MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU
Tháng 11 năm 2006 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại thế giới WTO. Có thể nói đây là mốc đánh dấu sự thay đổi lớn trong
tiến trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh sự kiện này, sự phát
triển, mở rộng theo chiều hướng đa dạng hóa, đa phương hóa của nền kinh tế thị
trường đã tạo ra nhiều cơ hội lớn cho các cá nhân, tổ chức kinh tế tại Việt Nam,
đồng thời cũng phải đối mặt với những thử thách và cạnh tranh gay gắt.
Sự hình thành và lớn mạnh của các doanh nghiệp trong và ngồi nước trong
một mơi trường kinh doanh tạo nên nhiều kênh thơng tin tài chính khác nhau.
Nhu cầu sử dụng thơng tin tài chính ngày càng nhiều và đa dạng do đó đặt ra u
cầu cung cấp những thơng tin về tính chính xác và kịp thời ngày càng tăng.
Trong xu thế phát triển tất yếu đó, dịch vụ kiểm tốn là có uy tín nhất trong việc
thẩm định thơng tin tài chính của các doanh nghiệp. Những người quan tâm đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp coi báo cáo kiểm toán là ý kiến cuối cùng
trong việc thẩm định, xác minh tính trung thực, hợp lý của BCTC.
Thực tế cho thấy, yêu cầu đặt ra với dịch vụ kiểm tốn là rất lớn song các
cơng ty kiểm tốn hiện nay đã làm việc thực sự có hiệu quả hay chưa? Có hay
khơng những vụ kiện tụng của khách hàng đối với các cơng ty kiểm tốn? Trong
điều kiện môi trường với những rủi ro ngày càng tăng lên, KTV làm thế nào để
đưa ra kết luận cuối cùng trung thực nhất? Một trong những đầu tiên và quan
trọng nhất để đi báo cáo kiểm tốn chính xác là lập kế hoạch kiểm toán chu đáo.
Việc lập kế hoạch kiểm tốn khơng chỉ xuất phát từ u cầu chính của cuộc kiểm
tốn nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong cơng tác kiểm tốn, cho cuộc
1
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
kiểm tốn mà cịn là ngun tắc cơ bản trong cơng tác kiểm tốn đã được quy
định thành chuẩn mực và đòi hỏi các KTV phải tuân theo đầy đủ nhằm đảm bảo
tiến hành cơng tác kiểm tốn có hiệu quả và chất lượng. Trong đó việc đánh giá
đúng đắn tính trọng yếu và rủi ro kiểm tốn có vai trò đặc biệt quan trọng, là cơ
sở để xây dựng các bước công việc kế tiếp và ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của
tồn cuộc kiểm tốn. Xuất phát từ những điểm trên, tơi đã đi sâu vào tìm hiểu đề
tài: “Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán BCTC”.
Bài viết được chia thành hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập
kế hoạch kiểm toán BCTC
Chương 2: Thực trạng của đánh giá trọng yếu và rủi ro trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm tốn BCTC tại một số cơng ty kiểm toán Việt Nam
2
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
Chương 1
Cơ sở lý luận của việc đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập
kế hoạch kiểm toán BCTC
1.1 Khái quát chung về lập kế hoạch kiểm toán BCTC
1.1.1 Khái niệm lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300: Kiểm toán viên và cơng ty
kiểm tốn phải lập kế hoạch kiểm tốn để đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến
hành một cách có hiệu quả.
Kế hoạch chiến lược: Là định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và
phương pháp tiếp cận chung của cuộc kiểm toán do cấp chỉ đạo vạch ra dựa
trên hiểu biết về tình hình hoạt động và mơi trường kinh doanh của đơn vị được
kiểm toán.
Kế hoạch kiểm toán tổng thể: Là việc cụ thể hoá kế hoạch chiến lược và
phương pháp tiếp cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của
các thủ tục kiểm toán. Mục tiêu của việc lập kế hoạch kiểm tốn tổng thể là để
có thể thực hiện cơng việc kiểm tốn một cách có hiệu quả và theo đúng thời
gian dự kiến.
1.1.2 Ý nghĩa của lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm tốn có
vai trị quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của tồn bộ cuộc
kiểm tốn. Ý nghĩa của giai đoạn này được thể hiện qua một số điểm sau:
- Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên thu thập đầy đủ các bằng chứng
kiểm tốn có giá trị, hạn chế được sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp
lý, nâng cao hiệu quả cơng việc và giữ được uy tín nghề nghiệp.
3
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
- Giúp kiểm toán viên phối hợp với nhau và với các bộ phận liên quan.
- Là căn cứ tránh những bất đồng với khách hàng.
- Là căn cứ để kiểm sốt và đánh giá chất lượng cơng việc kiểm tốn đã và
đang thực hiện.
1.2 Vai trị của việc đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch
kiểm tốn
Bảng 1:Trình tự các bước trong lập kế hoạch kiểm tốn
Chuẩn bị kế hoạch kiểm tốn
Thu thập thơng tin cơ sở
Thu thập thông tin về nghĩa vụ
pháp lý của khách hàng
Đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm
tốn
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội
bộ và đánh giá rủi ro kiểm sốt
Lập kế hoạch kiểm tốn tồn diện
và soạn thảo chương trình kiểm
tốn
Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro: Sau khi thu thập những thơng tin mang tính
khách quan về khách hàng, trong bước này, kiểm toán viên sẽ căn cứ vào các
4
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
thông tin đã thu thập được để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra một chiến lược, kế
hoạch kiểm toán phù hợp.
1.3 Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
1.3.1 Khái niệm trọng yếu
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu” chỉ một sự vật, hiện tượng then
chốt, thiết yếu. Sự vật, hiện tượng hay địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý
nghĩa quan trọng. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu mang một ý nghĩa cụ
thể riêng.
Trong lĩnh vực đầu tư, vấn đề trọng yếu được xác định ngay từ đầu khi
quyết định ngành nghề nào cần được đầu tư, những khâu công việc nào là then
chốt nhằm đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư.
