Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (824.66 KB, 90 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT NAM ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN. LÝ THỤY KỲ ( LI RUI QI ). ĐẶC ĐIỂM TIẾP NHẬN TỪ NGỮ TIẾNG ANH TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI). LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC. THÁI NGUYÊN - 2012. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(2)</span> BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT NAM ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN. LÝ THỤY KỲ (LI RUI QI). ĐẶC ĐIỂM TIẾP NHẬN TỪ NGỮ TIẾNG ANH TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI) Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60.22.01. LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC. NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC : GS.TS NGUYỄN VĂN KHANG. THÁI NGUYÊN - 2012. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(3)</span> LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu khảo sát, điều tra, kết luận trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố ở bất kì công trình nào khác.. Tác giả LÝ THỤY KỲ (LI RUI QI ). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(4)</span> LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối tới GS.TS. Nguyễn Văn Khang, trong quá trình học tập và viết luận văn đã tận tụy giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ đạo tôi, giúp tôi có thể hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô, các giáo sư dạy những môn học cho tôi, giúp tôi tăng thêm nhiều kiến thức và học được rất nhiều về ngôn ngữ học. Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo của Trường Đại học Thái Nguyên và Trường Đại học Nông Lâm, đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong thời gian học tập và trong quá trình làm luận văn. Và cuối cùng, tôi xin cảm ơn Học viện Hồng Hà và các bạn học, các bạn đồng nghiệp của tôi đã nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học và bản luận văn này.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(5)</span> i. MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục.................................................................................................... ⅰ. MỞ ĐẦU.......................................................................................... 1. 1. Lý do chọn đề tài..................................................................... 1. 2. Mục đích của luận văn.................................................................... 1. 3.Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................... 1. 4. Phương pháp nghiên cứu................................................................... 2. 5. Cấu trúc của luận văn...................................................................... 2. Nội Dung................................................................................................ 3. Chƣơng 1 Cơ sở lý thuyết của luận văn…………………................... 3. 1.1. Một số vấn đề về lý thuyết vay mượn từ vựng…………….. 3. 1.1.1.Vay mượn từ vựng là hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ... 3. 1.1.2. Vay mượn là sản phẩm của tiếp xúc văn hóa............................... 5. 1.1.3. Vay mượn là sản phẩm tiếp xúc xã hội....................................... 6. 1.2. Khái niệm "từ vay mượn".................................................. 6. 1.2.1. Thuật ngữ ―từ vay mượn‖...................................................... 6. 1.2.2. Quan niệm về từ vay mượn của một số nhà ngôn ngữ học Trung Quốc và Việt Nam............................................................................ 9.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> ii. 1.3. Phân loại từ ngoại lai......................................................... 11. 1.3.1. Cách phân loại từ ngoại lai của Trung Quốc......................... 11. 1.3.2. Cách phân loại của từ ngoại lai Việt Nam.................................... 12. 1.4. Các cách vay mượn từ trong tiếng Hán và tiếng Việt .... 14. 1.4.1. Cách vay mượn từ trong tiếng Hán............................................. 14. 1.4.1.1. Dịch âm (vay mượn phát âm ).................................................. 14. 1.4.1.2. Dịch nghĩa................................................................................ 16. 1.4.1.3. Kết hợp dịch âm và dịch nghĩa................................................ 17. 1.4.1.4. Mượn nguyên dạng của nguyên chữ....................................... 18. 1.4.2. Cách vay mượn từ trong tiếng Việt........................................... 19. 1.5. Tiểu kết…………………………………………………………. 21. Chƣơng 2 Đặc điểm tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh trong tiếng hán hiện đại................................................................................................................ 22. 2.1. Vị trí tiếng Anh.............................................................................. 22. 2.1.1. Vị trí tiếng Anh trên thế giới....................................................... 22 2.1.2. Vị trí tiếng Anh trong tiếng Hán................................................. 25 2.1.3. Nhận xét....................................................................................... 27. 2.2. Đặc điểm Hán hóa các từ mượn Anh............................................. 28. 2.2.1. Nhận xét chung............................................................................ 28. 2.2.2. Hán hóa từ ngữ tiếng Anh ở bình diện ngữ nghĩa...................... 29. 2.2.2.1. Thu hẹp nghĩa.......................................................................... 30.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> iii. 2.2.2.2. Mở rộng nghĩa......................................................................... 32. 2.2.2.3. Mượn và chuyển đổi nội dung ngữ nghĩa cấu tạo thành một từ mới ............................................................................................ 33. 2.2.2.4. Sự phát triển thêm nghĩa mới của các từ mượn tiếng Anh....... 34. 2.2.2.5. Sự chuyển biến sắc thái ý nghĩa của từ..................................... 35. 2.2.2.6. Tiếp nhận toàn bộ nghĩa............................................................ 36. 2.2.2.7. Kết hợp dịch âm và dịch nghĩa..................................................... 37 2.2.3. Ở bình diện ngữ âm và chữ viết.................................................. 37. 2.2.3.1. Sự Hán hóa về số lượng âm tiết................................................ 38. 2.2.3.2. Sự Hán hóa về âm tố , tổ hợp âm tố và kết cấu âm tiết............ 40. 2.2.4. Ở bình diện chữ viết..................................................................... 42. 2.3. Nguyên tắc vay mượn từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán............. 44. 2.4. Chức năng của từ mượn Anh trong tiếng Hán trong tiếng Hán hiện đại............................................................................................................. 48. 2.4.1. Chức năng ngôn ngữ.................................................................. 49. 2.4.2. Chức năng văn hóa.................................................................... 50. 2.4.3. Chức năng năng xã hội ............................................................ 52. 2.4.4. Chức năng tâm lý........................................................... 54. 2.5. Tiểu kết....................................................................................... 56. Chƣơng 3 Đối chiếu đặc điểm tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại...................................................... 59.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> iv. 3.1. Đặt vấn đề………………………………………………………. 59. 3.2. Đối chiếu về cách vay mượn giữa tiếng Hán và tiếng Việt........ 60. 3.3. Đối chiếu về sự Hán hóa và Việt hóa của từ mượn Anh trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại.............................................................. 61. 3.4. Đối chiếu sự quy phạm hóa từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt ..................................................................................... 63. 3.4.1. Quy phạm hóa từ mượn Anh trong tiếng Hán................... 63. 3.4.2. Chuẩn hoá từ mượn Anh trong tiếng Việt........................ 66. 3.4.3. Những nhận xét rút ra………………………………. 69. 3.4.3.1. Ưu điểm của từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt...... 70. 3.4.3.2. Hạn chế của từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt....... 72. 3.5.Tiểu kết. ....................................................................................... 74. Kết Luận............................................................................................... 77. Tài liệu tham khảo.............................................................................. 79.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> 1. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong xu thế toàn cầu hoá, tiếng Anh đang được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Theo đó, các yếu tố của tiếng Anh mà chủ yếu là từ vựng đang xâm nhập ngày càng nhiều vào các ngôn ngữ. Tiếng Hán và tiếng Việt cũng không ngoại lệ. Trong hệ thống từ vựng của tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt có rất nhiều từ ngữ tiếng Anh. Vì thế, luận án này tìm hiểu tình hình sử dụng các từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Việt hiện đại và tiếng Hán hiện đại. 2. MỤC ĐÍCH CỦA LUẬN VĂN Thông qua đối chiếu đặc điểm tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại, luận văn góp phần làm rõ những đặc điểm của từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại, chỉ ra những điểm giống và khác nhau giữa chúng. Từ đó, luận văn chỉ ra ảnh hưởng của tiếng Anh đối với hệ thống từ vựng tiếng Hán và tiếng Việt. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Từ mục đích trên, luận văn đặt những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Giới thiệu những lý thuyết cơ bản về vay mượn từ vựng . - Mô tả những đặc điểm tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại. - Đối chiếu với việc tiếp nhận từ tiếng Anh trong tiếng Việt hiện đại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(10)</span> 2. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp của ngôn ngữ học đối chiếu; phương pháp diễn dịch, quy nạp; và các phương pháp khác như thống kê, phân loại. 5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, gồm ba chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết của luận văn Chƣơng 2: Đặc điểm tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại Chƣơng 3: Đối chiếu đặc điểm tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại Kết Luận Tài liệu tham khảo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(11)</span> 3. NỘI DUNG Chƣơng Ⅰ CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Một số vấn đề về lý thuyết vay mƣợn từ vựng 1.1.1. Vay mượn từ vựng là hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ Từ vay mượn là một thành phần từ vựng phổ biến tổn tại trong các loài ngôn ngữ. Cho nên có thể nói vay mượn từ vựng là hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ. Các ngôn ngữ có thể vay mượn từ vựng lẫn nhau thông qua quá trình tiếp xúc giữa chúng. Có thế nói, không có ngôn ngữ nào là từ bắt đầu đã đầy đủ, hoàn hảo mà đều phải thông qua tiếp xúc và giao lưu để hoàn chỉnh. Theo thống kê, trên thế giới hiện nay có 6800 ngôn ngữ và dường như không có ngôn ngữ nào mà trong hệ thống từ vựng của mình lại không có hiện tượng vay mượn. Các nước muốn tồn tại và phát triển cần phải có sự giao lưu, sự giao lưu này có thể diễn ra trong quan hệ kinh doanh hay buôn bán thường ngày, hoặc trong quá trình vay mượn hay trao đổi những giá trị tinh thần, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo ... Trên cơ sở đó, với tư cách là công cụ giao tiếp, ngôn ngữ tham gia vào quá trình giao lưu và tiếp xúc này. Do từ vựng là một tiểu hệ thống mở của hệ thống ngôn ngữ, nên hiện tượng vay mượn từ vựng trở nên phổ biến. Tiếng Hán trong lịch sử phát triển đã tiếp xúc với nhiều ngôn ngữ, vì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(12)</span> 4. thế, tiếng Hán vay mượn từ vựng từ nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn như, từ tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Mông cổ, tiếng Uây-ua, tiếng Choang, tiếng Tạng... Theo thống kê của Lưu Chính Đàm và Sử Hữu Vi (ngôn ngữ học Trung Quốc), vốn từ vựng tiếng Hán có nguồn gốc từ 84 loại ngôn ngữ, trong đó, số lượng từ vay mượn có 50 từ trở lên gồm trên 15 ngôn ngữ mà đứng đầu là tiếng Anh. Do bối cảnh xã hội lịch sử khác nhau mà các từ vay mượn cũng khác nhau. Chẳng hạn: Thời kì Phật giáo truyền vào Trung Quốc và dần dần trở thành một tôn giáo chủ yếu của xã hội tại Trung Quốc. Theo đó, hàng loạt các từ ngữ Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ xuất hiện trong tiếng Hán. Thời kì cận đại, do những nhà truyền giáo và những thương nhân lần lượt sang Trung Quốc, làm cho tiếng Hán xuất hiện nhiều từ vay mượn của các ngôn ngữ phương Tây như tiếng Anh, tiếng Pháp. Bắt đầu trong thế kỷ 19, do nhu cầu phải dịch các tác phẩm về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, văn hóa phương tây từ các tiếng Anh, tiếng Pháp sang tiếng Hán đã làm cho hàng loạt các từ mang tải các khái niệm này vào trong tiếng Hán. Ví dụ: 咖啡(coffe),可可(coca),吉普车(jeep),沙发(sofa) 芭蕾(ballet) ,香槟(champagne)v.v. Trong tiếng Việt cũng vậy. Hiện nay, trong hệ thống từ vựng của tiếng Việt có nhiều từ mượn từ các nguồn khác nhau như: (1) Những từ ngữ vay mượn có nguồn gốc từ tiếng Hán; (2) Những từ ngữ vay mượn có nguồn gốc từ tiếng Pháp; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(13)</span> 5. (3) Những từ ngữ vay mượn có nguồn gốc từ tiếng Anh; (4) Những từ ngữ vay mượn từ các ngôn ngữ khác (như tiếng Nga tiếng Đức ...); (5) những từ vay mượn từ các ngôn ngữ dân tộc thiểu số của Việt Nam. Do tính đặc thù của từng ngôn ngữ nên số lượng các đơn vị từ vay mượn giữa các ngôn ngữ không giống nhau. Ví dụ, hiện nay trong tiếng Anh có tới 56% đơn vị từ vựng là từ ngoại lai. Trong tiếng Hán chỉ có 1% đơn vị từ ngoại lai. Trong tiếng Việt, số lượng từ mượn tiếng Hán đã chiếm tới 70% của tổng số từ tiếng Việt. Tuy nhiên, những số lượng thống kê của các nước như trên cũng không phải là số lượng chính xác cuối cùng. Bởi vì quá trình giao lưu của các nước và toàn cầu hóa còn chưa kết thúc. Theo sự giao lưu và tiếp xúc đi sâu và mở rộng, cũng theo sự kinh tế, khoa học, văn hóa tư tưởng phát triển không ngừng, số lượng từ mượn của các nước cũng sẽ tiếp tục tăng thêm. 1.1.2. Vay mượn là sản phẩm của tiếp xúc văn hóa Bản chất tiếp xúc ngôn ngữ là tiếp xúc văn hóa. Trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, tuy có khi có những tiếp xúc là bị ép buộc, như bị nước ngoài xâm lược và quân sự chiếm lĩnh, nhưng phần lớn tiếp xúc với các nước xảy ra trong quá trình bình thường như sự giao lưu về khoa học, mậu dịch, giáo dục v.v. Nói một cách rộng hơn cũng có thể nói các tiếp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(14)</span> 6. xúc như trên chính là tiếp xúc văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc. Có thể nhận thấy ngôn ngữ vừa là một bộ phận của văn hóa vừa là công cụ truyền tải văn hóa. Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ chặt chẽ, ngôn ngữ là thành tố thứ nhất của văn hóa, tiếp xúc văn hóa phải nhờ vào tiếp xúc ngôn ngữ. Khi có hiện tượng vay mượn xẩy ra , thông qua các từ mượn –các sản phẩm văn hóa thì có sự giao lưu tiếp xúc giữa các nền văn hóa .Cho nên vay mượn là sản vật của tiếp xúc văn hóa . 1.1.3. Vay mượn là sản vật tiếp xúc xã hội Vay mượn từ phản ánh những nhu cầu của phát triển văn hóa xã hội. Bất cứ ngôn ngữ nào tiếp xúc với ngôn ngữ khác, thường vay mượn những từ vựng trong ngôn ngữ bản thân vốn chưa có. Xã hội luôn vận động, phát triển là động lực cho những khái niệm mới, những từ ngữ mới ra đời, theo đó, sự vay mượn từ vựng giữa các ngôn ngữ sẽ diễn ra thường xuyên, liên tục. Vì thế, vay mượn từ liên quan chặt chẽ với biến động của xã hội .Có thể nói vay mượn là sản phẩm tiếp xúc xã hội .. 1.2. Khái niệm "từ vay mƣợn" 1.2.1. Thuật ngữ “từ vay mượn” Vay mượn vốn là từ ngữ sử dụng trong đời sống hàng ngày, được chuyển dụng làm thuật ngữ ngôn ngữ học . ―Vay‖ : nhận tiền hay vật của người khác để sử dụng với điều kiền sẽ trả lại bằng cái cùng loại ít nhất có số lượng hoặc giá trị tương đương . ―mượn‖: lấy của người khác để dụng trong một thời gian, rồi sẽ trả lại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(15)</span> 7. với sự đồng ý của người đó .Vay mượn là vay nói chung. Cho nên trước hết vay mượn là do không có, thiếu thì phải vay mượn, thiếu cái gì thì phải vay cái đó. Như vậy, trong ngôn ngữ cũng vậy. Trong vốn từ của một ngôn ngữ, nếu thiếu các đơn vị từ vựng thì về lý thuyết có thể vay mượn từ vựng của ngôn ngữ đang có.Ví dụ: Tiếng Hán đã vay mượn các từ vốn chưa có: 巧克力(chocolate)[sô cô la] 咖啡(coffe)[cà phê] 坦克(tank)[xe tăng] v.v. Tiếng Việt đã vay mượn các từ chưa có: ghi-ta (guitar) [吉他] phan (fan) (崇拜者) ma-kê- tinh (market) [超市] v.v. Nhưng còn có một kiểu vay mượn là mượn các đơn vị từ vựng nước ngoài mà bản thân hệ thống từ vựng của ngôn ngữ đó đã có từ biểu thị.Ví dụ: Tiếng Hán hiện nay sử dụng từ ―拜拜 (bye bye) ‖ mặc dù tiếng Hán đã có từ ―再见‖ biểu thị nghĩa đó . Tiếng Hán hiện nay sử dụng từ “巴士‖(bus) biểu thị xe buýt, mặc dù đã có từ ―公共汽车‖ biểu thị nghĩa đó . Hiện nay những người trẻ Trung Quốc khi gặp nhau thích nói ―哈啰‖ (hello) thay thế từ ―你好‖. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(16)</span> 8. Những ví dụ như trên trong tiếng Hán không ít . Trong tiếng Việt cũng có nhiều từ vay mượn tiếng Hán và sử dụng âm Hán Việt mà bản thân tiếng Việt đã có từ biểu thị. Ví dụ:Từ ―quốc gia‖, trong tiếng Việt vốn có từ ―nhà nước‖ biểu thị nghĩa đó; Từ ―bệnh ‖, trong tiếng Việt vốn có từ ―ốm‖ biểu thị nghĩa đó; Từ ―hải ‖ trong tiếng Việt cũng có từ ―biển ‖ biểu thị nghĩa đó. Hiện tượng này không chỉ xuất hiện trong tiếng Hán và tiếng Việt, các ngôn ngữ khác cũng có. Chẳng hạn, hiện tượng vay mượn các từ tiếng Pháp dù trong ngôn ngữ bản thân của các nước châu Âu đã có. Hiện tượng này liên quan đến nhiều yếu tố như: kinh tế văn hóa xã hội, chiến tranh... Như chúng ta đã biết, trong thế kỷ II và III, tiếng Pháp là một ngôn ngữ có uy tín rất cao ở châu Âu, là ngôn ngữ của ngoại giao, nghệ thuật, văn hóa ...Nói cách khác, đó là ngôn ngữ của nền văn minh phương Tây. Vì thế, khi đó nhiều người sử dụng tiếng Anh viết tác phẩm đều cố gắng đưa các từ tiếng Pháp vào dù cho trong tiếng Anh đã có từ tương đương. Cũng vậy, trước đây, nền văn minh của phương Đông cũng gắn với tiếng Hán, tiếng Hán cũng là một ngôn ngữ có uy tín nhất ở phương Đông, nó đã ảnh hưởng đến nhiều ngôn ngữ phương Đông như tiếng Nhật, tiếng Triều Tiên , tiếng Việt... Bắt đầu vào cuối thế kỷ XX, một số lượng lớn các từ tiếng Anh-Mỹ tràn vào các ngôn ngữ trên thế giới. Một số người thích dùng tiếng Anh hơn dùng ngôn ngữ bản thân của mình, theo đó các từ ngữ tiếng Anh xuất hiện tràn ngập vào các ngôn ngữ trên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(17)</span> 9. thế giới. 1.2.2. Quan niệm về từ vay mượn của một số nhà ngôn ngữ học Trung Quốc và Việt Nam Theo ―Từ Hải‖ của Trung Quốc, ―từ ngoại lai ‖cũng có thể gọi là ―từ vay mượn ‖ hoặc ―ngôn ngữ ngoại lai‖. Đó là những từ ngữ vay mượn từ ngôn ngữ khác. Đối với khái niệm từ ngoại lai trong tiếng Hán, công trình đáng chú ý nhất là của Sở Hữu Vi "Từ ngoại lai". tác giả đã giới hạn khái niệm từ ngoại lai trong tiếng Hán như sau: - Thông thường nghĩa của từ ngoại lai trước hết phải có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc hoặc ngôn ngữ nước ngoài ; - Về hình thức ngữ âm phải toàn bộ hoặc một bộ phận vay mượn những từ tương ứng của ngôn ngữ dân tộc hoặc ngôn ngữ nước ngoài ; - Ở một mức độ nhất định nó đã trở thành một từ tiếng Hán, tức là đã được Hán hóa. Nói một cách nghiêm chỉnh , những từ này phải thỏa mãn điều kiện đã được sự dụng một quãng thời gian tương đối dài , mới có thể gọi là từ ngoại lai.(35, tr127) Theo cách nhìn nhận này về từ ngoại lai, có thể thấy, từ ngoại lai phải thoả mãn ít nhất là 04 yêu cầu sau: 1/ Có nguồn gốc ngôn ngữ của các dân tộc khác hoặc các nước khác. 2/ Về hình thức ngữ âm, toàn bộ hoặc một bộ phần tương ứng với từ cho vay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(18)</span> 10. 3/ Mang đặc trưng thành phần ngôn ngữ của tiếng Hán. 4/ Đã được sử dụng trong một quãng thời gian dài, và đã là thành viên ổn định trong hệ thống từ vựng tiếng Hán. Nhưng, nếu theo quan niệm này thì khái niệm từ ngoại lai chỉ bao gồm những từ dịch âm hoặc những từ có thành phần dịch âm tham giao cấu tạo từ, còn những từ chỉ mượn hình thái cấu tạo (chữ viết ) hoặc chỉ mượn ý nghĩa của từ (từ dịch nghĩa ) thì không thể coi là từ ngoại lai ,như nhiều từ trong tiếng Hán mượn từ tiếng Nhật. Ở Việt Nam có một số nhà Việt ngữ học có các cách nhìn riêng đối với khái niệm từ vay mượn Chẳng hạn: Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: ― không nên mở rộng khái niệm đơn vị từ vựng vay mượn mà nên xét đến yếu tố thời gian. Những yếu tố từ ngữ ngoại lai nào vào tiếng Việt sau thế kỷ VI mới là yếu tố vay mượn . Không nên xem bất cứ sự thâm nhập từ nước ngoài nào vào ngôn ngữ cũng là từ vay mượn. Những từ vay mượn phải được cải tạo lại để có hình thức ngữ âm, đặc điểm ngữ pháp phù hợp với hệ thống ngữ âm và ngữ pháp của ngôn ngữ đi vay. Như vậy chỉ có những từ ngoại lai nào đã được Việt hóa mới được tính là từ vay mượn. ‖ (3,tr 17) Tác giả Hồ Lê trong "Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại" đã đưa ra một khái niệm đơn giản hơn: ―Theo cách hiểu thông thường, từ mượn là từ của một ngôn ngữ khác được nhập hệ vào một ngôn ngữ và được bản địa hóa.‖ (3,tr 17) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(19)</span> 11. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp chia từ mượn ra hai bộ phận: Những từ mượn đã được Việt hóa hoàn toàn (săm, lốp, keo, xăng bốt ...) và các từ mượn ( của ngôn ngữ Ấn Âu) chưa nhập hệ gọi là những ngôn ngữ phản quy tắc (barbarism). Như vậy, những từ ngoại lai du nhập vào tiếng việt dù chưa nhập hệ hoàn toàn vẫn có thể coi là từ mượn. (3,tr 18) Tác giả Nguyễn Văn Khang đã phân ba khái niệm ― từ ngữ nước ngoài, từ ngữ vay mượn và từ ngữ quốc tế ‖. Đây là ba khái niệm có thể dễ phân biệt về lý thuyết nhưng không dễ dàng phân biệt trên thực tế. Khái niệm thứ hai là ―từ mượn, từ vay mượn ‖, tác giả cũng cho rằng, đó là những từ nước ngoài đã được bản ngữ hóa, được cải tạo lại theo hình thức ngữ âm và ngữ pháp của ngôn ngữ đi vay. (6,tr 24) Với các quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc và Việt Nam đã nêu ra như trên, có thể tìm thấy những điểm giống nhau: 1.Từ ngoại lai đều có gốc ngữ nước ngoài. 2. Hình thức ngữ âm và đặc điểm ngữ pháp của ngôn ngữ cho vay đều phù hợp với ngôn ngữ đi vay . 3. Được bản địa hóa, tức là được Hán hóa hoặc Việt hóa. 4. Đều có yếu tố của thời gian (đã được sử dụng lâu).. 1.3. Phân loại từ ngoại lai 1.3.1. Cách phân loại từ ngoại lai của Trung Quốc Theo các ngôn ngữ học nghiên cứu về từ ngoại lai của Trung Quốc . có thể từ các góc độ khác nhau để phân chia từ ngoại lai.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(20)</span> 12. 1/ Xuất phát từ phương thức vay mượn từ vựng có thể tách ra thành từ mượn ngữ âm, từ mượn ngữ nghĩa, từ mượn kết hợp âm thanh và ngữ nghĩa, từ mượn chữ viết. 2/ Xuất phát từ nguồn gốc, có thể chia thành nhiều loại như: từ ngoại lai gốc tiếng Anh; từ ngoại lai gốc tiếng Pháp; từ ngoại lai gốc tiếng Anh, gốc từ tiếng Nga, tiếng Nhật, tiếng Đức, tiếng Mông Cổ, tiếng Tây Tạng, tiếngUây-Ua, v.v. 3/ Xuất phát từ ngữ nghĩa, có thể chia ra nhiều loại như: từ ngoại lai triết học, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kinh tế, công nghiệp, quân sự, giáo dục, nghệ thuật, phong tục, sinh hoạt, v.v. 4/ Xuất phát từ thời đại, có thể tách ra thành từ ngoại lai thượng cổ, từ ngoại lai trung cổ, từ ngoại lai cận đại và từ ngoại lai hiện đại. 5/ Ngoài ra còn có thể phân loại theo các lĩnh vực phân bố của từ ngoại lai theo tầng lớp xã hội, hoặc phân loại theo dạng tồn tại, phân loại theo gốc độ sử dụng, phân loại theo bình diện hệ thống cấu trúc v.v. Nói chung, từ ngoại lai có nhiều cách phân loại, và tất cả cho thấy bức tranh từ mượn trong ngôn ngữ vô cùng đa dạng và phức tạp. 1.3.2. Cách phân loại của từ ngoại lai Việt Nam. Trong cuốn ―Từ ngoại lai trong tiếng Việt ‖, tác giả Nguyễn Văn Khang đã nêu ra các cách phân loại từ ngoại lai:. 1/ Xuất phát từ nguồn gốc,.có thể tách ra được các từ ngữ gốc ngoại trong tiếng Việt theo nguồn gốc ngôn ngữ mà chúng vay mượn. Hiện về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(21)</span> 13. cơ bản có thể tách từ ngoại lại tiếng Việt theo bốn nguồn chính: a. Những từ ngữ vay mượn có nguồn gốc từ tiếng Hán. b. Những từ ngữ vay mượn có nguồn gốc tiếng từ Pháp. c. Những từ ngữ vay mượn có nguồn gốc từ tiếng Anh. d. Những từ ngữ vay mượn có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác. 2/ Xuất phát từ góc độ sử dụng, tức là từ góc nhìn đồng đại gắn với cảm thức của người bản ngữ để phân loại. 3/ Căn cứ vào thời kỳ gắn với bối cảnh du nhập của các từ mượn trong tiếng Việt có thể phân chia các từ mượn có cùng một nguồn ngôn ngữ (tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh ) thành các lớp. 4/ Xuất phát từ bình diện cấu trúc hệ thống ,có thể phân loại các từ vay mượn thành các tiểu loại: - Yếu tố cấu tạo từ . - Từ gồm từ đơn tiết và từ đa tiết . - Cụm từ cố định gồm các thành ngữ ,quán ngữ . - Sự thay đổi về cấu trúc các thành tố trong từ đa tiết và trong cụm từ cố định. 5/ Xuất phát từ gốc độ kiểu vay mượn ,có thể phân chia từ mượn thành: các từ mượn được dịch ra tiếng Việt ;các từ mượn theo kiểu phiêm âm hay phiên chuyển ;các từ mượn theo các viết như nguyên ngữ. 7/ Xuất phát từ gốc độ ―bảo lưu‖ hay ―thay đổi ‖, có thể chia tách lớp từ mượn trong tiếng Việt thành hai loại: (a) loại từ mượn giữ nguyên như Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(22)</span> 14. trong ngôn ngữ mượn, tức là bảo lưu như trong nguyên ngữ và (b) loại từ mượn thay đổi dù ít hay nhiều so với chúng trong nguyên ngữ. (6, tr 57) Thông qua những phân loại khác nhau của từ vay mượn Trung Quốc và Việt Nam, chúng ta có thể thấy một bức tranh rất đa rạng. Có thể từ nhiều gốc độ khác nhau để tiếp cận từ mượn của Trong Quốc và Việt Nam.. 1.4. Các cách vay mƣợn của từ trong tiếng Hán và tiếng Việt Tiếng Hán cũng như tiếng Việt, khi nói đến một đơn vị từ vựng đều bảo gồm các bình diện như ngữ âm, ngữ nghĩa, hình thái cấu trúc và chữ viết. Cho nên bất kì ngôn ngữ nào cũng vậy, khi vay mượn một từ nào đó dù ít hay nhiều từ ngữ đó sẽ phải cải tạo về các bình diện đó, tức là phải Hán hóa hoặc Việt hóa. Cho nên cách vay mượn của từ cũng sẽ liên quan đến các bình diện như trên. 1.4.1. Cách vay mượn từ trong tiếng Hán Trong tiếng Hán phương thức vay mượn từ chủ yếu là thông qua các hình thức phiên dịch để biểu đạt các từ ngoại lai. Xét về phương thức biểu đạt, chữ Hán là một loại văn tự vừa có tính biểu nghĩa vừa có tính biểu âm. Cho nên trong tiếng Hán vay mượn từ có mấy loại hình, như: từ dịch âm, từ dịch nghĩa, từ kết hợp dịch âm và dịch nghĩa v.v. 1.4.1.1. Dịch âm (vay mượn phát âm ) Dich âm tức là thông qua ghi lại hình thức ngữ âm của từ nước ngoài để vay mượn từ vựng. Những từ theo phương thức này dược mượn vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(23)</span> 15. gọi là từ dịch âm. Nói một cách nghiêm chỉnh, dịch âm không thể coi là dịch, bởi vì khi vay mượn từ chỉ là sử dụng một phương thức tiếp nhận nguyên dạng ngữ âm của từ. Vì là chữ Hán không phải là chữ La-tinh, hệ thống ngữ âm cũng có khác biệt , cho nên nếu muốn vay mượn ngữ âm của từ, tiếng Hán đành phải theo hệ thống ngữ âm của mình, sử dụng những chữ có phát âm tương đương với những từ cho vay và tổ hợp lại để biểu thị. Ví dụ : 坦克 [tǎn kè](tank) 沙发[shāfā] (sofa) 柠檬[níng méng](lemon) 吉他[gí tā] (guitar) 巧克力[qiǎo kè lì] (chocolate) 高尔夫 [gāo ěr fū] (golf) Từ dịch âm có các đặc điểm như sau: - Mỗi âm tiết, mối chữ được dụng để dịch âm, không còn mang ý nghĩa ban đầu của nó mà chỉ giữ lại lớp vỏ ngữ âm và cách viết, và vào trong tổ hợp đều không có ý nghĩa đơn lập . - Mỗi âm tiết , mỗi chữ tổ hợp lại chỉ ghi lại phát âm của từ vay mượn. - Mỗi âm tiết và mỗi chữ tổ hợp lại để biểu thị một ý nghĩa có nguồn gốc nước ngoài. Cho nên dịch âm là một phương thức chủ yếu của vay mượn từ trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(24)</span> 16. tiếng Hán. 1.4.1.2. Dịch nghĩa Khi tiếng Hán vay mượn từ ngoại lai, một trong những phương thức thường dùng chính là ―dịch nghĩa ‖. Từ dịch nghĩa là trực tiếp phiên dịch nghĩa của từ vay mượn. Tức là khi vay mượn từ chỉ có ngữ nghĩa của từ được vay, sử dụng những từ vốn có trong tiếng Hán thay thế, biểu đạt các khái niệm, sự vật, phương thức tư duy mới của nước ngoài. Từ dịch nghĩa có thể coi là một loại từ vay mượn được Hán hóa. Từ dịch nghĩa có thể chia thành hai loại: một loại là theo hình thức cấu tạo của từ tiếng Hán, sử dụng những từ tố vốn có trong tiếng Hán sáng tạo ra một từ mới.Ví dụ: 备份(backup), 互联网(internet), 随身听(walkman), 直升机(helicopter), 天使(angel), 交卷(film)v.v. Còn có một loại là dịch dựa theo hình thức và kết cấu cứ pháp của tiếng nước ngoài, làm cho hai tiếng về bình diện từ tố có thể phối hợp với nhau. Tình hình này thường xảy ra trong khi vay mượn từ ghép. Ví dụ: 移动电话(mobilephone) 人才市场(jobmaket) 动作片(actionfilm) 黑板(blackborad) 蓝牙(blue thooth) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(25)</span> 17. 