Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.07 KB, 18 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>I. ĐẶT VẤN ĐỀ Phân môn Tập làm văn có vai trò quan trọng trong việc dạy học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là phân môn có tính chất tổng hợp, là kết quả lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt (gồm: tập đọc, kể chuyện, luyện từ và câu, chính tả; các phân môn này giúp học sinh nâng cao về vốn từ, về câu, về cách xây dựng văn bản). Trong chương trình tiểu học hiện nay, mục tiêu chính của môn Tiếng Việt là hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đặc biệt ở lớp 3, phân môn Tập làm văn rèn bốn kĩ năng: nói, nghe, đọc và viết. Trong giờ Tập làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh đó học sinh còn tập kể lại được những mẫu chuyện được nghe thầy, cô kể trên lớp. Qua từng nội dung bài dạy, phân môn Tập làm văn nhằm bồi dưỡng thái độ ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh tốt đẹp cho học sinh; các nội dung này bắt nguồn từ trong suy nghĩ, trong nhận thức, trong tình cảm và được các em thể hiện qua kết quả bài Tập làm văn mà các em thực hiện bằng lời văn nói và viết. Vì vậy bồi dưỡng, hướng dẫn cho học sinh nói đúng, viết đúng, mạch lạc, rõ ràng và thể hiện cảm xúc của mình qua bài thực hành là hết sức cần thiết; nhiệm vụ đó phụ thuộc phần lớn vào việc dạy Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Để rèn luyện cho các em có kĩ năng nói, viết qua phân môn Tập làm văn đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dung linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ, phù hợp với những nét văn hóa của quê hương Nam Xuân, Nam Đàn và tâm lí lứa tuổi; phù hợp với cách cảm, cách nghĩ, cách tiếp nhận của học sinh để giờ học diễn ra tự nhiên nhẹ nhàng và có hiệu quả. Qua thực tế giảng dạy và thăm lớp dự giờ của đồng nghiệp, tôi thấy có nhiều chỗ băn khoăn, trăn trở; đặc biệt với đối tượng học sinh ở trường tôi, một vùng bán sơn địa của huyện Nam Đàn, điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, nhiều học sinh như là lao động chính trong gia đình, hàng ngày các em chỉ tiếp xúc với việc chăn trâu, cắt cỏ, với ruộng, với vườn… và vốn từ của các em rất hạn chế. Vậy mà, về phương pháp bồi dưỡng vốn từ, về cách khai thác, dẫn dắt học sinh tìm tòi kiến thức và bồi dưỡng phương pháp thể hiện một bài văn cho học sinh nhất là với hai dạng bài: nói và viết còn bộc lộ nhiều vấn đề cần nghiên cứu, trao đổi. Xuất phát từ vấn đề đó nên tôi mạnh dạn viết kinh nghiệm: “Rèn luyện kĩ năng nói - viết qua phân môn Tập làm văn lớp 3, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt”. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> I. Thực trạng việc rèn luyện kĩ năng nói-viết qua phân môn Tập làm văn lớp 3 ở trường Tiểu học Nam Xuân 1. Về giáo viên Qua thực tế dự giờ thăm lớp tôi nhận thấy: - Cách tổ chức các hoạt động trong giờ Tập làm văn có lúc vẫn còn lúng túng; chưa xác định rõ nội dung trọng tâm cần truyền tải đến học sinh, chưa mở rộng kiến thức phù hợp với phong tục tập quán địa phương và sự phát triển chung về văn hóa xã hội của huyện, tỉnh và cả nước, mà phần lớn chỉ biết dựa vào sách giáo viên và thậm chí đi theo sự hướng dẫn trong sách giáo viên để dạy vì vậy về phương pháp bài nào cũng giống bài nào. - Khả năng diễn đạt còn hạn chế, ngôn ngữ chưa được trau chuốt: có lúc còn “bí từ” khi giảng. Kiến thức bài còn bó hẹp hoàn toàn trong sách giáo khoa và chỉ biết nêu lên trình tự trong sách giáo khoa chứ chưa biết khắc sâu, chốt nội dung khi dạy xong một tiết học. Hoặc khi kể cho học sinh nghe nội dung câu chuyện thì vẫn chưa nắm được cốt lõi của chuyện mà còn mang tích chất “đọc chuyện”; chưa thật sự quan tâm đến việc bồi dưỡng vốn từ và phương pháp diễn đạt cho các em (vốn từ là nền tảng vững chắc cho mỗi bài văn hay). - Khi dạy một tiết Tập làm văn, với dạng bài nói-viết, giáo viên chỉ có nêu nội dung mấy câu hỏi ở sách giáo khoa cho học sinh trả lời bằng miệng sau đó yêu cầu học sinh viết về chủ đề đó. Do vậy, hiệu quả giờ dạy chưa cao, học sinh thực hành viết bài chưa hay, chưa sâu. * Nguyên nhân của những hạn chế đó là: - Khi tổ chức các hoạt động trong giờ học, giáo viên chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm. Hình thức tổ chức dạy còn nghèo do giáo viên chưa thực sự đầu tư vào chất lượng bài soạn. - Chưa nghiên cứu nhiều về các phương pháp dạy học mới, phương pháp dạy học tích cực để vận dụng vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo một quy trình áp đặt rập khuôn theo sách hướng dẫn. Việc chuẩn bị có nội dung còn đơn giản, chưa coi trọng việc chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh hồi tưởng, tưởng tượng, liên tưởng... để thể hiện cảm xúc, tình cảm của mình bằng những ngôn từ chân thật, trong sáng của các em. - Việc tổ chức dạy các giờ Tập làm văn (được coi là dạy mẫu) ở trong trường chưa nhiều nên giáo viên chưa có cơ hội để học tâp lẫn nhau nhằm nâng cao năng lực giảng dạy. 2. Việc học của học sinh: - Trường chúng tôi thuộc vùng bán sơn địa, điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn; học sinh chủ yếu là con em nông dân, không chỉ học mà các em còn phải trực.