Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Phát hiện và định lượng virus gây bệnh đốm trắng trên tôm sú bằng kỹ thuật Real - time PCR

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 91 trang )

1

Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nuôi trồng thủy sản là ngành kinh tế quan trọng đóng góp một phần đáng kể trong
thị phần xuất khẩu của một số quốc gia trên thế giới đặc biệt các nước Châu Á như
Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan,Việt Nam, In-đô-nê-xi-a, Ấn Độ. Hiện nay để tăng
sản lượng nuôi tôm, việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến như nuôi thâm canh năng suất cao
và tăng diện tích ni đã có nhiều tác động đến môi trường sinh thái các vùng nuôi.
Vấn đề ô nhiễm môi trường, sự bùng phát dịch bệnh cũng thường xuyên diễn ra. Trong
đó bệnh đốm trắng chiếm tỷ lệ rất cao. Bệnh này đã gây thiệt hại không nhỏ cho nghề
nuôi tôm sú từ những năm 1993 - 1994 và đã tác động mạnh đến nghề nuôi tôm công
nghiệp của thế giới.
Bệnh đốm trắng gây tác hại rất nghiêm trọng trên tôm sú. Đặc trưng của bệnh là
gây nên tỷ lệ chết khá cao và có thể gây chết hàng loạt cho tôm sú nuôi trong thời gian
ngắn trên các ao nuôi bị nhiễm bệnh. Sự lan rộng của dịch bệnh đốm trắng đã làm sản
lượng tôm nuôi ở Đài Loan từ 95.000 tấn vào năm 1987 giảm xuống chỉ còn 30.000
tấn vào năm 1988 (Liao và ctv., 1992; trích bởi Thuy Thi Ngoc Phan, 2001); ở Việt
Nam sản lượng tôm nuôi từ 50.000 tấn vào năm 1995 giảm xuống cịn 30.000 tấn năm
1997 (World Shrimp Farming, 1997; trích bởi Trần Thị Hoàng Dung, 2000). Hiện nay,
việc nghiên cứu để tìm phương pháp điều trị bệnh này vẫn cịn nhiều khó khăn và chưa
có hiệu quả rõ ràng. Phương pháp để hạn chế thiệt hại do bệnh đốm trắng gây ra vẫn là
các biện pháp phòng bệnh trong quá trình ni. Trong đó, việc chẩn đốn bệnh đốm
trắng ở giai đoạn tôm giống trước khi thả nuôi và việc chẩn đốn bệnh kịp thời trong
giai đoạn ni để có biện pháp xử lý thích hợp là một điều vơ cùng cần thiết.
Kỹ thuật PCR từ lâu đã được xem là cách tiếp cận hứa hẹn nhất đối với việc phát
hiện mầm bệnh. Trong những năm qua, kỹ thuật PCR đã phát triển không ngừng thông
qua những cải tiến mới về nguyên lý, thiết bị và hóa chất. Phương pháp Real - time
PCR là một trong những cải tiến mới nhất của kỹ thuật PCR.
Phương pháp Real - time PCR rút ngắn thời gian phân tích kết quả. Khả năng định
lượng trong kỹ thuật Real - time PCR đảm bảo giảm thiểu xác suất dương tính giả đối


với kết quả phân tích. Với ưu điểm như vậy, phương pháp Real - time PCR cho phép
phát hiện và định lượng virus gây bệnh tôm trước khi xuất hiện các biểu hiện sinh lý


2

(Tạp chí Thủy sản, số 3 – 2004). Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho các
chủ trại tơm có đủ thời gian đưa ra những giải pháp hợp lý để phòng ngừa và ngăn
chặn dịch bệnh trước khi bệnh bùng phát.
Ở Việt Nam, kỹ thuật PCR đang được dùng phổ biến trong chẩn đoán virus gây
bệnh đốm trắng trên tôm nuôi. Hiện nay, đối với Real – time PCR, nước ta chưa có
cơng trình nghiên cứu nào công bố về việc sử dụng kỹ thuật này trong phát hiện và
định lượng virus gây bệnh đốm trắng trên tơm sú ni.
Do đó, được sự đồng ý bộ môn Công Nghệ Sinh Học trường Đại Học Nông Lâm,
dưới sự hướng dẫn của ThS. Phan Thị Ngọc Thủy và ThS. Nguyễn Thái Thủy, tôi thực
hiện đề tài “Phát hiện và định lƣợng virus gây bệnh đốm trắng (WSSV) trên tôm
sú (Penaeus monodon) bằng kỹ thuật Real - time PCR” nhằm phát hiện nhanh,
chính xác và định lượng virus gây bệnh đốm trắng; góp phần phịng ngừa sự lây lan và
bùng phát dịch bệnh này.
1.2. Mục đích yêu cầu
1.2.1. Mục đích
- Thử nghiệm kỹ thuật Real - time PCR để phát hiện và định lượng virus gây bệnh
đốm trắng (WSSV) trên tôm sú nuôi.
- So sánh kỹ thuật mới: Real - time PCR và kỹ thuật đang được sử dụng: Nested
PCR trong phát hiện WSSV trên tôm sú nuôi.
- Ứng dụng kỹ thuật Real - time PCR để phát hiện và định lượng WSSV ở các giai
đoạn tôm sú nuôi từ thực tiễn.
1.2.2. Yêu cầu
- Nắm vững và hiểu rõ về kỹ thuật PCR và Real - time PCR.
- Sử dụng thành thạo hệ thống PCR và Real - time PCR.

- Bố trí thí nghiệm, xây dựng thành cơng quy trình phát hiện và định lượng WSSV
trên tơm sú ni bằng kỹ thuật Real - time PCR.
- Phát hiện và định lượng virus gây bệnh đốm trắng trên tôm sú ở các giai đoạn
nuôi qua các mẫu thu từ thực tế.
- Theo dõi, ghi nhận được tình trạng thu hoạch của các ao thả nuôi tôm đã thu mẫu
để xét nghiệm WSSV.