1.4.1.3. Kết hợp dịch âm và dịch nghĩa Phương thức này kết hợp phiên âm và ý nghĩa của từ, tức là một bộ phận xử lý bằng phương thức phiên âm, còn một bộ phận kia xử lý bằng phương thức chuyển dịch. Hình thức này có thể chia thành 3 loại: a. Nửa dịch âm nửa dịch nghĩa (Một bộ phận xử lý bằng phương thức phiên âm, một bộ phận xử lý bằng phương thức chuyển dịch) . Ví dụ: 空中巴士(air bus). 绿卡(green card). 克隆羊(cloned sheep). 迷你裙(Mini-skirt). 新西兰(newzealand). 呼啦圈(Hula-hoop). 因特网(internet). 水上芭蕾(water-ballet). b. Kết hợp phiên âm với việc thêm yếu tố chỉ loại. Ví du: 卡车(kǎ +che). car. 啤酒 ( pí+jiǔ). beer. 酒吧 (jiǔ+ bā). bar. 霓虹灯 (ní hóng +dēng). neon. 高尔夫球 (gāo ěr fū+qíu). golf. 摩托车 (mó tuó+chē). motobike. 卡通片(kǎ tōng+Pīan). cartoon. c. Phiên âm kết hợp với hội ý. Hình thức này chủ yếu là khi vay mượn từ lựa chọn những chữ có phát âm tương đương với từ cho vay, nhưng các chữ trong tiếng Hán cũng có thể phản ánh nghĩa của từ cho vay. Tức là, những từ vay mượn không những có liên hệ với hình thức ngữ âm của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(26)</span> 18. từ cho vay, mà còn có liên hệ với ý nghĩa của từ cho vay. Ví dụ : 基因 (jī yīng). gene. 媒体 (méi tǐ). Media. 维他命 (wéi tā mìng). vitamin. 脱口秀(tuō kǒu xiù). talkshow. 台风(tái fēng). typoon. 1.4.1.4. Mượn nguyên dạng của nguyên chữ Cách này thể hiện trong hình thái chữ viết, tức là sử dụng nguyên cách viết chỉnh tả đơn vị từ vựng của ngôn ngữ đi vay. Do hình thái cấu tạo của chữ Hán không giống với hình thái cấu tạo của chữ La-tih, cho nên khi vay mượn nguyên dạng có thể chia thành hai loại: Một loại là mượn nguyên dạng những ngôn ngữ thuộc hệ thống chữ Hán, như tiếng Nhật; Một loại là mượn nguyên dạng những ngôn ngữ thuộc hệ thống chữ La-tinh như tiếng Anh, tiếng Pháp v.v. Ở đây, chủ yếu nói về mượn nguyên dạng của tiếng Anh, tức là mượn chữ cái của tiếng Anh. Khi mượn chữ cái của tiếng Anh không những mượn nguyên dạng chữ viết, đồng thời khi đọc cũng theo phát âm của tiếng Anh. Hình thức này cũng có thể chia thành hai loại: a. Viết tắt thêm chữ Hán . Ví dụ: ATM 机 T恤. VCD 光盘 IC 卡. IBM 公司 CT 检查. b. Viết tắt nhưng giữ nguyên nghĩa của từ. Ví dụ : Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. . AA 制 BP 机.
<span class='text_page_counter'>(27)</span> 19. 信息技术. information technology. WTO. 世界贸易组织. World Trade Organization. CEO. 首席执行官. Chief Executive Officer. VIP. 贵宾. Very Important Person. MTV. 音乐电视. music television video. IT. c. Mượn nguyên dạng của tiếng Anh Ví dụ: E-mail. 电子邮件. Office. 办公室软件. Windows. 微软视窗操作系统. Visa. 签证. 1.4.2. Cách vay mượn từ trong tiếng Việt Cách mượn từ nước ngoài trong tiếng Việt như sau: 1/ Sử dụng Hán Việt Cách này được áp dụng cho các từ mượn tiếng Hán và các từ Âu Mĩ mà tiếng Hán là trung gian. Ví dụ : thân, bình, chính, nhân dân, dưỡng khí, sinh tố. 2/ Dịch ra tiếng Việt Các từ nước ngoài được dịch nghĩa ra tiếng Việt. Ví dụ : bottle neck : nút cổ chai, visiting card : danh thiếp, lá thắm chỉ hồng. 3/ Phiên. Phiên được sử dụng cho các từ mượn tiếng Pháp, tiếng Anh trên cơ sở cách đọc cách viết của nguyên ngữ. Có hai cách phiên là ―phiên âm”, và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(28)</span> 20. ―phiên chuyển‖. - Phiên âm là phỏng theo cách đọc (âm đọc) của nguyên ngữ. - Phiên chuyển là phỏng theo âm đọc nguyên ngữ kết hợp với cách đọc bằng tiếng Việt đối với các từ này ( mà cách gọi quen thuộc là ―kết hợp giữa phiên âm và chuyển tự‖ ). Ví dụ : Từ valentine, nếu phiên âm phải là ve-lơn-thai, còn nếu theo cách phiên chuyển thì là va-len-tin. Cả hai kiểu phiên trên (phiên âm và phiên chuyển) được thể hiện như sau :. Phiên viết rời, gồm : + Viết rời, có dấu chữ, dấu thanh và có gạch nối. Ví dụ : xì-căng-đan, mít-tinh, cà-phê. + Viết rời có dấu chữ, dấu thanh và không có gạch nối. Ví dụ : xì căng,đan, mít tinh, cà phê.. Phiên viết liền, gồm : +Viết liền có dấu chữ, dấu thanh.Ví dụ : xìcăngđan, míttinh, càphê. +Viết liền không có dấu thanh.Ví dụ: xicăngđan, mittinh, caphê. 4/Viết theo nguên dạng Giữ nguyên cách viết của tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc tiếp qua con đường tiếng Anh, tiếng Pháp. Ví du: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(29)</span> 21. Acide/acid, computer,cravate,café 1.5. Tiểu kết Từ mượn hay từ ngoại lai là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống từ vựng bất cứ ngôn ngữ nào. Nó tưởng trưng sự tiếp xúc giữa các dân tộc và tiếp xúc với các nước trên thế giới, là nhu cầu của ngôn ngữ bản thân và xã hội, cũng là nhu cầu của truyền bá tin tức. Từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt đều có liên quan đến kinh tế xã hội, chính trị, văn hóa. Các từ mượn Anh cũng đã trải qua quá trình biến đổi lâu dài để được dung hòa trở thành một bộ phận tổ thành hữu cơ trong văn hóa ngôn ngữ của hai nước.. Chƣơng 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(30)</span> 22. ĐẶC ĐIỂM TIẾP NHẬN TỪ NGỮ TIẾNG ANH TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI 2.1. Vị trí tiếng Anh 2.1.1. Vị trí tiếng Anh trên thế giới Xét trên phạm vi toàn thế giới, một ngôn ngữ có tầm ảnh hưởng đối với các ngôn ngữ khác thường được quyết định bởi các phương diện sau: 1. Số người sử dụng ngôn ngữ đó. 2. Ngôn ngữ đó được sử dụng như là ngôn ngữ thứ hai. 3. Số lượng quốc gia sử dụng và số lượng người sử dụng ngôn ngữ đó . 4. Lĩnh vực chủ yếu sử dụng ngôn ngữ đó trên thị trường quốc tế . 5. Thực lực kinh tế của các nước sử dụng ngôn ngữ đó. Đối chiếu với những phương diện nêu trên, có thể thấy rằng, tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ có sức ảnh hưởng mạnh trên thế giới. Theo làn sóng của toàn cầu hóa và thông tin hóa phát triển, có một thực tế là ngày càng có nhiều nước khác nhau đang sử dụng một ngôn ngữ giống nhau, đó chính là tiếng Anh. Có thể nói, cho dù có thích tiếng Anh hay không, nhưng bất cứ ai muốn tham dự vào xu thế toàn cầu hóa và làn sóng thông tin hóa, làm cho sụ truyền bá có hiệu lực trên thị trường quốc tế, hoặc muốn trở thành một vị nhà chính trị, nhà khoa học và thương nhân có sức ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu đều phải biết sử dụng tiếng Anh. Đây là một xu thế tất yếu. Vai trò quan trọng của tiếng Anh được biểu hiện như sau: Trước hết, tiếng Anh có sức ảnh hưởng mảnh mẽ biểu hiện ở số lượng người sử dụng. Theo thống kê trên thế giới có khoảng 30,8 triệu người coi tiếng mẹ đẻ là Tiếng Anh. Có khoảng 20,5 triệu người sử dụng tiếng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(31)</span> 23. Anh bằng ngôn ngữ thứ hai. Số lượng này ngày càng tăng. Theo thống kê của Ủy ban Văn hóa nước Anh, số người trên toàn cầu đang học tiếng Anh khoảng 10 triệu, ngoài ra còn có 15-20 triệu người mỗi ngày đều phải sử dụng và tiếp xúc tiếng Anh. Dự tính đến năm 2050 trên toàn cầu khoảng có một nửa người sẽ sử dụng tiếng Anh rất thành thạo. (17, tr1) Từ góc độ ngôn ngữ học, có thể chia những người sử dụng tiếng Anh như trên thành 3 loại: - Loại thứ nhất là những người lấy tiếng Anh làm tiếng mẹ đẻ, như Anh, Mỹ, Canada, Australia, v.v. - Loại thứ hai là những người sử dụng tiếng Anh bằng ngôn ngữ thứ hai. Những người này thường cư trú ở các nước từng là thuộc địa của nước Anh, Mỹ hoặc chịu ảnh hưởng sâu sắc của các quốc gia này như In-đô-nê-xi-a, Xi-ga-po, Phi-li-pin v.v. - Loại thứ ba là những nước có nhiều người học tập tiếng Anh, coi tiếng Anh là một môn ngoại ngữ, như Trung Quốc , Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Thứ hai, vị trí tiếng Anh trên thế giới có sức ảnh hưởng mạnh mẽ, không những thể hiện ở số lượng người sử dụng mà còn thể hiện trong phạm vi ứng dụng. Sau kết thức chiến tranh lạnh, theo sự phát triển của toàn cầu hóa và thông tin hóa, tiếng Anh được ứng dụng phổ biến trong các lĩnh vực trên thế giới. Các lĩnh vực bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hóa, mậu dịch, ngoại giao, du lịch, công nghệ thông tin, học thuật, v.v. Theo thống kê, hiện nay trên thế giới có hơn 60 nước lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chính thức của nhà nước, có khoảng 85% tổ chức quốc tế nhập tiếng Anh vào ngôn ngữ thông dụng. Trên thế giới có 75% Email viết bằng tiếng Anh, có 80% ấn phẩm và thông tin trên mạng đều dụng tiếng Anh để xuất bản và phát hành. (17, tr 2) Tiếng Anh có sức ảnh hưởng mạnh mẽ thể hiện trong giao lưu về lĩnh vực nghiêm cứu khoa học nổi bật nhất. Sau chiến tranh thế giới lần thứ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(32)</span> 24. nhất, tiếng Đức từng thay thế tiếng Anh, trở thành ngôn ngữ chủ yếu của nghiên cứu khoa học. Nhưng sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nước Mỹ đã xác định địa vị bá quyền trên thế giới, theo đó vị trí tiếng Anh đã không thể chống lại được. Theo thống kê, năm 1997, trên thế giới có 95% luận văn viết bằng tiếng Anh, nhưng trong đó có một nửa tác giả ngôn ngữ thứ nhất không phải là tiếng Anh. Điều này cho thấy tiếng Anh đối với nghiên cứu khoa học đã đóng vai trò chủ yếu. Tiếng Anh chính thức trở thành một môn ngôn ngữ quan trọng mang tính quốc tế là sau thế kỷ 19. Dù cho trong các ngôn ngữ phổ biến tại châu âu tiếng Anh có coi là ra đời muộn nhất. tiếng Anh trở thành một ngôn ngữ mang tính quốc tế và có vị trí quan trọng trên thế giới, có mấy nguyên nhân chính như sau : Có thế thấy, không phải là tiếng Anh bản thân tạo được vị trí như thế cho mình, trong đó nổi bật là nguyên nhân của con người. - Vào thế kỷ 18-19, nhờ có cuộc cách mạng công nghiệp làm cho sức ảnh hưởng của đế quốc Anh lan tỏa khắp các nơi trên thế giới. Theo đó, tiếng Anh cũng phổ biến vào các nước trên thế giới và tiến bước vào ngôn ngữ toàn cầu hóa. Nhưng tiếng Anh được xác định vị trí quốc tế hóa chủ yếu vào sau chiến tranh thứ hai, khi nước Mỹ đã xác định địa vị cường quốc. Ngoài những nguyên nhân như trên còn thấy, vào cuối thế kỷ 20, theo đà kinh tế phát triển toàn cần hóa và kết cấu mới của chính trị xác lập, các nước trên thế giới cũng rất bức thiết cần một ngôn ngữ thông dụng mang tính quốc tế hóa. Những tiện lợi nào đó của ngôn ngữ bản thân của tiếng Anh làm cho nó trở thành mực tiêu đầu tiên được sử dụng. - Xét về mặt ngôn ngữ, tiếng Anh có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế giới có quan hệ mật thiết với sức sống của ngôn ngữ bản thân này. Trước hết, tiếng Anh có liên hệ với tất cả ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ấn-Âu. So với các ngôn ngữ Ấn-Âu, tiếng Anh mang nhiều đặc tính của ngôn ngữ thế giới, tức là mang tính đa dạng, tính linh hoạt v.v. Ngoài ra, tiếng Anh rất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(33)</span> 25. dễ "bản địa" hóa, làm cho người ta dễ sử dụng trong đời sống, đồng thời còn có thể sáng tạo ra một số hình thức mới như: Japlish, Singlish, Chinglish, Konglish(Korean-English),v.v. - Tiếng Anh mang tính quốc tế có quan hệ mật thiết với văn hóa của nó. Không thể phủ nhận được, so với các nền văn hóa khác, giá trị văn hóa Anh Mỹ thể hiện nhiều về tinh thần khích lệ, tư tưởng sáng tạo mới và khả năng hòa hợp v.v. Đây có lợi cho truyển bá ngôn ngữ tiếng Anh. Thứ ba, văn hóa Anh Mỹ có ảnh hưởng sâu sắc đối với các nước trên thế giới, thông qua các phương tiện thông tin và có kỹ thuật ủng hộ, văn hóa Anh Mỹ trên thế giới được quảng bá rộng rãi và nói không quá rằng, nó đóng vai trò chủ đạo. Ví dụ, phim của Hollywood, các loại âm nhạc như Pop, Rock, Rap và một số tác phẩm nổi tiếng của nước Anh Mỹ. Tất cả này đều có thể giúp tiếng Anh cổng cố địa vị của nó. - Các loại văn hóa mang tính quốc tế xuất hiện theo hình thức tiếng Anh . 