Trong lĩnh vực kế toán, khái niệm “trọng yếu” được nhắc đến là một trong
các nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận. Nguyên tắc trọng yếu yêu cầu chú
trọng đến những vấn đề mang tính thận trọng, quyết định bản chất và nội dung
của sự vật, sự kiện kinh tế phát sinh, không quan tâm đến những yếu tố có ít tác
dụng trong Báo cáo tài chính.
Trong lĩnh vực kiểm tốn, khái niệm trọng yếu thường xuyên được nhắc
đến, được định nghĩa trong rất nhiều các tài liệu về kiểm toán, đặc biệt là kiểm
toán BCTC.
Văn bản chỉ đạo kiểm toán Quốc tế số 25 (IAG 25), do Liên đồn kế tốn
Quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố, định nghĩa: “Trọng yếu là khái niệm về
tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thơng tin tài chính, hoặc là đơn lẻ,
hoặc là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thơng tin này để xét
đốn thì sẽ khơng chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm”.
Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế số 320 (VSA 320) về tính trọng yếu trong
kiểm tốn đã định nghĩa: “ Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót
của thơng tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng
5
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay
sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì
thế tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thơng
tin hữu ích cần phải có”.
Trong chuẩn mực kiểm tốn Việt Nam số 320 (VSA 320): “Tính trọng yếu
trong kiểm toán”, trọng yếu được định nghĩa như sau: “Là thuật ngữ dùng để thể
hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế tốn) trong BCTC. Thơng
tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thơng tin đó hoặc thiếu tính chính
xác của thơng tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC.
Mức trọng yếu tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thơng tin hay của
sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức độ trọng yếu là một ngưỡng,
một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thơng tin cần phải có. Tính
trọng yếu của thông tin phải xem xét trên cả phương diện định lượng và định
tính”.
Trong cuộc sống và một số lĩnh vực, thông thường khái niệm trọng yếu
được hiểu một cách tương đồng với khái niệm trọng tâm, dùng để thể hiện sự
quan trọng, thiết yếu. Trọng tâm của một kế hoạch đầu tư hay một chiến lược
kinh doanh sẽ bao gồm những vấn đề trọng yếu cần ưu tiên giải quyết. Tuy nhiên
về bản chất, hai khái niệm này khơng hồn tồn tương đồng với nhau, Trọng yếu
là khái niệm liên quan đến bản chất của sự vật, hiện tượng nhiều hơn và mang
tính cố hữu nhiều hơn khái niệm trọng tâm. Trong lĩnh vực kiểm toán, khái niệm
trọng yếu và trọng tâm kiểm toán thể hiện sự phân biệt khá rõ ràng. Khái niệm
trọng tâm kiểm toán thường liên quan đến cơng việc thực tế của KTV, đó là
những bước công việc cần thiết và quan trọng mà KTV cần phải chú trọng trong
suốt quá trình tiến hành cuộc kiểm tốn. Trong khi đó khái niệm trọng yếu
thường liên quan trực tiếp đến từng khoản mục, từng phần hành kế tốn, các
thơng tin tài chính và bản chất cụ thể của từng khoản mục, phần hành, thông tin
6
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
đó. Một khoản mục được đánh giá là trọng yếu khi bản thân nó chứa đựng những
sai phạm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyết định của người sử dụng BCTC.
Khái niệm “Trọng yếu” bao hàm hai mặt liên quan đến nhận thức đối
tượng: Quy mô hay tầm cỡ (mặt lượng) và tính hệ trọng (mặt chất) của sai phạm
được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Khi xem xét đối tượng cần quan tâm tới
quy mơ và tính chất của đối tượng. Cũng từ đây cho ta một sự phân biệt giữa tính
trọng yếu và mức trọng yếu. Thơng thường tính trọng yếu được đề cập sẽ gắn
liền với sai phạm. Khi đánh giá tính trọng yếu của một sai phạm tức là đánh giá
sai phạm đó có trọng yếu hay khơng. Đánh giá tính trọng yếu đối với sai phạm
của nội dung kiểm toán cũng được đánh giá trên hai mặt: Quy mơ và tính chất.
Cịn mức trọng yếu là một yếu tố định lượng, đó là một ngưỡng (sai lệch tối đa
có thể chấp nhận được) mà nếu sai phạm vượt q ngưỡng đó thì sẽ làm người
đọc hiểu sai về tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, ảnh hưởng đến
quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu được xác định bởi KTV và
nó sẽ thay đổi tùy thuộc vào từng doanh nghiệp khách hàng cụ thể.
Rõ ràng, khái niệm “Trọng yếu” đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm
toán trên cơ sở khơng bỏ sót các nghiệp vụ có quy mơ lớn và có tính hệ trọng. Vi
phạm ngun tắc này sẽ tạo ra rủi ro kiểm toán.
1.3.2 Khái niệm rủi ro
Theo định nghĩa chung nhất, rủi ro là khái niệm chỉ khả năng mà một sự
kiện không thuận lợi nào đó sẽ xuất hiện. Rủi ro được nhắc đến như một sự ám
chỉ về một điều không chắc chắn, một hậu quả với những tình huống khơng thể
lường trước được, nó có thể xảy ra, nếu xảy ra có thể khơng như chúng ta mong
đợi, hoặc mang lại kết quả không tốt đẹp. Rủi ro ứng với sai lệch giữa dự kiến
với thực tế. Trong lịch sử đã có nhiều quan điểm tranh luận về rủi ro. Theo quan
điểm về rủi ro của Pháp, người ta đơn thuần coi rủi ro chỉ liên quan đến các thiệt
hại – rủi ro khơng đối xứng. Quan điểm của Mỹ thì cho rằng rủi ro liên quan đến
7
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
cả thiệt hại và may mắn – rủi ro đối xứng. Còn sau đây là một số quan điểm
được chọn lọc từ cuốn sách “Bảo hiểm quốc tế, nguyên tắc và thực hành” do Học
viện Hoàng gia Anh xuất bản năm 1993:
- Rủi ro là khả năng xảy ra một số sự kiện không may;
- Rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ;
- Rủi ro là sự không thể đốn trước một tình huống, một khuynh hướng
dẫn đến kết quả thực tế khác với kết quả dự toán;
- Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất;
- Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất;
Những định nghĩa trên là các quan điểm khác nhau, tuy nhiên nghiên cứu
các quan điểm này cho thấy giữa chúng có mối liên hệ logic với nhau.