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> tiếp tham gia lao động phụ giúp bố mẹ, nên thời gian tự học rất ít phần nào ảnh hưởng đến kết quả dạy và học. Ở lớp các em thường học theo kiểu chỉ hoạt động theo mẫu và ghi nhớ thông tin nên việc tiếp thu kiến thức còn bị động; bên cạnh đó vốn ngôn ngữ của các em chưa nhiều dẫn đến các em nắm kiến thức không sâu, khó hiểu rõ bản chất của vấn đề. Học sinh mới chỉ dừng lại ở việc viết và nói những câu chuyện có sẵn trong sách giáo khoa, chưa có nhiều vốn từ để có thể viết và nói được các bài văn hay. - Môn tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại học văn, lười suy nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, viết bài qua loa cho xong chuyện. Cách dùng từ, đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý. - Việc tổ chức học tập trên lớp của giáo viên chưa phát huy dược vốn ngôn ngữ vốn có của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin trong học tập cho nên việc kể hoặc thể hiện một bài văn nói các em rất lúng túng. Chính vì những lý do trên nên kĩ năng nói-viết của học sinh lớp 3 trong trường Tiểu học Nam Xuân còn nhiều hạn chế; các em diễn đạt còn lúng túng nhất là những học sinh yếu không nói (viết) được bài. Vậy trong một tiết Tập làm văn, để đạt mục tiêu đề ra ngoài phương pháp của giáo viên, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Học tốt Tập làm văn sẽ giúp học sinh học tốt các môn học khác đồng thời giáo dục các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luỵên khả năng giao tiếp và góp phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng việt, hình thành nhân cách con người Việt Nam. II. Nội dung, biện pháp rèn luyện kĩ năng nói-viết qua phân môn Tập làm văn lớp 3 đã được tôi áp dụng 1. Coi trọng trang bị kiến thức, bồi dưỡng vốn từ thông qua việc lống ghép các phân môn Tiếng Việt và các hoạt động ngoại khóa. Do khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế, trí tưởng tượng không phong phú lại chưa chịu khó rèn luyện, nên đa số các em chỉ biết trình bày đoạn văn một cách hạn hẹp theo nội dung đã gợi ý. Từ đó, trong các bài văn nói – viết của các em còn nghèo nàn về ý, gò ép, thiếu sự hồn nhiên, đôi lúc các em còn trình bày lệch lạc, thiếu chính xác do ít kiến thức về vốn sống. Việc sử dụng và mở rộng vốn từ còn nhiều hạn chế, các em chưa chú ý cách sử dụng từ hoặc trau chuốt thế nào cho từ đó hay hơn trong câu văn. Có một số từ do được nghe và nói trong sinh hoạt hằng ngày thành quen thuộc, các em vẫn vô tư sử dụng trong bài văn của mình. Đặc biệt nhiều em khi viết thì được nhưng lại sử dụng từ địa phương mang tính đặc trưng của Nam Anh và Nam Xuân trong các bài văn nói. Để khắc phục những hạn chế trên, giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt và thông qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa,.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> các hoạt động ngoài giờ lên lớp... để giúp các em trang bị vốn kiến thức cơ bản cần thiết cho mỗi tiết học. Khi dạy các phân môn: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu có nội dung phù hợp tiết Tập làm văn sắp học; giáo viên cần dặn dò hướng dẫn học sinh quan sát, tìm hiểu kĩ đối tượng cần nói đến và ghi chép cụ thể hình ảnh, hoạt động ấy vào sổ tay; với những sự việc hoặc hoạt động các em không được chứng kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến khích các em quan sát qua tranh ảnh, sách báo, trên tivi,…hoặc hỏi những người thân hay trao đổi với bạn bè. Khi được trang bị những kiến thức cơ bản như thế vốn từ của các em không ngừng được bổ sung và học sinh sẽ có những ý tưởng độc lập từ đó các em có thể trình bày được bài văn chân thực, sinh động và sáng tạo. Trong việc trang bị kiến thức cho học sinh, giáo viên không nên áp đặt các em vào một khuôn mẫu nhất định như chỉ định học sinh phải quan sát một bức tranh, một sự vật, con người hay một công việc cụ thể như thế sẽ hạn chế năng lực sáng tạo của các em. Vì vậy, với bất cứ một đề tài nào của một tiết Tập làm văn, giáo viên cần cho học sinh liên hệ mở rộng để các em phát huy được năng lực sáng tạo và mạnh dạn sử dụng vốn ngôn từ mà các em có được trong bài văn của mình. 2. Bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng, nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy và chuẩn bị giáo án, bài giảng chu đáo. Để bài dạy được tiến hành đạt chất lượng, đòi hỏi giáo viên phải chủ động nghiên cứu nội dung, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với bài học, với lứa tuổi, với nhận thức, với suy nghĩ của các em và chuẩn bị giáo án, bài giảng chu đáo theo đúng chuẩn kiến thức kĩ năng mà Bộ Giáo dục và đào tạo đã xác định; đồng thời tiến hành các bước dạy – học như trong sách giáo viên theo trình tự: - Giáo viên giới thiệu bài: - Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài: + Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập + Giáo viên cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa hay hệ thống câu hỏi trong sách giáo viên, hệ thống câu hỏi mà giáo viên đã nghiên cứu và chuẩn bị hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài. + Một hoc sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét - Học sinh tập nói theo tổ (nhóm). - Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét. - Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết. Ví dụ giáo án của một tiết dạy môn Tập làm văn mà tôi đã chuản bị theo chuẩn kiến thức kĩ năng và sách giáo viên Giáo án Tập làm văn.