Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.17 KB, 98 trang )


Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
1
LỜI NÓI ĐẦU
Hội nhập kinh tế trong điều kiện nền kinh tế có xuất phát điểm kém,
chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp Việt
Nam đang đứng trước những thử thách lớn trước sự cạnh tranh, tìm kiếm,
giành giật thị trường, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất kh
ẩu.
Các doanh nghiệp Việt Nam với một thực trạng yếu kém về quy mô,
công nghệ, năng lực tài chính, năng lực quản lý, lại thụ động chưa có chiến
lược kinh doanh chủ động, lâu dài, nên khi thâm nhập thị trường quốc tế gặp
phải những khó khăn về khả năng cạnh tranh, các cản trở về pháp luật, kiểm
soát của chính phủ, sự khác biệt về văn hoá, ảnh h
ưởng về địa lý, khí hậu, sự
thay đổi ý thích của người tiêu dùng và một loạt các yếu tố không kiểm soát
được. Làm thế nào để các doanh nghiệp Việt Nam đứng vững và phát triển
được trong thời gian tới, ngoài sự nỗ lực của các doanh nghiệp cũng cần có sự
quan tâm không thể thiếu của các cơ quan quản lý vĩ mô. Cần thiết tạo ra một
môi trường thông thoáng để thúc đẩy các doanh nghiệp đi tới lựa ch
ọn chiến
lược cạnh tranh chủ động, thay thế cho sự thụ động, ỷ lại hiện nay.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu "Môi trường kinh
doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm
tới".
1. Mục đích nghiên cứu đề tài.
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về môi trường kinh doanh xuất khẩu của
doanh nghiệp.
- Nêu và phân tích thực trạ
ng môi trường hoạt động xuất khẩu của


doanh nghiệp thương mại thời gian qua.
- Kiến nghị về hoàn thiện môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp
thương mại.
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
2
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một cách đồng bộ môi trường kinh
doanh là điều kiện cần thiết, song bởi tính đồ sộ của nó, người ta đi từ việc
nghiên cứu các nhóm nhân tố, từng nhân tố. Bởi vậy, trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài này, chúng ta cùng đề cập các nhân tố về chính trị – kinh tế –
xã hội của môi trường kinh doanh trong chừng mực coi chúng như một môi
trường bộ phận trong môi trường tổ
ng thể.
Môi trường vĩ mô và môi trường vi mô liên quan đến hoạt động kinh
doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam.
- Đối tượng: Đề tài lấy loại hình doanh nghiệp thương mại có tham gia
kinh doanh xuất khẩu là đối tượng nghiên cứu chủ yếu.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp phổ biến trong nghiên cứu
như kết hợp duy vật biện chứng và duy vật l
ịch sử, kết hợp phương pháp tổng
hợp và phân tích... Đề tài cũng đã kế thừa lý thuyết cơ bản về quản trị kinh
doanh.
4. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận cùng danh mục tài liệu tham khảo đề tài
được kết cấu gồm 3 chương sau:
Chương 1
: Tổng quan về môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh
nghiệp.

Chương 2:
Thực trạng môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp.
Chương 3:
Định hướng phát triển xuất khẩu và một số kiến nghị về
hoàn thiện môi trường kinh doanh xuất khẩu của Việt nam đến năm 2010.
Mặc dù đã được bổ sung kiến thức hơn 3 năm tại Trường Đại học
Ngoại thương và kinh nghiệm nhiều năm công tác trong lĩnh vực XNK nhưng
chắc chắn khóa luận không tránh khỏi những hạn chế, rất mong các thầy cô
giáo và bạ
n đọc chân thành góp ý kiến.
Qua đây, tôi xin chân thành cám ơn Khoa Kinh tế ngoại thương, Khoa
Quản lý đào tạo Tại chức trường Đại học Ngoại thương và đặc biệt thầy giáo

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
3
hướng dẫn TS. Nguyễn Hữu Khải đã giúp đỡ tôi hoàn thành Khóa luận tốt
nghiệp Đại học.
Hà nội, ngày 15 tháng 5 năm 2003

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
4
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
Việc nghiên cứu môi trường kinh doanh xuất khẩu có một tầm quan
trọng đặc biệt, ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh xuất khẩu
của các doanh nghiệp. Môi trường kinh tế quyết định sự hấp dẫn của thị
trường thông qua các chỉ số như dân số, mức thu nhập của dân cư và cơ cấu
kinh tế của một quốc gia. Môi trường pháp luật và chính trị th
ường mang lại

nhiều rủi ro trong kinh doanh. Nghiên cứu kỹ và hiểu biết về môi trường
chính trị và luật pháp sẽ hạn chế bớt rủi ro, tăng tính an toàn, bảo vệ và tạo cơ
hội cho xuất khẩu. Môi trường văn hoá có ảnh hưởng đặc biệt đến các hoạt
động kinh doanh trên thị trường xuất khẩu. Nắm bắt được những sắc thái văn
hoá khác nhau của các dân tộc là nắm bắt đượ
c hành vi, thái độ, tâm lý, sở
thích, thói quen tiêu dùng của một nước, từ đó đề ra những chiến lược kinh
doanh xuất khẩu phù hợp với từng thị trường, hay từng đoạn thị trường nước
ngoài.
Trong môi trường kinh doanh xuất khẩu có sự cạnh tranh gay gắt, hầu
hết những thành công trong giao dịch xuất khẩu đều do nghiên cứu và đánh
giá đúng môi trường, thị trường nước ngoài. Đánh giá không đúng các yếu t

môi trường kinh doanh xuất khẩu sẽ gây nên những thua lỗ đáng tiếc.
I – TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
1- Khái niệm về môi trường kinh doanh
Bất kì một tổ chức nào, đặc biệt là tổ chức hoạt động kinh doanh, quá
trình hoạt động đều gắn liền với các yếu tố tác động nhất định. Mức độ và
tính chất tác động của các yếu tố đó gắn liền với nhau và tùy thuộc vào quy
mô, tính chất hoạt động của một tổ chức, một doanh nghiệp.
Tất cả các yế
u tố (bao gồm cả các yếu tố bên trong và bên ngoài), ngoài
sự tác động vào một doanh nghiệp, trong những điều kiện nhất định còn được
hợp thành môi trường ảnh hưởng tới doanh nghiệp.