3

Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Giới thiệu khái quát về tơm sú (Penaeus monodon)
Tơm sú là lồi có kích thước lớn nhất của họ tơm he (Penaeidae). Kích thước lớn
nhất có thể đạt đến 290 – 305 mm (200 – 250 gram), trung bình đạt từ 190 – 195 mm,
nặng 150 gram. Chúng ưa sống ở những nơi có đáy bùn cát, độ trong, độ mặn cao và
ổn định. Tuy nhiên, tơm sú có khả năng thích ứng với độ mặn rộng ngay trong thời kỳ
trưởng thành, vì vậy rất thuận lợi cho nghề nuôi tôm trong các đầm mặn, lợ ven biển.
Mùa vụ sinh sản từ tháng 11 - 4 năm sau (Bộ Thủy Sản, 1996).
2.1.1. Phân loại
Theo Phạm Văn Tình (2001), tơm sú được định loại như sau:
Ngành: Arthropoda - Ngành chân khớp
Lớp: Crustacea - Lớp giáp xác
Bộ: Decapoda - Bộ mười chân
Họ chung: Penaeidae
Họ: Penaeidae - Họ tơm he
Giống: Penaeus
Lồi: Penaeus monodon
Tên địa phương: tơm sú, tôm cỏ, tôm he, tôm giang (Trần Minh Anh, 1989).
Tiếng Anh: Black tiger shrimp, Tiger prawn, Giant tiger prawn, Grass shrimp,
Tumbo prawn (Nguyễn Văn Chung, 2000).

2.1.2. Vùng phân bố
Phạm vi phân bố của tôm sú khá rộng, từ Ấn Độ Dương qua hướng Nhật Bản, Đài
Loan, phía Đơng Tahiti, phía Nam Châu Úc và phía Tây Châu Phi. Nhìn chung, tôm sú
phân bố từ kinh độ 300E đến 1550E từ vĩ độ 350N tới 350S xung quanh các nước vùng
xích đạo, đặc biệt là In-đơ-nê-xi-a, Mã Lai, Phi-líp-pin và Việt Nam (Phạm Văn Tình,
2001).
Tơm giống (PL) và tơm gần trưởng thành có tập tính sống gần bờ biển và vùng
rừng ngập mặn ven bờ. Khi tôm trưởng thành di chuyển xa bờ vì chúng thích sống
vùng nước sâu hơn (Phạm Văn Tình, 2001).


4

2.1.3. Chu kỳ sống
Trong thiên nhiên, ấu trùng tôm sú trải qua ba thời kỳ biến thái (Nauplius –
Protozoea – Mysis). Ấu trùng sẽ theo sóng biển dạt vào cửa sơng, đó là vùng nước lợ
có độ mặn 15 - 30‰. Tại môi trường nước lợ, ấu trùng (larvae) phát triển sang thời kỳ
hậu ấu trùng Postlarvae. Sau đó Postlarvae chuyển sang thời kỳ ấu niên Juvenile đồng
thời bơi ra biển, tiếp tục tăng trưởng và phát triển (Vũ Thế Trụ, 1993).
Tôm cái đẻ trứng vào ban đêm (thường từ 22 giờ đến 2 giờ), trứng sau khi đẻ được
14 – 15 giờ, ở nhiệt độ 27 – 280 sẽ nở thành ấu trùng (Nauplius). Ấu trùng phát triển
qua các giai đoạn sau:
- Nauplius 6 giai đoạn: 36 – 51 giờ
- Protozoea 3 giai đoạn: 105 – 120 giờ
- Mysis 3 giai đoạn: 72 giờ
Sau đó chuyển thành Postlarvae, Juvenile, Adult (giai đoạn trưởng thành).
Tôm sú đẻ quanh năm, nhưng tập trung vào hai thời kỳ chính: tháng 3 – 4 và tháng
7 – 10. Tuổi thọ tôm sú con đực khoảng 1,5 năm; con cái khoảng 2 năm (Phạm Văn
Tình, 2001).


Hình 2.1 Vịng đời tơm sú Penaeus monodon
(Nguồn: FAO và Multimedia Asia Co., Ltd., 1999)


5

2.2. Tình hình dịch bệnh WSSV trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Trên thế giới
Bệnh đốm trắng (WSSV – White Spot Syndrome Virus) là một trong những bệnh
nguy hiểm nhất đối với tôm nuôi hiện nay. Bệnh xảy ra ở tất cả các nước nuôi tôm và
ảnh hưởng phần lớn đến nghề nuôi tôm công nghiệp trên thế giới (Nguyễn Văn Hảo,
2000).
Trong thời gian qua, bệnh đốm trắng đã bùng phát ở nhiều khu vực nuôi tôm trên
thế giới, đặc biệt là các nước Châu Á. Bệnh đốm trắng đã gây tỷ lệ chết cao và gây
thiệt hại lớn cho nghề nuôi tôm công nghiệp ở Trung Quốc, Nhật Bản, In-đô-nê-xi-a
và Ấn Độ. Trong thời gian 1994 – 1995, virus gây bệnh đốm trắng đã gây chết hầu hết
tôm nuôi (P. monodon; P. indicus) dọc theo bờ biển phía Đơng Ấn Độ và phía Tây Ấn
Độ (Tạp chí thơng tin KHCN và Kinh Tế Thủy Sản, số 4 – 2004).
Theo Nguyễn Văn Hảo (2004), bệnh đốm trắng xuất hiện đầu tiên tại Bắc Á vào
năm 1992 – 1993, đồng thời nhanh chóng lan rộng khắp khu vực Châu Á và thế giới
nhất là các nước có hình thức ni tơm công nghiệp thâm canh. Dịch bệnh đốm trắng
được phát hiện lần đầu tiên tại Đài Loan năm 1992, Trung Quốc – 1993, Nhật Bản –
1994, sau đó là các nước In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Mã Lai, Ấn Độ, Băng-la-desh, bang
Texas (Hoa Kỳ) – 1995 gây tổn thất nghiêm trọng về sản lượng tôm nuôi.
Ở Thái Lan, dịch bệnh đốm trắng bùng nổ đã làm giảm sản lượng tôm nuôi từ
225.000 tấn năm 1995 xuống 160.000 tấn năm 1996 làm thiệt hại trên dưới 500 triệu
USD. Ở các nước Châu Á bệnh gây thiệt hại khoảng 3 tỷ USD mỗi năm (Nguyễn Văn
Hảo, 2000).
Thực tế hiện nay ở các nước trong khu vực Đông Nam Á, bệnh đốm trắng được
xem là phổ biến và nguy hiểm nhất vì vậy hầu hết các nghiên cứu đều tập trung ngăn