2.1.2. Vị trí tiếng Anh trong tiếng Hán Cùng với sự phát triển của toàn cầu hóa và cùng với công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc và Trung Quốc ra nhập vào WTO, tiếng Anh ngày còn có sức ảnh hưởng lớn đối với cuộc sống của nhân dân Trung Quốc. Trước đây người Trung Quốc nghĩ rằng, tiếng Anh chỉ xuất hiện trong các lĩnh vực ngoài giao, thương mại, công nghiệp thông tin, Internet, v.v. Dường như, tiếng Anh cách người Trung Quốc xa. Nhưng bây giờ tiếng Anh đã xâm nhập vào đời sống của người dân Trung Quốc. Có thể nói, dù ít hay nhiều, mọi người Trung Quốc đều phải tiếp xúc với tiếng Anh.Ví dụ, các nhãn hiệu nổi tiếng như KFC, CK, GUCCI, Louis Vuition, Mc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(34)</span> 26. Donal,... đã và đang tràn ngập khắp ở các Trung Tâm thương mại lớn ở Trung Quốc. Trên các ấm phẩm như báo chí, tạp chí, các chương trình trên truyền hình, nhất là chương trình quảng cáo, ca nhạc thể thao thường xuyên xuất hiện tiếng Anh. Tiếng Anh có sức ảnh hưởng mạnh, thể hiện rất rõ ràng ở Trung Quốc là từ khoảng 20 năm trở lại đây. Một số lượng lớn từ ngữ tiếng Anh xuất hiện nhanh chống trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hiện nay ở Trung Quốc, các phương tiện truyền thông trung ương sử dụng tiếng Anh gồm: 1 kênh truyền hình, 1 kênh phát thanh ngoại ngữ, 9 cơ quan chuyên làm báo hàng ngày và tuần báo tiếng Anh, 10 cơ quan chuyên làm tạp chí tiếng Anh và 9 trạm Internet tiếng Anh. Đấy là chưa kể các phương tiện khác. Điều này cho thấy, bên cạnh tiếng Hán với tư cách là ngôn ngữ quốc gia, thì tiếng Anh đóng vai trò quan trọng. Tiếng Anh có sức ảnh hưởng mạnh còn thể hiện về số lượng người Trung Quốc học tiếng Anh. Theo thống kê, ở Trung Quốc bây giờ có 30 triệu người đang học và sử dụng tiếng Anh và số lượng này đang ngày một tăng. Sự nhiệt tình của học tiếng Anh của người Trung Quốc hiện nay có thể nói là xưa nay chưa từng có. Hiện tượng này xuất hiện có quan hệ mật thiết với chính sách cải cách mở cửa của Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Hiện nay ở Trung Quốc nhà nước yêu cầu tất cả học sinh học trên trung học sơ cấp đều phải học tiếng Anh. Từ năm 2001, Bộ Giáo dục quy định, đối với những thành phố có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(35)</span> 27. điều kiện thì sẽ phổ cập tiếng Anh từ tiểu học. Thậm chí, không ít bác cha mẹ đã cho con em mình học tiếng Anh từ mẫu giáo. Tiếng Anh trở thành môn thi bắt buộc đối với các cuộc thi vào đại học và thi vào cao học thạc sĩ, thi vào nghiên cứu sinh tiến sĩ. Tiếng Anh cũng là một môn thi nâng ngạch đối với công chức và là tiêu chí đề bạt cán bộ. Tiếng Anh cũng trờ thành một cung cụ, kỹ năng cần thiết khi xin việc. Cho nên, có thể nói, tiếng Anh là một môn ngoại ngữ có vị trí rất cao trong xã hội Trung Quốc. Do tiếng Anh có sức ảnh hưởng mạnh ở Trung Quốc nên ai cũng thấy cần phải học và sử dụng nó. Từ đây dẫn đến việc dụng các từ ngữ tiếng Anh trong lời ăn tiếng nói hàng ngày trở thành một thói quen và hiện tượng này đã làm cho rất nhiều từ ngữ tiếng Anh đi vào hệ thống từ vựng tiếng Hán, tạo nên từ mượn Anh vào trong tiếng Hán. Trong đó một số thì được Hán hóa, một số vẫn duy trì theo tính nguyên dạng của nó. 2.1.3. Nhận xét Qua những điều trình bày ở trên, có thể đưa ra một vài nhận xét như sau: 1) Tiếng Anh đã trở thành một môn ngôn ngữ quan trong trên thế giới. Việc này khiến cho các quốc gia đều coi trọng tiếng Anh, trong đó bao gồm Trung Quốc. Tiếng Anh được sử dụng phổ biến cũng ảnh hưởng đến việc sử dụng của tiếng Hán. 2) Sự phất triển của khoa học-kỹ thuật-công nghệ, đặc biệt là Internet Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(36)</span> 28. đã làm cho sự giao lưu của con người ngày càng đơn giản. theo đó, tiếng Anh có điều kiện lan tỏa và các yếu tố tướng Anh có điều kiện du nhập vào các ngôn ngữ trên thế giới. 3) Theo đà phát triển mạnh mẽ của tiến trình toàn cầu hóa, sự giao lưu giữa các quốc gia ngày một mở rộng, tiếng Anh trở thành một công cụ chuyển tải, gánh vác nhiệm vụ giao lưu ở mọi lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực quan trong như văn hóa, khoa học, kinh tế, chính trị v.v. Trong quá trình giao lưu đó, tiếng Anh tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến các ngôn ngữ, trong đó có tiếng Hán. Những nhận xét như trên có thể thấy rằng, tiếng Anh là một môn ngôn ngữ mang tính quốc tế có sức ảnh hưởng mạnh trên thế giới. Vì thế việc tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh trong ngôn ngữ là hiện tưởng phổ biến trên thế giới nói chung và ở Trung Quốc nói riêng. 2.2. Đặc điểm Hán hóa các từ mƣợn Anh 2.2.1. Nhận xét chung Khi từ ngữ của ngôn ngữ này gia nhập một ngôn ngữ khác chúng phải đồng hóa để phù hợp với ngôn ngữ đó. Các từ ngữ tiếng Anh nhập vào tiếng Hán thì phải Hán hóa. Xét từ góc độ ngôn ngữ, sự Hán hóa của từ mượn Anh liên quan đến các yếu tố trong cấu trúc của ngôn ngữ, đó là: ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp. Nói cách khác, khi các từ ngữ tiếng Anh nhập vào tiếng Hán phải được Hán hóa, tức là phải có kết cấu ngữ âm xác định và ngữ nghĩa xác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(37)</span> 29. định như tiếng Hán thể hiện trên văn bản hoặc sách vở là phải có hình thức chữ viết xác định và ngữ nghĩa xác định như tiếng Hán. Xét về đặc điểm của tiếng Hán và chữ Hán có thể thấy, quá trình Hán hóa của từ ngoại lai nói chung, từ tiếng Anh nói riếng vừa liên quan đến nhân tố ngôn ngữ tự thân vừa liên quan đến việc sử dung trong xã hội. Vì thế đây là một vấn đề hết sức phức tạp. Cho nên các từ ngữ tiếng Anh được Hán hóa, vừa phải có kết cấu ngữ âm như tiếng Hán, có ngữ nghĩa xác định, vừa phù hợp với đặc điểm hình thức cấu trúc từ vựng tiếng Hán còn phải biểu nghĩa rõ rằng. Từ đây có thể quy sự Hán hóa của từ ngữ tiếng Anh ở hai phương diện: nội dung và hình thức. Nội dung của Hán hóa chủ yếu thể hiện ở bình diện ngữ nghĩa; phương diện hình thức của Hán hóa chủ yếu thể hiện ở ngữ âm, hình thái cấu trúc và chữ viết. 2.2.2. Hán hóa từ ngữ tiếng Anh ở bình diện ngữ nghĩa Khi các từ ngữ tiếng Anh du nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Hán, so với nghĩa vốn có của chúng sẽ có một số khác biệt. Phần lớn những từ này khi du nhập vào tiếng Hán đều đã có sự thay đổi về ngữ nghĩa so với khái niệm gốc của nó. Bởi hai dân tộc khác nhau trong quá trình tiếp xúc ắt hẳn phải làm quen với rất nhiều những khái niệm của đối phương mà dân tộc mình không có. Ở bình diện ngữ nghĩa này, vay mượn từ ngữ tiếng Anh và Hán hóa cũng áp dụng những phương pháp như:dịch nghĩa, kết hợp dịch âm và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(38)</span> 30. dịch nghĩa, dựa vào những phương thức mà có thể chia các từ mượn Anh thành những trường hợp như sau: 2.2.2.1. Thu hẹp nghĩa Thu hẹp nghĩa thường xuất hiện trong quá trình vay mượn từ ngữ. Đây là một tình trạng rất phổ biến. Có thể chia 2 trường hợp : a. Mượn một nghĩa của từ đa nghĩa Ví dụ: 1.鲨鱼(Shark)Trong tiếng Anh có 5 nghĩa (1)鲨鱼. cá mập. (2)诈骗犯. kẻ lừa tảo. (3)专家,能手. Chuyên gia , Người tảo nghệ. (4)放高利贷者. Người cho vay nặng lãi. (5)狡猾的人. Người xảo quyệt. Từ này mượn trong tiếng Hán chỉ mượn một nghĩa là ―cá mập ‖ 2. 幽默(Humour)Trong tiếng Anh có 3 nghĩa (1) 幽默,带喜剧色彩的. Hài hước. (2)纵容,迁就. Dung túng ,nhân nhượng. (3)液体. Thể nước. Trong tiếng Hán chỉ tiếp nhận nghĩa đầu 3.摇滚(Rock)trong ngôn ngữ gốc có những ý nghĩa sau đây: (1) 石头 hòn đá (2) 摇滚乐 nhạc rock Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(39)</span> 31. (3) 来回摆动 động từ; lúc lắc Nhưng khi được tiếp nhận vào tiếng Hán,từ này chỉ giữ lại một nét nghĩa duy nhất là 摇滚乐. b. Hiện tượng mượn hai nghĩa hoặc nhiều nghĩa của từ đa nghĩa trong tiếng Hán Hiện tượng này trong tiếng Hán cũng có nhưng tương đối ít. Nguyên nhân chủ yếu là từ ngữ tiếng Anh xuất hiện trong một ngữ cảnh cụ thể, thông qua ngữ cảnh cụ thể này để vay mượn từ ngữ. Cho nên từ ngữ được vay mượn chỉ mang một nghĩa không thể mang toàn bộ nghĩa trong một ngữ cảnh. Vì thế cho dù là vay mượn theo cách dịch âm hay là dịch nghĩa thì phạm vi ngữ nghĩa đều hẹp hơn từ gốc. Những từ ngữ tiếng Anh đa nghĩa (có hai nghĩa hoặc nhiều nghĩa) xuất hiện trong tiếng Hán thường phải qua nhiều lần vay mượn nghĩa. Nói cách khác, không phải các nghĩa này vào cùng một lúc mà phải thông qua nhiều lần vay mượn trong ngữ cảnh khác nhau mới có thể tiếp nhận nhiều nghĩa. Cho nên phạm vi ngữ nghĩa của từ tiếng Anh hẹp hơn trong nguyên ngữ là một trong những đặc điểm của từ nghĩa Hán hóa từ tiếng Anh.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(40)</span> 32. 2.2.2.2. Mở rộng nghĩa Nghĩa của từ tiếng Anh trong tiếng Hán được mở rộng so với chúng trong tiếng Anh. Hình thức biểu hiện là những từ Anh được vay mượn so với từ gốc đã thêm nghĩa hoặc phạm vi biểu thị đã rộng hơn. Sự mở rộng nghĩa này được thể hiện ở mấy phương diện chủ yếu là: sự mở rộng của phạm vi ý nghĩa biểu thị và thêm nghĩa mới. Trong tình hình này, xu hướng từ tố hóa và khẩu ngữ hóa các từ mượn tiếng Anh đang ngày còn phổ biến. Chức năng ngữ pháp của từ mượn biến đổi linh hoạt đến mức: có thể ―chia nhỏ‖ từ mượn đó ra, chỉ mượn một từ tố để cấu tạo thành một từ mới. Biểu hiện của việc Hán hóa các từ mượn tiếng Anh ở trình độ cao chính là hiện tượng ―từ tố hóa ‖ các từ mượn tiếng Anh, hay còn gọi là phương pháp ―phỏng từ‖: mượn các từ tố cho tiếng Anh để cấu tạo từ, bằng cách tăng thêm tiền tố hậu tố. Ví dụ : bar (酒吧) khi được mượn trong tiếng Hán có nghĩa là khách sặn có quầy rượu phục vụ hoặc chỉ các nhà hàng phương tây hoặc nhà hàng chuyên làm cho khách vừa uống rượu vừa nghỉ ngơi. Nhưng không chỉ có vậy, 酒吧 (bar) không chỉ biểu thị nhà hàng bán rượu mà còn có thể biểu thị một số nhà hàng hưởng thụ khác như:茶吧(nhà hàng uống trà), 网 吧(nhà hàng chuyên lên mạng).书吧(nhà hàng xem sách ) v.v. Từ tố này tham gia vào việc tạo thêm từ tiếng Hán linh hoạt đến mức nó không còn mang ý nghĩa quầy rượu mà còn dụng được nói về một phương tiện kinh doanh hay một thú vui nào đó Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(41)</span> 33. Plaza (露天广场) trong tiếng Anh có nghĩa là quảng trường hoặc những nơi có thể tiến hành những hoạt động lớn, cũng có thể biệu thị trung tâm thương mại lớn. Nhưng khi nhập vào tiếng Hán là 广场, đã mở rộng phạm vi nghĩa của từ này: hầu như tất cả những nơi lớn có thể tiến hành hoạt động thương mại đều có thể gọi là ―plaza‖ như: 美食广场 (Quảng trường món ăn ngon),家具广场(quảng trường đồ gia dụng) v.v. Fastfood(快餐)) trong tiếng Anh có ngĩa là món ăn thông qua phương thức nhanh chóng và đơn giản để gia công chế tạo thành. Khi mượn trong tiếng Hán thì chỉ rút ra ―nhanh chóng ‖ và ―đơn giản ‖ hai nghĩa để hình thành ý nghĩa mới, dụng để thí dụ một hiện tưởng văn hóa hoặc tư tưởng văn hóa không chú trọng đến giá trị văn hóa bên trong mà chỉ biết theo tuổi phong cách nhanh chóng và đơn giản. Cho nên dùng khái niệm này cấu tạo thành nhiều từ như: ―电视快餐‖,―精神快餐‖,―科普快餐‖v.v. 2.2.2.3. Mượn và chuyển đổi nội dung ngữ nghĩa cấu tạo thành một từ mới Một từ khi mới xuất hiện ý nghĩa của nó thường rất đơn giản, chỉ biểu thị một sự vật hoặc khái niệm nhất định. Nhưng tùy theo ngôn ngữ và những sự vật ngoại bộ phát triển, ý nghĩa đơn giản của nó cũng sẽ dần dần thay đổi và chuyển biến, phái sinh ra ý nghĩa mới. Từ tiếng Anh sau khi được tiếp nhận vào tiếng Hán cũng như vậy: có một số từ dần dần không giữ được nguyên nghĩa như ban đầu. Sự chuyển đổi này là tùy theo nhu cầu của ngôn ngữ vay mượn. Ví dụ : Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(42)</span> 34. 码(mile)là một đơn vị đo lượng của Anh Mỹ, một mã bằng 0.9144 mét. Khi mượn vào tiếng Hán, một mã cũng bằng 0.9114 mét. Nhưng dần dần người ta quen dùng một ki-lô mét đo lượng độ dài, nhưng trong tiếng Hán vẫn quen nói từ ―码(mã). Cho nên trong tiếng Hán, ―一码‖(một mã ) cũng bằng 1000 mét. Trong một số trường hợp người ta nói ―一码‖ tương đương với ―一公里‖(một kilô mét).. 马塞克(Mosaic) Gạch men nhỏ, Trong tiếng Anh ―Mosaic‖biểu thị: (1) một công nghệ nạm. (2) Đồ án làm bằng công nghệ nạm. (3) Sản phẩm mỹ nghệ làm bằng công nghiệ nạm. Nhưng khi từ này du nhập vào tiếng Hán ―Mosaic 马塞克‖ thường biểu thị một loại gạch men nhỏ hoặc những đồ án dùng gạch men nhỏ ghép lại. Cho nên trong tiếng Hán từ này đã chuyển nghĩa thành công căn cứ nghĩa vốn có của nó. 2.2.2.4. Sự phát triển thêm nghĩa mới của các từ mượn tiếng Anh Khi một từ đa nghĩa (có trên hai nghĩa). Trong quá trình sử dụng vào lĩnh vực khác nhau tùy theo sự phát triển của ý nghĩa mà phái sinh ra ý nghĩa khác, nghiã này gọi là ý nghĩa phát triển. Khi các từ tiếng Anh được mượn vào tiếng Hán, một số từ cũng có ý nghĩa phát triển. Ví dụ :. 马拉松(marathon)[Ma-ra-tông]: Trong tiếng Anh, từ này vốn chỉ biểu thị một hạng mục của thể dục thể thao, như thi chạy ma-ra-tông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(43)</span> 35. Nhưng khi"马拉松"đi vào tiếng Hán còn biểu thị một quá trình kéo dài, hoặc một quãng thời gian tương đối dài, rất lâu. Ví dụ: 马拉松式会 议 (hội nghị kiểu Ma-ra-tông) ,恋爱马拉松(yêu nhau kiểu Ma-ra-tông). 乌托邦(utopia)[ảo tưởng ] :Trong tiếng Anh ―utopia‖ là quốc gia không tưởng hoặc xã hội không tưởng. Khi mượn trong tiếng Hán, 乌托 邦 thông qua sự phát triển mang nghĩa lý tưởng, tưởng tượng trong xã hội. cũng biểu thị một nguyện vọng tốt đẹp nhưng không thể thực hiện được. 2.2.2.5. Sự chuyển biến sắc thái ý nghĩa của từ Nghĩa của từ, ngoài nghĩa lý tính còn có nghĩa mang sắc thái tình cảm. Những từ mang sắc thái tình cảm thường bao gồm từ mang nghĩa tốt hoặc nghĩa xấu. Khi tiếng Anh được mượn vào tiếng Hán tùy theo sự mở rộng của giao tiếp, số lượng người sử dụng tăng thêm, làm cho những từ mượn Anh từ gốc vốn là từ trung tính cũng mang sắc thái tình cảm riêng.Ví dụ: TOEFL(Test of English as a foreign language) 托福考试: Kiểm tra năng lực sử dụng tiếng Anh của người nước ngoài. Trong tiếng Anh từ chỉ biểu thị một cuộc thi rất phổ thông, không mang sắc thái tình cảm gì cả. Nhưng khi được mượn vào tiếng Hán, thông qua dịch âm, từ này được dịch thành ―托福考试‖: hai chữ ―托福‖trong tiếng Hán biểu thị ý nghĩa rất tốt, gửi nhờ một nguyện vọng tốt đẹp, hy vọng những người tham gia cuộc thi này đều có thể qua được và thực hiện nguyện vọng tốt đẹp của mình. Cho nên từ này mượn vào tiếng Hán đã mang một sắc thái tình cảm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(44)</span> 36. tốt. T-shirt T 恤:Trong tiếng Anh chỉ biểu thị một trang phục phổ thông không mang sắc thái tình cảm gì cả. Nhưng khi ra nhập vào tiếng Hán không chỉ biểu thị một loại trang phục phổ thông còn biểu thị một phương thức cuộc sống nhàn rỗi, dễ chịu, cũng tiêu biểu một loại văn hóa đại chúng. Cho nên từ ―T 恤‖ trong tiếng Hán cũng mang theo sắc thái tình cảm có ý nghĩa tốt. 2.2.2.6. Tiếp nhận toàn bộ nghĩa Đây là trường hợp xảy ra trong các từ đơn nghĩa hoặc các thuật ngữ khoa học với các từ đơn nghĩa. Hiện tượng này cũng rất phổ biến trong khi tiếng Hán tiếp nhận từ mượn Anh, bởi vì khi tiếng Anh du nhập vào tiếng Hán thường căn cứ vào những khái niệm khoa học kỹ thuật mới, nét văn hóa mới hoặc các sự vật mới mà "quyết định" du nhập hay không.Ví dụ : - Trường hợp tiếp nhận nghĩa của các từ đơn nghĩa: cheese 奶酪,起 司,Kentucky 肯德基,Jazz 爵士乐,Bikini 比基尼,Sauna 桑拿, Supermarket 超市,superman 超人,greencard 绿卡,basket-ball 篮 球,roadshow 路演,fastfood 快餐,falsies 假发. - Trường hợp tiếp nhận nghĩa của các thuật ngữ như: IC, DNA, E-mail, Mouse, Internet, DVD, information superhighway 信息高速公路, test-tubebaby 试管婴儿, software 软件,robt 机器人.