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
5
Do có tác động đến quá trình hoạt động của doanh nghiệp nên việc
nghiên cứu môi trường là rất cần thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào.
Khác với các tổ chức khác, hoạt động của một doanh nghiệp không mang tính

độc lập. Mỗi một doanh nghiệp như là một khâu, một mắt xích trong hệ thống
sản xuất xã hội nhất định, ranh giới giữa doanh nghiệp với môi trường rất linh
ho
ạt theo mô hình một hệ thống mở. Các doanh nghiệp sử dụng – thu hút các
nguồn lực từ bên ngoài với tư cách là yếu tố đầu vào, đưa các yếu tố đó vào
quá trình sản xuất biến đổi – chế biến sau đó đưa ra môi trường các sản phẩm
hay dịch vụ cần thiết – các yếu tố đầu ra.
Khi các yếu tố môi trường tác động đến quá trình quản lý và hoạt động
của các nhà quản lý thì h
ọ phải thực hiện sự lựa chọn và đưa ra các quyết định
quản trị kinh doanh; có thể nhận thức rằng, môi trường kinh doanh là tổng
hợp các yếu tố; các điền kiện cần thiết về chính trị, kinh tế, kỹ thuật, công
nghệ, văn hóa, xã hội, chính sách chế độ của Nhà nước và điều kiện tự nhiên
sinh thái của mỗi nước, các thông lệ kinh doanh quốc tế và môi trườ
ng kinh
doanh quốc tế và khu vực đang tác động vào các hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp; cũng như những điều kiện, yếu tố của ngành và nội bộ từng
doanh nghiệp tác động đến kinh doanh. Môi trường kinh doanh luôn luôn thay
đổi, cho nên cần có biện pháp thích hợp để quản lý sự thay đổi đó nhằm tạo
môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
cao.
Xuất xứ của thu
ật ngữ môi trường theo nghĩa đen dùng để thể hiện một
không gian hữu hạn bao quanh một hữu hạn những sự vật hiện tượng nhất
định. Bởi tính thông dụng của thuật ngữ này mà người ta dần gắn thêm với nó
các tính chất cần thiết để mô phỏng sự vật, hiện tượng trong các trạng thái
khác nhau. Chúng ta thường nghe đến các khái niệm môi trường vật chất như
môi trường khí, môi trườ
ng nước, rồi môi trường khí hậu, địa chấn, rồi đến
các hiện tượng mà tính vật chất thể hiện rất mờ nhạt cũng được gắn với thuật

ngữ môi trường như môi trường sinh trưởng, đào tạo, môi trường chính trị,
văn hóa…đến nữa – môi trường kinh doanh.

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
6
Theo cách tiếp cận đó, có thể hiểu môi trường kinh doanh là một
khung cảnh bao trùm lên hoạt động kinh doanh. Nó bao gồm tổng thể các
nhân tố mang tính khách quan và chủ quan, vận động và tương tác lẫn
nhau, tác động trực tiếp, gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của từng
doanh nghiệp, sự tác động này có thể thuận lợi cho kinh doanh, hoặc khó
khăn, trở ngại cho kinh doanh.
Để đến gần hơn với cách tiếp cận khái niệm này, cần l
ưu ý một số đặc
trưng sau:
- Bản thân kinh doanh là một quá trình vận động trong một môi trường
cũng không ngừng vận động. Bởi vậy mọi sự mô phỏng tĩnh tại chỉ là tương
đối theo mục đích của việc nghiên cứu.
- Các nhân tố cấu thành môi trường kinh doanh vừa tự vận động, lại
vừa tác động qua lại với nhau và trở thành ngoại lưc chính cho sự vận động
biến đổi của môi trường kinh doanh.
- Các nhân tố của môi trường kinh doanh là rất đa dạng, phong phú. Do
đó, việc nghiên cứu nó đòi hỏi phải sử dụng nhiều cách tiếp cận, nhiều
phương pháp.
- Doanh nghiệp không chỉ thụ động chịu các tác động từ môi trường
kinh doanh mà chính nó lại sản sinh ra các tác nhân làm thay đổi đến môi
trường kinh doanh.
2- Phân loại các nhân tố môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
Để có thể cố gắng mô phỏng về môi tr
ường kinh doanh của doanh
nghiệp, người ta đã nêu ra nhiều cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau.

a - Theo tính chất của các nhân tố cấu thành môi trường kinh doanh,
người ta phân loại thành:
+ Yếu tố chính trị;
+ Yếu tố kinh tế;
+ Yếu tố văn hóa – xã hội;
+ Yếu tố công nghệ – kỹ thuật;

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
7
+ Yếu tố địa lý – sinh thái.
b - Theo mức độ tác động, người ta phân ra:
+ Các nhân tố tác động trực tiếp;
+ Các nhân tố tác động gián tiếp.
c - Theo phạm vi nghiên cứu, môi trường kinh doanh được xem xét
theo:
+ Môi trường tổng thể;
+ Môi trường từng ngành;
+ Môi trường nội bộ doanh nghiệp.
Cách trình bày trên một mặt thể hiện các nhân tố chủ yếu cấu thành môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác còn thể hiện mức độ tác động
củ
a chúng dến doanh nghiệp:
- Trước hết là môi trường ngành, ở đây hiểu là ngành kinh tế – kỹ thuật
mà doanh nghiệp tham gia kinh doanh.
- Tiếp đến là các nhân tố thể hiện vai trò các thể nhân và các tổ chức tác
động gián tiếp lên doanh nghiệp.
- Các nhân tố của môi trường tổng thể.
- Môi trường khu vực và quốc tế.
3- Ý nghĩa của việc nghiên cứu môi trường kinh doanh.
Việc nghiên cứu môi trường kinh doanh và nắm vững các yếu tố liên

quan đến nó có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng vì nó giúp cho các doanh nghiệp:
- Nhìn nhận một cách tổng thể về môi trường kinh doanh, phân tích
đồng bộ các tác nhân ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh, từ đó có thể khai
thác các lợi thế và ngăn ngừa các rủi ro có thể xảy ra.
- Mỗi doanh nghiệp xét cho cùng chỉ hoạt động trên một miền kinh
doanh nhất định mà thôi. Việc nghiên cứu môi trường kinh doanh là căn cứ
quan trọng để doanh nghiệp xác định cho mình miền kinh doanh phù hợp,
đem lại hiệu qu
ả cao nhất.

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
8
- Vì chỉ hoạt động trên một miền kinh doanh nhất định nên từ môi
trường tổng thể, nó trợ giúp cho doanh nghiệp biết sẽ phải chịu các tác động
nào là chủ yếu, mức độ hoạt động của chúng ra sao đến tính chất kinh tế – kỹ
thuật của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Kết quả nghiên cứu môi trường kinh doanh là một căn cứ cực kỳ quan
trọng cho việc xác định các chiế
n lược và chính sách kinh doanh, đặc biệt là
các chiến lược và chính sách dài hạn.
II- CÁC LOẠI MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
1. Môi trường vĩ mô
Có rất nhiều yếu tố môi trường tác động đến các hoạt động kinh doanh
xuất khẩu được thể hiện trên góc độ vĩ mô như môi trường kinh tế, tài chính;
môi trường chính trị; môi trường pháp luật; môi trường văn hoá, xã hội; môi
trường địa lý; môi trường khoa học công nghệ v.v... nhưng trong phạm vi đề
tài này chỉ đề cập đến một vài yếu tố môi trường chủ yếu nhất như
môi trường
kinh tế, tài chính; môi trường chính trị, pháp luật và môi trường văn hoá.