ngừa sự lan nhiễm và bùng nổ bệnh đốm trắng ở các ao nuôi (Nguyễn Văn Hảo, 2000).
2.2.2. Ở Việt Nam
Theo Bùi Quang Tề (2003), từ năm 1993 – 1994 đến nay bệnh đốm trắng trên tôm
thường xuất hiện ở các vùng nuôi tôm ven biển từ nuôi quảng canh đến nuôi thâm
canh, bệnh đã gây thiệt hại đáng kể cho nghề nuôi tôm.


6

Ở các tỉnh ven biển phía Nam từ năm 1993 – 1994, hiện tượng tôm chết hàng loạt
trên tôm sú nuôi được xác định do ba loại bệnh: bệnh MBV, bệnh đốm trắng và bệnh
đầu vàng (Tạp chí thơng tin KHCN và Kinh Tế Thủy Sản, số 4 – 2004).
Từ năm 1996 đến nay, tôm nuôi thương phẩm ở Khánh Hòa và các địa phương
khác trong cả nước chịu tác hại rất lớn của bệnh đốm trắng. Bệnh này xảy ra hàng
năm, trên diện rộng, có những vụ ni 80% diện tích ni tơm ở một địa phương bị
thất thu hay thu hoạch sớm ngoài dự kiến (Bộ Thuỷ Sản, 2003).
Năm 2001, Bùi Quang Tề và cộng sự đã điều tra 483 hộ nuôi tôm sú thuộc 23
huyện của 8 tỉnh ven biển phía Bắc (Quảng Ninh, Hải Phịng, Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình, Thanh Hố, Nghệ An, Hà Tĩnh) có 166 hộ (34,3%) có tơm ni và tơm cua
tự nhiên đã mang mầm bệnh đốm trắng và có 169 hộ (34,99%) có tơm chết vì bệnh
đốm trắng. Năm 2003, Bùi Quang Tề và cộng sự phân tích bệnh WSSV bằng kỹ thuật
PCR của 145 mẫu tôm sú và tôm chân trắng nuôi ở các tỉnh ven biển miền Bắc (Quảng
Ninh, Hải Phịng, Nam Định, Thanh Hố và Hà Tĩnh) và tôm Postlarve (PL) đưa từ
Quảng Nam và Đà Nẵng chuyển ra Bắc. Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm bệnh đốm trắng
của tôm (PL) đưa từ Đà Nẵng, Quảng Nam là 23,08%; tôm sú nuôi thương phẩm ở các
tỉnh phía Bắc là 26,92%; tơm chân trắng là 13,33% (Tạp chí thơng tin KHCN và Kinh
Tế Thủy Sản, số 4 – 2004).
Theo báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản (NTTS) năm 2003, cả nước có 546.757
ha ni tơm nước lợ thương phẩm, trong đó diện tích có tơm ni bị bệnh và chết là
30.083 ha. Các tỉnh, thành ven biển từ Đà Nẵng đến Kiên Giang có tới 29.200 ha ni

tơm bị chết nhiều, chiếm 97,06% diện tích có tôm bị chết trong cả nước. Bệnh xảy ra
với tôm chủ yếu là bệnh đốm trắng (WSSV), bệnh MBV (Monodon Baculovirus),
bệnh do vi khuẩn Vibrio. Kết quả kiểm tra bệnh ở tơm giống nhập về Hải Phịng và
Quảng Ninh trong năm 2003 do Trạm nghiên cứu NTTS nước lợ thực hiện cho thấy tỷ
lệ nhiễm virus gây bệnh đốm trắng từ 25 - 46,6%, trung bình 38,9%. Theo số liệu từ
Trung Tâm Môi Trường và Dịch Bệnh (Viện nghiên cứu NTTS I), Thanh Hóa có hơn
40% diện tích ni tơm bị bệnh, trong đó phần lớn thường là bệnh đốm trắng. Bệnh
này tập trung ở vùng nuôi tôm công nghiệp như khu công nghiệp Hoằng Phụ, với 70/110
ha nuôi tôm bị nhiễm bệnh. Ở Hà Tĩnh, trong số 150 ha ni tơm bị bệnh, có 67 ha bị
bệnh đốm trắng, trong đó 27 ha có tơm ni bị chết. Theo kết quả nghiên cứu của Viện
Nghiên Cứu NTTS II, tại các tỉnh Nam Bộ, tỷ lệ nhiễm bệnh đốm trắng trên mẫu tôm


7

có biểu hiện bệnh thu ở đầm ni quảng canh cải tiến là 56%. Những ngày đầu năm
2004, tại nhiều tỉnh ở Đồng Bằng Sông Cửu Long đã xảy ra tình trạng tơm ni bị chết
do virus gây bệnh đốm trắng gây nên và bệnh này lây lan nhanh ngay từ đầu vụ. Hiện
nay, bệnh đốm trắng vẫn đang diễn ra và đã gây nhiều tổn thất cho nhiều hộ dân tại các
tỉnh này (Tạp chí Thủy sản, số 3 – 2004).
Nhìn chung, tình hình dịch bệnh đốm trắng diễn ra ở Việt Nam rất nghiêm trọng và
đã ảnh hưởng mạnh đến ngành Thủy sản trong cả nước.
2.3. Bệnh đốm trắng trên tôm
2.3.1. Virus gây bệnh đốm trắng (WSSV)
2.3.1.1. Định danh và phân loại
Định danh
- Giống: Non Occuluded Baculovirus
- Họ: Baculoviridae
- Họ phụ: NudiBaculoviridae
Theo hội nghị virus học quốc tế lần thứ 12 (2002), các nhà khoa học đã phân loại

virus gây bệnh đốm trắng là một giống mới Whisspovirus thuộc họ mới Nimaviridae
(Tạp chí thơng tin KHCN và Kinh Tế Thủy Sản, số 4 – 2004).
Tác nhân virus gây bệnh đốm trắng được gọi bởi nhiều tên do nhiều nhóm nghiên
cứu khác nhau (Wang Y. C et al., 1996):
- WSSV: White Spot Syndrome Virus
- WSBV: White Spot Baculovirus Virus
- WSVD: White Spot Viral Disease
- WSS: White Spot Syndrome
- WSV: White Spot Virus
- SEMBV: Systemic Ectodermal and Mesodermal Baculovirus Disease
- HHNBV: Hypodermal and Haematopoietic Necrosis Baculovirus
Hiện nay, WSSV là tên thông dụng của virus gây bệnh đốm trắng trên tôm sú
(Lightner D. V, 1996).
Các chủng virus gây bệnh đốm trắng bao gồm:


