Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Van dung kien thuc lien mon Nuoi giun que xu li rac thai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 24 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI TRƯỜNG THPT SỐ 4 VĂN BÀN. BÀI DỰ THI NUÔI GIUN QUẾ XỬ LÍ RÁC THẢI HỮU CƠ CUNG CẤP THỨC ĂN CHO VẬT NUÔI, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG. - Địa chỉ: Xã Khánh Yên Hạ - Huyện Văn Bàn - Tỉnh Lào Cai - Điện thoại: 01682 563 895 - Email: - Họ và tên học sinh: Hoàng Thị Minh Nguyệt - Lớp 12A1 Trường THPT số 4 Văn Bàn. Văn Bàn, tháng 01 năm 2015.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> NUÔI GIUN QUẾ XỬ LÍ RÁC THẢI HỮU CƠ CUNG CẤP THỨC ĂN CHO VẬT NUÔI, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG. I. Tình huống cần giải quyết là: * Mỗi ngày có hàng trăm, hàng tấn rác hữu cơ như phân trâu bò lợn, phế thải rau củ quả, thân thảo… được thải ra ở các hộ gia đình đặc biệt là các vùng nông thôn Việt Nam gây áp lực lớn đến môi trường. Đó cũng là sự lãng phí rất lớn, bởi phần nhiều số rác thải đó có thể tái sử dụng, vừa có giá trị vật chất, vừa giảm sự phân hủy tạo thành những chất gây ô nhiễm môi trường..

<span class='text_page_counter'>(3)</span>

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Hình ảnh thải phân trâu ở hộ gia đình Ông Hoàng Văn Hùng ở Văn Bàn, Lào Cai. Hình ảnh thải phân thỏ. Hình ảnh chuồng nuôi lợn. Trên đây là hình ảnh chất thải trong chăn nuôi trâu, bò, lợn, thỏ…được thải ra bừa bãi, không có hệ thống xử lí ngay gần nhà ở của người dân thôn Pom Quân – Xã khánh Yên Hạ- Văn Bàn – Lào Cai. Như vậy chỉ nói riêng về đại gia súc, nhiều xã vùng cao nước ta có tới hàng nghìn trâu bò, lượng phân và chất thải tạo ra mỗi ngày lên tới hàng chục tấn, phần lớn là bỏ phí, gây ô nhiễm và làm mất mĩ quan. Xây dựng các cơ sở tái chế rác thải hữu cơ ở vùng nông thôn không phải là việc đơn giản. Trong khi đó, ngành chăn nuôi rất cần prôtêin đểsản xuất thưc ăn và chủ yếu sử dụng bột cá (phần lớn là NK) cho mục đích này. Tuy nhiên, có một khả năng tái sử dụng với hiệu quả cao các chất thải hữu cơ như vậy, bằng cách áp dụng công nghệ enzym phân hủy chất thải để làm thưc ăn nuôi giun quế, sau đó dùng giun quế làm nguồn prôtêin gốc động vật bổ sung thưc ăn chăn nuôi. Phân giun quế và mùn bã sau quá trình nuôi giun là nguồn phân bón hữu cơ rất tốt. Đây là mô hình đòi hỏi đầu tư rất thấp, có thể mở rộng từ từ, phù hợp với cả các hộ nghèo nông thôn; sản xuất bền vững, sạch, thân thiện với môi trường. II. Mục tiêu giải quyết tình huống: + Giảm thiểu ảnh hưởng của chất thải hữu đến môi trường. Tạo môi trường sống trong lành, mĩ quan là tiền đề bảo vệ sưc khỏe cho cộng đồng dân cư..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> + Giảm chi phí trong chăn nuôi, nâng cao thu nhập cho người dân. Đặc biệt là phù hợp với người dân nông thôn. + Tạo nguồn thưc ăn có giá trị dinh dưỡng cao, ổn định, không có hóa chất. + Cải tạo đất trồng, điều hòa dinh dưỡng đất. + Đề ra các biện pháp nuôi giun quế đơn giản, dễ làm mà bất cư hộ nông dân nào cũng có thể làm được. + Tuyên truyền vận động cho người nông dân hiểu giun đất là một nhà máy hóa chất tự nhiên mà chúng ta phải quan tâm. + Giáo dục ý thưc bảo vệ môi trường và sưc khỏe nhân loại cho học sinh và cộng đồng. III. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống: - Thực trạng: Xã Khánh Yên Hạ - Huyện Văn Bàn – Tỉnh Lào Cai là một xã thuần nông, khoảng 98% các hộ gia đình đều chăn nuôi gia súc, gia cầm, 100% các hộ gia đình thải ra các loại rác thải hữu cơ như rau củ quả… Nhưng việc xử lí các loại chất thải này chưa được người dân quan tâm xử lí. Đặc biệt là xử lí bằng phương pháp sinh học – nuôi giun quế. - Để giải quyết tình huống và mục tiêu đặt ra, em đã tìm hiểu và cần đến kiến thưc của các bộ môn liên quan sau: 1. Môn Toán học: - Áp dụng công thưc tính tỉ lệ % thưc ăn cho giun. - Tính chiều cao, chiều dài, chiều rộng của bể nuôi, chiều cao của mái che. 2. Môn sinh học: - Tìm hiểu tập tính sinh sống của giun quế, xây dựng mô hình nuôi giun quế cho phù hợp. - Tìm hiểu quá trình sỉnh sản, sinh trưởng, phát triển của giun quế( Sinh học lớp 11)..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Tìm hiểu quá trình ủ từ phân phân trâu, bò và các loại rác hữu cơ… giúp hạ chi phí thưc ăn chăn nuôi và bảo vệ môi trường ( tài liệu tham khảo mạng internet). - Tìm hiểu tác dụng của việc nuôi giun quế, biết được những ưu điểm của mô hình này.( tài liệu tham khảo mạng internet). - Sự ô nhiễm ảnh hưởng đến cơ thể và tuổi thọ mỗi con người. 3. Môn hóa học: - Tìm hiểu, phân tích các thành phần khoáng chất có trong phân trùn quế cần thiết cho sự phát triển của cây và đặc biệt là cây hấp thụ trực tiếp các khoáng chất như: Magiê, Nitrat, Photpho, Kali, Calci, Nitơ… có trong phân trùn quế. ( tài liệu tham khảo mạng internet). - Hàm lượng các chất có trong giun quế. - Hiểu tính chất của các chất khí CO2, H2S, SO3. - Thành phần hóa học của các chất gây ô nhiễm môi trường. 4. Môn Công nghệ: Các phương pháp chế biến thưc ăn cho vật nuôi từ giun quế ( Công nghệ 10) 5. Môn Ngữ văn: Sử dụng từ ngữ, phương thưc biểu đạt phù hợp với bài văn. Hiểu biết nhưng không tuyên truyền sẽ không có tác dụng. Việc lồng ghép nội dung vào môn GDCD sẽ giúp cho người người, nhà nhà cùng biết về lợi ích của mô hình nuôi giun quế bằng rác thải hữu cơ. Từ đó hình thành lên ý thưc bảo vệ môi trường. IV. Giải pháp giải quyết tình huống: 1. Giải pháp lý thuyết: - Tìm hiểu thực trạng nuôi giun quế ở địa phương. - Nghiên cưu các nguồn thưc ăn cung cấp cho giun quế. - Nghiên cưu lý thuyết về sinh trưởng, sinh sản, phát triển của giun quế, các lợi ích từ việc nuôi giun quế..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Nghiên cưu biện pháp nuôi giun quế hiệu quả, dễ làm đối với nông dân miền núi. - Nghiên cưu về phương pháp ủ phân, rác thải hữu cơ theo kinh nghiệm dân gian và tài liệu khoa học. 2. Giải pháp thực tiễn: - Thử nghiệm thực tiễn về nuôi giun quế bằng phương pháp xây bể xi măng ( Tại hộ Ông: Vi Văn Thương - Thôn Pom Quân – Khánh Yên Hạ - Văn Bàn) và phương pháp nuôi bằng thùng xốp (Tại khu tập thể giáo viên Trwuongf THPT Số 4 Văn bàn). V. Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống: * Quá trình thực hiện: - Tìm hiểu thực trạng thải phân gia súc, gia cầm, … các chất thải hữu cơ trong sinh hoạt hàng ngày tại địa phương ( Xã Khánh Yên Hạ - Văn Bàn – Lào Cai ). - Tìm hiểu các biện pháp xử lí rác thải hữu ( Phân gia súc, gia cầm, rác thải …) thông qua kênh thông tin internet. - Nuôi thử nghiệm giun quế bằng thùng xốp và xây bể xi măng. - Kết luận quá trình nuôi thử nghiệm 1. Tìm hiểu thực trạng xả thải phân trâu, bò,… rác thải hữu cơ ở Khánh Yên Hạ - Văn Bàn – Lào Cai. - Những năm gần đây, ô nhiễm môi trường đã trở thành vấn nạn bưc xúc của nhiều địa phương. Nếu như người dân đô thị phải đối mặt với tình trạng tồn ư rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp, ô nhiễm không khí do khói bụi… thì người dân ở khu vực nông thông, đặc biệt là người ở khu vực miền núi phải “sống chung” với tình trạng ô nhiễm do nhà vệ sinh, do phân gia súc, gia cầm, rác thải hữu cơ, ô nhiễm nguồn nước … - Tình trạng này cũng không tránh khỏi đối với người dân trên địa bàn Xã Khánh Yên Hạ, nơi cư trú của đại đa số là dân tộc tày có truyền thống làm nhà ở là nhà sàn, thuận tiện cho việc nuôi gia súc, gia cầm ngay dưới sàn nhà… Chính vì sự.