1.1 Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có thể được xem xét từ hai góc độ: góc độ vĩ mô và
góc độ vi mô. Góc độ vĩ mô sẽ cho chúng ta bức tranh về quy mô của thị
trường và triển vọng kinh tế được hình thành từ nhu cầu và ước muốn của con
người. Môi trường kinh tế của một nước từ góc độ vĩ mô xác định phần lớ
n
cơ hội kinh doanh xuất khẩu của một doanh nghiệp. Môi trường kinh tế phải
được xem xét trên cả hai khía cạnh là môi trường trong nước và môi trường
ngoài nước mà doanh nghiệp dự định xuất khẩu. Các yếu tố về môi trường
kinh tế luôn luôn phải đặt trong trạng thái so sánh.
Để có một quyết định kinh doanh thích hợp, cần thiết phải nhận định rõ
tình hình kinh tế của nước sở tại, động thái phát triển ra sao? chính sách thuế
đối với hàng nhập khẩu, chính sách bảo hộ sản xuất và bảo hộ mậu dịch của
nước nhập khẩu.
Dân số và thu nhập của một nước tạo nên thị trường tiêu thụ và không
phản ánh khả năng tiêu thụ của thị trường. Khả năng tiêu thụ bình quân cao

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
9
hay thấp phụ thuộc vào tổng dân số và thu nhập/ đầu người. Do vậy các nước
phát triển vẫn là khách hàng tiềm năng và các nước nghèo kém phát triển cho
dù dân số đông vẫn không phải là khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó, các
yếu tố về quy mô, các yếu tố về cơ cấu dân số và cơ cấu thu nhập cũng có tác
động trực tiếp tới quy mô và cơ cấu hàng hoá tiêu thụ.
Thông tin tiếp theo là mô hình tiêu dùng. Mô hình tiêu dùng tổng thể
củ
a một quốc gia được xem xét dựa trên cơ sở tiềm năng và cơ cấu tiêu dùng.
Cơ cấu tiêu dùng giữa các nước khác nhau rất nhiều. Xã hội càng nghèo thì
phần thu nhập dành cho lương thực, thực phẩm càng lớn. Những nước giàu số
phần trăm thu nhập dành cho mua sắm đồ đạc hay thuê nhà, xây nhà nhiều

hơn, dân cư sẽ có khả năng mua sắm hàng hoá với mức giá cao và chất lượng
cao.
Những thông tin khác như tình hình sản xu
ất công nghiệp, giá cả, tài
chính, bán buôn, bán lẻ v.v... cũng rất cần thiết song các nhà làm công tác
kinh doanh xuất khẩu chỉ cần quan tâm và tìm kiếm những thông tin kinh tế
và tài chính có liên quan đến các quyết định kinh doanh của mình.
Trong quản trị chiến lược kinh doanh xuất khẩu, một trong những yếu
tố quan trọng có liên quan là cần xem xét tới sự tham gia và mức độ tham gia
của nước nhập khẩu vào các tổ chức kinh tế và thương mại quốc tế, khu vực.
N
ếu như nước đó đã ký kết hiệp định kinh tế và thương mại với nước ta hoặc
cùng tham gia ký kết các hiệp định đa bên thì việc xuất khẩu sẽ có lợi thế hơn.
Đồng thời, phải kiểm tra và phân tích kỹ các chính sách tín dụng, các điều
khoản tín dụng để lường trước những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình
thanh toán và để đảm bảo nhận được thanh toán. Cần hiểu bi
ết sâu sắc về cơ
chế thị trường hối đoái và các hỗ trợ về mặt tài chính có thể nhận được.
Tóm lại, việc phân tích và xem xét kỹ yếu tố môi trường kinh tế và tài
chính ở thị trường nước ngoài là điều kiện tiên quyết cho các quyết định thâm
nhập vào một thị trường nước ngoài. Một đất nước gặp phải nhiều khó khăn
về kinh tế có tốc
độ tăng trưởng GDP là âm hoặc rất thấp không tránh khỏi

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
10
những khó khăn về tiêu thụ và thanh toán. Ngược lại nước có nền kinh tế
hưng thịnh sẽ khích lệ công việc kinh doanh và tạo nhiều cơ hội làm ăn mới.
1.2 Môi trường chính trị:
Yếu tố môi trường chính trị của kinh doanh xuất khẩu là rất phức tạp và

khó khăn do có sự tác động qua lại của tình hình chính trị trong nước, tình
hình chính trị ngoài nước, tình hình chính trị quốc tế. Do sự khác nhau về hệ
th
ống chính trị, hình thái chính phủ, các quốc gia đều có những thể chế khác
biệt. Sự am hiểu về các loại hình chính phủ rất có lợi cho việc thẩm định
không khí chính trị trước khi đi đến các quyết định kinh doanh. Từ sự khác
nhau về hệ thống chính trị dẫn đến sự khác nhau về các chính sách kinh tế. Ở
một số nước mục đích chính trị bao trùm lên lợi ích kinh tế. Hậu quả là những
r
ủi ro về chính trị xảy ra như tịch thu tài sản, sung công, quốc hữu hoá hay
nhập tịch. Ngoài ra, còn rất nhiều loại rủi ro chính trị khác như sự bất ổn
chung, rủi ro trong việc quản lý và sở hữu tài sản, rủi ro trong kinh doanh, rủi
ro trong chuyển tiền...
Như vậy các quyết định kinh doanh thường bị ảnh hưởng bởi các quyết
định chính trị. Vậy khi xuất khẩu hàng hoá vào một nước nào đó doanh
nghi
ệp cần phải xem xét kỹ càng và nhậy bén với những quan điểm về chính
trị của nước đó và cần phải chuẩn bị sẵn sàng các kế hoạch đối phó với những
bất ngờ xảy ra trong môi trường chính trị.
Để đánh giá được môi trường kinh doanh tiềm năng, doanh nghiệp cần
nhận biết và đánh giá được những dấu hiệu khó khăn về chính trị có liên quan
đến các hoạt
động kinh doanh như sự rối loạn và bất ổn của xã hội gây nên do
những khó khăn về kinh tế, sự bất hoà nội bộ, phiến loạn, những khác biệt về
văn hoá, màu da, tôn giáo, thái độ thù địch hay thân thiện của người dân nước
sở tại, chính sách của nước sở tại... Để hạn chế đến mức tối thiểu những rủi ro
về chính trị, doanh nghiệp cần duy trì trung lậ
p, vận động đằng sau hậu
trường, để đạt được mục đích của mình, chuyển rủi ro cho bên thứ ba bằng
cách mua bảo hiểm, doanh nghiệp nên thành lập một hệ thống giám sát