Theo định nghĩa của nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG 25, Trọng
yếu và rủi ro kiểm toán, “rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà kiểm tốn viên có
thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thơng tin tài chính
và đó là các sai sót nghiêm trọng”.
Những nhận xét không xác đáng chủ yếu theo hướng kiểm tốn viên sẽ kết
luận là các BCTC được trình bày trung thực và hợp lý, do đó cơng bố một ý kiến
chấp nhận hoàn toàn trong khi chúng bị sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm tốn gắn
liền với rủi ro kinh doanh, rủi ro mà kiểm toán viên sẽ phải chịu thiệt hại vì mối
quan hệ với khách hàng, đặc biệt trong trường hợp các báo cáo kiểm toán cung
cấp cho khách hàng là sai. Do vậy để giới hạn rủi ro kinh doanh, kiểm toán viên
phải kiểm soát chặt chẽ rủi ro kiểm toán.
1.3.3 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán và ảnh hưởng của nó đến
phương pháp kiểm tốn trong lập kế hoạch kiểm tốn BCTC
Trọng yếu và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, VSA 320 “Tính
trọng yếu trong kiểm toán” đã quy định: “Khi tiến hành một cuộc kiểm toán, KTV
8
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
phải quan tâm đến tính trọng yếu của thơng tin và mối quan hệ của nó với rủi ro
kiểm tốn”.
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm tốn có mối quan
hệ tỉ lệ nghịch với nhau: mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm tốn càng thấp
và ngược lại. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm tốn càng phải thấp xuống
vì khi giá trị của sai sót càng cao, mức độ ảnh hưởng càng lớn thì khả năng bỏ
qua sai sót đó phải giảm xuống, do đó rủi ro kiểm tốn sẽ thấp. Cịn khi mức
trọng yếu khơng cao, KTV có thể chấp nhận một mức rủi ro kiểm tốn cao hơn
mà khơng gây ra những ảnh hưởng lớn. Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định nội dung, phạm vi, thời gian của các thủ tục kiểm toán thích
hợp.
Khi lập kế hoạch kiểm tốn, nếu KTV xác định mức trọng yếu chấp nhận
được là thấp thì rủi ro kiểm tốn sẽ tăng lên. Khi đó, KTV có thể:
- Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc
thực hiện thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro
kiểm soát; hoặc
- Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm
vi của những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
1.3.4 Bản chất đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong lập kế hoạch
kiểm toán BCTC
1.3.4.1 Bản chất đánh giá trọng yếu trong lập kế hoạch kiểm tốn BCTC
Tính trọng yếu có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc lập kế hoạch kiểm
toán BCTC. SAS 47 đã quy định: “KTV nên xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề
trọng yếu trước khi lập kế hoạch”.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV phải đánh giá mức độ trọng
yếu để ước tính mức độ sai sót của BCTC có thể chấp nhận được, xác định phạm
9
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên BCTC để từ đó
xác định bản chất, thời gian và phạm vi thực hiện các thử nghiệm kiểm tốn.
ISA 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán” quy định: “Khi lập kế hoạch
kiểm toán, KTV phải xem xét đến các nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót
trọng yếu trong BCTC. Đánh giá của KTV về mức trọng yếu liên quan đến số dư
các tài khoản và các loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp KTV xác định được các khoản
mục cần được kiểm tra và quyết định nên áp dụng thủ tục chọn mẫu hay thủ tục
phân tích. Việc đánh giá mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản và các
loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp KTV lựa chọn được những thủ tục kiểm tốn thích
hợp và việc kết hợp các thủ tục kiểm tốn thích hợp đó với nhau sẽ làm giảm được
rủi ro kiểm toán tới mức có thể chấp nhận được”.
VSA 300 “Lập kế hoạch kiểm toán” cũng quy định trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán tổng thể. KTV phải “xác định những vùng kiểm toán trọng yếu
và xác định mức độ trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán”.
Ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu, kết quả đánh giá mức trọng
yếu và rủi ro kiểm tốn của KTV có thể khác với kết quả đánh giá ở các thời
điểm khác nhau trong q trình kiểm tốn. Sự khác nhau này là do sự thay đổi
tình hình thực tế hoặc sự thay đổi về sự hiểu biết của KTV về đơn vị được kiểm
toán dựa trên kết quả kiểm toán đã thu thập được, như: trường hợp lập kế hoạch
kiểm toán trước khi kết thúc năm tài chính, KTV đã đánh giá mức trọng yếu và
rủi ro kiểm toán căn cứ trên dự tính trước kết quả hoạt động và tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Nếu tình hình tài chính thực tế và kết quả hoạt động của
doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể so với dự tính, thì việc đánh giá mức trọng
yếu và rủi ro kiểm toán sẽ có những thay đổi.
Như vậy, KTV cần có một sự hiểu biết đầy đủ về cách đánh giá và vận
dụng tính trọng yếu. Việc đánh giá trọng yếu là một cơng việc xét đốn mang
tính nghề nghiệp của KTV. Để có thể đánh giá tính trọng yếu, KTV cần nhận
10 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
thức được cả hai mặt định lượng (giá trị, quy mơ) và định tính (chất lượng) của
thơng tin mang tính trọng yếu.
Xét trên khía cạnh định lượng, thơng tin được coi là trọng yếu khi sai lệch
trên BCTC đạt đến một giá trị nhất định có thể làm thay đổi quyết định của
người sử dụng BCTC.