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> thuận tiện và tập quán sinh hoạt này là nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường sống, gây ra các bệnh về đường hô hấp, giúp các loại bệnh tật dễ phát sinh, đe dọa cuộc sống của người dân. Vấn đề này đã được chính quyền địa phương biết rõ và đã có những quan tâm nhất định nhưng hiệu quả về lâu dài vẫn chưa cao.. Chuồng trâu chưa có hệ thống xử lí phân - Rác thải sinh sinh hoạt: Do trên địa bàn Xã Khánh Yên chưa có bãi rác và hệ thống xử lí rác nên người dân thường xử lí bằng các hình thưc: xả rác xuống mương suối, đốt, chất đống kệ đó…. Gây ra sự ô nhiễm về nguồn nước, không khí, mất thẩm mĩ quan.. Rác được xả bừa bãi ngay tại ngầm Xã Khánh Yên Hạ.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> 2. Tìm hiểu các biện pháp xử lí phân gia súc, gia cầm… rác thải hữu cơ. Có nhiều nguồn tạo nên phế thải hữu cơ, nhưng chiếm tỉ trọng nhiều nhất là rác thải từ sinh hoạt của con người, phế thải chăn nuôi gia súc gia cầm, phế thải từ nông nghiệp và phế liệu công nghiệp từ các nhà máy thực phẩm như chế biến đồ hộp rau củ quả… Phế thải sinh hoạt là những thành phần được loại bỏ từ các gia đình, khu công nghiệp hay các chợ, các siêu thị… Đặc điểm lớn nhất của các loại phế thải hữu cơ là trong thành phần của chúng, các hợp chất hữu cơ, mà trước hết là xenluloza và lignin chiếm tỉ trọng cao nhất, thông thường chiếm đến 40-50% , có nhiều trường hợp chiếm đến 70-80%. Ở vùng miền núi, trong các loại phế thải nói trên thì rác thải từ sinh hoạt và chăn nuôi là phưc tạp, nhiều hơn cả. Sự phưc tạp này không những chỉ ở thành phần cơ học mà còn ở sự quản lí và biện pháp xử lí sao cho phù hợp với mưc sống và tập tục của người dân và điều quan trọng là tạo được sản phẩm có ích cho xã hội. a. Biện pháp chôn lấp: là phương pháp xử lí lâu đời. Ở nhiều nơi, người ta đào một hố sâu để đổ rác, phân thải xuống và lấp lại. sau một thời gian phân, rác chuyển hóa thành mùn, nhưng phương pháp này theo Willson và cộng sự có những nhược điểm sau: - Đòi hỏi nhiều diện tích đất. - Làm giảm thể tích rác ít và thời gian xử lí lâu. - Có mùi hôi thối, sinh ra các khí độc như CH4, H2S, NH3 và nước rác rò rỉ làm ô nhiễm môi trường xung quanh và mạch nước ngầm, ảnh hưởng tới sưc khỏe con người, động vật và cây trồng. - Chịu ảnh hưởng của thời tiết. b. Biện pháp ủ: * Ưu điểm: - Phân thải và rác không bị bỏ đi mà được tái chế thành sản phẩm cung cấp cho nông nghiệp..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Có thể xử lí được nước thải ra từ rác, phân. * Nhược điểm: Tốn diện tích, tăng chi phí do phải mua các loại men vi sinh để ủ. c. Biện pháp đốt: Đối với rác thải hữu cơ là rất khó đốt, gây ô nhiễm môi trường sống. d. Biện pháp thải ra sông ngòi và ra biển: biện pháp này gây ô nhiễm môi trường sống ( Không khí, nguồn nước…), gây mất thẩm mĩ quan. e. Biện pháp ủ phân yếm khí (bioga). * Ưu điểm: Xử lí tốt các loại phân, rác thải hữu cơ. Tận dụng được khí sinh ra. * Nhược điểm: Cần vốn đầu tư lớn ( Khoảng 30 triệu đồng) không phù hợp với người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. g. Biện pháp sử dụng giun quế xử lí các loại phân thải, rác thải hữu cơ. * Ưu điểm: - Dễ làm, dễ thực hiện, chi phí đầu tư ban đầu không lớn phù hợp với người dân.( Quy mô hộ gia đình chỉ cần vài trăm nghìn: Giống giun 35000đ/kg ) - Mặt bằng nuôi giun có thể tận dụng trong vườn nhà, trong chuồng trại cũ, lều tạm hoặc sử dụng các vật liệu đơn giản như chum, thùng xốp, chậu, khay gỗ…. - Thưc ăn để nuôi giun chủ yếu tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có như rác hữu cơ (rau, củ, hoa, quả, vỏ trái cây loại bỏ, rơm rạ, các loại bã đã ép dầu …), phân trâu, bò, thỏ, dê, lợn, gà … rất dồi dào và rẻ tiền..