8

Bảng 2.1 Các chủng virus gây bệnh đốm trắng
Tên virus
Virus Trung Quốc (HHNBV)
Virus tôm Nhật 1 (RVPJ–1)
Virus tôm Nhật 2 (RV-PJ-2)
Virus bệnh đốm trắng
(WSBV)

Kích thước virus
120 x 360 nm

Kích thước nhân


83 x 276 nm

84 x 226 nm
89 x 201 nm

70 – 150 x 350 – 380 nm

56 – 67 x 330 – 350 nm

(Nguồn: Tạp chí thơng tin KHCN và Kinh Tế Thủy Sản, số 4 – 2004)

2.3.1.2. Đặc điểm hình thái
Virus dạng hình que, kích thước 120 x 275 mm, có một đi phụ ở một đầu, kích
thước 70 x 300 mm.
Virus có ít nhất 5 lớp protein, trọng lượng phân tử từ 15 – 28 kD. Vỏ bao có hai lớp
protein VP28 và VP29; Nucleocapsid có ba lớp VP26, VP24, VP15. Nhân cấu trúc
ADN mạch đơi (Tạp chí thông tin KHCN và Kinh Tế Thủy Sản, số 4 – 2004).

Hình 2.2 Virus đốm trắng
(WSSV) hình que dƣới kính hiển
vi điện tử

Hình 2.3 Virus nhuộm âm ở trong
huyết tƣơng của tơm sú nhiễm bệnh
WSSV, một số thể virus có đuôi.
(vạch kẻ a = 240 nm (theo
Graindorge & Flegel, 1999))

(Nguồn: Bùi Quang Tề, 2003)


2.3.1.3. Đặc tính sinh học
Virus đốm trắng ký sinh ở các tổ chức ngoại bì, trung bì, mang, cơ quan lymphoid
và biểu bì dưới vỏ kitin. Virus xâm nhập vào nhân tế bào gây hoại tử và sưng to. Virus
sống và tồn tại trong nước có độ mặn từ 5 – 40‰, độ pH từ 4 – 10, có khả năng chịu
đựng được nhiệt độ từ 0 – 800C (Trần Thị Việt Ngân, 2002).


9

2.3.2. Vật chủ mang mầm bệnh WSSV
Virus gây bệnh đốm trắng phân bố rất rộng ở nhiều vật chủ, virus khơng chỉ nhiễm
ở một số lồi tơm he (Penaeus) ni ở Tây bán cầu mà còn xuất hiện rất rộng ở bộ
mười chân (Decapoda) gồm các loài cua và giáp xác khác.
Ở Việt Nam, mầm bệnh WSSV nhiễm trên nhiều lồi tơm he ni hoặc sống tự
nhiên: tơm sú (P. mondon); tôm thẻ (P. indicus); tôm rảo (Metapenaeus ensis); tôm đất
(M. lysianassa); tôm chân trắng (L. vannamei) nhập vào nuôi ở Việt Nam (Tạp chí
thơng tin KHCN và Kinh Tế Thủy Sản, số 4 – 2004).
2.3.3. Các con đƣờng lây truyền WSSV
Bệnh đốm trắng do virus WSSV lây lan rất nhanh qua hai đường chính:
- Lây lan theo chiều dọc (Vertical transmission): từ bố mẹ nhiễm bệnh lây lan cho
con.
- Lây lan theo chiều ngang (Horizontal transmission): bị nhiễm virus từ nguồn
nước ni, từ cua, cịng mang virus từ ao này sang ao kia, từ dùng cụ sản xuất còn
mang mầm bệnh, từ tơm chết, do người hoặc chim, cị vơ tình đưa vào ao,…(Trần Thị
Việt Ngân, 2002).
Trong đó, lây lan theo chiều ngang là đường lan truyền chủ yếu. Bệnh đốm trắng
dễ bị bùng phát khi tôm bị sốc do mơi trường biến đổi xấu (Tạp chí thơng tin KHCN
và Kinh Tế Thủy Sản, số 4 – 2004).



10

LÂY NHIỄM THEO CHIỀU DỌC

LÂY NHIỄM THEO CHIỀU NGANG

Hình 2.4 Hai vòng lây nhiễm của virus gây bệnh đốm trắng WSSV trong ao nuôi
(theo Passano L. M., 1960)
(Nguồn: Trần Thị Việt Ngân, 2002)