Xét trên khía cạnh định tính, các sai phạm dù nhỏ nhưng có thể làm nảy
sinh các vấn đề liên quan có tác động dây chuyền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
mức độ hợp lý và mức độ tin cậy của BCTC. Sự phản ánh thông tin đúng đắn
hay khơng xác đáng của đơn vị có thể làm cho người sử dụng BCTC hiểu sai về
bản chất thơng tin của đơn vị.
Khi xem xét tính trọng yếu cần quan tâm tới vấn đề trọng yếu ở mức tổng
thể BCTC và trong mối quan hệ với các số dư tài khoản trên BCTC. Việc xét
đốn tính trọng yếu có thể chịu tác động bởi các yếu tố như các yêu cầu của pháp
luật, các quy định dưới luật, tác động của các bên quan tâm về các vấn đề liên
quan đến số dư, khoản mục cá biệt của BCTC, và các mối liên hệ giữa các khoản
mục đó. Những yếu tố này tạo ra mức trọng yếu khác nhau tùy thuộc vào đối
tượng được kiểm toán. Do đó đánh giá mức trọng yếu là vấn đề rất khó và phụ
thuộc vào sự xét đốn nghề nghiệp của mỗi KTV trên cả quy mơ (mặt lượng) và
tính hệ trọng (mặt chất) của sai phạm.
Về quy mơ, tính trọng yếu được xem xét trên hai góc độ: quy mơ tuyệt
đối và quy mô tương đối. Quy mô tuyệt đối là một con số tuyệt đối thể hiện mức
quan trọng mà không cần nhắc thêm bất kỳ một yếu tố nào khác. Trong thực tế
rất khó ấn định một con số cụ thể cho những nội dung kiểm toán, nhất là khi nội
dung đó có những sai phạm tiềm ẩn. Có thể quan niệm “một triệu USD hoặc một
con số lớn hơn thì ln coi là con số trọng yếu mà không cần quan tâm tới yếu tố
nào khác”. Tuy nhiên một sai số quy mơ nhất định có thể là trọng yếu đối với
một công ty nhỏ, trong khi cũng cùng sai số đó sẽ khơng trọng yếu với một cơng
11 Trần Hồng Phượng-Kiểm tốn 46B
ty lớn hơn. Vì thế, quy mơ tuyệt đối thường chỉ sử dụng trong q trình xem xét,
phát hiện, ít được sử dụng trong đánh giá. Quy mô tương đối là mối tương quan
giữa đối tượng cần đánh giá với một só gốc. Số gốc được xác định tùy thuộc vào
những tình huống cụ thể.
Bên cạnh việc xem xét riêng biệt quy mô quy mô tuyệt đối và quy mô
tương đối còn phải cân nhắc cả ảnh hưởng lũy kế của đối tượng đang xem xét: có
những sai phạm nếu xét riêng biệt, chúng không đủ mức trọng yếu do quy mô
nhỏ. Tuy nhiên nếu cộng dồn tất cả những sai phạm đó sẽ thấy sự liên quan và
tính hệ thống của sai phạm, khi đó sẽ thấy tính trọng yếu của chúng. Quy mô
trọng yếu được xác định tùy thuộc vào đối tượng kiểm toán cụ thể (Báo cáo tài
chính hay từng khoản mục, chu trình) và khách thể kiểm tốn (có quy mơ khác
nhau)…khi đó quy mơ của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ được đánh giá
bằng con số tuyệt đối mà phải đặt trong tương quan với tồn bộ đối tượng kiểm
tốn. Mặt khác, việc đánh giá tùy thuộc vào điều kiện cụ thể để xem xét riêng
biệt hay cộng dồn các khoản mục, nghiệp vụ.
Về mặt chất, khái niệm trọng yếu gắn với tính hệ trọng của vấn đề xem
xét. Xem xét mặt định tính chỉ cần thiết khi nó ảnh hưởng đến bản chất của
khoản mục hay vấn đề đang được đánh giá. Muốn đánh giá đúng về trọng yếu,
KTV cần xem xét đến bản chất của khoản mục, nghiệp vụ và sai phạm đối với
khoản mục, nghiệp vụ. Với cùng một quy mô tiền tệ, các gian lận thường được
được chú trọng hơn sai sót bởi các gian lận thường làm người ta nghĩ tới tính
trung thực và độ tin cậy của Ban Giám đốc và những người có liên quan. Do đó,
một hành vi gian lận luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô của gian lận là
bao nhiêu.
1.3.4.2 Bản chất đánh giá rủi ro kiểm toán trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV cần đánh giá tổng thể rủi
ro kiểm toán căn cứ vào hiểu biết của KTV về đặc điểm kinh doanh của khách
12 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
hàng cũng như tìm hiểu về ngành nghề, quản lý mơi trường kiểm sốt và hoạt
động. Sự đánh giá như vậy cung cấp thông tin sơ bộ về chiến lược chung đối với
hợp đồng kiểm toán, nhân sự cần thiết cho nhóm kiểm tốn, thời gian kiểm tốn
và khn khổ đánh giá rủi ro kiểm toán cũng như mức trọng yếu áp dụng ở từng
giai đoạn từng loại nghiệp vụ và từng số dư tài khoản và cuối cùng là thiết kế các
thủ tục kiểm tốn thích hợp cho các khoản mục trên BCTC.
1.3.4.3 Vai trò của đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong lập kế hoạch
kiểm toán BCTC.