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> - Nuôi giun ít bị bệnh, ít rủi ro, kỹ thuật đơn giản, dễ làm, sớm có thu nhập. Đồng thời nuôi giun tốn ít công chăm sóc. - Phân giun dùng để bón vườn, bón cây cải tạo đất trồng. * Nhược điểm: - Khan hiếm nguồn giống ở địa bàn Văn Bàn – Lào Cai. 3. Nuôi thử nghiệm giun quế 3.1. Nuôi bằng thùng xốp - Địa điểm nuôi thử nghiệm: Tại trường THPT số 4 Văn Bàn - Vật liệu: thùng xốp - Mục đích: Xử lí rác thải hữu cơ ở khu kí túc học sinh và khu tập thể giáo viên. - Nguồn thưc ăn: rau, củ, hoa, quả, vỏ trái cây loại bỏ; cơm thừa… - Kĩ thuật làm thùng xốp để thả giun: + Gồm 2 thùng xốp chồng lên nhau:. Thùng nuôi giun nhìn tổng thể Thùng trên (thùng 1) chia làm 2 ngăn dùng để chưa rác thải được đậy kín thuận lợi cho việc phân hủy rác thải (yếm khí)..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Thùng 1: chưa rác thải chia 2 ngăn. Rác thải được cho vào thùng đựng rác.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Khi rác phân hủy thì dùng que đẩy rác xuống thùng xốp thư 2.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Thùng dưới (thùng 2) chia làm 3 phần: phần 1 dùng để chưa phân giun quế, phần 2 và phần 3 dùng để nuôi giun được đan bằng các que tre.. Phần 1: chưa phân giun.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Phần 2,3: Dùng để nuôi giun.. Thùng nuôi giun đục các lỗ nhỏ để giun thở.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Thả giống vào thùng nuôi giun (thùng 2) - Kết quả nhận thấy sau hơn 2 tháng ( Từ giữa tháng 11/2015 đến hết tháng 1/2016) + Giun sinh sinh trưởng, phát triển nhanh. + Sau hơn 2 tháng giun đã bắt đầu sinh sản, tăng số lượng giun. + Rác thải hữu cơ ở khu tập thể giáo viên và kí túc học sinh được xử lí, tận dụng làm thưc ăn cho giun. + Có giun cung cấp cho mô hình nuôi gà của nhà trường. ( Mô hình trường học nông trại)..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> - Kết luận: Nuôi giun bằng thùng xốp phù hợp với gia đình ở thành thị, nơi diện tích đất ít. 3.1. Nuôi bằng bể xi măng - Địa điểm nuôi thử nghiệm: Tại nhà ông Vi Văn Thương - Vật liệu: Xây bể bằng gạch - Mục đích: Xử lí rác thải hữu cơ, phân trâu bò, thỏ… - Nguồn thưc ăn: Phân trâu, bò, thỏ; rau, củ, hoa, quả, vỏ trái cây loại bỏ… - Kĩ thuật nuôi thả: 3.1.1Chuẩn bị bể nuôi: Xây bể dài 3m; rộng 1,5m; cao 0,5m. đáy bể đổ vữa và có lỗ thoát nước.. Học sinh tiến hành đo và tính thể tích bể nuôi giun 3.1.2. Chuẩn bị thức ăn: Giun có thể sử dụng đa dạng các loại chất hữu cơ như là nguồn dinh dưỡng chính, khi gặp những điều kiện bị cưỡng bưc chúng có thể lấy chất dinh dưỡng từ đất để duy trì sự sống. Chất lượng và số lượng của các chất dinh dưỡng có sẵn không chỉ ảnh hưởng đến mật độ giun mà còn ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và sinh sản của chúng (Edwards và Bohlen,1996). Giun là loài ăn tạp, tuy nhiên không phải bất kì loại thưc ăn nào cũng trở nên yêu thích đối với chúng. Thực tế, giun rất mẫn cảm với các nguồn phân động vật có hàm lượng nước tiểu cao, các loại cây thực vật có vị cay, đắng, chua, chát và có chất độc. Chính vì vậy,.