thường xuyên và đánh giá một cách có hệ thống tình hình chính trị. Rủi ro về

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
11
chính trị nếu khéo léo điều chỉnh và thích nghi có thể làm giảm hay trung lập
một cách đáng kể.
1.3 Môi trường pháp lý:
Không một nhà kinh doanh giỏi nào mà lại không quan tâm đến các
chính sách và luật lệ. Cho dù công ty đóng ở đâu, thâm nhập vào thị trường
nào cũng đều bị ảnh hưởng bởi hệ thống pháp luật và chính sách của nước ấy.
Vậy để kinh doanh xuất khẩu thành công, các nhà quản trị kinh doanh cần đi
sâu và hiểu rõ môi trường pháp lý và tiế
n hành nghiên cứu ảnh hưởng của nó
đến các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của mình.
Cũng giống như môi trường chính trị, môi trường pháp lý cũng rất đa
dạng: môi trường pháp lý trong nước, môi trường pháp lý ngoài nước và môi
trường pháp lý quốc tế. Các nhà kinh doanh xuất khẩu buộc phải tuân thủ luật
của nước mình, luật của nước ngoài và luật quốc tế. Ví dụ xuất khẩu thuỷ- hải
sản vào thị
trường EU doanh nghiệp cần phải nắm bắt được các quy định của
Việt Nam về xuất khẩu thuỷ- hải sản, quy định của EU về nhập khẩu thuỷ- hải
sản và các quy định quốc tế khác liên quan đến vận chuyển, bảo hiểm, thanh
toán...
Các luật lệ của chính phủ đưa ra thường không những làm tăng chi phí
kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến các chiến lược kinh
doanh
ở bất kỳ khâu nào trong 4 "P" của kinh doanh mix. Với khâu sản phẩm:
luật của nhiều nước không cho phép nhập nhiều loại sản phẩm vào nước đó ví
dụ như hoa quả tươi, súc vật sống... Khâu tiêu thụ: ở hầu hết các nước các nhà
sản xuất không được phép chọn nhiều kênh tiêu thụ như ở Mỹ. Khâu xúc tiến:

nhiều nước đã đánh thuế vào hoá đơn quảng cáo, các hãng qu
ảng cáo và các
phương tiện thông tin đại chúng để hạn chế bớt quảng cáo.
Các nhà quản trị kinh doanh xuất khẩu luôn phải sẵn sàng đối phó với
những thử thách mới và cơ hội mới vì luôn luôn có những luật mới ra đời. Có
những thị trường đã bị đóng từ lâu bỗng nhiên lại mở ra do luật mới ban hành.
Mặc dù các doanh nghiệp phải tuân thủ mọi pháp luật hiện hành, song
không thể hoàn toàn phó mặ
c cho hoàn cảnh mà cần phải tìm cách khắc phục.

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
12
Một trong những cách khắc phục là lợi dụng một vài kẽ hở của pháp luật để
làm lợi cho mình.
Nhìn chung môi trường pháp luật rất phức tạp, đa dạng và năng động,
với các nước khác nhau, hệ thống pháp luật khác nhau, quy định pháp quyền
khác nhau đối với các hoạt động kinh doanh. Một nhà hoạt động kinh doanh
xuất khẩu không những phải tuân thủ pháp luật nước mình, pháp luật nước sở
tại liên quan
đến cạnh tranh, định giá, phân phối, trách nhiệm, sản phẩm, bằng
sáng chế, nhãn hiệu, quảng cáo, cấp giấy phép xuất nhập khẩu, chống bán phá
giá, thuế... mà còn phải biết các hiệp ước và công ước quốc tế. Khi có xung
đột xảy ra giữa các bên từ nhiều nước thì cách giải quyết tốt nhất và nhanh
chóng nhất là đưa ra hội đồng trọng tài.
1.4 Môi trường văn hoá:
Nói đến môi trường văn hoá là người ta nói đến những t
ập quán, những
chuẩn mực, những nếp nghĩ, những chân giá trị, ý niệm, niềm tin... được
truyền lại và cùng chia sẻ trong một ngày hay trong một cộng đồng dân cư
của cùng một quốc gia. Văn hoá là cảm nhận chung của một nhóm người

trong cùng một xã hội mà người trong những nhóm khác không thể hiểu
được. Văn hoá mang tính chủ quan. Có những việc được chấp nhận ở nền văn
hoá này song không được chấp nh
ận ở nền văn hoá khác. Văn hoá tạo nên
cách sống của một cộng đồng, do đó sẽ quyết định phong cách làm việc, giao
tiếp, cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu và ước muốn. Những nền
văn hoá khác nhau sẽ tạo nên những lối sống và cách tiêu dùng khác nhau.
Văn hoá tồn tại lâu đời, truyền từ đời này qua đời khác cho nên khó bị phá vỡ.
Nhưng văn hoá cũng rất năng động, luôn luôn thay
đổi và có thể học được.
Do tính năng động này mà nhiều sản phẩm rơi vào tình thế bị lỗi thời không
tiêu thụ được. Do quan niệm về giá trị thay đổi theo thời gian nên các nhà
hoạt động kinh doanh xuất khẩu cần nắm bắt để theo kịp những biến đổi về
thị hiếu để lợi dụng trào lưu văn hoá mới.

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
13
Văn hoá ảnh hưởng đến tiêu dùng. Mô hình tiêu dùng, phong cách
sống, nhu cầu ưu tiên là tiếng nói của văn hoá. Tập quán tiêu dùng giữa các
nền văn hoá thường rất khác nhau.
Các nhà hoạt động xuất khẩu còn cần phải nhận thức rằng để mô tả một
cách chính xác hành vi lời nói của một nước nào đó trong xử lý thông tin cần
phải kết hợp với văn cảnh của nó. Văn cảnh ở đây muốn nói đế
n nội hàm của
lời nói trong một hoàn cảnh cụ thể. Văn cảnh thấp có nghĩa là lời nói không
mang ẩn ý, tách khỏi ngữ cảnh của nó, nói sao hiểu vậy. Ngược lại, trong văn
hoá văn cảnh cao, người ta nói ít hiểu nhiều, đằng sau lời nói còn chứa đựng
nhiều ý nghĩa phi lời nói, nhiều ẩn ý sâu rộng. Sak Onkivisit và John J. Shaw
trong cuốn marketing quốc tế đã viết: "đối với những nước có văn cả
nh văn

