiên. Trải qua hàng chục năm bôn ba khắp Phương Tây, Người đã lưạ
chọn cho Cách Mạng Việt Nam một hướng đi đúng đắn, phù hợp với tình hình với xã
hội lúc bấy giờ.


2


Phần II : Nội dung con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Sau khi tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – Lênin một con đường giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp chân chính, từ năm 1920 đến 19230 Nguyễn Ái Quốc đã dồn tồn bộ
sức lực và trí tuệ cho việc tiếp thu, phát triển đúng đắn sáng tạo và hồn thiện con
đường cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Con đường cứu nước của Nguyến Ái
Quốc, tính đến thời điểm năm 1930, thể hiện qua các hoạt động cách mạng của Người
(tham gia và trực tiếp sáng lập nhiều tổ chức chính trị cách mạng, viết báo, viết sách…).
Nhưng thể hiện rõ rệt nhất là qua sách “Đường Kách mệnh” và qua Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt và điều lệ tóm tắt mà Người trực tiếp khởi thảo và được thông
qua trong Hội nghị Thành lập Đảng (02/1930). Đây cũng là những văn kiện lịch sử
quan trọng của Đảng ta, trong đó nêu lên những vấn đề thuộc về chiến lược và sách
lược của cách mạng Việt Nam. Những hoạt động trên của Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra
và chỉ rõ con đường Cách Mạng Việt Nam với tám nội dung chính.
Thứ nhất Hồ Chí Minh đã xác định chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp
nguy hiểm nhất của nhân dân các nước thuộc địa.
Thứ hai Bác đã chỉ ra chỉ có Cách Mạng vơ sản là Cách Mạng triệt, vì lợi ích của đại
đa số dân chúng. Nguyễn Ái Quốc giới thiệu những cuộc cách mạng điển hình trên thế
giới, từ Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776 đến Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, từ
Công xã Pa ri năm 1871 đến Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sau khi so
sánh cách mạng tư sản với cách mạng vô sản, Người khẳng định: “Cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng
là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước bục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức
thuộc địa.Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay cơng nơng Pháp hẵng cịn phải mưu cách
mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức”. Người khẳng định: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng

giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”. Nguyễn Ái Quốc
nhấn mạnh “Làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được
hạnh phúc”. Đây là điểm xuất phát và là điểm khác nhau cơ bản giữa con đường cứu
nước của Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu nước trước kia. Cách mạng vơ sản
có hai bộ phận là cách mạng vơ sản chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc thuộc
địa. Cách mạng phương Đơng là bộ phận của cách mạng giải phóng dân tộc thế giới,
giải phóng con người, giải phóng giai cấp công nhân, thiết lập chủ nghĩa xã hội. “Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng trên thế giới
là đồng chí của Việt Nam”. Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những
đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa. Việt Nam
muốn cách mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”. Trong tác phẩm Đường
Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc nhắc lại khẩu hiệu của Quốc tế thứ ba “giai cấp vô sản
và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đoàn kết lại”. Đây là những quan điểm cơ bản về
đoàn kết quốc tế mà Nguyễn Ái Quốc đã viết trong nhiều tác phẩm và Người thực hiện
ngay từ khi gia nhập phong trào cộng sản quốc tế. Trong quan hệ giữa cách mạng nước
ta với bầu bạn thế giới, Nguyễn Ái Quốc chú ý hai điều: 1- Muốn người ta giúp cho thì
trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã. 2- Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ
động giành thắng lợi, không ỷ lại, chờ đợi thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản. Đó
3


cũng là bài học đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của cách
mạng nước ta từ khi Đảng lãnh đạo.
Thứ 3, Người xác định mối quan hệ của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và cách mạng vô sản ở “chính quốc” và vị trí của nó. Cách mạng giải phóng
dân tộc của các nước thuộc địa và cách mạng vơ sản “chính quốc” có quan hệ khăng
khít với nhau và chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa hai vị một vịi hut máu giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động chính quốc cịn một vịi hút máu các dân tộc thuộc địa.
Muốn đánh đổ chủ nghĩa đế quốc thì phải cắt cả hai vịi ấy. Phải thực hịên sự liên minh