2.3.4. Cơ chế xâm nhập
Virus gây hội chứng đốm trắng khi xâm nhập vào tôm sẽ cư trú ở nhiều bộ phận
của tơm như mơ nội bì, mơ dạ dày, mang, buồng trứng, tinh hoàn, hệ thống thần kinh,
mắt, chân bơi và các bộ phận khác. Sau khi xâm nhập vào tế bào chủ, virus này tiến
hành tự nhân bản dựa trên cơ sở vật chất và năng lượng của tế bào. Thơng qua q
trình này, số lượng thể virus tăng lên rất nhanh, đồng thời làm thay đổi hoạt động bình
thường của tế bào. Khi quan sát dưới kính hiển vi, các tế bào bị nhiễm virus thường có
nhân phình to. Virus phát triển đến giai đoạn phá vỡ nhân và giết chết tế bào, virus lan
truyền ra mơi trường nước, đi tìm ký chủ khác và lại tiếp tục xâm nhập và tấn công
(Trần Thị Việt Ngân, 2002). Ngồi ra, tơm ăn phải virus tự do tồn tại trong bùn ao và
trong nước cũng dẫn đến nhiễm mầm bệnh WSSV (Chou H. Y và ctv., 1996; trích bởi
Trần Thị Hồng Dung, 2000).
2.3.5. Triệu chứng của bệnh
Dấu hiệu bệnh lý đặc trưng: tôm bị bệnh giảm ăn rõ rệt, mệt mỏi, vỏ bì chùng lỏng
với những đốm trắng từ 0,2 – 2 mm đường kính, biểu hiện ở bề mặt bên trong của vỏ.
Trong nhiều trường hợp, tôm hấp hối do bệnh WSSV chuyển sang màu hồng đến màu


11


nâu đỏ – gọi là bệnh đỏ thân. Bệnh này tỷ lệ chết rất cao, có thể tới 100% (Trần Thị
Minh Tâm và Đái Duy Ban, 1999).
Những dấu hiệu khác: tôm ở tầng mặt dạt vào bờ, hoạt động kém, các phần phụ bị
tổn thương, nắp mang phồng lên và vỏ có nhiều sinh vật bám. Khi có dấu hiệu sức
khỏe tôm yếu, đồng thời các đốm trắng xuất hiện, tỷ lệ tơm phát bệnh trong vịng từ 3
– 10 ngày lên đến 100% và tôm chết hầu hết trong ao ni (Bùi Quang Tề, 2003).

Hình 2.5 Tơm sú bị bệnh đốm

Hình 2.6 Vỏ đầu ngực tơm bị

trắng dạt vào bờ và chết

bệnh đốm trắng

(Nguồn: Bùi Quang Tề, 2003)

Tuy nhiên cũng cần phân biệt những trường hợp bệnh lý giống như bệnh đốm
trắng. Trong trường hợp này, những đốm trắng xuất hiện loang lỗ trên thân tôm và tôm
chỉ chết rải rác hoặc kéo dài, khi lột xác xong, các đốm trắng bong ra khỏi vỏ và tôm
hoạt động trở lại bình thường. Dấu hiệu này là do pH cao hoặc do tôm bị nhiễm vi
khuẩn ( benhdomtrang.htm).
2.3.6. Phƣơng pháp chẩn đoán
Kết hợp với dấu hiệu lâm sàng của bệnh đốm trắng đã được mơ tả ở Hình 2.5 và
2.6, mầm bệnh đốm trắng có thể phát hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau (Trần
Thị Minh Tâm, 1999):
- Phương pháp mô học: dấu hiệu định bệnh là sự xuất hiện của những thể vùi trong
nhân tế bào của các mô có nguồn gốc trung bì.
- Phương pháp PCR: dấu hiệu định bệnh là phát hiện sản phẩm khuếch đại của một

đoạn gen đặc hiệu của tác nhân gây bệnh.
- Phương pháp lai tại chỗ ADN (In situ DNA hybridization): dấu hiệu định bệnh là
kết quả lai giữa đoạn gen dùng làm mẫu dò và đoạn gen của tác nhân gây bệnh trong
điều kiện nghiêm ngặt.


12

- Phương pháp Dot blot và Southern blot: được thực hiện với sản phẩm khuếch đại
của một đoạn gen đặc trưng của tác nhân.
- Phương pháp miễn dịch huỳnh quang: dấu hiệu định bệnh là kết quả kết hợp đặc
hiệu giữa kháng nguyên và kháng thể.
Trong đó kỹ thuật PCR là kỹ thuật chẩn đốn nhanh, nhạy, và có tính đặc hiệu cao.
Kỹ thuật này đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và phát triển, đồng thời đưa ra
các cải tiến mới như: Nested PCR, Semi – Nested PCR, Real - time PCR,…Với độ
nhạy, độ đặc hiệu rất cao kết hợp với khả năng phát hiện và định lượng đồng thời, Real
- time PCR được xem như một phương pháp rất có ý nghĩa trong việc xác định chính
xác mức độ nhiễm mầm bệnh, đặc biệt là bệnh đốm trắng trên tôm.
2.4. Phƣơng pháp PCR và các cải tiến
2.4.1. Phƣơng pháp PCR
Phản ứng chuỗi polymerase (PCR) được Kary Mullis và cộng sự phát minh vào
năm 1985. PCR cho phép một lượng rất nhỏ ADN (một phân tử) được khuếch đại đến
mức mà ở đó người ta dễ dàng phát hiện bằng những phương pháp thông thường như
điện di gel (Trần Thị Minh Tâm và Đái Duy Ban, 1999).
PCR là một phương pháp tạo dòng in vitro, nghĩa là cũng nhằm mục đích thu nhận
một số lượng lớn bản sao của một trình tự xác định. PCR dùng để khuếch đại số lượng
bản sao của một trình tự ADN đích thơng qua các chu kỳ gồm ba bước: biến tính, bắt
cặp với primer và tổng hợp mạch mới nhờ ADN polymerase (Hồ Huỳnh Thùy Dương,
2002).
2.4.1.1. Nguyên tắc

Trong phản ứng PCR, đoạn oligonucleotide ngắn đóng vai trị primer đặc hiệu gắn
vào phân tử ADN đích. Dưới các điều kiện tối ưu, hai primer oligonucleotide bổ sung
với hai mạch khn, sau đó bắt đầu tổng hợp ADN in vitro nhờ ADN polymerase chịu
nhiệt. Sau giai đoạn primer bắt cặp, ADN polymerase kéo dài primer, tạo ra các bản
sao mới của trình tự mạch khuôn nằm giữa hai primer. Sau khi kéo dài primer hồn tất,
mẫu (sample) được gia nhiệt để biến tính ADN mạch đôi, tạo ra hai mạch khuôn đơn
để primer bắt cặp ở chu kỳ kế tiếp. Qua nhiều chu kỳ, kết quả tạo ra sự tích lũy các sản
phẩm khuếch đại giữa hai primer theo cấp số nhân (Too H. P., 2001).