hoá thấp, cần thiết phải giải thích cặn kẽ trong khi đàm phán, còn đối với
những nước có văn cảnh văn hoá cao, khi đàm phán lại không nên nói dài
dòng gây bực mình cho đối tác".
Văn hoá của các dân tộc tuy có khác nhau song cũng có những nét
chung. Do những nét chung này mà một số sản phẩm được bán ở các nước
khác nhau mà vẫn không cần thay đổi mẫu mã. Những nét chung có thể là:
Thể thao, trang điểm, nấu nướng, địa vị xã hộ
i, tôn giáo tín ngưỡng v.v... ví
dụ nhu cầu về âm nhạc và thú vui thì bất kỳ ở đâu cũng có.
Ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng nhất của văn hoá. Ngôn ngữ ảnh
hưởng đến nếp nghĩ, đến phương pháp tư duy của các dân tộc khác nhau,
ngôn ngữ được thể hiện bằng lời nói trong thông điệp về hàng hoá và dịch vụ.
Ngoài ngôn ngữ lời nói còn có ngôn ngữ đàm phán, ngôn ngữ quà tặng
và những giao ti
ếp phi lời nói (Ngôn ngữ câm) trong giao dịch quốc tế mà các
nhà quản trị kinh doanh xuất khẩu cần đi sâu nghiên cứu để có những phản
ứng thích hợp trong từng nền văn hoá, từng loại sắc tộc cụ thể.
Nói tóm lại: quản trị kinh doanh xuất khẩu diễn ra trong một nền văn
hoá cụ thể, nên kế hoạch kinh doanh của một doanh nghiệp chỉ có thể có hiệu
quả và thích hợp khi phù hợ
p với nền văn hoá đó. Chiến lược và kế hoạch
kinh doanh xuất khẩu của một doanh nghiệp ở một môi trường mới có thành

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
14
công hay không phụ thuộc rất nhiều vào khả năng hiểu biết, điều chỉnh, thích
nghi với môi trường văn hoá mới đó.
2. Môi trường vi mô
Đối với các doanh nghiệp thương mại, các yếu tố của môi trường vi mô
(môi trường tác nghiệp) ảnh hưởng tới kinh doanh xuất khẩu bao gồm:


- Các đối thủ cạnh tranh trong ngành,
- Người mua,
- Các nhà cung cấp,
- Các nhà trung gian,
- Các đối thủ tiềm ẩn,
- Sản phẩm thay thế.
Vì vậy, trong quá trình phân tích môi trường vi mô trong hoạt động
xuất khẩu cần xem xét đến các yếu tố một cách đầy đủ và toàn diện, tuy nhiên
trong phạm vi giới hạn của đề tài áp dụng cho loại hình doanh nghiệp thương
mại nên tôi chỉ tập trung phân tích các yếu tố sau: các đối thủ cạnh tranh, các
nhà cung cấp, khách hàng.
2.1 Các đố
i thủ cạnh tranh
Hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh là hết sức quan trọng trong quản trị
chiến lược kinh doanh xuất khẩu. Khi xem xét đến yếu tố này cần xác định rõ
5 vấn đề sau:
Những ai là đối thủ cạnh tranh?
Trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đối thủ cạnh tranh của doanh
nghiệp thương mại có thể là các doanh nghiệp trong nước cùng tham gia hoạt
động xuất khẩu sản ph
ẩm hàng hoá đến cùng một thị trường hoặc là các
doanh nghiệp của nước khác cùng xuất khẩu mặt hàng đó tới cùng thị trường
của doanh nghiệp. Chẳng hạn một doanh nghiệp xuất khẩu gạo tới thị trường
Irắc cần phải biết rõ trong nước có bao nhiêu doanh nghiệp cùng xuất khẩu
gạo tới thị trường Irắc, các đối thủ ở nước ngoài như các doanh nghiệp của
Hoa K
ỳ, Thái Lan có xuất khẩu gạo cho Irắc không? bao nhiêu doanh

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9

15
nghiệp?... Một doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt kim vào thị trường Nhật bản
cũng cần phải biết rõ trên thị trường Nhật bản có bao nhiêu nhà xuất khẩu đã,
đang và sẽ xuất khẩu hàng dệt kim vào thị trường Nhật bản, bao nhiêu là
doanh nghiệp của nước khác? và bao nhiêu là doanh nghiệp của Việt Nam?...
Chiến lược của các đối thủ cạnh tranh thế nào?
Những đối thủ cạnh tranh gần nh
ất của doanh nghiệp là những đối thủ
cùng theo đuổi những thị trường mục tiêu giống nhau với chiến lược giống
nhau. Nhiệm vụ của các nhà quản trị chiến lược kinh doanh xuất khẩu là cần
phải phát hiện được chiến lược của đối thủ cạnh tranh thế nào? họ đang sử
dụng chiến lược gì trong mô hình chiến lược về sản phẩm, về
giá, về phân
phối và xúc tiến khuyếch trương.
Mục tiêu của đối thủ cạnh tranh là gì ?
Thông thường các doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm là tăng lợi
nhuận nhưng có thể tăng lợi nhuận bằng cách duy trì giá ở mức cao hoặc tăng
sản lượng xuất khẩu để tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, ở các thời điểm khác nhau
và các đoạn thị trường khác nhau thì mục tiêu này bị "che phủ" bởi nh
ững
hoạt động như giảm giá, hạn chế mức xuất khẩu... Nhà quản trị chiến lược
marketing xuất khẩu cần hiểu rõ được các loại mục tiêu của đối thủ, kể cả
mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu
thành phần...
Những điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh là gì ?

Hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại thường
gặp phải nhiều cơ hội và rủi ro, việc phân tích những điểm mạnh và điểm yếu
của đối thủ cạnh tranh là nhằm khai thác tốt các cơ hội và hạn chế các rủi ro.
Có nhiều mô hình và đi liền với nó là hệ thống các chỉ tiêu khác nhau để phân

tích điểm mạnh, điểm yếu c
ủa đối thủ cạnh tranh. Đối với doanh nghiệp
thương mại hoạt động kinh doanh xuất khẩu có thể dùng hệ thống chỉ tiêu và
các thang điểm như sau:
Yếu Trung bình Mạnh
Chỉ tiêu
1 2 3 4 5

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
16
1. Sản phẩm
- Gam sản phẩm
- Chất lượng sản phẩm
- Giá cả
2. Tổ chức
- Tính linh hoạt
- Quy trình ra quyết định
3. Nhân sự
- Trình độ, kỹ năng
- Khả năng thu nạp cán
bộ có trình độ

4. Tài chính
- Khả năng tài chính
- Nợ
5. Công nghệ và khả năng đầu tư
6. Thị trường
- Thị phần
- Nền tảng khách hàng
- Hình ảnh doanh nghiệp

Cách thức phản ứng của họ ra sao ?
Trước sự biến động của môi trường và thị trường, các doanh nghiệp có
thể gặp phải cơ may hay hiểm hoạ.
Nghiên cứu cơ may tập trung vào các khía cạnh như sự phát triển nhanh
của những đoạn thị trường chính yếu, sự yếu kém của các đối thủ cạnh tranh,
chi phí cho các kênh phân phối giảm, thế mạnh của đội ngũ làm công tác xuấ
t
khẩu và quan trọng hơn cả là những thay đổi về luật lệ và chính sách có lợi
cho hoạt động xuất khẩu.
Hiểm họa có thể là thị hiếu của người tiêu dùng đã chuyển sang các mặt
hàng khác; đối thủ cạnh tranh mới xuất hiện và một mối hiểm hoạ lớn nhất là
sự suy thoái về kinh tế của nước nhập khẩu. Việc nghiên cứu cơ may và hiểm
h
ọa trên thị trường bổ xung và hoàn thiện cho việc nghiên cứu điểm mạnh và
điểm yếu của doanh nghiệp.
Đứng trước các cơ may hay hiểm họa, các doanh nghiệp khác nhau sẽ
có những phản ứng không giống nhau. Nhà quản trị chiến lược kinh doanh
xuất khẩu cần phải biết được các cách thức mà đối thủ cạnh tranh phản ứng
trước các cơ may hay hiểm hoạ. Một cơ may xuất hi
ện có thể đối thủ cạnh
tranh sẽ tập trung toàn bộ sức mạnh để tập trung vào khai thác và cũng chính
từ đó sẽ có thể nảy sinh những điểm yếu khi cơ may của thị trường sớm chấm