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(45)</span> 37. 2.2.2.7. Kết hợp dịch âm và dịch nghĩa Đây là phương pháp tổng hợp sách lược quy hóa và dị hóa: thông qua việc thêm vào từ đồng loại hoặc lựa chọn những từ tố gốc Hán có thể biểu thị thông tin cùng loại để bổ sung thêm những thông tin bí mật dị cho từ mượn trong quá trình được tiếp nhận vào tiếng Hán. có hai phương pháp kết hợp dịch âm và dịch nghĩa. a. Dịch âm thêm yếu tố chỉ loại. Đây là phương pháp kết hợp các từ dịch âm đơn âm tiết hoặc đa âm tiết với một từ gốc Hán. Ngữ tố dịch âm có thể đứng trước hoặc sau ngữ tố gốc Hán tùy thuộc vào vai trò của nó trong cấu tạo từ. Ví dụ:保龄+球(bowling),雪茄+烟(cigar) ,拉力+赛(rally), 桑拿+浴(sauna),芭蕾+舞(ballrt),披萨+饼(pizza). b. Nửa dịch âm nửa dịch nghĩa . Đây là phương pháp phiên âm từ mượn, nhưng các chữ được chọn để phiên âm không chỉ phải có âm đọc giống với từ gốc mà còn phải có mối liên hệ nào đó với ngữ nghĩa của từ mượn. Ví dụ: 霓虹(neon) ,踢踏舞(tittup),蹦极跳(bungie jumping) , 俱乐部(club) ,脱口秀(talkshow),台风(typoon),托福(TOFEL), 维他命(vitamin) 2.2.3. Ở bình diện ngữ âm và chữ viết Một từ tiếng Anh muốn nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Hán, trước hết phải được biến đổi về mặt ngữ âm cho phù hợp với đặc điểm của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(46)</span> 38. tiếng Hán. Đây là một trong những cách Hán hóa của từ mượn Anh. Do tiếng Anh và tiếng Hán là hai ngôn ngữ khác nhau về mặt loại hình, vì tiếng Hán thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập chữ viết là chữ tượng hình, tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ tổng hợp tính, chữ viết là chữ cái Latin. cho nên khi tiếng Anh du nhập vào tiếng Hán đều phải ―cải tạo‖ lại theo mô hình cấu trúc âm tiết của tiếng Hán. Có thể áp dụng những cách như: dịch âm, đây là phương pháp dựa vào âm đọc ban đầu của từ cho vay ghi lại bằng chữ Hán để tạo thành từ mới. Việc phiên âm các từ tiếng Anh vẫn phải tôn theo các quy tắc âm hệ tiếng Hán. Cho nên từ mượn tiếng Anh sẽ có sự khác biệt so với cách đọc ban đầu, âm hệ tiếng Hán sẽ biến đổi những từ mượn này ở mức độ nào đó như thay đổi âm tiết, đây cũng có nhiều phân loại, sẽ lấy cụ thể như sau: 2.2.3.1. Sự Hán hóa về số lượng âm tiết 1) Giản hóa số lượng âm tiết Giản hóa số lượng âm tiết là một thủ pháp Hán hóa chủ yếu đối với các từ ngữ Ấn Âu nói chung, từ tiếng Anh nói riêng. Cùng với đó là việc có thể sáng tạo ra ngữ tố mới, thậm chí từ đơn âm mới. Lí do chủ yếu là từ tiếng Anh có số lượng âm tiết quá nhiều không phù hợp với từ tiếng Hán . Thông thường trong tiếng Hán, số lượng âm tiết của từ không vượt qua 3 âm tiết, trong đó từ song âm tiết và đơn âm tiết chiếm đại đa số. Những đơn vị từ vựng có bốn âm tiết chủ yếu là thành ngữ tục ngữ. Các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(47)</span> 39. từ mượn Anh nếu có số lượng âm tiết quá nhiều, mà được sử dụng nhiều lần trong giao tiếp thì không phù hợp với thói quen của tiếng Hán, cho nên phải giảm bớt số lượng âm tiết, để thích ứng nhu cầu của cấu tạo từ của tiếng Hán. Ví dụ : Romantic (3 âm tiết ): 浪漫 (2 âm tiết ) Cigarette (3 âm tiết) : 雪茄 (2 âm tiết) Morphine (3 âm tiết): 吗啡(2 âm tiết) Honeymoon(3 âm tiết):蜜月(2 âm tiết) Co thể nói, giảm hóa số lượng âm tiết là một khuynh hướng của tiếng Hán khi thu nhận từ ngoại lai. Giảm hóa số lượng âm tiết của từ có lợi cho việc sử dụng, có lợi cho việc cấu tạo từ mới, cũng có lợi cho tăng cượng chức năng của từ. Tuy nhiên trong một số trường hợp vẫn phải chấp nhận các từ mượn Anh đa âm tiết. Ví dụ: 布尔什维克 : Bolshevik 斯堪的纳维亚: Scandinavia 布宜诺斯艾利斯 Buenos aires Mặc dù là đa âm tiết nhưng cấu trúc của các từ này phải phù hợp với cấu trúc âm tiết, phù hợp với hình thức và ý nghĩa.. 2) Tăng thêm số lượng âm tiết Trong tiếng Anh tiếng Anh cũng có nhiều từ là đơn âm tiết, khi những từ du nhập vào tiếng Hán lại thường trở thành song âm tiết. Hiện tượng này được gọi là tăng thêm số lượng âm tiết. Đây cũng là một hiện tượng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(48)</span> 40. Hán hóa về ngữ âm. Ví dụ : Gene (1âm tiết ) : 基因(2 âm tiết) Bus (2 âm tiết): 巴士(2 âm tiết) Golf (2 âm tiết): 高尔夫(3 âm tiết) Mummy(2 âm tiết):木乃伊(3 âm tiết) Hysteria(3 âm tiết) :歇斯底里(4 âm tiết) Brandy(2 âm tiết):白兰地(3 âm tiết) Sự tăng thêm số lượng âm tiết cũng là một thủ pháp của Hán hóa về mặt ngữ âm. 2.2.3.2. Sự Hán hóa về âm tố, tổ hợp âm tố và kết cấu âm tiết Sự Hán hóa về âm tố, tổ hợp âm tố và kết cấu âm tiết đối với các từ tiếng Anh là dựa vào quy luật âm thanh hài hòa của tiếng Hán. Cụ thể: - Bộ sung thanh điệu: Tiếng Hán là một loại ngôn ngữ có thanh điệu, cho nên trong quá trình các từ tiếng Anh nhập vào tiếng Hán sẽ được cấp thêm thanh điệu.Ví dụ: Clone : 克隆 (kè lóng). sandwich 三明治( sān míng zhì). Waltz : 华尔兹 (huá ěr zī). bikini 比基尼(bǐ jī ní). Marathon 马拉松(mā lā sōng) modern 摩登(mó dēng) Clone vốn chỉ có một âm tiết, khi du nhập vào tiếng Hán thì trở thành hai âm tiết, đồng thời có thanh điệu. waltz vốn chỉ có một âm tiết, khi du nhập vào tiếng Hán thì trở thành 3 âm tiết, đồng thời có thanh điệu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(49)</span> 41. Nói chung tất cả từ mượn Anh được nhập vào trong tiếng Hán thông qua phương thức dịch âm đều phải được bổ sung thanh điệu. - Thay đổi một bộ phận âm tố trong âm tiết Một số âm tố của từ tiếng Anh không có trong hệ thống ngữ âm tiếng Hán. Cho nên khi dịch âm các từ tiếng Anh thì phải sử dụng âm tố của tiếng Hán có âm sắc tương đối gần với âm tiếng Anh. Nếu dựa theo cách phiên âm chữ Hán như hiện nay thì có thể rút ra vài quy tắc trong cách phiên âm từ mượn tiếng Anh như sau: (1) [r]——l Ví du: ramifon——léi mǐ fēng 雷米封. radar——léi dá 雷达. (2) [m]——n ng Ví du:muslim——mù sī lín 穆斯林. totem——tú téng 图腾. (3) [v]——f w Ví du: vasaline——fán shì lín 凡士林 Vitamin——wéi tā mìn 维他命. volt——fú tè 福特 venus——wéi nà sī 维纳斯. (4) [θ]—s t Ví du:gothic—gē tè tǐ 哥特体. marathon—mǎ lā sōng 马拉松. (5) [ t ] [d]—sh zh j q Ví du: chocolate—qǐao kè lì 巧 克 力 ,. chess—qǐ sī 起 司 ,. engine—yín qíng 引擎 (6) [z]—z c s zh ch x Ví du: Zamenho——柴门霍夫 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. zine—xīn 锌 (13, tr 35) .
<span class='text_page_counter'>(50)</span> 42. Tất nhiên đây mới chỉ là một vài quy tắc thường gặp, không có tính chính xác tuyệt đối và không phải trong trường hợp nào cũng được áp dụng, vẫn có một số phải quy phảm hóa trong tiếng Việt. 2.2.4. Ở bình diện chữ viết Do tiếng Hán và tiếng Anh là khác nhau về chữ viết, cho nên khi từ mượn Anh du nhập vào tiếng Hán phải Hán hóa trên bình diện chữ viết. Tiếng Hán vốn có nhiều chữ đồng âm, hoặc có cách đọc tương tự, các chữ này có ý nghĩa và khả biểu đạt khác nhau. Đây là cơ sở để có nhiều sự lựa chọn cho việc phiên âm, cũng tức là tạo nên việc xuất hiện nhiều biến thể cách đọc, cách viết khác nhau của từ mượn. Dưới đây là một số cách thay đổi. - Sử dụng những chữ dễ nhớ và kết hợp có ý nghĩa. Hán hóa các từ tiếng Anh bằng những chữ dễ nhớ hoặc những chữ kết hợp có ý nghĩa, làm cho những từ mượn Anh truyền bá nhanh hơn hoặc còn dễ được người ta tiếp nhận.Ví dụ : Fans :粉丝. Trong tiếng Hán hai chữ này vốn là một loại thức phẩm (miến ), do hai chữ này phát âm vừa giống với fans vừa làm cho người dễ nhớ, và có ấn tượng sâu sắc. Những loại hình thế này còn có nhiều từ như:shopping(血拼), dacron(的确良), 维他命(vitamin), hacker(黑客) v.v - Sử dụng những chữ làm cho người ta có thể liên tưởng tới thuộc tính của khái niệm mà từ biểu đạt.(sử dụng những chữ tượng hình tăng thêm ý nghĩa). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(51)</span> 43. Tiếng Hán là văn tự tượng hình, nên khi tham gia vào cấu tạo từ nó dần hình thành cho người đọc thói quen tư duy ―từ chữ sang nghĩa‖. Bộ thủ của chữ Hán thường mang tính biểu nghĩa. Đặc biệt là bộ thủ có thể biểu thị loại hình của nghĩa từ, như bộ thủy, bộ mộc, bộ mịch,...Cho nên, khi từ mượn Anh được du nhập vào tiếng Hán được viết bằng chữ Hán với các bộ thủ sẽ làm cho từ mượn Anh còn nổi bật hơn, dễ nhớ hơn.Ví dụ: Lemon 柠檬:Hai chữ Hán này đều mang bộ mộc ―木‖. Nhờ có bộ thủ này có thể biết từ này liên quan đến thực vật. Ice-cream 冰激凌: ba chữ Hán này đều có bộ thủy, có liên quan với nước. Những từ được tiếp nhận kiểu này, do khả năng ―hội ý‖ và ―liên tưởng ‖ phụ hợp với đặc trưng của tiếng Hán, nên được gọi là đã Hán hóa một cách sâu sắc nhất. - Sử dụng chữ Hán có cách phát âm giống nhau (đồng âm) để biểu thị một từ mượn Anh . Trong tiếng Hán, hiện tượng đồng âm rất phổ biến, thường là một âm tiết có thể sử dụng các chữ Hán khác nhau để biểu thị. Hiện tượng này được áp dụng vào trong việc chuyển dịch từ mượn Anh. Ví dụ : Jacket : 夹克,茄克. Ice-cream : 冰淇淋,冰激凌. AIDS : 艾滋病,爱滋病 - Sử dụng chữ cái đầu trong tiếng Anh hoặc sử dụng nguyên dạng của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(52)</span> 44. tiếng Anh. Hình thức này xuất hiện nhiều sau khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa, thường là các danh từ và từ chỉ tên riêng. Các từ này cũng hầu hết là những từ mang tính quốc tế, do chữ cái Latin được sử dụng phổ biến ở khắp nơi trên thế giới, cho nên khi đi vào tiếng Hán nó cũng được chấp nhận nhanh chóng. từ mượn tiếng Anh kiểu này gồm hai loại: Từ viết tắt chữ cái đầu đơn thuần và từ viết tắt thêm chữ Hán. Ví dụ: CD (compact disc), VCD ( video campact disc), KTV (karaoke television), MTV (music television), SOS (save our soul), TV (television), UFO (unidentified flying object), - Chữ cái đầu viết tắt + chữ Hán CT 检查, BP 机, T 恤衫, IC 卡, PHS 电话机, B 超…. 2.3. Nguyên tắc vay mƣợn từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán Khi chúng ta du nhập một số từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán có phải là không có nguyên tắc gì mà cứ tiếp nhận? Rõ ràng là không phải. Bởi khi từ mượn Anh gia nhập vào trong hệ thống tiếng Hán thì sẽ dần dần trở thành một bộ phận tổ thành của hệ thống từ vựng tiếng Hán. Cho nên khi chúng ta tiếp nhận từ mượn Anh vào sẽ phải suy nghĩ về hiện trạng của hệ thống từ vựng tiếng Hán hiện nay, bởi nó có tác dụng hạn chế đối với tiếp nhận từ mượn Anh. Nói cụ thể phải phù hợp với 3 nguyên tắc như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(53)</span> 45. - Nguyên tắc cần phải Một ngôn ngữ có cần thiết phải vay mượn từ ngữ của ngôn ngữ khác hoặc phải mượn những từ gì, đầu tiên phải xem ngôn ngữ này có phải là thực sự cần từ này hay không. Thông thường một loại ngôn ngữ phải mượn từ của ngôn ngữ khác là do hệ thống ngôn ngữ tự mình không có phương thức biểu đạt tương ứng, nhưng mà trong giao tiếp vẫn phải sử dụng khái niệm đó để biểu đạt. Lúc này vay mượn từ vựng của ngôn ngữ khác sẽ dễ dàng và tự nhiên hơn. Ví dụ khi ―choco ate‖ mới xuất hiện trong xã hội Trung Quốc chúng ta không biết phải dừng khái niệm gì biểu đạt sự vật này. Tùy theo sự thực phẩm này ngày càng được người ta ưa thích, chúng ta rất bức thiết phải tìm được một từ xưng hô thích hợp để biểu đạt cái thực phẩm này. Cho nên mượn từ ―chocolate‖ vào và cải tạo thành từ ―巧克力‖ là một lựa chọn thích hợp. Bởi vì trong tiếng Hán trước đây không có từ nào có thể hình dung được thực phẩm này. bây giờ chúng ta cần phải miêu tả nó, cho nên phải mượn từ vào. Ngược lại, khi mượn những từ nước ngoại vào nếu trong quá trình ngôn ngữ giao tiếp thường ngày ít sử dụng, những từ được mượn vào sẽ dần dần biến mất. -Nguyên tắc biểu đạt ngữ nghĩa rõ ràng Trong hệ thống từ vựng tiếng Hán đã tiếp nhận một lượng lớn từ mượn Anh. Nhưng khi tiếp nhận những từ mượn này chúng ta không thể tiếp nhận tùy ý, chúng ta phải đảm bảo nguyên tắc biểu đạt ngữ nghĩa rõ ràng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(54)</span> 46. ―Ý nghĩa rõ ràng ‖ ít nhất phải bao gồm hai hàm ý như sau: (1)Sự lựa chọn chữ Hán có thể phản ánh ý nghĩa từ gốc tương đối chính xác. Bất cứ ngôn ngữ nào đều có ba yếu tố:ngữ âm, ngữ nghĩa, chữ viết. Khi chúng ta mượn từ tiếng Anh áp dụng phương thức nào phải theo tình hình cụ thể. Trong tiếng Hán đã tiếp nhận nhiều từ thông qua phương thức dịch âm, dịch nghĩa và kết hợp dịch âm và dịch nghĩa. Nhưng một số từ dịch âm này có nhiều cách đọc phức tạp, gây khó khăn cho việc tiếp nhận. Những từ dịch âm lại là chữ viết không có liên hệ về mặt ý nghĩa với từ gốc. Cho nên có nhiều từ ý nghĩa biểu đạt không rõ ràng. Ví dụ: 梵阿玲(violin)—— 小提琴 德谟克拉西(democracy)—— 民主 赛因斯(science)—— 科学 德律风(telephone)—— 电话 Những từ như trên trong quá trình sử dựng được thay thế bằng một phương thức đơn giản, làm cho người sử dung dễ tiếp nhận hơn và có ngữ nghĩa rõ ràng hợn. Hơn nữa khi chữ Hán tham gia vào việc Hán hóa từ mượn Anh, do chữ Hán là văn tự tượng hình, người đọc vốn có thói quen tư duy ―từ chữ sang nghĩa ‖, nếu lựa chọn chữ viết phiên âm có tính tượng hình cao sẽ làm cho khả năng biểu đạt của từ mượn thêm sâu sắc. khiến cho người ta khi nhìn vào chữ viết sẽ thấy ngay khái niệm mà nó biểu đạt thuộc phạm trù nào, có đặc tính gì. ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(55)</span> 47. 版克(bank)——银行. 马杀鸡(massage)——按摩. Những từ bị thay thế như trên là do nhìn con chữ còn dễ lý giải nghĩa của từ gốc. Chúng tôi sử dụng những phương thức như trên để tiếp nhận từ mượn Anh, nguyên nhân căn bản là đảm bảo nguyên tắc biểu đạt ngữ nghĩa rõ ràng. (2)Từ ngữ được tiếp nhận không thể phá hoại hệ thống từ vừng ngữ nghĩa của tiếng Hán. Các thành viên trong hệ thống từ vựng của các loại ngôn ngữ đều phân công rõ rằng về mặt ngữ nghĩa. Cho nên khi mượn từ nước ngoài vào không được phá hoại hệ thống từ vựng ngữ nghĩa của nó. Ví dụ: ―Sydney‖ là một thành phố của Australia, ở Hồng Kông người ta dịch từ này thành ―雪梨‖,nhưng ở Trung Quốc đại lục ―雪梨‖ là một loại quả lê, cho nên không thể dụng từ này để dịch, nếu không thì sẽ làm cho ý nghĩa biểu đạt không rõ ràng trong tiếng phổ thông, mà phá hoại hệ thống từ vựng trong tiếng Hán. Cho nên ở Trung Quốc đại lục người ta dịch từ này thành ―悉尼‖. -Nguyên tắc hài hoà về mặt ngữ âm Nguyên tắc này đối với từ mượn tiếng Anh, chủ yếu là giảm hóa số lượng âm tiết, Trong tiếng Anh số lượng âm tiết thường có nhiều, đặc biệt như một số tên người hoặc địa danh, khi thông qua dịch âm vào trong tiếng Hán cảm thấy khó nhớ, khó lý giải. Như: ―斯堪的纳维亚‖,―列夫 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(56)</span> 48. 