VSA số 300 “ Lập kế hoạch kiểm toán” cho thấy rõ vai trò của việc xác
định trọng yếu và rủi ro kiểm tốn trong q trình lập kế hoạch: “Kế hoạch kiểm
tốn phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh
trọng yếu của cuộc kiểm toán; phát hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn,
và đảm bảo cuộc kiểm tốn được hồn thành đúng thời hạn”
ISA số 320 quy định: “Khi lập kế hoạch kiểm toán, chuyên gia kiểm
tốn phải cân nhắc xem những nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót trọng
yếu trong BCTC. Đánh giá của chuyên gia kiểm toán về mức độ trọng yếu, liên
quan đến số dư tài khoản cụ thể và các loại nghiệp vụ giúp họ xác định được
khoản mục nào cần kiểm tra và nên sử dụng phương pháp chọn mẫu hay sử dụng
các thủ tục phân tích. Điều này giúp chuyên gia kiểm toán lựa chọn những thủ
tục kiểm tốn, kết hợp những thủ tục kiểm tốn đó lại với nhau có thể sẽ giảm
được rủi ro kiểm tốn tới một mức có thể chấp nhận được.
1.3.5 Quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch kiểm tốn
BCTC
1.3.5.1 Quy trình đánh giá trọng yếu trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Trong giai đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên phải đánh giá mức độ
trọng yếu để ước tính mức độ sai sót của BCTC có thể chấp nhận được, xác định
phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên BCTC để
13 Trần Hồng Phượng-Kiểm tốn 46B
từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi các khảo sát (thử nghiệm) kiểm
toán. Ở đây, KTV cần đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ BCTC và phân bổ
mức đánh giá đó cho từng khoản mục trên BCTC.
1.3.5.1.1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu:
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu và lượng tối đa mà kiểm tốn
viên tin rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến
các quyết định của người sử dụng hay nói cách khác đó là những sai sót có thể
chấp nhận được đối với toàn bộ BCTC.
Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho kiểm tốn viên lập kế
hoạch thu thập bằng chứng kiểm tốn thích hợp. Cụ thể là nếu các kiểm toán
viên ước lượng mức trọng yếu càng thấp, tức là độ chính xác của các số liệu trên
BCTC càng cao, thì số lượng bằng chứng phải thu thập càng nhiều và ngược lại.
Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là một việc làm mang tính chất
xét đốn nghề nghiệp của kiểm tốn viên. Do đó ước lượng ban đầu về tính trọng
yếu khơng cố định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán
viên thấy rằng mức ước lượng ban đầu là quá cao hoặc quá thấp hoặc một trong
các nhân tố dùng để xác định mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu bị thay
đổi.
Khi xây dựng mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu, kiểm tốn viên
cần lưu ý những yếu tố ảnh hưởng sau:
• Tính trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là một đối tượng tuyệt đối,
gắn liền với quy mô của cơng ty khách hàng. Một sai sót với một quy mơ
nhất định có thể là trọng yếu với một công ty nhỏ nhưng không trọng yếu
đối với một công ty lớn hơn. Do vậy việc xác định chỉ dẫn một mức giá trị
cụ thể bằng tiền cho sự ước lượng ban đầu về tính trọng yếu áp dụng cho
tất cả các khách hàng là một điều không thể làm được.
14 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
•
Yếu tố định lượng của tính trọng yếu: Quy mơ sai sót là một yếu tố quan
trọng để xem xét liệu có yếu tố sai sót có trọng yếu hay khơng. Tuy nhiên
do trọng yếu mang tính chất tương đối nên việc có được các cơ sở để
quyết định xem một quy mơ của một sai phạm nào có là trọng yếu hay
không là một điều cần thiết. Thu nhập thuần trước thuế, tài sản lưu động,
tổng vốn dài hạn, nợ ngắn hạn… thường được dùng làm cơ sở đánh giá
tính trọng yếu trong đó thu nhập thuần trước thuế thường là cơ sở quan
trọng nhất vì nó được xem như một khoản mục thông tin then chốt đối với
người sử dụng.
• Yếu tố định tính của trọng yếu: Trong thực tế để đánh giá một sai sót là
trọng yếu hay khơng, kiểm tốn viên phải xem xét đánh giá cả về mặt giá
trị (số lượng) và bản chất (chất lượng) của sai sót đó. Một gian lận ln
được coi là trọng yếu bất kể quy mơ của nó là bao nhiêu.
• Những yếu tố chất lượng cần phải được xem xét khi tiến hành ước lượng
ban đầu về tính trọng yếu.
• Các gian lận thường được xem là quan trọng hơn các sai sót với một quy
mơ tiền tệ bởi các gian lận thường làm người ta nghĩ tới tính trung thực và
độ tin cậy của Ban giám đốc hay những người có liên quan.
• Các sai sót có quy mô nhỏ nhưng lại gây ra tác động dây truyền làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến thông tin trên BCTC thì ln được xem là sai sót
trọng yếu. Đây là sai phạm có tính chất hệ thống.
• Các sai sót làm ảnh hưởng đến thu nhập thì ln là sai phạm trọng yếu. Ví
dụ: Một sai sót khiến cho một khoản lỗ được báo cáo thành một khoản lãi
thì ln được coi là một sai phạm trọng yếu bất kể quy mơ của sai sót này
là bao nhiêu.
1.3.5.1.2 Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục:
15 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
Sau khi kiểm tốn viên đã có những ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
cho tồn bộ BCTC, kiểm toán viên cần phân bổ mức ước lượng này cho từng
khoản mục trên BCTC. Đó chính là sai số có thể chấp nhận được đối với từng
khoản mục.
Mục đích của việc phân bổ này là giúp kiểm toán viên xác định được bằng
chứng kiểm tốn thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí
thấp nhất có thể mà vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót trên BCTC khơng vượt q
mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu.
Do hầu hết các thủ tục kiểm toán tập trung vào các tài khoản trên bảng cân
đối tài sản nên kiểm toán viên thường phân bổ mức ước lượng cho các tài khoản
trên bảng cân đối tài sản thay vì cho các tài khoản trên báo cáo kết quả kinh
doanh. Việc phân bổ được thực hiện theo cả hai chiều hướng mà các sai phạm có
thể diễn ra: đó là tình trạng khai khống (số liệu trên sổ sách lớn hơn thực tế) và
khai thiếu (số liệu trên sổ sách nhỏ hơn thực tế).