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
17
dứt hoặc những đoạn thị trường khác lại bị bỏ trống hoặc bộc lộ những điểm
yếu. Cũng tương tự như vậy, đứng trước các hiểm hoạ doanh nghiệp có thể
bình tĩnh rút lui khỏi thị trường hoặc chủ động "lật lại" tình thế trên thị
trường.
2.2 Các nhà cung cấp

Một nhân tố quan trọng khác nữa ảnh hưở
ng lớn tới hoạt động kinh
doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp thương mại là các nhà cung cấp/ nhà
sản xuất. Nhà cung cấp không chỉ cung hàng hoá, nguyên liệu mà cả những
công ty tư vấn, cung ứng dịch vụ quảng cáo, vận tải..., nói chung là cung cấp
đầu vào của quá trình kinh doanh thương mại. Do đặc điểm của kinh doanh
thương mại chủ yếu mua và bán chứ ít khi trực tiếp tham gia vào sản xuất cho
nên có thể xem nhà cung cấp như mộ
t nguy cơ khi họ đòi hỏi nâng giá hoặc
giảm chất lượng sản phẩm cung cấp sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp
thương mại trong hoạch định và triển khai thực hiện các nội dung của chiến
lược kinh doanh mix khi thực hiện xuất khẩu. Ví dụ như, để thực hiện tốt
chiến lược về sản phẩm xuất khẩu, đòi hỏi phải có sự nỗ l
ực và kết hợp chặt
chẽ của cả nhà sản xuất lẫn doanh nghiệp thương mại. Ngay từ khi xây dựng
chiến lược sản phẩm xuất khẩu cho từng thị trường, ngoài việc xác định nhu
cầu của thị trường, khả năng của các đối thủ cạnh tranh... doanh nghiệp
thương mại còn cần phải xem xét đến khả năng của đối tác quan trọng nữa, đ
ó
là các nhà cung cấp/nhà sản xuất. Doanh nghiệp cần phải biết sản phẩm của
họ có đáp ứng được yêu cầu của thị trường không?, khả năng cung cấp của họ
như thế nào?, công nghệ của họ ra sao?, họ có sẵn sàng thay đổi sản phẩm
theo yêu cầu của mình không?, có thể lựa chọn sản phẩm thay thế của các nhà
cung cấp khác hay phụ thuộc vào sản phẩm chuyên biệ
t của một nhà cung
cấp?... Vì vậy, với tư cách là một mắt xích trong hệ thống phân phối, doanh
nghiệp thương mại cần xây dựng mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ cho nhà sản
xuất về vốn, công nghệ cũng như thông tin, định hướng về sản phẩm...trong
quá trình hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là đối với các nhà sản xuất Việt Nam


Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
18
còn đang rất yếu kém cả về vốn, công nghệ cũng như kiến thức về kinh doanh
xuất khẩu. Cũng cần phải dự trù cả các nguồn cung cấp đa dạng khác nhau.
2.3 Người mua
Các doanh nghiệp thương mại cũng có thể xuất khẩu trực tiếp hoặc xuất
khẩu gián tiếp. Vì vậy, đối với hai hình thức này, người mua là khác nhau.
Cho dù xuất khẩu theo hình thức nào thì người mua cũng ả
nh hưởng rất lớn
đến khả năng bán hàng, tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp.
Thái độ của người mua hàng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh
tranh về giá của doanh nghiệp. Thông thường, người mua hàng yêu cầu giảm
giá hoặc yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm cùng với các dịch vụ đi kèm
phải hoàn hảo hơn. Điều này khiến cho chi phí tăng thêm tạo nguy cơ về giá
cạ
nh tranh. Ngoài ra còn có một số yếu tố khác như người mua có các thị
hiếu, thói quen mua sắm và tiêu dùng các sản phẩm cũng khác nhau, hoặc
mua hàng với số lượng lớn hay nhỏ, mua thường xuyên hoặc theo từng đợt …
Đó là những yếu tố chủ chốt mà doanh nghiệp phải nghiên cứu và dự báo.


KẾT LUẬN CHƯƠNG I

Chương I đã khái quát những yếu tố chính của môi trường kinh doanh
xuất khẩu vì nó có ảnh hưởng quan trọng tới việc hoạch định và thực thi các
chiến lược kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại. Điều cần lưu
ý đối với các doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu là sản phẩm xuất khẩu của
doanh nghiệp phải đúng môi trường của nó. Để có thể thâm nhập và vượ
t qua
các rào cản trên thương trường quốc tế, doanh nghiệp xuất khẩu không những

phải quan tâm tới môi trường kinh tế, chính trị và pháp lý của nước nhập khẩu
mà phải chú trọng nhiều hơn đến môi trường văn hóa và những mô hình tiêu
dùng, phong cách sống và phương thức mua sắm của nước sở tại. Tất nhiên,
trước khi vươn tới thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp cũng cần phải lưu

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
19
tâm đến môi trường trong nước, để hoạt động xuất nhập khẩu phù hợp với chủ
trương chính sách tự do hóa thương mại, tranh thủ được sự hỗ trợ của Nhà
nước trong phát triển hạ tầng cơ sở kinh doanh và hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu
cũng như khai thác được tiềm năng, thế mạnh của doanh nghiệp trong môi
trường tác nghiệp cụ thể.