托尔斯泰‖,―布宜诺斯艾利斯‖ ... Nhưng trong tiếng Hán số lượng âm tiết tương đối ít, các từ ngữ đơn âm tiết, song âm tiết và ba âm tiết chiếm đại đa số, các từ bốn âm tiết phần lớn là thành ngữ tục ngữ. Nhưng vượt qua cái số lượng này như từ năm âm tiết thì tương đối ít. Đặc điểm này của tiếng Hán khiến người ta không thích sử dụng những từ mượn đa âm tiết. Cho nên khi thu nhập từ mượn Anh trong tiếng Hán dưới điều kiện ngữ nghĩa rõ ràng sẽ giảm bớt số lượng âm tiết để làm cho các từ mượn dễ dùng, dễ nhớ. Ví dụ: ―modem‖ khi mượn vào tiếng Hán được dịch nghĩa thành ―调 制解调器‖ do âm tiết quá nhiều, hiện nay người ta thích gọi nó là ―猫‖ (dụng phương thức dịch âm), còn có 德谟克拉西(democracy), có năm âm tiết, không tiện cho người ta nhớ và sử dụng. Cho nên cuối cùng dùng ―民主‖ để dịch từ này, giản hóa thành 2 âm tiết. Nói chung căn cứ vào những nguyên tắc như trên chúng ta có thể rút ra một số quy luật khi mượn từ tiếng Anh vào trong tiếng Hán. Nắm bắt những nguyên tắc này có thể làm cho chúng ta khi sử dụng các từ ngoại lai này còn chính xác và dễ dàng hơn.. 2.4. Chức năng của từ mƣợn Anh trong tiếng Hán hiện đại Chức năng của từ mượn Anh trong tiếng Hán đứng trong các góc độ khác nhau. Chúng ta có thể chia từ mượn Anh trong tiếng Hán hiện đại có bốn công năng như sau: chức năng ngôn ngữ, chức năng văn hóa, chức năng xã hội và chức năng tâm lý. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(57)</span> 49. 2.4.1. Chức năng ngôn ngữ Chức năng ngôn ngữ của từ mượn Anh, biểu hiện nổi bật là nó đáp ứng nhu cầu của hệ thống từ vựng tiếng Hán khi sử dụng những từ vựng này có hai mặt biểu hiện cụ thể như sau: - Kích thích và phát triển phương thức cấu tạo từ. Từ mượn Anh khi du nhập vào tiếng Hán thông qua Hán hóa, một số trở thành từ tố, có thể tham gia vào cấu tạo từ mới trong tiếng Hán. Như: Mini :迷你,từ này có thể tham gia vào cấu tạo từ mới trong tiếng Hán, hình dung rất nhỏ bé. Như ―迷你电视‖(TV bé) ,―迷你汽 车‖(xe bé). Từ tố cấu tạo từ ―的‖ trong từ mượn 的士(taxi)đã tham gia vào một loạt các từ trong tiếng Hán có liên quan đến taxi như:的哥,的姐,打的... - Làm cho địa vị từ dịch âm và từ viết bằng hình thức chữ cái được tăng cường. Khi tiếng Anh du nhập vào tiếng Hán thì tạo nên nhiều ảnh hưởng đối với tiếng Hán, đặc biệt là một số hàng hóa của Âu Mỹ khi tiến vào thị trường Trung Quốc ngay lập tức được người ta ưa thích kèm theo cái tên dịch âm như:McDonald’s 麦当劳, Cocacola 可口可乐, Sprite 雪碧, 批 萨(pizza)v.v. Hiện tượng này kích thích những xí nghiệp, công ty, các cửa hàng, thầm chí trung tâm thương mại của Trung Quốc ... Cho nên dâng lên một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(58)</span> 50. làn sóng tức là những sản phẩm và nhãn hiệu đặt tên bằng hình thức dịch âm của từ mượn Anh như:―海尔 Haier‖,―美的 Midea‖, ―海信 Hisense ‖, Sức ảnh hưởng của tiếng Anh rất lớn, đã làm cho vị trí của chữ cái Latin được tăng cường. Cho nên các từ mượn Anh viết bằng nguyên chữ hoặc viết tắt chữ cái đầu của tiếng Anh trong tiếng Hán có rất nhiều, như: KTV, MTV, CD, Email, Office ... Thậm chí những tên gọi viết bằng phiên âm của tiếng Hán, người ta đều thích dùng chữ cái tiếng Anh để viết tắt như: ―汉语水平考试 (hàn yǚ shǔi píng kǎo shì)‖ viết bằng ―HSK‖, và được dùng phổ biến. 2.4.2. Chức năng văn hóa Tùy theo cải cách mở cửa của Trung Quốc, văn hóa Trung Quốc và Anh Mỹ có thể thông qua nhiều phương thức nhiều tầng lớp để giao lưu và tiếp xúc, quan hệ của những nước này cũng ngày càng mật thiết. Cho nên những quan niệm truyền thống của người Trung Quốc ngày càng biến đổi, nhiều sự vật mới và kỹ thuật mới của phương tây ồ ạt vào xã hội Trung Quốc. Việc này thể hiện trên ngôn ngữ là nhiều từ mượn Anh hội nhập vào cuộc sống của chúng ta. Từ mượn Anh là một sản phẩm tiếp xúc ngôn ngữ và sự giao lưu của văn hóa, là một vị sứ giả để thực hiện củng cố và truyền bá các văn hóa ngoại lai, mang đến phong thổ nhân tình phương tây cho xã hội nói tiếng Hán, cũng mang đến các loại tin tức về khoa học kỹ thuật hiện đại và nghệ thuật văn hóa. Nói hẹp lại, văn hóa là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(59)</span> 51. một khả năng tinh thần và thành quả hoạt động của nhân loại, Ngay từ đầu đã có mối duyên tỏ bền chặt với ngôn ngữ. Ngôn ngữ mang lại văn hóa trong hệ thống của mình, là một phương thức truyền bá trực tiếp nhất, chính xác nhất, toàn diện nhất. Tùy theo sự giao lưu đối ngoại của Trung Quốc ngày còn cấp tập, số lượng tiếp nhận và thu nhập từ mượn Anh trong tiếng Hán cũng ngày càng tăng thêm, hơn nữa còn thấm vào các lĩnh vực của cuộc sống xã hội, mang lại sức sống mới cho ngôn ngữ giao tiếp. Thực sự ngôn ngữ chúng ta chính nhờ thu nhập nhiều chất dinh dưỡng từ các bình diện mà làm nó phong phú thêm. Công năng văn hóa của từ mượn Anh thể hiện nổi bật ở hai phương diện như sau: - Từ mượn Anh là một phương tiện chuyển tải văn hóa ngoại lai. Văn hóa ngoại lai còn được nhân dân đại chúng quen thuộc, tiếp nhận hình thức ngôn ngữ của nó, thì từ mượn Anh còn có cơ sở văn hóa xã hội vững chắc và còn được người ta sử dụng quen thuộc. Hiện nay khi chúng ta ăn KFC, McDonala’s, mặc áo Nike, Adidas, mua những hàng hóa của LV, CK, thưởng thức múa ballet, đi Taxi, Bus. Chúng ta đã thích ứng và quen thuộc phương thức cuộc sống này, hình như đã không thể cảm nhận được những phương thức cuộc sống là do văn hóa ngoại lai mang lại. Hiện tượng này đã chứng minh rằng văn hóa ngoại lai bao gồm từ mượn Anh đã dung hòa vào cuộc sống của chúng ta và đã được người ta tiếp nhận. - Văn hóa ngoại lai do từ mượn Anh mang lại bao gồm những đặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(60)</span> 52. điểm văn hóa riêng của nó. Từ mượn Anh trong một mức độ lớn đã phản ánh ra nhận thức đặc trương văn hóa ngoại lai của xã hội Hán ngữ. Ví dụ khi từ ―Bus‖ du nhập vào tiếng Hán được dịch thành ―巴士‖,Tùy theo người ta tìm hiểu và quen thuộc với từ này ―巴‖,dần dần trở thành một từ tố của tiếng Hán và được dụng để tham gia vào các cấu tạo từ và xuất hiện những từ như ―大 巴‖,―小巴‖ ,―中巴‖ ... Phản ánh xã hội Hán ngữ đối với văn hóa có nhận thức chỉnh thể, đặc biệt về văn hóa― bus‖ . Hiện nay trên thế giới khoa học kỹ thuật biến chuyển từng ngày, Trung Quốc muốn thực hiện khoa học kỹ thuật hiện đại hóa, tất nhiên cần phải thu nhập nhiều kỹ thuật mới và khái niệm mới. Cho nên nhiều từ mượn Anh đang mang đặc điểm này đã du nhập vào cuộc sống chúng ta. như: 基因(gene) ,克隆(clone) ,黑客(hacker),艾滋病(AIDS) , B 超,CT, UFO ... Đồng thời các từ mượn Anh có liên quan đến quan niệm mới, tư tưởng mới hoặc cuộc sống kinh tế cũng xuất hiện nhiều trong cuộc sống chúng ta, như:朋克 ponk, 嬉皮士 hippies, 踢踏舞 tittup,爵士乐 jazz,嘻哈 hiphop,OPEC 欧佩克, WTO 世界贸易组织 v.v. Những từ trong các ví dụ như trên đều phản ánh đặc điểm văn hóa của nó. 2.4.3. Chức năng xã hội Ngôn ngữ là kết quả nhu cầu và trí tuệ của nhân loại. Nhân loại có khả năng sáng tạo ra ngôn ngữ cũng có khả năng phát triển ngôn ngữ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(61)</span> 53. Vay mượn từ ngoại lai cũng là một phương pháp phát triển ngôn ngữ. Vay mượn từ tiếng Anh là một trong những phương pháp thành công để phát triển tiếng Hán. Trong hệ thống từ vựng tiếng Hán, từ mượn tiếng Anh là một thành viên hơi đặc biệt. Cho nên các xã hội thành viên khác nhau trong xã hội tiếng Hán, khi họ sử dụng và tiếp nhận từ mượn Anh cũng mang tính giai tầng. Vì thế từ mượn Anh trở thành một dấu hiệu của xã hội văn hóa, khi được sử dụng trong một giai tầng xã hội nào đó, có thể phản ánh thân phận và giai tầng xã hội của người sử dụng. Nói về tuổi tác, cho dù trong một gia đình thói quen cuộc sống giống nhau, nhưng tuổi tác khác nhau thì sử dụng từ mượn Anh cũng có khác biệt. Nó liên quan đến hoàn cảnh xã hội sở trú và khả năng tiếp nhận sự vật mới, hoặc đặc trưng tâm lý của người sử dụng. Ví dụ: Xem về đặc trưng tâm lý, Thanh niên so với người già thì còn thích theo sự vật mới và có yêu cầu sáng tạo mới hơn. Nếu một người thanh niên nào đó đã có ý thức biết từ mượn Anh tiêu biểu một loại văn hóa tiên tiến hơn và mốt hơn, Họ sẽ tiếp nhận và sử dụng nó rất nhanh. Ngược lại người già thì quen và có tình cảm sâu sắc với hệ thống ngôn ngữ họ đã sử dụng thuộc lòng. Cho nên không dễ tiếp nhận từ ngoại lai mới. Đương nhiên người cùng tuổi cũng sẽ do giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hóa mà xuất hiện khác biệt. Ví dụ Hồng Kông và Đài Loan của Trung Quốc, do những nguyên nhân lịch sử tạo nên người cư trú trong hai khu vực này sử dụng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(62)</span> 54. tiếng Anh càng phổ biến hơn, và tốc độ tiếp nhận sự vật mới và tư tưởng mới càng nhanh hơn, cho nên người ta tiếp nhận từ mượn Anh so với người bằng tuổi cư trú ở Trung Quốc đại lục càng dễ hơn. Thậm chí một số từ mượn Anh du nhập vào Hồng Kông, Đài Loan trước, thông qua phát triển và người ta sử dụng một quãng thời gian dài mới truyền bá đến Trung Quốc đại lục và mới được thừa nhận và tiếp nhận. 2.4.4. Chức năng tâm lý Những đặc điểm của công năng tâm lý chủ yếu do người sử dụng từ mượn Anh trong quá trình sử dụng thể hiện ra. Đặc điểm này chủ yếu thể hiện ở hai phương diện: một là tâm lý cầu mới, hai là tâm lý đơn giản hóa. - Tâm lý cầu mới Thông thường đối với nhiều sự vật, người ta đều có một tâm lý cầu mới, Do bị tâm lý này tri phối không những thu nhập nhiều từ trong tiếng Hán không có, mà còn thu nhận nhiều từ trong tiếng Hán đã có, như: ―的 士 (Taxi)-出租车‖, ―巴士 (bus) -公共汽车‖ ... Hơn nữa còn phái sinh ra một số từ như : ―打的‖,―中巴‖ ...Theo các sự vật có kích thích mới là bản tính của nhân loại, cho nên trong ngôn ngữ sử dụng cũng có thể hiện. Tâm lý cầu mới này cụ thể thể hiện ở ba phương diện như sau: Tâm lý bức thiết tiếp nhận, truyền bá và thích ứng các sự vật mới và quan niệm mới. Khi một sự vật mới xuất hiện thì người ta đều thích nghĩ ra một biện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(63)</span> 55. pháp nào đó để làm cho nó truyền bá ra. Cho nên những từ phản ánh sự vật mới này thường truyền ra trong một thời gian ngắn. Hiện tượng này do người dân đối với một sự vật mới có hứng thú lớn mà tạo nên. Cho nên những từ mượn Anh, đặc biệt là những từ thường dùng thường được người ta dễ và nhanh tiếp nhận. Thích hình thức ngôn ngữ mới Khi một từ vựng nào đó đã sử dựng một thời gian lâu dài, dần dần thì người ta không chú trọng đến nó, hoặc không có tình cảm mới lạ nữa. Cho dù ý nghĩa không có gì biến đổi nhưng người ta cũng muốn dùng một từ thay thế nó, cho dù chỉ là thay thế hình tưởng của chữ viết, như: không nói 公共汽车 phải nói 巴士, không nói 动画片 phải nói 卡通片, 迷 thay bằng 粉丝,你好 thay bằng 哈啰,出租车 thay bằng 的士 v.v. Những ví dụ đều phản ánh một tâm lý ―có mới nới cũ ‖ của người dân . Người sử dụng thích nêu mới lạ Khi người ta biểu đạt tư duy thường thích mang nét riêng của mình, để làm cho người khác chú ý đến. Cho nên trong tiếng Hán người ta sử dụng từ mượn Anh. Có khi chỉ thông qua xem chữ của từ mượn Anh dừng phương thức dịch âm nhập vào không thể biết được từ này có ý nghĩa là gì, tạo nên một cảm giác thần bí, uyên thâm, làm cho nó khác thường và khiến cho người ta đi tìm hiểu và có ấn tượng sâu sắc. - Tâm lý đơn giản hóa Tất cả sự việc hoặc sự vật đều muốn được giản hóa là một tâm lý phổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(64)</span> 56. biến đối với người sử dụng ngôn ngữ, ―bớt đi phức tạp làm cho nó đơn giản hóa‖ là một yêu cầu trong quá trình sử dụng. Cho nên tâm lý đòi giản chủ yếu thể hiện ở hai phương diện như sau: Khi người ta sử dụng và quen thuộc với một nội dung ý nghĩa của hình thức ngôn ngữ phức tạp, sau đó thì không muốn nhờ vào nội bộ cấu tạo của hình thức ngôn ngữ bản thân để đưa ra ý nghĩa của từ. Khi đó hình thức ngôn ngữ phức tạp thì trở thành một gánh nặng, người ta muốn giản hóa nó thành một từ tinh giản để tiện cho sử dụng. Ví dụ : 奥林匹克 运动会-奥运会. Hoặc trực tiếp dụng chữ cái đầu thay thế như:IQ(智商), EQ(情商), IBM(公商管理硕士) v.v. Có khi phải du nhập một từ mượn Anh vào, tâm lý đòi giản khiến cho người ta tìm một cách nào đó để làm cho nó giản hóa, phù hợp với thói quen sử dụng ngôn ngữ trong tiếng Hán và tiếng Việt.Ví dụ: Romantic—— 罗曼蒂克——浪漫 Internet——因特网——网络 Angle——安吉尔——天使 Nói chung tâm lý giản hóa là một hiện tượng phổ biến trong ngôn ngữ, làm cho du nhập từ mượn Anh còn dễ và đơn giản hơn. Nhưng trước tiên phải đảm bảo sự giao lưu và giao tiếp thuận lợi. Có thể nói ngôn ngữ không do giản hóa quá đáng mà bị mất đi tác dụng giao tiếp.. 2.5. Tiểu kết Các từ mượn Anh du nhập vào tiếng Hán thường thông qua các bình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(65)</span> 57. diện như sau được Hán hóa, bình diện ngữ nghĩa, bình diện ngữ âm và bình diện chữ viết . 