13

2.4.1.2. Các thành phần của phản ứng PCR
Theo Too H. P. (2001) các thành phần cơ bản của một phản ứng PCR bao gồm:
- Khn mẫu (template): ADN đích
- Primer
- Bốn dNTP (2’– deoxynucleoside – 5’ – triphosphate): dATP, dTTP, dGTP, dCTP
- Taq polymerase
- Dung dịch đệm
- Mg2+
- Chất phụ trợ (additive): được sử dụng để tăng hiệu quả khuếch đại
2.4.1.3. Các bƣớc phản ứng
Theo Hồ Huỳnh Thùy Dương (2002), phản ứng PCR gồm các bước:
Bước 1: trong dung dịch phản ứng bao gồm các thành phần cần thiết cho sự sao
chép, phân tử ADN được biến tính ở nhiệt độ cao hơn Tm của phân tử, thường là ở
940C - 950C trong vòng 30 giây – 1 phút. Đây là giai đoạn biến tính (denaturation).
Bước 2: nhiệt độ được hạ thấp (thấp hơn Tm của các primer) cho phép các primer
bắt cặp với khuôn. Trong thực nghiệm, nhiệt độ này dao động trong khoảng 400C 700C, tùy thuộc Tm của các primer sử dụng và kéo dài từ 30 giây – 1 phút. Đây là giai
đoạn lai (hybridization).
Bước 3: nhiệt độ được tăng lên đến 720C giúp ADN polymerase chịu nhiệt hoạt

động tổng hợp tốt nhất. Thời gian tùy thuộc độ dài trình tự ADN cần khuếch đại và
đặc tính của Taq polymerase, thường kéo dài từ 30 giây đến nhiều phút. Đây là giai
đoạn tổng hợp hay kéo dài (elongation).
Một chu kỳ bao gồm ba bước trên sẽ được lặp đi lặp lại nhiều lần, và mỗi lần lại
làm tăng gấp đôi lượng mẫu của lần trước. Đây là sự khuếch đại theo cấp số nhân.


14
DNA đích
1 Biến tính (950C)

2 Bắt cặp (40 -700C)

3 Kéo dài (720C)

Sơ đồ 2.1 Sơ đồ các bƣớc phản ứng chuỗi polymerase
(Nguồn: Nguyễn Thái Thủy, 2003)

2.4.1.4. Ứng dụng
PCR được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học đời sống như: chẩn đốn phân
tử và cơng nghệ di truyền. Trong chẩn đoán phân tử, ứng dụng chủ yếu là phát hiện tác
nhân gây bệnh (Too H. P., 2001).
Đối với ngành Thủy sản, PCR đóng vai trị rất quan trọng trong chẩn đốn sớm
mầm bệnh trước và trong lúc ni, đặc biệt là bệnh đốm trắng.
2.4.1.5. Ƣu và nhƣợc điểm
PCR dễ sử dụng và đưa ra kết quả có độ tin cậy cao. Kỹ thuật này chỉ cần một
lượng mẫu rất nhỏ để xác định mầm bệnh, ngay cả có thể lấy mẫu từ một con tơm nhỏ
để phân tích mà khơng cần làm chết con tôm. Mặc dù kỹ thuật PCR phát hiện nhanh
với độ nhạy cao nhưng vẫn cần 18 – 36 giờ cho một xét nghiệm. Kỹ thuật này khơng
có khả năng định lượng chính xác số bản sao của tác nhân cần kiểm tra trong mẫu

bệnh phẩm. Trong những năm qua, kỹ thuật PCR đã phát triển không ngừng thông qua
những cải tiến mới về nguyên lý, thiết bị và hóa chất. Nested và Real - time PCR là hai
cải tiến mới của kỹ thuật PCR. Nested PCR là phương pháp cải thiện độ nhạy của kỹ
thuật PCR. Trong khi đó Real - time PCR cải thiện kỹ thuật PCR cả về độ nhạy và khả
năng định lượng chính xác số bản sao của tác nhân cần kiểm tra (Tạp chí Thủy sản, số
3 – 2004).


15

2.4.2. Kỹ thuật Nested PCR
Nested PCR là phương pháp phát hiện các sản phẩm PCR với tốc độ nhanh và độ
chính xác cao. Trong phương pháp này, cặp primer được thiết kế nhằm khuếch đại
đoạn ADN đích nằm bên trong sản phẩm PCR lần nhất. Sản phẩm PCR lần nhất làm
khuôn ADN cho sản phẩm PCR lần hai được khuếch đại qua cặp primer bên trong. Do
đó sản phẩm PCR lần hai sẽ ngắn hơn sản phẩm PCR lần nhất. Nested PCR có độ nhạy
tăng gấp 104 lần khi phát hiện chính xác sản phẩm PCR mong đợi (McPherson M. J.
và Moller S. G., 2001).
2.4.2.1. Nguyên tắc
Phương pháp dựa trên nguyên tắc PCR Nested, trước tiên khuếch đại một đoạn
ADN trên bộ gen của vi sinh vật đích, sau đó khuếch đại một đoạn ADN bên trong sản
phẩm khuếch đại đầu tiên này để có sản phẩm khuếch đại cuối cùng phát hiện được
nhỏ hơn sản phẩm khuếch đại ban đầu (Phạm Hùng Vân, 2002).
PCR lần nhất

PCR lần hai

Hình 2.7 Nguyên tắc của Nested PCR
(Nguồn: Too H. P., 2001)


Nested PCR được thực hiện qua hai bước hay một bước:
- Hai bước: hai cặp primer ở bên ngoài và bên trong được cho vào hỗn hợp PCR ở
từng bước riêng lẻ. Bước 1 nhằm khuếch đại đoạn ADN đích để cho sản phẩm PCR
lần nhất. Bước 2 để khuếch đại đoạn ADN bên trong sản phẩm PCR lần nhất.
- Một bước: hai cặp primer ở bên ngoài và bên trong được cho vào hỗn hợp PCR
cùng lúc để khuếch đại đoạn ADN đích mong muốn.
Trong đề tài này, kỹ thuật Nested PCR một bước được ứng dụng trong chẩn đoán
mầm bệnh WSSV.