Cơ sở để tiến hành phân bổ là bản chất của các khoản mục, đánh giá về rủi
ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kinh nghiệm kiểm toán của kiểm toán viên và
chi phí kiểm tốn đối với từng khoản mục.
1.3.5.2 Đánh giá rủi ro kiểm toán trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Trên cơ sở mức trọng yếu được xác định cho toàn bộ BCTC và phân bổ
cho từng khoản mục, kiểm toán viên cần đánh giá khả năng xảy ra sai sót trọng
yếu ở mức độ tồn bộ BCTC cũng như đối với từng khoản mục để phục vụ cho
việc thiết kế các thủ tục kiểm toán và xây dựng chương trình cho từng khoản
mục.
Những nhận xét khơng xác đáng chủ yếu theo hướng kiểm toán viên sẽ kết
luận là các BCTC được trình bày trung thực và hợp lý, do đó cơng bố một ý kiến
chấp nhận hồn tồn trong khi chúng bị sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán gắn
liền với rủi ro kinh doanh, rủi ro mà kiểm tốn viên sẽ phải chịu thiệt hại vì mối
16 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
quan hệ với khách hàng, đặc biệt trong trường hợp các báo cáo kiểm toán cung
cấp cho khách hàng là sai. Do vậy để giới hạn rủi ro kinh doanh, kiểm toán viên
phải kiểm soát chặt chẽ rủi ro kiểm toán.
Đánh giá rủi ro kiểm toán: Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán mong
muốn (DAR) cho từng khoản mục. Mức rủi ro này được xác định phụ thuộc vào
hai yếu tố:
Mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngoài tin tưởng vào BCTC. Khi
người sử dụng bên ngoài đặt nhiều niềm tin vào các BCTC lớn thì mức độ tác
hại trên phạm vi toàn xã hội sẽ càng lớn nếu có một sai sót khơng được phát hiện
trên BCTC. Do vậy trong trường hợp này, kiểm toán viên cần xác định một mức
rủi ro kiểm toán thấp, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiểm tốn thu thập và tăng
độ chính xác trong các kết luận đưa ra của mình.
Một số yếu tố chỉ ra mức độ mà theo đó các BCTC được người sử dụng
bên ngồi tin tưởng là: quy mô của công ty khách hàng, sự phân phối quyền sở
hữu, bản chất và quy mô của cơng nợ. Các yếu tố này càng lớn thì số lượng
người sử dụng BCTC càng nhiều.
Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm
tốn được cơng bố: Nếu khả năng này càng cao thì kiểm tốn viên phải thiết lập
một mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn so với khách hàng khơng gặp
khó khăn về tài chính. Khi đó kiểm tốn viên cần xác định rủi ro kiểm toán ở
mức độ thấp, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiểm tốn cần thu thập. Điều này
dẫn tới chi phí kiểm tốn tăng lên để giảm thiểu khả năng các vụ kiện mà kiểm
toán viên phải đương đầu tăng lên trong tương lai.
Kiểm toán viên cần đánh giá ba loại kiểm toán sau:
- Rủi ro cố hữu: Là sự nghi ngờ một số dư tài khoản nào đó trong một
khoản nghiệp vụ nào đó mà sai sót có thể xảy ra giả sử rằng khơng có một bước
17 Trần Hồng Phượng-Kiểm tốn 46B
kiểm soát nội bộ liên quan nào. Rủi ro này liên quan đến hoạt động và ngành
nghề kinh doanh của khách hàng.
Để đánh giá rủi ro cố hữu, kiểm toán viên dựa vào các yếu tố ảnh hưởng
sau:
• Bản chất kinh doanh của khách hàng: Rủi ro cố hữu thường bị tăng
lên bởi những đặc thù của ngành nghề kinh doanh mà nó có thể tạo
nên những khó khăn cho kiểm tốn hoặc những khoản khơng chắc
chắn do đó có thể làm tăng những gian lận hoặc những sai sót trên
BCTC. Ví dụ: khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ đặc
biệt khó khăn trong hạch tốn doanh thu, do đó việc kiểm tốn doanh
thu sẽ khó khăn hơn đối với xí nghiệp sản xuất thơng thường.
• Tính trung thực của BGĐ: BGĐ khơng thể xem là hồn toàn trung
thực trong mọi trường hợp. Khi BGĐ bị kiểm sốt bởi một hoặc một
số ít cá nhân thiếu tính trung thực thì khả năng các BCTC bị báo cáo
sai nghiêm trọng sẽ tăng lên rất cao, do vậy việc rủi ro cố hữu được
đánh giá ở mức cao.
• Kết quả các lần kiểm toán trước: Đối với các tài khoản được phát hiện
có sai phạm trong các lần kiểm toán của năm trước, rủi ro cố hữu
được xác định ở mức cao. Lý do nhiều loại sai phạm có tính chất hệ
thống và các đơn vị thường chậm chạp không tiến hành các biện pháp
sửa chữa chúng trên các sai phạm đã xảy ra trong năm trước có thể
vẫn tiếp tục xảy ra trong năm nay.
• Hợp đồng kiểm toán lần đầu và hợp đồng kiểm toán dài hạn: Trong
các hợp đồng kiểm toán lần đầu, kiểm toán viên thường thiếu hiểu biết
và kinh nghiệm về các sai sót của đơn vị khách hàng nên họ thường
đánh giá rủi ro cố hữu cao hơn so với hợp đồng kiểm toán gia hạn.
18 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
• Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên: các nghiệp vụ này có khả
năng bị vào sổ sai nhiều hơn là các nghiệp vụ diễn ra hàng ngày do
khách hàng thiếu kinh nghiệm trong hạch toán các nghiệp vụ đó, do
đó rủi ro cố hữu đối với các tài khoản chứa các tài khoản chứa nghiệp
vụ này thường được đánh giá cao.