1/ Khảo sát các từ mượn Anh trên bình diện ngữ nghĩa, chúng ta có thể thấy rằng, phương thức Hán hóa từ mượn Anh trên bình diện ngữ nghĩa rất phong phú và phức tạp. Đối với từ mượn Anh đơn nghĩa, tiếng Hán thường tiếp nhận nghĩa trọn vẹn. Đối với từ mượn Anh đa nghĩa, tiếng Anh thường tiếp nhận một bộ phận. Các từ mượn Anh vào trong tiếng Hán có thể mở rộng nghĩa, tăng thêm sắc thái ý nghĩa hoặc chuyển nghĩa. Vay mượn là một hiện tượng ngôn ngữ học xã hội và ngôn ngữ văn hóa, cho nên thông qua việc vay mượn các từ Anh có thể làm phong phú thêm các nét văn hóa Anh trong tiếng Hán. Nói chung các phương thức Hán hóa trên bình diện ngữ nghĩa đều nhằm làm cho các từ tiếng Anh thực sự được Hán hóa cả hình thức và nội dung. 2/ Khảo sát từ mượn Anh trên bình diện ngữ âm, có thể thấy rằng do tiếng Hán và tiếng Anh là hai ngôn ngữ có sự khác nhau khá lớn trên bình diện ngữ âm, cho nên khi được mượn vào tiếng Hán, các từ tiếng Anh phải thay đổi ngữ âm cho phù hợp với cấu trúc âm tiết tiếng Hán. Hầu hết các từ mượn Anh đều đã biến đổi theo hướng âm tiết hóa như: giảm hóa số lượng âm tiết, vừa phải tăng thêm số lượng âm tiết, tăng thêm thanh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(66)</span> 58. điệu, thay đổi âm tố trong âm tiết. Các phương thức này tạo điều kiện cho các từ tiếng Anh được Hán hóa. 3/ Khảo sát các từ mượn Anh trên bình diện chữ viết có thể thấy rằng, cũng như bình diện ngữ âm, ở bình diện chữ viết tiếng Hán và tiếng Anh cũng là hai hệ thống có khác biệt rất lớn. Cho nên khi từ tiếng Anh mượn trong tiếng Hán nhất thiết phải được cải tạo. Đây cũng là một tình trạng tương đối phức tạp. Do chữ Hán có rất nhiều loại hình, như một âm tiết có thể có nhiều chữ biểu thị, hoặc một chữ có thể có mấy âm tiết, cũng có chữ tượng hình, có chữ mang bộ thủ ... cho nên từ mượn Anh được Hán hóa về chữ viết theo nhiều cách như: Sử dụng bộ thủ dễ nhớ, sử dụng những chữ tượng hình tăng thêm ngữ nghĩa, sử dụng chữ Hán đồng âm, sử dụng chữ cái đầu trong tiếng Anh, sử dụng nguyên dạng của tiếng Anh. 4/ Thông qua tổng kết ,chúng ta có thể rút ra 3 nguyên tắc khi vay mượn từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán là: Nguyên tắc cần phải, Nguyên tắc biểu nghĩa rõ ràng và ngyuên tắc hài hoà về ngữ âm. Những nguyên tắc làm cho chúng ta khi vay mượn từ ngữ tiếng Anh vào trong tiếng Hán có những lý luận ủng hộ. 5/ Từ mượn Anh trong tiếng Hán có thể rút ra bốn công năng,là: Công năng ngôn ngữ, Công năng văn hóa, Công năng xã hộ và Công năng tâm lý.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(67)</span> 59. Chƣơng 3 ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM TIẾP NHẬN TỪ NGỮ TIẾNG ANH TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI VÀ TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI 3.1. Đặt vấn đề Trong quá trình lịch sử phát triển của ngôn ngữ học tiếng Hán và tiếng Việt đều tồn tại hiện tượng tiếp nhận và vay mượn nhiều từ ngoại lai, các từ ngoại lai đều có đặc điểm riêng của nó, đây cũng là một hiện tưởng phổ biến trong tiếng Hán và tiếng Việt. Đặc biệt là hiện tưởng tiếp nhận từ mượn Anh. Do văn hóa hai nước Trung Quốc và Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa các nước sử dụng tiếng Anh. Cho nên trong tiếng Hán và tiếng Việt có nhiều từ mượn Anh, hai nước tiếp nhận từ mượn Anh đều mang đặc điểm riêng của mình. Cho nên đối chiếu đặc điểm tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại, có thể thấy ràng ra giống nhau và khác nhau. Tổng kết xu thế phát triển của từ mượn Anh và khái quát ưu điểm và khuyết điểm của nó, làm cho chúng ta có thể tìm hiểu sâu sắc đối với từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt, cũng có thể nắm vững và sử dụng từ mượn Anh chính xác, giữ gìn sự trong sáqng của tiếng Hán và tiếng Việt.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(68)</span> 60. 3.2. Đối chiếu về cách vay mƣợn giữa tiếng Hán và tiếng Việt Về cách vay mượn từ ngữ Anh giữa tiếng Hán và tiếng Việt, bên cạnh những điểm giống nhau thì cũng có những điểm khác nhau. Dưới đây là những đối chiếu cụ thể. Trước hết có thể thấy những cách vay mượn chủ yếu của hai ngôn ngữ như sau: Cách thức vay mượn chủ yếu của tiếng Việt là: Dịch hay can kết ngữ nghĩa, phiên âm, chuyển tự, kết hợp phiên âm và dịch nghĩa, mượn nguyên dạng của nguyên ngữ. Cách thức vay mượn chủ yếu của tiếng Hán là: dịch âm tương đương với phỏng âm, dịch nghĩa, kết hợp dịch âm và dịch nghĩa, mượn nguyên dạng của nguyên chữ . Sự giống nhau và khác nhau của cách vay mượn giữ tiếng Hán và tiếng Việt như sau: Giống nhau: Hai ngôn ngữ khi tiếp nhận từ ngoại lai vào trong ngôn ngữ của mình đều phải thông qua một số cải tạo trên bình diện ngữ âm, ngữ nghĩa, hình thái cấu trúc, chữ viết, các từ ngoại lai thông qua những cải tạo này đều được đồng hóa, tức là được nhập hệ vào hệ thống ngôn ngữ đi vay, những từ vay mượn được cải tạo lại để có hình thức ngữ âm, đặc điểm ngữ pháp phù hợp với hình thức ngữ âm và ngữ pháp của ngôn ngữ đi vay và đều được dùng trong tiếng Hán và tiếng Việt, được người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(69)</span> 61. dân sử dụng thừa nhận. Khác nhau: Do tiếng Hán và tiếng Việt thuộc hai ngữ hệ khác nhau. Tiếng Hán thuộc ngữ hệ Hán Tạng, tiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á. tiếng Anh thuộc ngữ hệ Ấn Âu. Hơn nữa, tiếng Hán và tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, chữ viết tiếng Hán là chữ tượng hình, tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ tổng hợp tính, chữ viết là chữ cái Latin. Nhưng các chữ cái của tiếng Việt và tiếng Anh đều viết bằng chữ Latin. Cho nên hai ngôn ngữ này có khác biệt lớn với chữ cái tiếng Hán. Nói chung cách vay mượn của từ ngoại lai trong tiếng Hán và tiếng Việt đại thể nhất trí, cụ thể đến khi nhập tiếng Anh vào trong hai ngôn ngữ thì hơi có khác biệt trên bình diện chữ viết và ngữ âm.. 3.3. Đối chiếu về sự Hán hóa và Việt hóa của từ mƣợn Anh trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại. Có thể thấy những nét tổng quát là, sự Hán hóa và Việt hóa các từ ngữ tiếng Anh đều diễn ra ở các bình diện ngữ âm, hình thái cấu trúc, ngữ nghĩa và chữ viết. Giống nhau: - Sự Hán hóa hoặc Việt hóa đều để làm cho từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt có thể sử dụng quy phạm và chính xác. Làm cho các từ mượn Anh có thể nhập hệ vào hệ thống từ vựng của hai ngôn ngữ. - Thông qua sự Hán hóa và Việt hóa có thể tăng thêm sức lý giải đối với từ mượn Anh, nắm vững đặc điểm hàm ý của từ mượn Anh, hợp lý Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(70)</span> 62. thu nhập từ ngoại lai, thúc tiến sự giao lưu của văn hóa, thúc đẩy chuyển bá về tin tức, làm cho hình thức diễn đạt của tiếng Hán và tiếng Việt phong phú thêm, giữ gìn sức sống thịnh vượng của hệ thống ngôn ngữ tiếng Hán và tiếng Việt. - Quá trình Hán hóa và Việt hóa trên bình diện ngữ nghĩa đại thể giống nhau, Đây là do hai nước có bối cảnh văn hóa gần nhau, vị trí địa lý gần nhau và nhiều nguyên nhân lịch sử tạo nên. Từ xưa đến nay tiếng Việt và tiếng Hán có nhiều tiếp xúc, hơn nữa tiếng Hán có nhiều ảnh hưởng với tiếng Việt. Cho nên nhân dân hai nước đối với những từ mới có khả năng lý giải cũng giống nhau, vì thế khi tiếp nhận từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt, sự Hán hóa và việt hóa trên bình diện ngữ nghĩa thì giống nhau.. Khác nhau: - Trong quá trình Hán hóa và Việt hóa của từ mượn Anh có những khác biệt. Những khác biệt chủ yếu trên bình diện ngữ âm và chữ viết . Nguyên nhân của nó chủ yếu là do tiếng Hán và tiếng Việt thuộc hai ngữ hệ (tiếng Hán thuộc ngữ hệ Hán Tạng, tiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á). Chữ cái của hai nước cũng có khác biệt lớn, tiếng Hán sử dụng văn từ biểu hình, thuộc chữ tượng hình. Tiếng Việt sử dụng chữ Latin. Cho nên nói về bản thân của hai ngôn ngữ này về phát âm và chữ viết đều có khác biệt lớn, thì trong quá trình Hán hóa và Việt hóa từ mượn Anh trên bình diện phát âm và chữ Viết có khác biệt lớn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(71)</span> 63. - Do chữ cái tiếng Anh và chữ cái tiếng Việt đều thuộc chữ Latin. Cho nên khi từ mượn Anh ra nhập vào tiếng Việt có thể đọc và viết đúng theo từ trong nguyên ngữ. Đặc điểm này trong tiếng Hán thì không thể thực hiện được. Cũng là do tiếng Anh và tiếng Hán ngữ hệ khác nhau và chữ cái không cùng loại hình tạo nên.. 3.4. Đối chiếu sự quy phạm hóa từ mƣợn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt 3.4.1. Quy phạm hóa từ mượn Anh trong tiếng Hán Tùy theo sự phát triển của ngôn ngữ, việc quy phạm hóa ngôn ngữ cũng dựa trên các hình thức mà tồn tại và phát triển không ngừng. Nếu sự quy phạm hóa ngôn ngữ không kịp thời sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp, thậm chí ảnh hưởng đến việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ bản thân. Quy phạm hóa hệ thống từ vựng cũng là một việc tất yếu. Một số từ vựng trong quá trình sử dụng dần dần bị loại bỏ, cũng không phải toàn do phát triển của xã hội, hoặc nhận thức của nhân loại được nâng cao mà tạo thành, một số cũng là do ngôn ngữ quy phạm hóa không kịp thời tạo nên. Cho nên trong quá trình phát triển của từ vừng, quy phạm hóa là một việc rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến các phương diện của từ vựng. Nhìn về gốc độ từ mượn Anh trong tiếng Hán, chủ yếu liên quan đến: quy phạm hóa các bình diện ngữ âm, ngữ nghĩa, hình thái cấu trúc và chữ viết. Nói chung quy phạm hóa từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán có tác dụng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Hán và phát triển từ mượn Anh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(72)</span> 64. Nhìn về góc độ quy phạm hóa ngôn ngữ, khi tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh vào trong tiếng Hán phải chú ý đến 4 điểm như sau: - Không nên một từ có nhiều hình thức phiên dịch. Khi mượn từ tiếng Anh vào trong tiếng Hán có khi xuất hiện nhiều biến thể, Cho nên việc sử dụng các từ vay mượn này thường không nhất quán, hình thức vay mượn hỗn tạp, nhiều cách tiếp nhận của cùng một từ vay mượn đều được sử dụng tùy theo sở thích và thói quen của người sử dụng mà không cần tuân theo một quy định nào. Ví dụ: từ ―laser‖ trong tiếng Hán có nhiều hình thức phiên dịch: 镭 射,雷射,莱塞,激光 v.v Từ ―dacron‖ cũng có nhiều hình thức như: 的确良,的确凉,涤确良. Tên nhà nước ―New zealand‖ vào trong tiếng Hán có hai hình thức:新 西兰,纽西兰. ―sandwich‖ có thể dịch thành 三明治 hoặc 三文治. Những từ mượn Anh có nhiều hình thức phiên dịch như trên trong tiếng Hán cũng có nhiều. Hiện tượng này làm khó khăn cho người sử dụng, không thể xác định dùng từ nào. Cho nên lựa chọn một từ tương đối ổn định về phát âm và chữ viết để tiếp nhận và quy phạm hóa từ mượn Anh là một việc tất yếu. - Phiên dịch thống nhất Mượn từ tiếng Anh về tên người, tên nhà nước, địa danh v.v. vào trong tiếng Hán, khi dịch thể hiện ở hình thức chữ viết phải thống nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(73)</span> 65. Ví dụ: [r] [l] dùng cách phiên âm chữ Hán để dịch phải thống nhất dùng chữ ―尔‖. ―-son‖ phải dùng chữ ―逊‖ để dịch. Khi mượn từ vào nên dùng phương thức dịch nghĩa hoặc kết hợp dịch âm và dịch nghĩa, như thế vừa phù hợp với thói quen sử dụng của tiếng Hán, vừa dễ được tiếp nhận. Ví dụ: sử dụng ―电话‖ mà không dụng ―德律风‖ Sử dụng ―科学‖ mà không dụng ―赛因斯‖. Cho nên khi trong quá trình mượn một từ Anh vào, nếu xuất hiện nhiều hình thức phiên dịch, tốt nhất là chỉ sử dụng một hình thức để quy phạm hóa và thống nhất. - Đối với những từ đã có trong tiếng Hán nên ít nhập vào. Do bị nước Anh Mỹ ảnh hưởng sâu sắc, và có tâm lý chuộng mới, ở Trung Quốc nhiều trường hợp tuy từ tiếng Hán bản ngữ có thể thay thế, nhưng người dân vẫn ―sính‖ dùng từ mượn. Thậm chí có trường hợp không hiểu đúng, không hiểu hết nghĩa của từ mượn mà vẫn sử dụng một cách bừa bãi. Ví dụ: 菲林(胶卷 film),曲奇(甜饼 cookie), 新地(圣代 sundae) Những từ như trên nhìn về gốc độ quy phạm hóa của ngôn ngữ là không cần phải nhập vào một lần nữa, bởi trước khi đã dùng cách dịch nghĩa tiếp nhận vào, bây giờ dùng cách dịch âm mượn vào để sử dụng dễ tạo nên hỗn loạn. - Khi mượn từ tiếng Anh vào chủ yếu nên áp dụng phương thức dịch Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(74)</span> 66. nghĩa. Trong quá trình tiếp nhận từ mượn Anh trong tiếng Hán có rất nhiều phương thức tiếp nhận. Nhưng sử dụng phương thức dịch nghĩa có lợi cho quy phạm hóa từ vựng và ngôn ngữ. Dụng phương thức này làm cho chúng ta dễ dàng nắm bắt và sử dụng, nhờ đó mà rút ngắn quá trình giao tiếp văn hoá và giảm hóa, khắc phục những xung đột văn hoá. Các từ được tiếp nhận theo phương pháp dịch nghĩa này không những khiến cho người đọc tìm được mối quan hệ thông tin đối ứng giữa từ vựng nước ngoài và từ vựng tiếng Hán mà còn tuân theo nguyên tắc kinh tế và nguyên tắc ngữ pháp một cách chặt chẽ, còn dễ gia nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Hán.. 3.4.2. Chuẩn hoá từ mượn Anh trong tiếng Việt Từ ngoại lai hiện đang xuất hiện ngày một nhiều trong tiếng Việt. Từ gốc nhìn theo diễn tiến của lịch sử, tiếng Việt đã tiếp thu một số lượng không nhỏ các từ ngữ của các ngôn ngữ khác để làm giàu cho vốn từ của mình. Trước hết phải khẳng dình rằng, từ ngoại lai là một nguồn bổ sung từ ngữ cho bất kỳ một ngôn ngữ nào, trong đó có tiếng Việt. Các thế hệ người Việt Nam khi sử dụng tiếng Việt đã tiếp nhận, đồng hóa các từ ngữ nước ngoài để chúng thực sự trở thành những từ ngữ Việt như bất kỳ những từ ngữ Việt nào khác. Sở dĩ có biết bao nhiêu từ ngữ gốc tiếng nước ngoài, đặc biệt là gốc Ấn-Âu mà người sử dụng tiếng Việt hàng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(75)</span> 67. ngày không có cảm giác là gốc ngoại, chính là nhờ sự Việt hóa cao độ ở cả cách đọc lẫn cách viết. Điều này khẳng định rằng, đồng hóa, chuẩn hóa và quy phạm hóa các từ ngữ nước ngoài khi nhận vào tiếng Việt là một tất yếu trong cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt nói riêng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nói chung. Ở Việt Nam công việc chu ẩn hoá tiếng Việt đã được chú ý từ những năm đầu thế kỷ XX , bởi các nhà khoa học , các nhà báo nhà văn và các nhà chính trị. Nội dung chủ yếu trong quan niệm về chuẩn mực hoá ở thời kỳ này là : cần phải bảo vệ bản sắc của tiếng Việt , giữ gì n sự trong sáng của tiếng Việt , không lạm dụng các từ vay mượn nước ngoài n ếu không cần thiết. Nhìn lại sơ lược về lịch sử phát triển của tiếng Việt có th ể thấy rằng: trong sự tiếp xúc với tiếng Hán và tiếng Pháp , tiếng Việt đã vay mượn nhiều yếu tố của hai ngôn ngữ này , đặc biệt là tiếng Hán. Đặc biệt những yếu tố vay mượn từ tiếng Hán từ trước cho tới nay đều được phát âm theo cách riêng của người Việt mà trong giới ngôn ngữ học thường gọi là "cách đọc Hán - Việt" VD: 山--> sơn, 北京--> Bắc Kinh. Còn lại việc vay mượn từ tiếng Pháp cũng như nhiều từ gốc ngoại Ấn - Âu trong tiếng Việt đã trải qua con đường như sau: đầu tiên là dịch nghĩa hay phiên âm qua cách đọc Hán - Việt, rồi sau trở lại tiến g gần đến cách viết , cách đọc của nguyên ngữ (ngôn ngữ gốc). Thí dụ: Montesquieu (nguyên ngữ tiếng Pháp) --> Mạnh Đức Tư Cưu. (viết, đọc theo âm Hán. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. - Việt) -->. .