chiến đấu giữa các lực lượng cách mạng ở thuộc địa và “chính quốc”. Cách mạng
thuộc địa khơng phụ thuộc vào cách mạng “chính quốc” mà có tính chủ động, độc lập
và có thể thành cơng trước và thúc đẩy cách mạng chính quốc tiến lên. Người đã giải
quyết đúng đắn sáng tạo mối quan hệ giữa cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng
ruộng đất (thổ địa cách mạng), giữa chống đế quốc với chống phong kiến, giữa nhiệm
vụ dân tộc với nhiệm vụ dân tộc để tiến lên xã hội cộng sản. Những nhiệm vụ của
cách mạng luôn bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc, chống
phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc.
Thứ tư, Người xác định mục tiêu và con đường đi lên của Cách Mạng Việt Nam là Xã
hội Cộng sản, muốn xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Muốn có tự do, bình đẳng thật
sự thì phải qua hai cuộc Cách Mạng : Cách Mạng giải phóng dân tộc sau đó tiến lên
Cách Mạng Xã hội Chủ nghĩa. Hai cuộc Cách Mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.
Thứ năm, Nguyễn Ái Quốc xác định cơng nơng chính là người chủ cách mệnh, gốc của
cách mệnh; học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông, “ai mà bị áp
bức càng nặng thì lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”. Cách mệnh là
việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một, hai người. Quần chúng
cần được giác ngộ và tổ chức thành đội ngũ vững bền, được hiểu biết tình thế có mưu
trước.
Thêm vào đó, Bác cũng nhận định rằng giải phóng gơng cùm nơ lệ cho đồng bào, cho
nhân loại là công việc “to tát”, cho nên phải “dùng hết sức”, phải quyết tâm làm thì
chắc được “thà chết tự do hơn sống làm nô lệ”. Nhưng phải “biết cách làm thì mới
chóng”. “Cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ”. Tiếp theo tư tưởng khởi
nghĩa vũ trang quần chúng giành chính quyền đề ra từ năm 1924, trong tác phẩm này,
Nguyễn Ái Quốc phát triển thêm:“dân khí mạnh thì qn lính nào, súng ống nào cũng
khơng chống lại nổi”. “Đời này làm chưa xong, đời sau nối theo làm thì phải xong”. Về
phương pháp cách mạng, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là quan điểm cách mạng bạo
lực. Người chỉ ra những thiếu sót của những người đi trước như “xúi dân bạo động mà
không bày cách tổ chức”, hoặc “làm cho dân quen tính ỷ lại mà qn tính tự cường”.
Tóm lại là phải có sách lược, mưu chước, kế hoạch, biết lúc nào nên làm, lúc nào chưa
nên làm.

Hơn nữa, Người cho rằng phải thực hiện đoàn kết quốc tế. Phải thực hiện sự liên
minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng quốc tế, phải nâng cao tính chủ động cách
mạng, ý thức tự lực tự cường. Điều này sẽ tạo cho cách mạng Việt Nam sức mạnh to
lớn, cho phép kết hợp yếu tố dân tộc và thời đại, truyền thống và hiện đại.
Cuối cùng, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng trước hết phải có Đảng cách mệnh và
học thuyết cách mệnh. Đảng khơng có chủ nghĩa như người khơng có trí khơn. Ngay từ

4


khi tìm được chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nắm vững quy luật, Đảng có
vững cách mệnh mới thành công. Muốn cho Đảng vững phải làm cho trong Đảng ai
cũng hiểu, ai cũng theo tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lê nin, phải biết vận dụng đúng đắn
học thuyết đó vào hồn cảnh Việt Nam. Điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng
ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có
kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng và trải qua tranh đấu mà trưởng
thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng.
Những nội dung trên thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái
Quốc. Nó hướng cách mạng Việt Nam đi đúng vào quỹ đạo cách mạng vô sản, đặt cơ
sở cho việc hình thành một cương lĩnh chính trị đúng đắn, cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam vào đầu những năm 1930.