16

2.4.2.2. Ƣu và nhƣợc điểm
Theo Phạm Hùng Vân (2002), ưu điểm của phương pháp này là:
- Nested PCR có độ nhạy phát hiện vi sinh vật đích rất cao.
- Đối với Nested PCR một bước: sản phẩm PCR lần nhất đã được tính tốn có một
lượng vừa đủ để tham gia ngay trực tiếp vào PCR lần hai mà không cần phải mở ống
eppendorf lấy sản phẩm PCR lần nhất cho vào hỗn hợp PCR mới để chạy PCR lần hai,
chính nhờ vậy tránh được nguy cơ ngoại nhiễm.
Tuy phương pháp này giúp gia tăng độ nhạy của PCR, nhưng Nested PCR vẫn địi
hỏi nhiều thời gian thực hiện, khơng có khả năng định lượng chính xác số bảo sao của
sinh vật đích và khơng thể theo dõi tiến trình phản ứng đang diễn ra theo từng chu kỳ
khuếch đại.
2.4.3. Kỹ thuật Real - time PCR
Một cải tiến nổi bật hơn so với Nested PCR đó là khả năng định lượng chính xác số
bản sao ban đầu: Real - time PCR. Phương pháp này cho phép rút ngắn thời gian phân
tích. Khả năng định lượng được kết hợp trong kỹ thuật Real - time PCR đảm bảo giảm
thiểu xác suất dương tính giả đối với kết quả phân tích.
Real - time PCR cho phép phát hiện và định lượng mầm bệnh ở mức độ một phân
tử (copy) trên một mẫu. Với độ nhạy cao như vậy phương pháp Real - time PCR cho

phép phát hiện và định lượng virus gây bệnh tôm trước khi xuất hiện các biểu hiện
sinh lý.
2.4.3.1. Lịch sử phát triển
Vào năm 1992 – 1993, Higuchi và cộng sự đã tiên phong phân tích PCR kinetic
(PCR động) bằng cách thiết lập hệ thống phát hiện các sản phẩm khuếch đại khi các
sản phẩm này được tích lũy. Hệ thống Real - time bao gồm máy luân nhiệt có hệ thống
chiếu mẫu bằng tia UV và tín hiệu huỳnh quang được thu nhận qua CCD (charge
coupled device) camera. Ethidium bromide được thêm vào trong mỗi hỗn hợp phản
ứng Real - time PCR. Khi có sự khuếch đại, số lượng ADN sợi đôi ngày càng tăng,
ethidium bromide xen vào ADN mạch đơi, do đó tín hiệu huỳnh quang tăng lên
(Weighardt F., 2004).
Ngày nay, các nhà khoa học không ngừng cải tiến kỹ thuật Real - time PCR, đồng
thời phát minh ra các chất chỉ thị huỳnh quang: SYBR Green I, FAM, HEX, Texas
Red®, CyTM5,…


17

2.4.3.2. Khái niệm
Real - time PCR là phương pháp khuếch đại và đồng thời phát hiện đoạn ADN
chuyên biệt thông qua các chất chỉ thị huỳnh quang. Trong phản ứng Real - time PCR,
quá trình nhân bản ADN đang diễn ra theo từng chu kỳ nhiệt được theo dõi trực tiếp
(Newton C. R. and Graham A., 1997).
Real - time PCR gồm hai quá trình diễn ra đồng thời: nhân bản ADN bằng phản
ứng PCR và đo độ phát huỳnh quang tỷ lệ thuận với số lượng đoạn ADN tạo thành.
(Nguyễn Thái Thủy, 2003).
2.4.3.3. Nguyên tắc
Phương pháp dựa trên sự khuếch đại một đoạn ADN đặc hiệu. Sản phẩm khuếch
đại được đánh dấu bằng chất chỉ thị màu hay probe gắn huỳnh quang. Trong khi chạy
Real - time PCR, đầu đọc Real - time sẽ phát hiện các sản phẩm khuếch đại đặc hiệu ở

bước nhiệt độ trong các chu kỳ nhiệt tùy vào mỗi phương pháp phát hiện tín hiệu màu.
Mẫu xét nghiệm chứa nhiều ADN đích ban đầu sẽ có chu kỳ ngưỡng phát hiện sớm
hơn là mẫu xét nghiệm có ít ADN đích. Sau khi kết thúc chương trình, phân tích trên
phần mềm và biết được nồng độ tác nhân gây bệnh ban đầu của mẫu xét nghiệm dựa
vào các nồng độ ADN chuẩn. Nồng độ ADN trong các mẫu xét nghiệm sẽ được xác
định dựa trên đường chuẩn biểu diễn mối quan hệ giữa chu kỳ ngưỡng với log số bản
sao ban đầu của các mẫu chuẩn.
2.4.3.4. Hệ thống Real - time PCR
Hệ thống Real - time PCR gồm máy luân nhiệt được nối với máy quang phổ huỳnh
quang và máy vi tính.
Quang phổ huỳnh quang
Máy vi tính
Máy ln nhiệt

Hình 2.8 Hệ thống Real - time PCR
(Nguồn: Nguyễn Thái Thủy, 2003)


18

Hệ thống này hoạt động theo nguyên tắc sau: nguồn sáng chiếu sáng qua kính lọc
kích thích và truyền đến mẫu đã được đặt trên máy luân nhiệt. Ánh sáng kích thích này
giúp chất chỉ thị huỳnh quang tương ứng với số ADN đích trong ống phản ứng phát ra
ánh sáng. Ánh sáng huỳnh quang này sẽ qua bộ kính lọc phát sáng. Kính lọc này sẽ
chọn lọc các ánh sáng có bước sóng thích hợp. Sau đó, ánh sáng này sẽ qua bộ phận
khuếch đại tín hiệu (intensifier), cuối cùng phát hiện nhờ đầu đọc CCD camera.