• Các ước tính kế tốn: Rủi ro cố hữu của các tài khoản phản ánh các
ước tính kế tốn (dự phịng các khoản phải thu khó địi, dự phòng
giảm giá hàng tồn kho) thường được đánh giá là cao vì việc vào sổ
đúng đắn các khoản mục này khơng những địi hỏi sự hiểu biết về bản
chất các khoản mục, lý thuyết liên quan mà còn cả kinh nghiệm và sự
phán xét chủ quan của người có trách nhiệm.
• Số lượng tiền của các số dư tài khoản: Các tài khoản có số dư bằng
tiền lớn thường được đánh giá là rủi ro cố hữu cao hơn so với tài
khoản có số dư bằng tiền nhỏ.
Do vậy kiểm toán viên cần đánh giá lần lượt các yếu tố trên và quyết định
mức rủi ro cố hữu thích hợp đối với từng khoản mục trên BCTC.
- Rủi ro kiểm soát: Đây là loại rủi ro liên quan đến sự yếu kém của hệ
thống kiểm soát nội bộ. Rủi ro kiểm soát là khả năng xảy ra các sai phạm trọng
yếu do hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng không hoạt động hoặc
hoạt động không hiệu quả do đó đã khơng phát hiện và ngăn chặn các sai phạm
này.
Rủi ro kiểm soát được KTV đánh giá đối với từng khoản mục trên BCTC thường
qua việc tìm hiểu hệ thống kiểm sốt nội bộ của khách hàng đối với khoản mục
này. Rủi ro kiểm soát sẽ ln xuất hiện và khó tránh khỏi những hạn chế cố hữu
của bất kỳ hệ thống kiểm soát nội bộ nào.
19 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
- Rủi ro phát hiện: là khả năng xảy ra các sai sót hoặc gian lận mà khơng
được ngăn chặn hay phát hiện của hệ thống kiểm soát nội bộ và cũng
không được KTV phát hiện thông qua các phương pháp kiểm tốn.
Trong q trình kiểm tốn có thể rủi ro phát hiện do ảnh hưởng của các nhân tố:
Các bước kiểm tốn khơng thích hợp, điều này thường xảy ra đối với
những KTV mới vào nghề, trình độ chuyên mơn chưa cao nên khơng biết được
quy trình hợp lý cho mỗi phần hành.
Phát hiện ra bằng chứng nhưng không nhận thức được sai sót nên thường
đưa ra kết luận sai về phần hành đó cũng như về BCTC. Điều này thường xảy ra
ở bước cuối cùng, có tìm được bằng chứng chứng minh nhưng lại không xác
định được sai sót do kinh nghiệm của KTV chưa nhiều.
Hồn tồn khơng phát hiện ra sai sót do có sự thơng đồng, nghĩa là có
sự nhất trí làm sai các chính sách và chế độ do Ban quản trị đề ra nên trong
trường hợp này KTV rất khó phát hiện gian lận và sai sót.
Rủi ro phát hiện được xác định từ ba loại rủi ro: rủi ro kiểm toán mong
muốn, rủi ro cố hữu và rủi ro kiểm tốn. Vì ba loại rủi ro này thay đổi đối với
từng khoản mục trên BCTC nên rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng kiểm
tốn cần thu thập cũng thay đổi theo.
Mơ hình rủi ro kiểm tốn:
Mối quan hệ giữa rủi ro cố hữu, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện với rủi
ro kiểm tốn được thể hiện qua mơ hình rủi ro kiểm toán như sau:
DAR = IR x CR x DR (1)
DR = AR/ (IR x CR)
Trong đó:
(2)
DAR: Rủi ro kiểm toán
IR: Rủi ro cố hữu
CR: Rủi ro kiểm soát
DR: Rủi ro phát hiện
20 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
Tuy được biểu thị bằng những công thức nhưng đây khơng phải là cơng
thức tốn học thuần túy. Hai cơng thức này chỉ được sử dụng để giúp KTV đánh
giá và xác định mức độ sai sót có thể chấp nhận được làm cơ sở thiết kế các thủ
tục và điều hành cuộc kiểm toán.
Các loại rủi ro kiểm toán có thể được đánh giá cụ thể bằng các con số
theo tỷ lệ phần trăm hoặc được đánh giá một cách khái quát theo yếu tố định tính
như “thấp”, “trung bình”, “cao”.
Cả hai mơ hình rủi ro kiểm tốn cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa rủi
ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Khi rủi ro tiềm tàng là 30%, rủi ro kiểm sốt là
70% sẽ có ảnh hưởng đến rủi ro phát hiện và bằng chứng thu thập như khi rủi ro
tiềm tàng là 70% và rủi ro kiểm soát là 30%. Sự kết hợp giữa rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm sốt chính là sự ước tính cac sai số sau khi xem xét sự tác động của
hệ thống kiểm soát nội bộ. Rủi ro tiềm tàng là sự ước tính sai số trước khi xem
xét ảnh hưởng của kiểm soát nội bộ.
1.3.6 Xác định ảnh hưởng của đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn đến
q trình lập kế hoạch kiểm tốn BCTC
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, căn cứ vào kết quả đánh giá trọng
yếu và các loại rủi ro, KTV thiết kế các thủ tục kiểm toán và xác định lượng
bằng chứng thích hợp cần thu thập. Nếu mức trọng yếu chấp nhận ở mức thấp thì
lượng bằng chứng cần thu thập sẽ nhiều. Trên cơ sở mức rủi ro tiềm tàng, rủi ro
kiểm soát, rủi ro kiểm toán mong muốn xác định mức rủi ro phát hiện phù hợp
để thiết kế chương trình kiểm tốn và xác định lượng bằng chứng cần thu thập.
Có thể tóm tắt việc vận dụng trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong lập kế
hoạch kiểm tốn bằng bảng sau:
Bảng 2: Tóm tắt việc vận dụng trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong lập kế
hoạch kiểm toán.
21 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
- Kết hợp với việc xem xét bản
Xác định tính trọng yếu ở
mức độ tồn bộ BCTC
Tính
trọng yếu
Phân bổ mức trọng yếu
cho từng khoản mục trong
BCTC
chất các khoản mục để lựa chọn
khoản mục kiểm tra.