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
20
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH XUẤT KHẨU
CỦA DOANH NGHIỆP
I- THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM (1991-2002)
1. Thực trạng chung về kinh tế
Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, mở cửa và hội
nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới, nền kinh tế nước ta đã có
sự tăng trưởng rõ rệt. Thời kỳ 1991-1995 GDP tăng bình quân 8,2%; thời kỳ
1996- 2000 tăng 6,9%. Nă
m 2001 GDP tăng 6,8% so với năm 2000 và năm
2002 GDP tăng 7,04% so với năm 2001. Năm 2002, nền kinh tế nước Ta phải
đương đầu với một số khó khăn rất lớn, cả trong nước và ngoài nước. Chính
phủ có nhiều biện pháp cụ thể, tập trung khắc phục hậu quả của thiên tai, hạn
hán, ổn định sản xuất và đời sống dân cư; đẩy mạnh sản xuất công nghiệp,

thúc đẩy xu
ất khẩu, giải quyết một số vấn đề bức xúc của xã hội. (Số liệu chi
tiết tại bảng 1).
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng GDP (% so với năm trước) thời kỳ 1991-2002
Chia ra
Năm Tổng số
Nông, lâm, thuỷ sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ
1991 5,81 2,18 7,71 7,38
1992 8,70 6,88 12,79 7,58
1993 8,08 3,28 12,62 8,64
1994 8,83 3,37 13,39 9,56
1995 9,54 4,80 13,60 9,83
1996 9,34 4,40 14,46 8,80
1997 8,15 4,33 12,62 7,14
1998 5,76 3,53 8,33 5,08
1999 4,77 5,23 7,68 2,25
2000 6,75 4,04 10,07 5,57
2001 6,80 2,70 10,40 6,10
2002 7,04 5,40 14,50 7,00
Nguồn: Kinh tế Việt Nam và thế giới- Thời báo kinh tế Việt Nam
Trong lĩnh vực nông nghiệp, nước ta đã thu được một số kết quả về sản
xuất và xuất khẩu nông sản như: sản lượng lương thực bình quân mỗi năm

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
21
tăng 1,1 triệu tấn. Năm 2001 đạt 34,3 triệu tấn, năm 2002 đạt 36,4 triệu tấn
tăng 2,1 triệu tấn, đưa sản lượng lương thực bình quân đầu người từ 294,9 kg
(1990) lên hơn 450kg năm 2002, từ chỗ thiếu lương thực tiến tới đã có đủ
lương thực tiêu dùng trong nước, có nguồn dự trữ và còn xuất khẩu được với
số lượng lớn. Về xuất kh

ẩu gạo, Việt nam liên tiếp giữ vững vị trí nước đứng
thứ 2 trên thế giới: năm 1999 xuất khẩu 4,5 triệu tấn; năm 2000 xuất khẩu 3,5
triệu tấn gạo; năm 2001 xuất khẩu 3,6 triệu tấn và năm 2002 xuất khẩu 2,8
triệu tấn gạo.
- Sản lượng hàng năm của một số cây công nghiệp tăng khá như cà phê:
20,8%, cao su: 16,7%, chè: 6,2%, Rau: 5,6% và quả 2,4%/năm. Các mặt hàng
như cà phê, cao su và chè đ
ã trở thành 1 trong 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt nam.
- Ngành thuỷ sản tuy chỉ chiếm 10-11% giá trị sản lượng nông nghiệp,
nhưng với mức sản lượng tăng bình quân hàng năm 8,5% đã trở thành một
ngành xuất khẩu chủ lực, chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu nông
nghiệp và khoảng 9-10% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Năm 2002 xuất
khẩu thuỷ hải s
ản đạt 2.024 triệu USD, tăng 13,9% so với năm 2001 và bằng
96,4% kế hoạch năm.
- Ngành lâm nghiệp với việc thực hiện chương trình trồng rừng, chăm
sóc, bảo vệ rừng đạt nhiều kết quả. Trong 8 năm (1991-1998) đã trồng được
1,373 triệu ha rừng, bảo vệ được 9,3 triệu ha rừng hiện có, khoanh nuôi, tái
sinh rừng được 700 nghìn ha. Độ che phủ tăng từ 28,2% (1995) lên khoảng
32% năm 2000. Năm 2002 sả
n xuất lâm nghiệp tăng chậm, ước tính giá trị
sản xuất lâm nghiệp chỉ tăng 0,2% so với năm 2001. Diện tích trồng rừng tập
trung ước tính chỉ bằng 99,1% năm 2001; sản lượng gỗ khai thác tăng 1,3%.
Công tác quản lý rừng chưa được tốt, tình trạng chặt phá rừng vẫn tái diễn và
đặc biệt xảy ra cháy rừng trên phạm vi rộng.
- Kim ngạch xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp đã tăng nhanh. Năm
1990 là 1,106 tỷ USD, năm 1998 là 4,394 tỷ USD, năm 2000 là 4,1 tỷ USD,
chiếm 28,7% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Bình quân thời kỳ 1991-2000


Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
22
tăng 15%. Sản phẩm nông nghiệp Việt Nam có mặt ở thị trường nhiều nước
trong khu vực và thế giới, một số sản phẩm đã chiếm được thị phần lớn trên
thị trường quốc tế như gạo chiếm khoảng 20% thị phần thế giới (sau Thái
Lan); Cà phê chiếm khoảng 10% thị phần thế giới (sau Braxin, Columbia);
Hạt điều đứng thứ 2 chỉ sau
Ấn Độ. Một số sản phẩm nông nghiệp đã xâm
nhập được vào các thị trường Nhật Bản (rau, quả), Hồng Kông, Xingapo (lợn
sữa); Mỹ (dứa hộp); EU (thuỷ sản)…
Các ngành công nghiệp có mức tăng trưởng cao đã tác động tốt đến sự
tăng trưởng GDP của cả nước.
- Công nghiệp quốc doanh được tổ chức sắp xếp lại, đầu tư chiều sâu,
đổi mới thiết bị đã có bước tiến đáng kể. Giá trị sản lượng công nghiệp quốc
doanh tăng bình quân trong 10 năm (1991-2000) là 11,7%, trong đó thời kỳ 5
năm (1991-1995) tăng bình quân 13,4%, thời kỳ 5 năm (1996-2000) tăng bình
quân 10%. Năm 2002 giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,5%, vượt mức kế
hoạch.
- Công nghiệp ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển trong
lĩnh vực mà Nhà nước không cấm với mọi quy mô và trên tất cả
các địa bàn.
Giá trị sản lượng sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh tăng bình quân 10
năm (1991-2000) là 9,15% trong đó thời kỳ 5 năm (1991-1995) tăng bình
quân 10,60% thời kỳ 5 năm (1996-2000) tăng bình quân 7,7%. Năm 2001 đạt
mức tăng 20,3 %, cao nhất từ trước đến nay và cao hơn nhiều so với hai khu
vực còn lại là khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh
trong 10 năm qua, đ
óng góp đáng kể trong việc nâng cao trình độ công
nghiệp, trình độ quản lý và làm đa dạng hóa các sản phẩm của công nghiệp

trên thị trường. Giá trị sản lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài bình quân 10 năm qua tăng 22,3%, trong đó thời kỳ 5 năm (1991-1995)
tăng bình quân 24,20%, thời kỳ 5 năm (1996-2000) tăng 20,4%. Năm 2001
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chỉ đạt mức tăng là 12,1%.