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Tiết 22: NÓI, VIẾT VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRÍ ÓC I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU: - Kể được một vài điều về người lao động trí óc theo gợi ý trong SGK (BT1). - Viết lại được những điều vừa kể thành một đoạn văn ngắn (khoảng 7 câu) (BT2) II. ĐỒ DÙNG DẠY - HỌC: - Tranh minh hoạ về một số trí thức. - Bảng lớp viết gợi ý kể vê một người lao động trí óc. III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC: HOẠT ĐỘNG CỦA GV A. KTBC: B. Bài mới: 1. Giới thiệu bài - ghi đầu bài: 2. H/d làm bài tập: a. Bài tập 1: * Hoạt động 1: tìm hiều bài - GV gọi HS nêu yêu cầu Để HS dễ dàng hơn khi chọn kể về một người lao động trí óc, GV lưu ý các em có thể kể về một người thân trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ chú bác, anh chị,…) ; một người hàng xóm; cũng có thể là người em biết qua đọc truỵên, sách báo, xem phim… - Một HS nói về một người lao động trí óc mà em chọn kể theo gợi ý trong SGK, có thể mở rộng hơn - GV: Các em hãy suy nghĩ và giới thiệu về người mà mình định kể. Người đó tên gì? Làm nghề gì? Ở đâu? Quan hệ thế nào với em? + Em có thích công việc làm như người ấy không? * Hoạt động 2: Tập kể - Tổ chức cho HS tập kể trước lớp - Yêu cầu học sinh tập kể theo cặp. - Mời 4 học sinh đọc bài trước lớp. - GV cùng cả lớp nhận xét, chấm điểm. Nêu những H/S kể tốt, xem đó là những mẫu cho cả lớp rút kinh nghiệm khi viết lại những điều vừa kể.. HOẠT ĐỘNG CỦA HS. - 2 HS nêu yêu cầu BT + gợi ý. - HS kể về một số nghề lao động trí óc.. - HS nói về người lao động trí óc theo gợi ý trong SGK.. VD: Bác sĩ, giáo viên.. - HS nêu.. - HS thi kể lại theo cặp. - 4 HS thi kể trước lớp. (VD về một cách kể: Người lao động trí óc mà em muốn kể chính là bố em. Bố em là giáo viên dạy cấp hai. Công việc hằng ngày của bố là nghiên cứu và giảng bài cho các anh chị. Bố rất yêu thích công việc của mình..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Tối nào em cũng thấy bố say mê đọc sách, đọc báo, hoặc làm việc trên máy vi tính. Nếu hôm sau bố em lên lớp thì em biết ngay vì bố sẽ chuẩn bị bài dạy, đánh xi cho đôi giày đen bóng. Còn mẹ thì dù bận vẫn cố gắng là thật phẳng bộ quần áo cho bố…) - HS nhận xét. - GV nhận xét- ghi điểm. * Hoạt động 3: Viết vào vở b. Bài tập 2: - GV gọi HS nêu yêu cầu - GV nhắc HS viết vào vở rõ ràng, từ 7 đến 10 câu những lời mình vừa kể (cũng có thể viết theo trình tự các câu hỏi gợi ý).. - 2 HS nêu yêu cầu. - Lớp dựa vào những điều đã nói ở bài tập 1 để viết thành một đoạn văn có chủ đề nói về một người lao động trí óc từ 7 – 10 câu .. - GV quan sát, giúp đỡ thêm cho các em. - 5 HS đọc bài của mình trước lớp. - Học sinh nhận xét. - GV nhận xét, ghi điểm. - Thu một số bài chấm điểm. 3. Củng cố- dặn dò: 3. Thường xuyên đổi mới phương pháp dạy - học phù hợp với đối tượng học sinh và nội dung của từng bài; trong đó lấy học sinh làm trung tâm là yêu cầu xuyên suốt của quá trình truyền thụ kiến thức. Tôi xác định để rèn luyện kĩ năng nói-viết cho học sinh lớp 3 qua phân môn Tập làm văn chủ yếu tập trung ở dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề”. Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh kĩ năng diễn đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề nào đó như: Nói viết về thành thị hoặc nông thôn; Kể về gia đình; Kể về một buổi thi đấu... Chúng ta có thể thấy dạng đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tưòng thuật, thuyết minh và phát biểu cảm nghĩ... Vì vậy, tôi luôn coi trọng đổi mới phương pháp và xác định lấy học sinh làm trung tâm của quá trình truyền thụ kiến thức thông qua việc sử dụng “Mạng ý nghĩa” và “bản đồ tư duy” để giúp học sinh tìm kiếm và phát triển khả năng diễn đạt ý tưởng, tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin trong học tập và bổ sung cho nhau về vốn từ trong từng bài học cụ thể. a. Sử dụng “Mạng ý nghĩa” là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm văn. Phương.