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> chúng ta không nên sử dụng những nguồn chất hữu cơ này làm thưc ăn cho giun. Hiện tại, loại thưc ăn mà giun ưa thích nhất và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất chính là các nguồn phân của các loài nhai lại như: phân trâu bò, phân ngựa, dê, cừu, thỏ… Do vậy, các hộ gia đình có nguồn phân này dồi dào có thể sử dụng làm thưc ăn cho giun trực tiếp mà không cần ủ hoai. Ngược lại, những hộ gia đình không thể tự túc được các nguồn phân trên, có thể sử dụng một số loại chất hữu cơ khác: phân lợn, thân cây chuối, rơm rạ, rau bèo… đem trộn lẫn, ủ cho hoai rồi mới cho giun ăn.. Ủ phân trâu với rau đã loại bỏ Đối với các loại chất hữu cơ không thể sử dụng trực tiếp cho giun ăn, ta bắt buộc phải ủ và phương pháp ủ như sau: Các loại vật liệu trước khi ủ đem trộn lẫn với nhau, chất thành đống (riêng đối với rơm rạ và thân cây chuối trước khi ủ băm thành từng đoạn 5-10cm cho nhanh mục, nếu rơm rạ đã gần mục rồi thì không cần băm cũng được). Khi đánh đống không nên nén nguyên liệu quá chặt để các loại vi khuẩn hiếu khí có thể phát triển nhanh chóng tạo điều kiện cho quá trình phân huỷ được nhanh hơn. Nếu hỗn hợp chất nền khô ta có thể vừa xếp vừa tưới (độ dày khoảng 20cm tưới 1 lần), lớp dưới tưới ít, lớp trên tưới nhiều hơn để có hàm lượng nước khoảng 50-60%. Cư làm như vậy cho đến hết nguyên liệu ta sẽ được một đống ủ hình chóp cầu và cuối cùng chát bùn kín toàn bộ đống ủ. Dùng tấm nilon, bao dưa hay bạt phủ kín để tránh mưa gió. Sau khi ủ khoảng 15 ngày, kiểm tra đống ủ, nếu hỗn hợp nguyên liệu ủ chưa đều ta có thể đảo cho đều, nếu nguyên liệu khô phải tưới nước, dùng cọc tre nhọn có tiết.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> diện 5-10cm xuyên thủng đống ủ từ trên xuống dưới để làm chỗ tưới nước và thông hơi để loại bỏ khí độc. Kiểm tra đống ủ thường xuyên để tiêu diệt kiến và côn trùng có hại (nếu có) đồng thời tưới nước cho đống ủ khi bị khô. Thời gian ủ tốt từ 30-45 ngày hoặc lâu hơn tuỳ thuộc vào loại nguyên liệu đem ủ. Khi nhiệt độ hạ xuống, sờ tay vào đống ủ không thấy nóng tay, nguyên liệu đã hoai mục hoàn toàn và không có mùi hắc, mùi khó chịu là hoàn thành việc ủ thưc ăn. Dùng cào, xẻng phá vỡ đống ủ, làm tơi và trộn đều (nên nhớ là cho ăn đến đâu thì mở rộng đống ủ đến đó chư không nên phá tung đống ủ ngay từ lúc ban đầu, sau khi lấy thưc ăn xong phải đậy lại để tránh mưa gió tác động trực tiếp vào nguyên liệu ủ). Trước khi cho ăn 1-2 ngày, lấy thưc ăn để ở nơi thoáng mát, có mái che, để cho nguội, để hả khí độc nếu có, để xua đuổi kiến và côn trùng có hại, ta sẽ có chất nền thích hợp để nuôi giun. 3.1.3. Kĩ thuật chăm sóc – nuôi dưỡng giun: * Nhiệt độ: Hoạt động, sự chuyển hoá, sinh trưởng, hô hấp và sinh sản của giun chịu ảnh hưởng lớn bởi nhiệt độ. Bình thường giun đất sống trong phạm vi nhiệt độ từ 5-300C (Edwards, C.A. and Lofty, J.R.(1972)). Nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng và sinh sản của giun từ 20-250C (Barley, KP.(1995)). Theo Lofs-Holmin (1995) giun quế sinh trưởng và sinh sản tốt nhất ở nhiệt độ từ 25- 280C. * Độ ẩm: Độ ẩm là nhân tố rất quan trọng cho sự phát triển của giun. Độ ẩm thích hợp nhất đối với giun quế từ 60-70% (Ewards, CA. (1983)). Chúng ta có thể kiểm tra độ ẩm trong ô nuôi bằng cách: dùng tay nắm một ít thưc ăn lấy trong ô nuôi rồi bóp mạnh tay đến khi nào rỉ ra một vài giọt nước. Khi thấy khối chất nền trong ô nuôi khô, dùng ô doa để tưới nước cho khối chất nền. Nước tưới trên ô nuôi phải sạch, không lẫn chất độc, không có mùi hôi. * Độ chiếu sáng: Tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời rất có hại cho giun và có khả năng giết chết giun. Giun né tránh ánh sáng mặt trời, ánh sáng đèn chiếu mạnh, ánh sáng màu xanh và tia tử ngoại nhưng không sợ ánh sáng hồng (Ewards, CA. (2000)). Đây cũng là nguyên nhân làm cho giun sống nơi ẩm ướt và tối tăm nhưng lại có nhiều thưc ăn hơn. * Không khí: Ảnh hưởng đến sinh trưởng, sinh sản của giun