- Làm cơ sở để phân phối mức
trọng yếu cho từng khoản mục
- Xác định đối tượng chi tiết của
khoản mục cần kiểm tra.
- Xác định thủ tục kiểm tốn thích
hợp.
- Xây dựng kế hoạch chiến lược
về kiểm toán.
- Tổ chức nhân sự kiểm toán và
Xem xét rủi ro kiểm tốn
xác định, thời gian, chi phí kiểm
ở mức độ tồn bộ BCTC
tốn.
- Làm cơ sở đánh giá rủi ro kiểm
Rủi
ro
tốn và tính trọng yếu cho từng
kiểm toán
khoản mục.
Từ mức độ rủi ro kiểm toán chấp nhận
Xem xét rủi ro kiểm toán
ở mức độ từng khoản mục
trong BCTC
được cho từng khoản mục, với kết quả
đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát, xác định mức độ rủi ro phát hiện
thích hợp làm cơ sở thiết kế thủ tục
kiểm toán.
Các mục tiêu kiểm toán là cơ sở để KTV thiết lập những thủ tục kiểm toán
phù hợp với các mục tiêu kiểm toán. Tuy nhiên, khi đi vào từng thủ tục, KTV
còn phải xác định nội dung, thời gian và phạm vi của từng thử nghiệm dựa trên
sự xem xét về mức trọng yếu và đánh giá các rủi ro có liên quan.
22 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
KTV và cơng ty kiểm tốn phải thiết kế và thực hiện các thủ tục kiểm toán
mà nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục này phụ thuộc vào kết quả
đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trong các cơ sở dẫn liệu nhằm thể hiện sự liên
hệ rõ ràng giữa nội dung, lịch trình và phạm vi các thủ tục kiểm toán với việc
đánh giá rủi ro. Khi thiết kế các thủ tục kiểm tốn, KTV và cơng ty kiểm tốn
cần cân nhắc các vấn đề sau:
- Mức độ quan trọng của rủi ro
- Khả năng có thể xảy ra sai sót trọng yếu
- Đặc trưng của loại nghiệp vụ, số dư khoản mục hoặc các giải trình liên
quan.
- Nội dung hoạt động kiểm soát cụ thể mà đơn vị được kiểm toán sử dụng,
đặc biệt là hoạt động kiểm soát này được thực hiện thủ cơng hay tự động
- KTV có kỳ vọng thu thập được bằng chứng kiểm toán để xác định liệu
các hoạt động kiểm sốt của đơn vị có hiệu quả trong việc ngăn chặn,
phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu hay khơng.
23 Trần Hồng Phượng-Kiểm tốn 46B
Chương 2
Thực trạng của đánh giá trọng yếu và rủi ro trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán BCTC tại một số cơng ty kiểm tốn Việt Nam
Đánh giá trọng yếu và rủi ro là công việc được coi trọng nhất trong
giai đoạn lập kế hoạch kiểm tốn vì nó giúp KTV lập kế hoạch và thiết kế
chương trình kiểm toán hiệu quả. Thấy được tầm quan trọng của đánh giá trọng
yếu và rủi ro kiểm tốn, các cơng ty kiểm toán đã và đang ngày càng chú trọng
đến việc hồn thiện quy trình đánh giá cũng như áp dụng nó trong thực tiễn kiểm
tốn. Cơng tác đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm tốn tại một số cơng ty kiểm tốn Việt Nam vì thế đã đạt được
những ưu điểm, cũng như vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế.
2.1 Những kết quả đã đạt được trong thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi
ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán BCTC.
Dựa trên các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, chuẩn mực kiểm toán Quốc
tế và tìm hiểu quy trình của các cơng ty kiểm tốn nước ngồi, các cơng ty kiểm
tốn Việt Nam đã tự xây dựng cho mình một quy trình đánh giá trọng yếu và rủi
ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm tốn. Quy trình đó đã đạt được
ưu điểm về các mặt sau:
24 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
- Xây dựng quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán gồm các bước
rõ ràng, hợp lý.
- Q trình vận dụng các Chuẩn mực kiểm tốn Việt Nam và chuẩn mực
kiểm toán Quốc tế vào thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán.
- Phân công công việc trong đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán.
- Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn được trình bày trên giấy tờ làm
việc.
Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn là một cơng việc rất phức tạp, địi
hỏi trình độ cũng như phán đốn của KTV. Tại các cơng ty kiểm tốn lớn trên
thế giới, đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn được xây dựng thành các quy
trình rất chặt chẽ, dễ sử dụng và mang tính chỉ dẫn cao. Vì thế, công tác đánh giá
của KTV trở nên nhanh gọn nhưng lại khoa học và hiệu quả.
Ngược lại, trong hầu hết các cơng ty kiểm tốn ở Việt Nam hiện nay công
tác đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán thường được thực hiện một cách sơ sài
và chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của các KTV, đặc biệt là đánh giá rủi ro, chỉ
một số Công ty kiểm tốn ở Việt Nam có quy trình chuẩn đánh giá trọng yếu và
rủi ro kiểm toán.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm tốn, để đảm bảo tính chính xác và hiệu
quả của cơng việc thì các cơng ty kiểm tốn phải nghiên cứu và vận dụng một
cách phù hợp các chuẩn mực kiểm tốn. Đối với cơng tác đánh giá trọng yếu và
rủi ro thì chuẩn mực Việt Nam số 400 (VSA 400) “Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ”, Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 (VSA 320) “Tính trọng yếu
trong kiểm tốn”, cũng như chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 320 (ISA 320), số
400 (ISA 400), Văn bản chỉ đạo kiểm soát quốc tế số 29 (IAG 29) “Đánh giá rủi
ro tiềm tàng, rủi ro kiểm sốt và tác động của nó đối với phương pháp kiểm tốn
cơ bản” ln được các KTV chú trọng hàng đầu. Các khái niệm cũng như các
25 Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B