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của học sinh, giúp các em tạo ra các sản phẩm bằng bài văn nói hoặc viết vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất “cái tôi” của mỗi học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em, cũng như những ý tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học trong sách giáo khoa. Thực hiện phương pháp “Mạng ý nghĩa” tiến hành theo các hoạt động sau: Hoạt động 1: Tìm hiểu đề: Ở mỗi đề bài của loại bài Tập làm văn nói - viết, giáo viên cần giúp học sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập để khi thực hành các em sẽ không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề bài cần luyện tập. Trước hết học sinh phải nắm được hệ thống câu hỏi gợi ý (vì sách giáo khoa lớp 3, bài Tập làm văn nói - viết thường có câu hỏi gợi ý, các câu hỏi này sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn), học sinh phải đọc trước toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; giúp các em định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong trí nhớ đồng thời biết đối tượng đó là ai? là gì? ở đâu? lúc nào?.. vào khung chủ đề (Đây là cơ sở giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc, đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp và sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng lặp, chồng chéo, không có sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn). Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là chúng. Cách tiến hành hoạt động 1: - Trên cơ sở học sinh đã nắm được hệ thống câu hỏi gợi ý, giáo viên tiến hành trò chuyện, khêu gợi (giúp các em hiểu nghĩa của các từ ngữ có trong câu hỏi để học sinh hiểu và trình bày đúng yêu cầu; các từ ngữ này có thể là các từ khó hoặc từ địa phương. Nếu là từ địa phương, có thể cho học sinh sử dụng từ địa phương mình để học sinh làm bài dễ dàng và tự tin hơn) rồi đề nghị học sinh nghĩ về đối tượng là ai? là gì? ở đâu? lúc nào?. - Tạo tình huống khêu gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài. - Kể một mẫu chuyện nhỏ sát chủ đề kết hợp đặt câu hỏi hướng học sinh đến đề tài. Dựa vào các bài đã học, giáo viên kể lại dưới dạng khêu gợi như: Kể về người lao động trí óc, cần cho học sinh hiểu những nghề nào thuộc về lao động trí óc; hay nói về lễ hội, học sinh phải biết những hoạt động diễn ra trong phần lễ và phần hội; hoặc nói về việc làm để bảo vệ môi trường, cần giúp học sinh hiểu bảo vệ môi trường là làm gì? những việc làm đó có gần gũi với các em không? các em đã thực hiện hằng ngày như thế nào?... - Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học sinh tự sưu tầm..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> - Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung cấp) liên quan đến đề tài. - Sử dụng mô hình (khung ngôi nhà, khung ngôi trường...). Trên nền khung giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào . - Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm của học sinh. Hoạt động 2: Tìm ý: Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên đa số bài văn của học sinh lớp 3 có ý tưởng chưa phong phú, chưa sáng tạo, các em thường trình bày hạn hẹp trong khuôn khổ nhất định. Giáo viên cần giúp các em tìm ý để thực hành một bài văn nói- viết hoàn chỉnh về nội dung với những ý tuởng trong sáng, giàu hình ảnh và ngây thơ, chân thật. Để thực hiện được điều đó, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh một cách chặt chẽ từ sự liên tưởng về các sự vật, các hoạt động. Từ đó học sinh dễ dàng tìm ý và diễn đạt bài văn rõ ràng, mạch lạc hơn. Trước hết giúp học sinh hồi tưởng: Trong một tiết Tập làm văn với một đề tài nào đó, học sinh có thể quên một số hình ảnh, sự việc… mà các em đã quan sát hoặc tìm hiểu qua thực tế. Giáo viên khêu gợi cho học sinh nhớ lại bằng những câu hỏi nhỏ có liên quan đến yêu cầu bài tập, phù hợp thực tế (ưu tiên những vấn đề thực tế ở địa phương mà các em đang sống) và trình độ học sinh để các em dễ dàng diễn đạt. (ví dụ: Kể về trận đấu thể thao, giáo viên gợi ý: đó là môn thể thao nào? Do hai đội nào thi đấu? Trận đấu diễn ra vào lúc nào? ở đâu?... hoặc Kể về người lao động trí óc, giáo viên gợi ý: Người em kể là ai? Làm nghề gì? Người ấy độ bao nhiêu tuổi?...). Tiếp theo là giúp học sinh tưởng tượng, liên tưởng: Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung bằng những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý; bài làm như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng đề bài giáo viên nên có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh liên tưởng, tưởng tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết trình bày bài văn giàu hình ảnh, sinh động, sáng tạo. Trí tưởng tượng, liên tưởng ở học sinh lứa tuổi này rất hồn nhiên ngây thơ và ngộ nghĩnh, cho nên để rèn luyện kĩ năng này cho học sinh, giáo viên có thể chuẩn bị những câu, đoạn văn hay cho học sinh tham khảo, học hỏi làm phong phú thêm vốn kiến thức cho các em. Sau khi đã hồi tưởng, tưởng tượng, liên tưởng, học sinh tập trung suy nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ đề và viết ra tất cả những từ ngữ liên quan.