chủ yếu là hàm lượng O2 và CO2 có trong không khí. Giun có thể chịu đựng được với nồng độ CO2 từ 0,01-11,5%. Lưu ý đến các chất khí có hại như: Cl2, NH3, H2S, SO2, SO3, CH4. Willis (1995) và Edwards (1998) cho rằng giun quế không thể sống tốt trong chất thải hữu cơ chưa nhiều NH3. * Độ pH: Là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của giun. Giun quế có thể sống và sinh sản tốt trong ngưỡng pH từ 7-8. Vì vậy, thưc ăn cho giun cần được kiểm tra, xử lý sao cho đạt độ pH thích hợp. Có thể dùng quỳ tím để đo pH trong thưc ăn của giun. Chăm sóc - nuôi dưỡng * Khối lượng chất nền ban đầu: Tuỳ theo diện tích ô nuôi và khối lượng giun ban đầu mà ta có thể đưa vào những lượng chất nền khác nhau. Độ dày chất nền ban đầu tốt nhất từ 10-15cm và chất nền phải đảm bảo các yếu tố sau:.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Không dùng các loại lá cây có chưa dầu, có mùi thơm, có chưa chất đắng… để làm chất nền. - Tơi xốp, không dính, có dinh dưỡng và sạch - Dùng phân bò hoặc phân của các loài nhai lại khác làm chất nền là tốt nhất * Thả giống: Giun được chọn làm giống phải khoẻ mạnh, phản xạ nhanh, không sử dụng những con yếu ớt, dị tật. Giun giống được thả thành từng đám khắp bề mặt chất nền hoặc thả theo 1 đường thẳng chính giữa mặt chất nền. Tuỳ theo diện tích ô nuôi mà ta có thể đưa vào những khối lượng giống khác nhau sao cho phù hợp. Nếu diện tích ô nuôi lớn nhưng khối lượng giống đưa vào lại quá ít hoặc ngược lại diện tích ô nuôi nhỏ mà khối lượng giống đưa vào lại quá cao thì đều làm ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, phát triển và tất nhiên là sẽ làm giảm khả năng tạo sinh khối của giun sau này. Hiện tại chúng tôi thấy khối lượng giun giống từ 1-2kg/1m2 ô nuôi là tương đối phù hợp. Thả giống * Che đậy ô nuôi: Dùng tấm chiếu hoặc bao tải đay phủ lên bề mặt chất nền là tốt nhất. Nếu không có ta có thể sử dụng bao dưa tuy nhiên cần phải đục thành nhiều lỗ nhỏ đều nhau trên bề mặt bao để tạo sự thông thoáng và thấm nước tốt hơn. Tấm đậy phải sạch, không dính hoá chất độc và phải có khả năng giữ ẩm tốt. Vào mùa đông khi nhiệt độ thấp có thể phủ thêm lớp rơm lên trên bề mặt của tấm đậy để giữ ấm cho giun và hạn chế sự bốc hơi nước của khối chất nền.. Bể nuôi đuợc che bằng chiếu và lá cọ.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> * Cho ăn và chăm sóc: - Phương pháp cho ăn: Đối với phân bò tươi và các loại phân ủ, trước khi cho ăn 1-2 ngày phải tãi ra để ở nơi khô ráo, thoáng mát, có mái che để loại bỏ khí độc và côn trùng có hại. Khi cho ăn ta dùng tay bóp nhỏ những tảng phân lớn, phân cục và rải đều khắp bề mặt ô nuôi. Độ dày lớp phân mới đưa vào tốt nhất là từ 10-15cm. Cho ăn xong nếu thấy lớp chất nền khô thì phải tưới thêm nước. Sau khi cho ăn khoảng 1 ngày, kiểm tra ô nuôi nếu thấy giun có tấn công lên lượng thưc ăn mới là được. Ngược lại, nếu chúng không tấn công vào thưc ăn mới và có hiện tượng bỏ chạy thì chưng tỏ thưc ăn đã có vấn đề cần phải loại bỏ và thay thế bằng lượng thưc ăn khác.. Cho giun ăn thành đống dày 3-5 cm, mỗi đống cách nhau khoảng 20cm - Lượng thưc ăn sử dụng tại mỗi lô Người ta đã ước tính được rằng lượng thưc ăn/ngày bằng chính khối lượng giun giống thả vào trong ô nuôi. Tuy nhiên tuỳ theo mùa vụ, loại thưc ăn sử dụng… mà lượng thưc ăn cung cấp cho giun sẽ khác nhau nên ta chỉ có thể ước tính khối lượng thưc ăn đưa vào sao cho phù hợp. Tốt nhất ta ước tính để cư 3-4 ngày lại cho giun ăn một lần, không nên cho giun ăn nhiều quá vì sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sự thông thoáng của bề mặt ô nuôi và khả năng sinh sản của giun bởi vì tập tính hoạt động sinh sản