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
23
- Công nghiệp chế tác phát triển khá và chiếm gần 80% giá trị toàn
ngành. Công nghiệp khai thác chiếm khoảng 14%; trong đó công nghiệp khai
thác than, khai thác dầu thô và khí tự nhiên, khai thác quặng kim loại đều phát
triển khá. Công nghiệp điện, ga, nước chiếm khoảng 6%.
- Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động đến
nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá, đáp ứng đầy đủ nhu cầu
trong nước, không những đã thay th
ế được hàng nhập khẩu, tiết kiệm được
ngoại tệ mà còn đóng góp đáng kể vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất
nước.
+ Dầu thô: Sản lượng năm 1990 là 2,7 triệu tấn, 1998 là 12,3 triệu tấn,
1999 là 15 triệu tấn, năm 2000 là 16,3 triệu tấn và năm 2001 đạt 17,6 triệu
tấn. Ngoài ra, bắt đầu từ năm 1995 đã đưa khí đồng hành vào bờ phục vụ phát
đi
ện với sản lượng 1999 đạt 1,2 tỷ m3 và năm 2000 đạt 1,5 tỷ m3. Năm 2002
nước Ta xuất khẩu 16,864 triệu tấn dầu thô, ước đạt 3,270 tỷ USD, tăng 0,8%
về lượng và 4,6% về trị giá. Dầu khí là một trong lĩnh vực có tốc độ phát triển
cao nhất trong toàn ngành công nghiệp và đã trở thành một trong những mặt
hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất.
+ Điện: Các công trình nguồn tăng nhanh, tổng công suấ
t ngành điện
khoảng gần 3.500 Mw, sản lượng điện phát ra năm 1999 tăng gấp hơn 2 lần
so với năm 1990 (Năm 1990 là 8,79 tỷ Kw, năm 1999 là 24,38 tỷ Kw, năm

2000 là 26,6 tỷ Kw). Với công suất và sản lượng điện như hiện nay đã đảm
bảo cung cấp đủ và ổn định cho các nhu cầu của nền kinh tế. Các công trình
lưới điện được đầu tư đồng bộ
và bám sát các mục tiêu quan trọng phục vụ
sản xuất, an ninh quốc phòng cũng như các mục tiêu xã hội. Năm 2000 đạt
mục tiêu 100% số huyện, 80% số xã - phường có điện.
+ Than: từ mức 4,62 triệu tấn than sạch năm 1990, năm 1997 đạt sản
lượng khoảng đạt 11,27 triệu tấn (xuất khẩu trên 3,7 triệu tấn). Do nhu cầu
than trong nước không tăng, tồn kho lớn, thị trường xuất khẩ
u (chủ yếu là
Nhật bản) có biến động nên trong năm 1998 sản lượng phải giảm xuống 10,59

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
24
triệu tấn (xuất khẩu 3,5 triệu tấn). Năm 2000 sản lượng đạt 11 triệu tấn, xuất
khẩu khoảng 3,5 triệu tấn.
+ Thép: Từ hai khu liên hợp luyện cán thép Thái nguyên và Biên hòa
trước đây, Việt Nam đã xây dựng ngành luyện, cán thép khá phong phú, hiện
đại từ các nguồn vốn khác nhau: vốn liên doanh, liên kết, vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn vay … Đến nay, công suất
thiế
t kế vào khoảng gần 2 triệu tấn thép cán; sản lượng thép thương phẩm
năm 1999 là 1,3 triệu tấn và năm 2000 là 1,6 triệu tấn. Sản lượng phôi thép
tương ứng năm 1999 là 250.000 tấn (năm 1990 chỉ sản xuất 140.000 tấn thép
thương phẩm và 100.000 tấn phôi thép). Nhìn chung, hiện nay ngành thép đã
đảm bảo cung cấp đủ các loại thép xây dựng thường cho các nhu cầu tiêu dùng và
sản xuất.
+ Xi măng: Năm 1999 tổng công suất thiết kế
của các nhà máy xi măng
đạt 18 triệu tấn, năm 2000 đạt 22 triệu tấn. Tuy vậy, do thị trường hạn hẹp,

năm 2000 sản xuất chỉ đạt 13,3 triệu tấn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước.
+ Vải: Năm 1990 sản xuất 318 triệu mét, sau đó liên tục giảm sút, đến
năm 1994 còn 222 triệu mét, nhưng sau đó lại tăng dần, đến năm 2000 đạt
379 triệu mét, năm 2001 đạ
t khoảng 387 triệu mét. Sản xuất vải trong nước đã
đáp ứng đầy đủ nhu cầu về các loại vải thông thường và một phần các loại vải
cao cấp cho tiêu dùng trong nước.
2. Thực trạng về xuất khẩu:
a- Qui mô, tốc độ
Tổng hợp số liệu về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt
nam thời kỳ 1991-2002 (bảng 2) cho ta thấy bức tranh về quy mô và t
ốc độ
tăng trưởng xuất, nhập khẩu như sau:
- Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thời kỳ 1991-1995 là 39,879 tỷ USD.
Hai năm 1996-1997 đạt là 38,553 tỷ USD, gần bằng cả thời kỳ 1991-1995.
Năm 1998 là năm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài
chính, tiền tệ khu vực nhưng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn đạt 20,855

Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9
25
tỷ USD trong đó xuất khẩu 9,361 tỷ USD, nhập khẩu là 11,494 tỷ USD. Năm
2000 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 30,09 tỷ USD trong đó xuất khẩu là
14,45 tỷ USD, nhập khẩu là 15,64 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu
người năm 1991 khoảng 30 USD/ người, năm 1997 đạt 116 USD/người và
năm 2000 đạt 180 USD/người. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt
180USD/người, là mức của quốc gia có nền ngoạ
i thương phát triển bình
thường.
- Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm của thời kỳ

1991-1995 là 17,8%. Năm 1998 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài
chính trong khu vực, hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra trong hoàn cảnh hết
sức khó khăn nên kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 1,9% so với năm 1997, năm
2001 tăng 3,8% so với năm 2000 và năm 2002 tăng 10% so với năm 2001.
- Tố
c độ tăng kim ngạch nhập khẩu bình quân hàng năm của thời kỳ
1991-1995 là 24,3%. Năm 2000 kim ngạch nhập khẩu đạt 15,63 tỷ USD lớn
hơn năm 1999 1,13 tỷ USD. Năm 2001 kim ngạch nhập khẩu đạt 16,2 tỷ USD
lớn hơn năm 2000 0,57 tỷ USD. Năm 2002 kim ngạch nhập khẩu đạt 19,3 tỷ
USD lớn hơn năm 2001 3,1 tỷ USD.
Các thành phần kinh tế tham gia trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa cũng có s
ự thay đổi. Ở thời kỳ bao cấp, Nhà nước độc quyền trong hoạt
động ngoại thương, các thành phần kinh tế khác không được tham gia kinh
doanh xuất nhập khẩu. Khi thực hiện chính sách kỳ đổi mới, với việc ban
hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP Nhà nước đã cho phép thương nhân là doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo qui định của pháp luật
được phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký trong
giấ
y chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đặc biệt các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đã tham gia tích cực vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
và có tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch.

×