5


Phần III, Lý giải tại sao lại nói : “Con đường cứu nước mà Nguyễn Ái
Quốc tìm thấy cho dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX là hoàn toàn phù
hợp với điều kiện lịch sử của xã hội Việt Nam”
1, Xét về đường lối đấu tranh Cách Mạng

Trước năm 1930, Phong trào Cách mạng Việt Nam hoặc là đi theo con đường phong
kiến hoặc là đi theo dân chủ tư sản. Những tư tưởng này đều trở nên lạc hậu, không
đáp ứng được nhu cầu của lịch sử và phong trào đấu tranh Cách mạng của nhân dân ta.
Năm 1897, ngọn lửa Hương Sơn tắt, Phong Trào Cần Vươngthất bại chấm dứt thời kì
đấu tranh dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu mang đậm tư tưởng Nho giáo. Đến đầu
thế kỷ XX, cầm vũ khí đánh Pháp khá là quy mơ nhưng chỉ cịn Hồng Hoa Thám ở
khởi nghĩa n Thế. Mà Hồng Hoa Thám khơng thể đề ra cho mình phương lược nào
mới, nếu thắng lợi thì lại thực hiện tư tưởng “Khơi phục Đại Nam y cựu” mang nặng
cốt cách phong kiến. Trong khi lịch sử đã vượt qua mức ấy, đặt ra yêu cầu về chính trị
bắt đầu rộng hơn, đất nước Việt Nam độc lập trở lại không thể là một nước quân chủ
chuyên chế nữa. “Xa xa Nhật Bản đã duy tân, trở nên cường thịnh, gần hơn, trí giả
Trung Quốc đang xôn xao bàn luận tư tưởng Âu Mỹ, tiếng dội đến Việt Nam”. Thất
bại của Phong Trào đầu thế kỷ XX đã cho thấy sự phá sản của Chủ nghĩa trung qn,
sự thất bại hồn tồn của nó trươc nhiệm vụ lịch sử. Nguyễn Tất Thành sinh ra trong
một gia đình Nho giáo nhưng khơng bị ràng buộc bởi tư tưởng trung qn, kiên quyết
khơng theo con đường này vì nó khơng giải phóng được dân tộc Việt Nam. Ngay cả
với các bậc tiền bối như cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, Người dù rất ngưỡng
mộ và quý trọng nhưng khơng bằng lịng với đường đi nước bước của họ bởi Người
nhận thấy rõ hệ tư tưởng phong kiến hay tư sản mà họ dựa vào để chống Pháp đã lỗi
thời, yếu kém hơn rất nhiều so với sự phát triển của tư bản giai đoạn đó Con đường
cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ con đường Cách Mạng vơ sản, trong đó bao
gồm các giai đoạn : Cách Mạng tư sản dân quyền, thổ địa Cách mạng và Cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Đường lối này đã phản ánh đúng đắn những mâu thuẫn trong xã hội
nước ta lúc bấy giờ ( mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp phong kiến bản địa và giữa
toàn nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược ). Cuộc khủng hoảng
chính trị về chiến lược Cách Mạng đã được chấm dứt hoàn toàn nhờ đường lối của Bác
đề ra vô cùng đúng đắn và phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

2, Xét về lực lượng Cách Mạng
Các phong trào đấu tranh cách mạng có trước năm 1930 đều hơ hào quần chúng nhân

dân đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc nhưng đã bỏ quên nhiệm vụ chống phong kiến.
Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã giương cao và giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa hai ngọn cờ độc lập dân tộc (chống đế quốc), người cày có ruộng (chống
phong kiến). Con đường này đã đáp ứng được đúng đắn yêu cầu khách quan của lịch
sử, đã nhận rõ sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân trong cách mạng. Đồng thời, con
đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã xác định đúng lực lượng cách mạng rằng lực
lượng cách mạng gồm toàn thể dân tộc, trong liên minh cơng nhân – nơng dân – trí
thức là nịng cốt, cơng nhân và nơng dân là động lực của cách mạng Việt Nam. Bởi các
giai cấp công nhân và nơng dân có số lượng đơng nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ
lại bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, nên "lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng
quyết... cơng nơng là tay khơng chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ.Hơn
nữa, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo Cách mạng