của chúng thường diễn ra trên lớp bề mặt chất nền. Giun ăn phân gia súc và đùn phân của nó lên trên mặt. Phân giun tơi như mùn cưa, màu đen. Cần phải kiểm tra định kỳ xem giun đã ăn hết thưc ăn chưa. Khi ta lật tấm đậy lên thấy lớp phân trên bề mặt khối chất nền tơi xốp, nhỏ mịn kết hợp với dùng tay bới lớp phân bên dưới lớp bề mặt (sâu khoảng 5-10cm) nếu không tìm thấy dấu tích của thưc ăn nữa chưng tỏ giun đã ăn hết. Khi thấy giun ăn hết phải bổ sung thưc ăn cho giun ngay, không nên để quá lâu vì nó sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến khả năng sinh trưởng, phát triển và sinh sản của chúng..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> * Tưới nước: Do tập tính của giun thường sống trong môi trường ẩm thấp, hơn nữa nước chiếm tới 75-90% trọng lượng cơ thể giun do đó nước đóng vai trò rất quan trọng đến sự sinh trưởng, sinh sản và phát triển của chúng. Tùy theo mùa vụ và các loại thưc ăn khác nhau mà ta có thể tưới vào chất nền những lượng nước sao cho phù hợp (vào mùa đông tưới ít nước hơn mùa hè, loại thưc ăn có độ ẩm cao tưới ít nước hơn loại thưc ăn có độ ẩm thấp…). Tuy nhiên, thông thường để cho dễ ta có thể kiểm tra bằng cách dùng tay bốc 1 nắm chất nền sau đó bóp cho rỉ ra vài giọt nước là được, tưc là sao cho độ ẩm đạt khoảng 60-70%. * Chống nóng, lạnh: Do đặc điểm là một nước nhiệt đới nóng ẩm nên khí hậu Việt Nam mà đặc biệt là ở Miền Bắc có sự thay đổi rất thất thường trong năm. Điển hình là vào mùa đông trời rất giá rét nhưng vào mùa hè thì trời lại rất nóng bưc, khó chịu. Giun rất nhạy cảm với những thay đổi của điều kiện môi trường sống. Vì vậy chúng ta cần phải có biện pháp tác động để làm giảm sự ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, khí hậu đến sự sinh trưởng và phát triển của chúng. Vào mùa hè khi nhiệt độ lên quá cao (từ 300C trở lên), chúng ta có thể sử dụng các biện pháp sau: - Duy trì lượng nước có ở trong máng thường xuyên - Tưới nước cho ô nuôi, ta không chỉ tưới nước vào bề mặt chất nền mà cần phải tưới nước lên cả thành tường của ô nuôi. - Nếu mái làm bằng brô xi măng ta có thể sử dụng nẹp rơm phủ lên trên mái hoặc bắc giàn trồng các loại cây leo như: mướp, bí, hoa thiên lý…để tạo bóng mát cho giun. Vào mùa đông, khi nhiệt độ môi trường xuống thấp ta phải che chắn kín toàn bộ chuồng nuôi để tránh gió lùa. Hạn chế tưới nước vào chất nền nếu thấy không cần thiết, có thể dùng rơm khô phủ lên trên bề mặt của tấm đậy để sưởi ấm cho giun và làm giảm khả năng bốc hơi nước trong khối chất nền. * Chống thiên địch: Giun là loại thưc ăn được rất nhiều loại vật nuôi và côn trùng ưa thích. Vì thế chúng có rất nhiều kẻ thù. Cho nên trong thực tế chúng ta cần phải thường xuyên quan tâm, theo dõi để có biện pháp ngăn chặn và tiêu diệt các loại kẻ thù nguy hiểm này. Nếu làm tốt khâu này thì khả năng đem lại thành công trong nuôi giun là rất lớn. Qua thực tiễn chúng tôi thấy, loại kẻ thù nguy hiểm nhất và cũng khó phòng chống nhất chính là kiến. Các loại kẻ thù khác như: chuột, cóc, chim…cũng rất nguy hiểm nhưng ta có thể ngăn chặn một cách dễ dàng bằng cách làm khung lưới mắt cáo nhỏ đậy kín lên trên bề mặt của ô nuôi. Để phòng chống kiến đơn giản và hiệu quả, chúng ta có thể sử dụng phương pháp sau: Khi xây dựng chuồng nuôi giun nhất thiết phải làm mương giữ nước bao quanh ô nuôi. Mương có thể làm chìm hay nổi nhưng phải thấp hơn nền của ô nuôi để có thể thấm nước ra bên ngoài khi mà lượng nước trong ô nuôi quá cao. Nòng của mương chỉ cần rộng khoảng 10cm, láng xi măng thật kỹ để đảm bảo sự giữ nước..