KÍNH LỌC
PHÁT SÁNG


KÍNH LỌC
KÍCH THÍCH

TIA SÁNG LỆCH

Hình 2.9 Ngun tắc hoạt động của hệ thống Real - time PCR
(Nguồn: Nguyễn Thái Thủy, 2003)

2.4.3.5. Phƣơng pháp phát hiện tín hiệu Real - time PCR
Tính đặc hiệu của Real - time PCR tùy thuộc hóa chất dùng để theo dõi phản ứng
khuếch đại và dụng cụ để kiểm tra tín hiệu. Các hóa chất khác nhau dùng trong mục
đích này (Weighardt F., 2004):
- Phẩm nhuộm chèn vào ADN sợi đôi sẽ phát huỳnh quang: ethidium bromide,
SYBR Green I.
- Probe đặc hiệu có gắn chất phát huỳnh quang: TaqMan probe, Fluorescence
Resonance Energy Transfer (FRET) probe, Molecular Beacons probe, Scorpions và
TaqMan Minor Groove Binder (MGB) probe.
Các hóa chất được dùng phổ biến hiện nay trong Real - time PCR như sau:


19

SYBR Green I
SYBR Green I gắn vào ADN mạch đôi và phát tín hiệu huỳnh quang ở bước sóng
530 nm khi được kích thích bằng ánh sáng có bước sóng 490 nm. Mức độ huỳnh
quang tương ứng với số ADN mạch đôi trong phản ứng (McPherson M. J. và Moller S.
G., 2001). Đối với SYBR Green I dữ liệu huỳnh quang được thu nhận trong giai đoạn
kéo dài. SYBR Green I gắn vào ADN mạch đôi và phát huỳnh quang sáng gấp 50 đến
100 lần so với khi không gắn kết vào ADN (Bio-Rad, 2004).
Hạn chế của SYBR Green I trong phát hiện sản phẩm PCR khuếch đại là sự phát

hiện ADN không đặc hiệu. Do mọi phân tử ADN đôi hiện diện trong phản ứng đều
được định lượng, bao gồm các sản phẩm PCR không đặc hiệu và primer – dimer
(Weighardt F., 2004).

Hình 2.10 SYBR Green I chèn vào ADN sợi đôi
(Nguồn: Weighardt F., 2004)

Molecular Beacons probe
Molecular Beacons probe được đánh dấu fluorophore (chất chỉ thị huỳnh quang) ở
cuối đầu 5’và một phân tử quencher (chất hấp thụ) ở cuối đầu 3’. Molecular Beacons
probe gồm: trình tự probe bổ sung với ADN đích (loop) và hai trình tự bên thân probe
(stem) với khoảng 5 nucleotide hay nhiều hơn. Trình tự hai bên thân probe (stem)
không bổ sung với ADN đích mà bổ sung lẫn nhau. Khi trình tự hai bên thân probe bắt
cặp với nhau, Molecular Beacons probe có dạng cấu trúc kẹp tóc. Ở dạng này,
Molecular Beacons probe mang fluorophore và quencher ở khoảng cách gần, giúp
quencher hấp thụ huỳnh quang từ fluorophore. Khi Molecular Beacons probe gắn vào
ADN đích, đầu 5’ và 3’ tách riêng biệt, tín hiệu huỳnh quang được phát ra tương ứng
với số ADN đích tạo thành (Bio-Rad, 2004).
Ở bước biến tính (950C), Molecular Beacons probe tách nhau hồn tồn, mở vịng
kẹp tóc, tín hiệu huỳnh quang tăng cao. Khi nhiệt độ giảm xuống ở giai đoạn bắt cặp,
Molecular Beacons probe gắn kết với trình tự ADN đích. Các Molecular Beacons
probe khơng gắn bổ sung lên trình tự ADN đích sẽ tự bắt cặp lại trở về cấu trúc kẹp tóc


20

ban đầu. Do vậy, tín hiệu huỳnh quang ghi nhận được ở giai đoạn này hoàn toàn tương
ứng với lượng ADN đích. Đối với Molecular Beacons probe, dữ liệu huỳnh quang
được thu nhận trong giai đoạn bắt cặp (Bio-Rad, 2004).


Hình 2. 11 Nguyên tắc của Molecular Beacons probe
(Nguồn: Weighardt F., 2004)

Fluorescence Resonance Energy Transfer (FRET) probe
FRET dựa vào sự truyền năng lượng từ fluorophore cho sang fluorophore nhận.
Các điều kiện đối với FRET (Weighardt F., 2004):
- Các phân tử cho và nhận phải ở gần nhau (cụ thể 10 – 100 A0).
- Phổ hấp thụ của vật nhận phải bao phủ phổ phát quang của vật cho.
- Hướng chuyển đổi giữa vật cho và vật nhận phải đối diện nhau.
Hệ thống FRET dựa vào hai chất chỉ thị huỳnh quang, hai chất này khi ở gần nhau
sẽ tạo ra tín hiệu huỳnh quang chuyên biệt. Một chất đánh dấu huỳnh quang được kích
thích bởi nguồn sáng và chuyển năng lượng cho chất đánh dấu huỳnh quang thứ hai.
Chất đánh dấu huỳnh quang thứ hai này sẽ phát ra ánh sáng ở bước sóng khác để phát
hiện. Probe lai được thiết kế ở dạng một cặp – một probe đánh dấu với màu cho (3’ –
Fluorescine), probe còn lại được đánh dấu với màu nhận (5’ – Red 640 hay 5’ – Red
705). Khi hai probe bắt cặp với đoạn ADN đích thường chúng được tách riêng ra và
bắt cặp vào ở vị trí cách nhau 1 - 5 nucleotide, kết quả sẽ có hiện tượng truyền năng
lượng cộng hưởng huỳnh quang (FRET) giữa hai chất chỉ thị huỳnh quang. Hiện tượng
truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang giữa đầu 3’ đánh dấu của probe thứ nhất
và đầu 5’ của probe thứ hai nằm kế cận tạo ra tín hiệu huỳnh quang. Nhờ đó tín hiệu
huỳnh quang được ghi nhận tương ứng với số sản phẩm đích. Tín hiệu này được đo
bởi thiết bị đo huỳnh quang (McPherson M. J. và Moller S. G., 2001).



×