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> đến đối tượng ấy mà em biết. Khi tiến hành hoạt động này giáo viên cần sử dụng một trong các bước sau: - Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho học sinh phát triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khêu gợi kinh nghiệm riêng của các em.Ví dụ đối với văn miêu tả, câu hỏi có thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì? Em cảm thấy gì?... - Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể được trình bày dưới nhiễu hình thức khác nhau tuỳ theo nội dung từng bài : Bông hoa, chùm bong bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá... - Học sinh viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. Giáo viên tuyệt đối tránh viết chốt lại một số từ về đề bài. Cần xoá đi những ý đã được ghi lên bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá nhân trong phiếu học tập thì trên bảng chỉ còn lại khung mạng trống. Hoạt động 3: Lập dàn ý : Sắp xếp ý đã có trong mạng. - Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý trình tự chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tích chất mở (đoạn văn miêu tả thì lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu tả chi tiết, cụ thể thì nói sau) - Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự - Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để cả lớp theo dõi việc làm mẫu của một số học sinh. Ngoài khung mạng làm mẫu, Giáo viên vẽ sẵn trên bảng các mạng tương tự và che chúng lại. Sau khi học sinh đã tìm ý và hình thành mạng ý nghĩa trong phiếu bài tập, giáo viên cho một số em lên thể hiện lại ý của mình vào các khung mạng trên bảng. Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới dạng nói hay viết : - Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đôi là tốt nhất. - Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ ngữ xoay quanh mạng ít nhất một câu. - Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học” để giúp học sinh có điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi tìm ý và ý thành bài: + Thu nhập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước. + Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày. + Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu nhập danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo khoa. + Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ hay trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu. Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét: Do tâm lí lứa tuổi nên bài văn thực hành của học sinh lớp 3 tuy có ý tưởng, nhưng vẫn còn nhiều sai sót về diễn đạt như: dùng từ chưa chính xác, ý trùng lắp, các ý trong đoạn văn chưa liên kết nhau nên trình bày chưa rõ ràng mạch lạc. Vì vậy, khi học sinh trình bày, giáo viên phải hết sức chú ý lắng nghe, ghi nhận những ý tưởng hay, ý có sáng tạo của học sinh để khen ngợi; đồng thời phát hiện những sai sót để sửa chữa. Giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể để học sinh làm cơ sở lắng nghe bạn trình bày; phát hiện những từ, ý, câu hay của bạn để học hỏi và những hạn chế của bạn để góp ý, sửa sai. - Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể hiện lại trước lớp rồi tổ chức trao đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội dung và thể loại của đề bài . - Nếu là bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa) Cả hai thể loại nói-viết, phương pháp sửa chữa được thực hiện trong bản nháp của học sinh theo thứ tự: sửa từ, sửa câu, sửa đoạn cụ thể như sau: + Hướng dẫn sửa, chữa từ: Trường hợp học sinh dùng từ chưa chính xác như các từ ngữ chưa phù hợp, nghĩa từ chưa hay hoặc từ thông dụng địa phương… ví dụ: ‘cô giáo em rất chăm chỉ trong giảng dạy”, “cô em thường bận đồ xanh”… khi học sinh phát hiện sai sót đó, giáo viên giúp các em sửa chữa thay đổi từ phù hợp. Đối với từ học sinh dùng trùng lặp nhiều lần trong một câu, ví dụ: “Chị Hà là người hàng xóm của em, chị Hà đang học lớp 5, chị Hà rất tốt với em, chị Hà luôn giúp em học bài…”, giáo viên hướng dẫn học sinh lược bớt từ hoặc dùng từ phù hợp để thay thế. Trong trình bày bài văn viết, học sinh vẫn thường dùng từ ngôn ngữ nói, giáo viên nên hướng dẫn học sinh thay thế bằng từ ngôn ngữ viết trong sáng hơn + Hướng dẫn sửa, chữa đặt câu: Học sinh nói viết câu chưa hay chưa đủ ý, giáo viên cần hướng dẫn học sinh sửa chữa bổ sung ý vào cho đúng; câu dài dòng ý chưa rõ ràng mạch lạc cần cho học sinh sửa sai lượt bỏ ý dư ý trùng lắp. Giáo viên khuyến khích học sinh tự sửa câu văn chưa hay của mình bằng những câu văn hay của bạn..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> + Hướng dẫn sửa, chữa đoạn văn: Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn nếu học sinh trình bày đủ nội dung theo gợi ý đã cho thì bài văn của các em xem như hoàn chỉnh. Nhưng để có một đoạn văn mạch lạc rõ ràng, ý tưởng liên kết chặt chẽ nhau thu hút được người đọc; giáo viên cần giúp các em biết viết đoạn văn có mở và kết đoạn, biết dùng từ liên kết câu, dùng câu liên kết đoạn một cách hợp lí và sáng tạo. Ví dụ với gợi ý kể về trận thi đấu thể thao, từng gợi ý phần mở đoạn có rời rạc, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh liên kết các ý với nhau, khi kể không theo trình tự từng ý nhưng vẫn đảm bảo nội dung và làm cho phần mở đoạn sinh động lôi cuốn người đọc hơn. Hoặc hướng dẫn học sinh dùng những câu mở đầu đoạn văn