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Thường xuyên duy trì lượng nước có trong máng để ngăn chặn kiến xâm nhập từ bên ngoài vào. Trước khi cho giun ăn 1-2 ngày phải kiểm tra hố phân, rải đều lượng phân cần cho giun ăn ra để xua đuổi kiến và côn trùng có hại. Nếu làm tốt các khâu này thì khả năng kiến xâm nhập vào trong ô nuôi là rất thấp. Trong trường hợp do có quá nhiều việc hay vì một lý do nào khác mà ta không thường xuyên thăm nom giun được dẫn đến hiện tượng kiến xâm nhập vào trong ô nuôi mà không biết. Đến khi mở ô nuôi ra thấy có rất nhiều kiến ở trong khối chất nền thì ta phải xúc lượng chất nền nơi có nhiều kiến ra bên ngoài để vào tấm bạt hoặc bao dưa. Sau 1 thời gian ngắn kiến sẽ chạy đi hết chỉ còn lại phần phân và giun thôi, ta tiếp tục lọc để lấy giun cho vào trong ô nuôi tiếp, phần phân còn lại tốt nhất nên bỏ đi vì nó vẫn còn lẫn rất nhiều trưng kiến ở trong đó. Nếu tiếp tục sử dụng lượng trưng này có thể nở sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến giun. Tuyệt đối không được sử dụng thuốc diệt kiến, diệt muỗi hoặc các hoá chất khác phun trực tiếp vào phần chất nền có nhiều kiến vì nó có thể làm chết giun hoặc gây ảnh hưởng không tốt đến sự sinh trưởng và phát triển của chúng sau này. 3.3.4. Kĩ thuật thu hoạch giun: Có nhiều phương pháp thu hoạch nhưng nhử mồi là phương pháp hữu hiệu nhất. Sau khi cho giun ăn được 3 ngày, dùng tay hốt trên bề mặt luống, nơi chúng ta đã bỏ phân bò (vì chúng sẽ tập trung vào đây để ăn). Trải tấm nilon ngoài sân trống có ánh nắng càn g tốt . Đổ phần hỗn hợp này lên tấm nilon, sau đó gạt bỏ phần phân giun bên trên lần lượt vì khi giun ra ngoài sợ ánh nắng nên trốn xuống phía dưới cho đến khi chỉ còn giun. Chú ý rằng lớp phân giun bên trên này không nên bỏ làm phân mà cho trở lại luống để tiếp tục nuôi như là sinh khối và giun sẽ được nhân luống rất mau vì trong sinh khối này chưa rất nhiều kén. Đối với việc nuôi giun vào mục đích cải tạo đạm cho vật nuôi ở nhà, nên áp dụng hình thưc thu hoạch “cuốn chiếu”. Trong trường hợp luống đã đầy phân mà chưa làm chuồng mới để nhân giống hoặc vì trời mưa nhiều quá, không thể tách được giun và phơi phân, thì có thể làm như: Xúc toàn bộ sinh khối trong chuồng đổ cao lên qua một bên chuồng, sau đó dùng phên tre để chắn giữ lại, dùng cọc tre để gin giống hoặc vì trời mưa nhiều quá, không thể tách được giun và phơi phân, thì có thể làm như sữ phên. Bỏ thưc ăn mới vào phần bên chuồng trống, giun ngửi được mùi thưc ăn mới và chui qua phần chuồng cũ để sống. Sau 2 tháng nuôi thì thu hoạch, năng suất đạt 8-10kg/m2/tháng..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> VI. Ý nghĩa của việc giải quyết tình huống: + Tận dụng các nguồn phân, rác hữu cơ giảm giá chi phí sản xuất, giảm sự ô nhiễm môi truờng. + Tăng năng suất, giảm chi phí trong chăn nuôi: Làm thưc ăn bổ sung trong chăn nuôi gia súc, gia cầm và thuỷ hải sản. + Cải thiện môi truờng, giảm mưc độ ô nhiễm môi truờng vùng nông thôn hiện nay một cách hữu hiệu. + Giáo dục ý thưc bảo vệ môi trường và sưc khỏe nhân loại cho học sinh + Phù hợp với người dân lao động nghèo hoặc những hộ gia đình thành phố trong việc xử lí rác thải hữu cơ. Việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi truờng từ chất thải trong chăn nuôi vùng nông thôn đặt ra của đề tài có một ý rất lớn với toàn xã hội. Bảo vệ môi truờng sống cho toàn xã hội cũng như cho chính bạn. Vì sưc khỏe của nhân dân, tôi, bạn hãy tuyên truyền và cùng bắt tay nuôi giun xử lí rác thải hữu cơ các bạn nhé. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô Toán – Hóa - Sinh - Văn đã trợ giúp trong quá trình tìm hiểu và hoàn thiện bài viết. TÁC GIẢ. Hoàng Thị Minh Nguyệt.

<span class='text_page_counter'>(25)</span>

×