6


là vì lúc đó tuy giai cấp cơng nhân cịn nhỏ nhưng ở thế giới rất lớn, cho nên quyền
lãnh đạo Cách Mạng chỉ do giai cấp công nhân nắm giữ. Theo Người, đặc tính cách
mạng của giai cấp cơng nhân là kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật, là
giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và
đế quốc để xây dựng một xã hội mới.Giai cấp cơng nhân có thể thấm nhuần một tư
tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh
của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Người giải thích “Lại vì là giai cấp
tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc,
để xây dựng một xã hội mới, giai cấp cơng nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách
mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh
hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và
hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trị lãnh đạo”. Hơn nữa, lúc đó giai cấp
phong kiến đã đầu hàng đế quốc, giai cấp tư sản non yếu thì chỉ mong thoả hiệp với đế
quốc để tìm một lối sống. Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc,

khơng có đường ra. Chỉ có giai cấp cơng nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, ln
ln gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong
và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người
lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Người xác định lực lượng cách mạng
bao gồm cả dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ
phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng
ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp: đối với
phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phân cách
mạng (như Đảng Lập hiện) thì phải đánh đổ. Bởi vì dưới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư
bản Pháp, từ một xã hội phong kiến thuần túy, Việt Nam biến thành một xã hội thuộc
địa với những tàn tích phong kiến nặng nề. Mặc dù thực đảng Pháp cịn duy trì một
phần quan hệ kinh tế và giai cấp địa chủ phong kiến, song khi đã thành một chế độ
thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam
đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó. Ngồi giai cấp công nhân và nông
dân, giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ mặc dù vẫn có mặt hạn
chế trong quan hệ với quần chúng lao động, nhưng trong quan hệ với thực dân Pháp thì
họ cũng là những người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước. Đó khơng phải là những
giai cấp thống trị, mà trái lại, họ là những giai cấp bị trị và có khả năng tham gia phong
trào giải phóng dân tộc.

3, Về phương pháp đấu tranh Cách mạng
Trước năm 1930, đã xuất hiện những phong trào đấu tranh cách mạng sử dụng hình
thức đấu tranh vũ trang như các cuộc khởi nghĩa trong Phong trào Cần Vương hay chủ
trương bạo động của Phan Bội Châu, nhưng những tư tưởng phong kiến thì hạn chế ở
tư tưởng thụ động phịng ngự, còn tư tưởng bạo động của Phan Bội Châu thì lại sai lầm
về quan điểm chính trị khi ơng chủ trương nhờ cậy vào sự giúp đỡ của người Nhật để
đánh Pháp. Cách này chẳng khác nào là : “đuổi hùm cửa trước rước sói cửa sau”.
Ngồi ra, cịn có phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh tổ chức thì lại chủ trương

trơng cậy vào lịng tốt, vào sự nhân nhượng của thực dân Pháp. Những hạn chế sai lầm
về phương pháp đấu tranh cách mạng đã đưa đến sự thất bại không thể tránh khỏi của
phong trào. Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra phương pháp tiến
hành cách mạng đúng đắn. Đó là tư tưởng bạo lực cách mạng, phát huy sức mạnh tổng
7


hợp của quần chúng nhân dân lao động, sử dụng kết hợp cả hình thức đấu tranh chính
trị với đấu tranh vũ trang. Bác chọn con đường Cách Mạng bạo lực là vì Các thế lực đế
quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào
yêu nước. "Chế độ thực dân tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh
đối với kẻ yếu rồi". Chưa đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng
thì chưa thể có thắng lợi hồn tồn. Tuy nhiên, đấu tranh vũ trang khơng tách biệt với
đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đồn thể cách mạng càng phát triển, quần
chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng
vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
4, Đồng minh, sức mạnh tổng hợp của cách mạng
Trước năm 1930, các phong trào đấu tranh ở nước ta đều bị hạn chế ở phạm vi và quy
mô. Các cuộc khởi nghĩa trong Phong trào Cần Vương chỉ diễn ra ở một địa phương
hoặc một vài địa phương. Đến các Phong trào Đông Du, Phong trào Duy Tân theo
khuynh hướng dân chủ tư sản thì cũng bị đóng khung trong phạm vi dân tộc. Con
đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của Cách Mạng thế giới. Bác cho rằng : “Ai làm Cách Mạng thế giới đều là dồng
chí của dân An Nam cả, Dân An Nam đương lúc tranh đấu với chủ nghĩa đế quốc phải
cần anh em trên thế giới giúp giùm, nhưng khôg được ỷ lại vì đây của cuộc Cách Mạng
của chúng ta, muốn người ta giúp thì trước mình phải tự giúp lấy mình”. Như vậy, tư
tưởng này đã cho thấy tầm nhìn xa trơng rộng cũng như việc rút kinh nghiệm từ các
nhà yêu nước đi trước. Trong bối cảnh quan hệ quốc tế phức tạp, Bác đã cheò lái con
thuyền Cách Mạng Việt Nam theo con đường độc lập, tự chủ, làm bạn với tất cả mọi
nước dân chủ và khơng gây thù với ai. Con đường này đã tìm ra cho cách mạng Việt

Nam những người đồng minh mới, giúp cách mạng nước ta có được sức mạnh tổng
hợp, to lớn để tiến hành cuộc đấu tranh và giành thắng lợi.