để nói hoặc kể một cách sáng tạo. Ví dụ Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật: “Tối chủ nhật vừa qua, tại nhà Văn hóa xã có tổ chức buổi ca nhạc mừng xuân mới”; hay Kể về người lao động trí óc: “Cô Kiên ở cạnh nhà em là một y sĩ trẻ tuổi, cô làm việc ở trạm xá xã”. Hoặc “Cô em là giáo viên, suốt chín năm qua cô luôn gắn bó với nghề dạy học”. Khi kể về một việc làm một hoạt động nào đó, giáo viên cần khuyến khích học sinh sử dụng những từ liên kết câu thể hiện trình tự diễn biến của sự việc như: “đầu tiên”; “kế tiếp”; “sau đó”; “cuối cùng”… để đoạn văn gắn kết chặt chẽ, liên tục từng ý với nhau. Do đặc điểm lứa tuổi và trình độ từng đối tượng học sinh không đồng đều nên các em chưa hiểu nhiều về từ, câu liên kết trong đoạn văn viết; vì vậy giáo viên cần hướng dẫn bằng những gợi ý giản đơn, dễ hiểu, có thể cho học sinh khá giỏi làm mẫu để giúp các em trình bày tốt hơn đoạn văn viết của mình. Trong việc hướng dẫn học sinh sửa, chữa bài viết, giáo viên cần đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể giúp học sinh phát hiện những đoạn văn hay, ý tưởng phong phú sáng tạo đồng thời phát hiện những hạn chế còn vấp phải trong bài viết. Từ đó học sinh có sự suy nghĩ để sửa chữa cách diễn đạt ý tưởng trong bài viết của mình một cách hợp lí và sáng tạo. Hoạt động 6: Học sinh viết lại bài Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hoàn chỉnh. Ví dụ minh họa khi sử dụng “Mạng ý nghĩa” Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr92) 1. Chuẩn bị: Phiếu học tập a..Hoàn thành bảng dưới đây Tên bài đọc Quê hương là... Giọng quê ...................................... hương ...................................... Quê hương ...................................... Chi tiết làm em xúc động nhất ........................................................... ........................................................... ............................................................
<span class='text_page_counter'>(12)</span> ..................................... Đất quý, đất ..................................... yêu ..................................... Vẽ hương. quê ...................................... ........................................................... ........................................................... ........................................................... ............................................................ ..................................... ........................................................... b.Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất đồng ý. Qua các bài đọc trên em thấy quê hương: + Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình. + Là nơi mình sinh ra và lớn lên. + Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm. + Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớ thương. c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình: - Quê em ở đâu? - Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? - Cảnh vật đó có gì đáng nhớ? - Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào? 2. Cách tiến hành: Hoạt động 1: Giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý tưởng để nói. Trước hết giáo viên phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm) - Giáo viên treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, giáo viên bổ sung hoàn thành bài tập. Hoạt động 2: học sinh tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà mình đang nghĩ tới. - Giáo viên treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để kích thích học sinh hồi tưởng. - Học sinh làm vào giấy nháp; giáo viên đồng thời gọi hai em làm vào bìa phụ ghi vào khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý học sinh chỉ ghi từ hoặc cụm từ) Ví dụ: ngôi nhà. vườn bách thú. thành phố.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> con sông nông thôn. Quê hương em. cây đa, giếng nước. đường phố. nhà cao tầng. Hoạt động 3: Học sinh đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, giáo viên hướng dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3. - Giáo viên bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp các em điều chỉnh. Hoạt động 4: Học sinh nhìn mạng của mình và nói: Cho hai em nói mẫu trước lớp . Ví dụ : Em sinh ra và lớn lên ở nông thôn. Quê hương em thật là đẹp. Ở đó có cây đa cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà em là con sông quê hương. Em rất thích tắm mình dưới con sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình. Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em thường được bố mẹ dẫn đi xem vườn bách thú, được ngồi trên lưng chú voi con. Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này. - Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung. Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). giáo viên bao quát lớp đặc biệt lưu ý giúp học sinh yếu. Hoạt động 6: Học sinh nói thể hiện trước lớp: - Giáo viên gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp ( không nhìn mạng ý nghĩa). Nếu là học sinh yếu, giáo viên cho học sinh nhìn mạng để nói. - Tổ chức cho học sinh thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến khích học sinh tự tìm đặt thêm câu hỏi mở rộng. giáo viên nhận xét chung. b. Ứng dụng có hiệu quả bản đồ tư duy trong dạy-học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn rèn luyện kĩ năng nói-viết cho học sinh. Cùng với sử dụng “Mạng ý nghĩa” thì sử dụng “Bản đồ tư duy” cũng là phương pháp đem lại hiệu quả thiết thực. Sử dụng “Bản đồ tư duy” là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não; là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng giản đồ ý, tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng thì liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ và.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn. Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều biểu thị toàn bộ cấu trúc chi tiết của một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của đối tượng, sự quan hệ tương hỗ giữa các khái niệm (hay ý) có liên quan và cách liên hệ giữa chúng với nhau bên trong của một vấn đề lớn. Bản đồ tư duy rất dễ nhìn, dễ viết, kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của học sinh, phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não, nó rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic Sử dụng bản đồ tư duy có một sự tác động mạnh mẽ đến nhận thức và cảm xúc của các em nhỏ, giúp các em nắm kiến thức một cách ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc và có những sáng tạo bất ngờ có khi vượt ra khỏi suy nghĩ của giáo viên Để thực hiện phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong dạy môn Tập làm văn lớp 3 nâng cao khả năng nói-viết cho học sinh, giáo viên phải cho học sinh làm quen với một số bản đồ tư duy; sau đó sử dụng hệ thống câu hỏi gợi ý và cùng học sinh xây dựng một bản đồ tư duy theo một chủ đề nào đó. Sau khi xác định rõ chủ đề, giáo viên lấy đó làm chủ đề chính và đặt ở vị trí trung tâm bảng hoặc trang vở của học sinh, rồi đặt câu hỏi tiếp để cùng các em vẽ tiếp các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3... Cách làm là như vậy, tuy nhiên với học sinh lớp 3 tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ ngữ phục vụ cho đề bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ được bản đồ tư duy hoàn chỉnh. Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, giáo viên nên chuẩn bị bản đồ tư duy áp dụng vào giảng dạy. Ví dụ khi dạy bài: “Nói về quê hương” - Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Nói về quê hương. - Học sinh tập trung suy nghĩ về quê hương mình (có thể là thành thị hoặc nông thôn) và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà em đã được học, được nghe, được biết. - Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh biết một số từ ngữ liên quan đến quê hương. Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng. Cụ thể bản đồ tư duy như sau:.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Như vậy ở bài này vị trí trung tâm là hai chữ “quê hương” Nhánh cấp 1: là thành phố và nông thôn Nhánh cấp 2: là các hình ảnh của quê hương (cả thành phố và nông thôn) mà em biết Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu (các từ ngữ phục vụ cho đề bài) để hoàn thành bài nói về quê hương dễ dàng hơn. Ví dụ1: Quê hương em ở thành phố. Ở nơi đây có nhiều nhà cao tầng, xe cộ đông đúc, náo nhiệt. Những ngày nghỉ, em thường được bố mẹ dẫn đi xem công viên, đi siêu thị ăn kem thật là thích. Em rất yêu quê hương của mình. Ví dụ 2: Nông thôn là nơi em sinh ra và lớn lên. Quê hương em thật là đẹp. Ở nơi đây có những con đò chạy trên những dòng sông. Đầu làng có giếng nước trong veo, cây đa cổ thụ tỏa bóng che mát cả một vùng. Những ngày hè nóng nực, em thường được bố mẹ dẫn đi tắm mát dưới dòng sông. Em yêu quý nơi này biết bao. Hoặc khi dạy bài: Kể về gia đình, giáo viên cũng thực hiện các bước như sau: - Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể về gia đình mình cho bạn mới quen biết. - Học sinh tập trung suy nghĩ về gia đình mình và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình. - Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh biết một số từ ngữ liên quan đến gia đình. Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng. Cụ thể bản đồ tư duy như sau:.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Như vậy ở vị trí trung tâm là hai chữ “gia đình” Nhánh cấp 1: là ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em, hạnh phúc Nhánh cấp 2: là các nội dung còn lại liên quan đến gia đình Kết quả đạt được: Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ về việc rèn luyện kĩ năng nói-viết qua phân môn Tập làm văn lớp 3 mà tôi đã áp dụng. Kết quả thu được như sau: - Khi vận dụng các biện pháp trên vào rèn luyện kĩ năng nói-viết, giáo viên cảm thấy giờ học không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua thực hành giao tiếp cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực và thật sự có hiệu quả; học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập cũng như giao tiếp nhất là đối với những học sinh trung bình và yếu. - Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập cho học sinh; đặc biệt khi sử dụng hai phương pháp “Mạng ý nghĩa” và “Bản đồ tư duy”, là những phương pháp rất dễ nhìn, dễ viết, kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của học sinh và là cơ sở để bồi dưỡng vốn từ cho học sinh. Các phương pháp này đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và cảm xúc của các em, giúp các em nắm kiến thức một cách ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc; đồng thời, rèn luyện cho các em cách xác.