8


Phần IV : Liên hệ bản thân - Bài học rút ra từ nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, em đã rút ra được nhiều
bài học quý giá. Đó là tuổi trẻ cần phải có tinh thần quyết tâm cao cùng với ý chí ngùn
ngụt để có thể vượt qua mọi khó khăn. Giống như chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành 21
tuổi năm ấy đã chấp nhận những khó khăn, cam go, chẳng thể biết kết quả sẽ như nào
nhưng Người vẫn chọn dấn thân vào là người lao động, một người dân bình thường với
tinh thần yêu nước và khát khao cháy bỏng để vượt qua những chơng gai phía trước.
Từ đó, em nhận thấy lớp lớp thanh niên Việt Nam cần có lịng quyết tâm mạnh mẽ,
dám nghĩ, dám làm, khơng ngại khó ngại khổ. Hơn nữa cần phải có tinh thần ham học
hỏi để có thể tiếp thu những nét văn minh từ thế giới nhằm mục tiêu phát triển bản thân
và đến phát triển đất nước, xã hội.
Hơn nữa, từ việc Bác quyết tâm dấn thân vào cuộc sốnglao động để có thể hiểu hơn về
sự thật của phương Tây đằng sau cuộc sống xa hoa, văn minh hiện đại, đã giúp em rút
ra được bài học là cần xem xét các vấn đề ở mọi khía cạnh, khơng nên chỉ nhìn thấy vẻ
bề ngồi của sự vật. Thêm vào đó là kinh nghiệm cần phải suy xét mọi việc cẩn thận để
đưa ra phương hướng, cách giải quyết phù hợp nhất với tình hình thực tế.
Khơng chỉ vậy, đằng sau con đường, phương hướng cứu nước của Bác, em còn nhận ra
được chúng ta cần phải biết tự lập, không ỷ lại người khác bởi muốn người khác giúp
thì trước hết phải giúp lấy chính mình. Tuy nhiên chúng ta không thể tách khỏi tập thể
mà cần gắn liền với họ.
Những tư tưởng của Bác không những làm cháy ngọn lửa nhiệt huyết, lịng quyết tâm
khơng ngại gian khổ trong em hay bao thanh niên khác mà còn nhen nhóm, thắp sáng
lên ngọn lửa của lịng u nước vốn ấp ủ sẵn trong tim.


9


KẾT LUẬN
Từ những nội dung trên và thực tiễn lịch sử Việt Nam đã cho thấy: con đường cách
mạng Nguyễn Ái Quốc là con đường phù hợp, đúng đắn, sáng tạo với Việt Nam, đã kế
thừa những kinh nghiệm và bài học xương máu từ các con đường cách mạng khác,
khắc phục những hạn chế của các con đường cách mạng không triệt để ở trong nước và
thế giới. Từ đây, thời kỳ đấu tranh đi liền với thất bại đã khép lại, thời kỳ đấu tranh đi
liền với thắng lợi lớn đã mở ra. Con đường cứu nước của Nguyến Ái Quốc chính là
đường đi đến độc lập cho Tổ quốc, ấm no tự do hạnh phúc cho Nhân dân. Ngoài ra,
chúng ta cần thấy rằng, con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc không chỉ thể hiện
sự đúng đắn sáng tạo so với các con đường cứu nước khác ở Việt Nam mà còn thể
hiện bản lĩnh của Người trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam khi đặt ra vấn đề
“xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó”, kết hợp với nhiều yếu tố khác để
đưa tới Lý luận giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, đem lại tính chủ động, độc lập,
sáng tạo cũng như thành công của Cách mạng Việt Nam.

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN,
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Chính trị quốc gia,
HN, 2005.
Ba lần nói chuyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo Nhân dân, ngày 18-5-1965
Giáo trình mơn Lịch Sử Đảng Sản Việt Nam
Giáo trình mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngày 26/4/2019


11



×