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic. Cùng với các câu hỏi gợi ý của giáo viên, nhiều em đã có những bài nói, bài viết đạt chất tốt. Học sinh mạnh dạn tự tin hơn trong học tập, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn rõ ràng mạch lạc và giàu hình ảnh. Qua kiểm tra, chất lượng đại trà các bài văn của học sinh trong lớp nâng lên rõ nét. Sau đây là bảng tổng hợp kết quả khảo sát một số nội dung qua các bài Tập làm văn của 25 học sinh lớp tôi khi áp dụng các biện pháp nêu trên. Nội dung khảo sát Biết viết câu, dùng từ hợp lí Biết nói, viết thành câu Biết dùng từ, câu văn có hình ảnh Biết trình bày đoạn văn Bài viết đạt khá trở lên. Kết quả đạt được (Tỉ lệ %) Đầu kì 1 Giữa kì 1 Cuối kì 1 HS TL HS TL HS TL 13 52 15 60 17 68 16 64 17 68 18 72 12 48 13 52 14 56 15 60 16 64 17 68 14 56 16 64 20 80. Với kết quả trên cho thấy, khi dạy môn Tập làm văn rèn luyện kĩ năng nói-viết, thì giáo viên cần có phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh và phải thường xuyên thay đổi phương pháp trong các tiết dạy. Một yêu cầu không thể thiếu là chú ý quan tâm bồi dưỡng vốn từ, bồi dưỡng cách thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, tình cảm của các em, giúp các em tự làm được những bài văn nói-viết với những câu văn rõ ràng, mạch lạc và giàu hình ảnh. Đây cũng chính là những yêu cầu cần đạt được của một bài văn hay. III. KẾT LUẬN VÀ KINH NGHIỆM RÚT RA. Những nội dung biện pháp như trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng trong học kì 1 năm học 2013 – 2014 và đã cho kết quả thật khả quan, đã tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng các bài văn nói-viết. Giờ học sôi nổi hơn, các em tiếp thu bài nhanh hơn. Kết quả lớn nhất là học sinh chững chạc hơn, mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi phát biểu trong các hoạt động học tập, có kĩ năng trong giao tiếp ứng xử; hoặc khi trình bày bài văn nói hay viết của chính mình trước tập thể với lời văn rõ ràng, mạch lạc, súc tích. Vậy, để rèn luyện kĩ năng nói-viết cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt, theo tôi người giáo viên phải có trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Phải luôn tự tìm hiểu nâng cao trình độ chuyên môn, tích cực nghiên cứu bài dạy, nghiên cứu các tài liệu tham khảo, tạp chí, văn bản có liên quan đến chuyên môn và các dạng bài khó.... Trong mỗi tiết dạy cần sử dụng phương pháp và hình thức dạy học phù hợp tác động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của bản thân mình. Qua đó các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học tập đúng đắn thì giờ học mới đạt hiệu quả cao. Muốn vậy, người giáo viên cần lưu ý một số việc sau:.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Nắm vững nội dung chương trình môn Tiếng việt lớp 3, đặc biệt là các bài dạy Tập làm văn có trong chương trình để từ đó xâu chuỗi được các kiến thức cần cung cấp cho học sinh qua các giờ dạy giúp học sinh tích lũy vồn từ. Chuẩn bị kỹ bài dạy và xác định đúng trọng tâm của bài. - Nghiên cứu kĩ và xây dựng hệ thống câu hỏi gợi mở sát với từng chủ đề bài văn và phù hợp với cách cảm, cách nghĩ, cách tiếp nhận của đối tượng học sinh cụ thể khi sử dụng phương pháp “Mạng ý nghĩa” và “Bản đồ tư duy” giúp học sinh có thể nói-viết được các bài văn hay - Giáo viên cần tạo môi trường thân thiện, gần gũi, yêu thương, nắm chắc tâm lý, điều chỉnh hành vi tạo niềm tin cho học sinh mỗi khi các em nói trước tập thể. - Động viên, khuyến khích học sinh tự học, tự tìm tòi; tận tâm sửa chữa sai sót cho học sinh. Tạo thói quen đọc sách báo, truyện phù hợp lứa tuổi, hướng dẫn học sinh ghi chép sổ tay những từ ngữ, câu văn hay các em đọc được. Học sinh tự tin, mạnh dạn - Đối với mỗi dạng bài tập, giáo viên cần xác định đối tượng học sinh yếu và tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài để có biện pháp giúp đỡ kịp thời giúp các em có điều kiện và niềm tin học tiếp các bài học sau. - Động viên khen thưởng kịp thời để gây hứng thú học tập cho học sinh. Tìm hiểu những biện pháp phù hợp với từng nội dung bài học là yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi giáo viên khi lên lớp. Với nội dung sáng kiến kinh nghiệm này tôi mong góp một phần nhỏ bé vào trong kho tàng kinh nghiêm rèn kĩ năng nói-viết qua phân môn Tập làm văn cho học sinh tiểu học nối chung và học sinh lớp 3 nói riêng Tôi xin chân thành cảm ơn!.
<span class='text_page_counter'>(19)</span>