<span class='text_page_counter'>(76)</span> 68. Mông-tét-ski-ơ (phiên âm theo tiếng Pháp , có biến đổi cho phù hợp với tiếng Việt). Thay đổi cách tiếp cận như vậy do tác đ ộng của yếu tố tâm lý - ngôn ngữ . Coi chất liệu Hán - Việt là "dễ nghe" hơn chất liệu Ấn - Âu về cơ bản là cách nghĩ , là tâm lý của thế hệ những người song ngữ Việt -Hán đầu thế kỷ XX ; còn với lớp người song ngữ Việt - Pháp sau đó và gần đây là song ngữ Việt - Nga và nhất là song ngữ Việt - Anh hiện nay thì nổi lên là yêu cầu phải đạt được sự chính xác trong dùng từ ; thí dụ: từ marketing mới được du nhập và o tiếng Việt mấy năm gần đây (khi Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi mới và chuyển sang nền kinh tế thị trường. ). lúc đầu được dịch là "tiếp thị " , nhưng gần đây có xu hướng phổ biến là dùng phiên âm: ma-két-tinh để biểu thị chính xác khái niệm. Lẽ tất nhiên, khi có thể dị ch chí nh xác thuật ngữ Ấn - Âu sang tiếng Việt thì chuẩn vẫn sẽ là sự lựa chọn yếu tố Việt hay Hán - Việt; thí dụ sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN thì trong tiếng Việt đã xuấ t hiện từ "đồng thuận" để dịch từ " consensus " của tiếng Anh. Trong bối cảnh có những sự lựa chọn khi thì thiên về mặt âm khi thì thiên về mặt nghĩ a như vừa nêu, trong tiếng Việt hiện nay đang có những trường hợp được gọi là "lưỡng khả " ( two possibilities ), nghĩa là song song tồn tại hai cách nói , cách viết chứ chưa có một cái nào trong số đó được coi là chuẩn ; thí dụ: Festival --> Phét-ti-van ( phiên âm, ấn - âu) / Lễ hội (dùng yếu tố Hán - Việt).. (13, tr 74-75) Tìm hiểu những giải pháp cụ thể trong công việc chuẩn hoá tiếng Việt, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(77)</span> 69. có thể phát hiện ra, ẩn dưới bề sâu của chúng, những quan điểm khoa học khác nhau về sự bảo vệ và phát triển một ngôn ngữ , về cá c phong cách chức năng của ngôn ngữ , về sự kế hoạch hoá ngôn ngữ ...trong bối cảnh hiện nay của sự khu vực hoá, toàn cầu hoá. Trong sự phát triển của xã hội, ngôn ngữ luôn là một nhân tố đóng vai trò quan trọng. Vị trí và vai trò ấy đặt ra yêu cầu chuẩn hoá nó về mặt chữ viết, từ vựng, ngữ pháp, và ngữ âm. Chuẩn hoá tiếng Việt là xác định tính chất đúng đắn và thống nhất của các quy tắc trong ý thức "giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt", tức là giữ gìn cái bản sắc đẹp đẽ, cái bản lĩnh độc đáo của tiếng Việt, đồng thời xác nhận những hiện tượng mới nảy sinh trong quá trình phát triển mạnh mẽ của tiếng Việt.. 3.4.3. Những nhận xét rút ra Trong tiếng Hán và tiếng Việt đều có từ mượn Anh, tiếng Anh có ảnh hưởng sâu sắc đối với ngôn ngữ hai nước và làm cho ngôn ngữ hai nước tăng thêm nhiều từ mới, đáp ứng nhu cầu của giao tiếp. Những từ mượn Anh trong quá trình sử dụng của hai nước cũng mang đến một số ưu điểm và hạn chế. Xét về phương thức du nhập từ mượn Anh của tiếng Hán và tiếng Việt, quá trình Hán hóa và Việt hóa của từ mượn Anh, chúng ta có thể thấy rằng có nhiều điểm giống nhau. Cho nên sự ưu điểm và hạn chế của từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt nói về căn bản đều là như nhau.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(78)</span> 70. 3.4.3.1. Ưu điểm của từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt - Từ mượn Anh đáp ứng nhu cầu gọi tên với những sự vật mới xuất hiện trong xã hội giao tiếp, làm cho tiếng Hán và tiếng Việt có sự thay đổi lớn. Sự xuất hiện của từ mượn Anh trong ngôn ngữ hai nước Trung Quốc và Việt Nam rất cần thiết và rất có ý nghĩa. Nếu không có tác dụng thì từ mượn Anh trong hai ngôn ngữ đã mất giá trị của nó . Bất cứ trong tiếng Hán hay tiếng Việt, mỗi năm đều có nhiều từ mượn Anh du nhập vào hệ thông ngôn ngữ của hai nước, hiện tượng này làm phong phú thêm hệ thống từ vựng tiếng Hán và tiếng Việt. Nhưng mặt khác, đối với quy phạm sử dụng ngôn ngữ Hán Việt và dạy ngôn ngữ cũng là một thách thức mới. - Từ mượn Anh làm phong phú thêm và bổ sung thêm những không đầy đủ của hệ thống từ vựng tiếng Hán và tiếng Việt, Hơn nữa từ mượn Anh có thể biểu đạt một số khái niệm mới, sự vật mới, cũng có thể thay thế những chữ không thể dịch ra trong tiếng Hán và tiếng Việt. Ví dụ : Tiếng Hán: Sofa ——沙发 Hamburger——汉堡包 Bikini——比基尼 Tiếng Việt : Coffe——càfe Halloween——he lâu in Download——đao lốt - Từ mượn Anh không những tăng thêm từ vựng mới trong hệ thống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(79)</span> 71. ngôn ngữ tiếng Hán và tiếng Việt, còn mang đến nhiều khái niệm mới về khoa học kỹ thuật. Cho nên dùng từ mượn Anh biểu đạt khái niệm khoa học kỹ thuật hoặc những từ chuyên dụng, còn chính xác hơn. Ví dụ: UFO——不明飞行物 GDP——国内生产总值 WTO——世贸组织 - Từ mượn Anh dễ dùng, dễ nhớ, còn đơn giản, sống động và thời thượng. Ví dụ: PC——Personal computer——个人电脑——máy tính Chat————网上聊天——nói chuyển trên mạng DNA——Deoxyribo Nucleic Acid—— 脱氧核糖核酸 - Từ mượn Anh phản ánh và đáp ứng nhu cầu của hiện đại hóa và công nghiệp hóa, và có nhiều từ mượn Anh thể hiện ra đặc điểm này trong tiếng Hán và tiếng Việt. Tùy theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là phát triển của kỹ thuật thông tin và y học, có nhiều thông tin có liên quan ồ ạt vào trong xã hội chúng ta. Nếu trực tiếp dịch nó thành tiếng Hán và tiếng Việt thì rất phức tạp, nhưng nếu sử dụng từ ngoại lai hoặc các chữ cái Latin thì nhanh hơn và đơn giản hơn. Các từ mượn Anh làm cho tốc độ truyền bá thông tin nhanh hơn, và làm cho tốc độ đổi mới tri thức nhanh hơn, sự tăng thêm của từ mượn Anh cũng mang lại nhiều tin tức mới và tri thức mới . Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(80)</span> 72. Ví dụ: Về kỹ thuất thông tin:Fax——传真,CPU——处理器 Về y học : CT, X 光, B 超 - Từ ngoại lai có tính thống nhất quốc tế Hệ thống Internet làm cho các sự vật mới có thể truyền bá nhanh lên đến khắp mỗi nơi trên toàn cầu. Các từ vựng mới xuất hiện ở các nước, truyền bá lẫn nhau, thấm vào lẫn nhau, lấy làm gương với nhau, làm cho nó dần dần có điểm giống nhau, thậm chí sử dụng cùng một từ. Hiện tượng này trong tiếng Hán và tiếng Việt cũng có. Hai ngôn ngữ sử dụng cùng một từ mượn Anh thể hiện cùng một ý nghĩa.Ví dụ : CD, DVD, TV, DJ, Email, IT, IQ,DNA ,NBA v.v. - Từ mượn Anh tiện cho việc giao lưu Bất cứ trong tiếng Hán hay tiếng Việt, có khi người ta đều thích trộn lẫn một hai câu hoặc một hai từ tiếng Anh để biểu thị quan hệ thân thiết hoặc ngôn ngữ mốt, để tiện cho sự giao lưu. Ví dụ: Hello 你好, Bye 再见, Ok 同意, Thank you 谢谢. 3.4.3.2. Hạn chế của từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt Cũng như sự ưu điểm của từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt, từ mượn Anh cũng có những hạn chế ảnh hưởng đến hệ thống ngôn ngữ hai nước. - Phạm vi sử dụng có hạn, không phải là tất cả trường hợp đều thích hợp sử dụng từ mượn Anh.Ví dụ trong một số công văn, văn bản chính thức của nhà nước, hoặc trong trường hợp chính thức không thể sử dụng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(81)</span> 73. từ mượn Anh. Cho nên từ mượn Anh thường dùng trong những trường hợp sách báo, khẩu ngữ giao tiếp, quảng cáo, các nhãn hiểu trang phục hoặc ẩm thực v.v. - Từ mượn Anh không có tính phổ biến trong xã hội do không phải là tất cả người đều biết ý nghĩa của các từ mượn Anh, nó liên quan đến tri thức văn hóa của người sử dụng, hoặc những người biết tiếng Anh. Cho nên những người già, người quê, người có trình độ văn hóa thấp ...đều không sử dụng được từ mượn Anh. - Từ mượn Anh có ảnh hưởng sâu sắc đối với ngôn ngữ hai nước. Cho nên dễ phá hoại sự trong sáng của tiếng Hán và tiếng Việt. Mang khó khăn cho chuẩn hóa ngôn ngữ hai nước. - Do ảnh hưởng của thể chế, thói quen, văn hóa, thậm chí ngôn ngữ địa phương của nước mình, làm cho từ mượn Anh du nhập vào hai ngôn ngữ có một số không thể thống nhất được, bất cứ về hình thức hay là cách đọc, đều gây khó khăn cho việc quy phạm hóa từ mượn Anh. Ví dụ:Trong tiếng Hán ―Chocolate‖ có thể dịch thành ―巧克力‖,―朱古力‖,―查古律‖. ―UFO‖ dịch thành ―幽浮‖,―飞碟‖, ―不明飞行物‖. Trong tiếng Việt ―album‖có thể biến thể thành ―an bom‖, ―an bum‖, ―an-bum‖. ―Baby‖ có thể biến thể thành ―bê-bi‖, ―bây bi‖ . Tất nhiên cách đọc cũng không giống nhau . - Sự quan niệm và tư duy do từ mượn Anh mang lại sẽ ảnh hưởng đến người dân của nước tiếp nhận từ mượn Anh này. Làm cho người ta khó Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(82)</span> 74. giữ được bản tính và truyền thống, dễ làm cho văn hóa truyền thống của nước mình trộn lẫn. Chúng ta đều thừa nhận, từ mượn Anh làm cho hệ thống ngôn ngữ phong phú thêm. Bất cứ trong tiếng Hán và tiếng Việt. Nhìn về gốc độ văn hóa hay ngôn ngữ, hiện tượng tiếp nhận và phát triển từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt đều là việc có lợi, đều là việc được hoan nghênh. Nhưng nếu không hạn chế, không quy phạm hóa, tất phải làm cho tiếng Hán và tiếng Việt thay đổi kết cấu hoặc ngữ pháp, không giữ được sự trong sáng của tiếng Hán và tiếng Việt. 3.5. Tiểu kết 1) Từ mượn Anh là một hiện tượng phổ biến trong các ngôn ngữ trên thế giới nói chung và trong tiếng Hán và tiếng Việt nói riêng. Do Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng với nhau, có bối cảnh văn hóa giống nhau, và có ảnh hưởng lẫn nhau, khi trong quá trình tiếng Anh được tiếp nhận vào ngôn ngữ hai nước, chắc chắn sẽ có một số điểm giống nhau, đương nhiên cũng có điểm khác nhau. 2) Thông qua so sánh đối chiếu về phương pháp vay mượn, sự Hán hóa và Việt hóa từ mượn Anh , tác dụng từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt, ưu điểm và sự hạn chế của từ mượn Anh trong ngôn ngữ hai nước, Có thể rút ra một số điểm giống nhau và khác nhau, chúng ta có thể quy nạp như sau: - Tiếng Hán và tiếng Việt đều là ngôn ngữ có thanh điệu, cho nên khi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(83)</span> 75. tiếp nhận từ mượn Anh vào ngôn ngữ đều khó xác định ngữ âm, đều có nhiều phương thức dịch âm . - Khi từ tiếng Anh du nhập vào hai ngôn ngữ, đều phải căn cứ vào ngữ âm, ngữ nghĩa, chữ viết và quy luật ngữ pháp của ngôn ngữ đi vay để ―cải tạo ‖, làm cho nó trở thành một bộ phận của ngôn ngữ đi vay. Tức là đều phải được đồng hóa và Hán hóa hoặc Việt hóa. - Phương thức Hán hóa và Việt hóa của từ mượn Anh. Nói về cơ bản có nhiều điểm giống nhau, nhưng cũng có một số khác biệt trên bình diện ngữ âm và ngữ nghĩa. - Trong tiếng Hán, phương thức du nhập từ mượn Anh chủ yếu là phương thức dịch nghĩa. Nhưng trong tiếng Việt chủ yếu sử dụng phương thức dịch âm. Dịch nghĩa còn phù hợp với tập quán và đặc điểm của dân tộc Hán, và vẫn có thể biểu rõ ý nghĩa của từ mượn Anh, tuy hiện nay Trung Quốc ngày càng mở rộng liên hệ với quốc tế và với nhiều ảnh hưởng của Internet, từ mượn Anh bằng phương thức dịch âm cũng tăng thêm nhiều, nhưng vẫn là từ dịch nghĩa chiếm đại đa số. Ngược lại từ dịch âm trong tiếng Việt cũng xuất hiện nhiều thế. - Việc quy phạm hóa và chuẩn hóa từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt đối với ngôn ngữ hai nước rất quan trọng. Nó liên quan đến bảo vệ và phát triển ngôn ngữ hai nước và giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ bản thân. - Về từ mượn Anh bất cứ trong tiếng Hán hay tiếng Việt sự ưu điểm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(84)</span> 76. nhiều hơn hạn chế, làm cho hai ngôn ngữ còn phong phú thêm, thúc tiến hệ thống ngôn ngữ đổi mới, dẫn ngôn ngữ hai nước đi vào quốc tế hóa . - Việc sử dụng từ mượn Anh đã thấm vào sâu sắc trong các phương diện cuộc sống xã hội của hai nước. Tùy theo sự phát triển của chính trị, kinh tế, khoa học văn hóa ,ký thuật và thương mại, hai nước ngày càng mật thiết với thế giới. Từ mượn Anh chắc chắn sẽ truyền bá ngày càng rộng và phát triển ngày còn nhanh trên lãnh thổ hai nước. Nhưng cũng sẽ mang đến một số vấn đề mới và những ưu điểm,hạn chế mới cho nhân dân hai nước để giải quyết.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(85)</span> 77. KẾT LUẬN 1. Sự nhu cầu và phát triển của xã hội, là một điều kiện cơ bản và một động lực lớn mạnh khiến cho từ vựng ngôn ngữ tùy theo phát triển. Cùng với sự phát triển của xã hội, các sự vật mới, khái niệm mới xuất hiện không ngừng, tư duy của người dân ngày càng phong phú, các nước tiếp xúc ngày càng mật thiết, tốc độ giao lưu về thông tin ngày càng nhanh ch óng. Tất cả như trên đều thúc đẩy ngôn ngữ các nước trên thế giới phải tiếp thu những yếu tố đặc sắc của ngôn ngữ khác để bổ sung và hoàn thiện cho chính nó. Cho nên thu nhập từ ngoại lai là một phương pháp quan trọng nhất. 2. Tiếng Anh là một ngôn ngữ có vị trí rất cao và được dùng phổ biến trên thế giới, đây đã là một sự thật không thể phủ nhận được. Tiếng Anh như một làn sóng không chỉ ồ ạt tràn vào tiếng Hán và tiếng Việt, mà còn tràn vào nhiều ngôn ngữ trên thế giới, chúng ta không thể cưỡng lại được. Bởi vị từ chối tiếng Anh đồng nghĩa với từ chối quá trình toàn cầu hóa và từ chối tiếp xúc với các nước khác. Cho nên tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh là một hiện tượng không tránh khỏi được trong tiếng Hán và tiếng Việt. 3. Khi từ ngữ tiếng Anh ra nhập vào tiếng Hán và tiếng Việt đều phải thông qua cải tạo trên các bình diện ngữ nghĩa, ngữ âm và chữ viết v.v. Trong quá trình Hán hóa và Việt hóa từ mượn Anh, đã xẩy ra nhiều điểm giống nhau và khác nhau. Đây là do vị trí địa lý, nguyên nhân lịch sử, bối Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(86)</span> 78. cảnh văn hóa tạo nên. Tuy vậy sự Hán hóa và Việt hóa vẫn là một việc tất yếu.Việc này mang đến những lợi cho giữ trong sáng của tiếng Hán và tiếng Việt. 4. Từ mượn Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt mang nhiều đặc điểm: Số lượng thu nhập lớn. Phạm vi thu nhập rộng. Phương thức du nhập đa dạng hóa. Cụ thể thể hiện ở mấy phương diện như sau: (1). Sử dụng từ ngữ tiếng Anh bằng cách để nguyên dạng chữ viết và giữ cách đọc nguyên dạng có nhiều ưu thế trong từ mượn Anh. (2).Việc thu nhập các từ ngữ tiếng Anh chủ yếu trong các lĩnh vực như khoa học kỹ thuật, văn hóa, cuộc sống xã hội. Nhưng tùy theo sự liên hệ với các nước trên thế giới ngày còn mật thiết, mà phạm vi thu nhập còn sẽ mở rộng ra ở mọi phương diện. (3). Sử dụng từ ngữ tiếng Anh đạt tên cho những nhãn hiểu và sản phẩm đã trở thành một xu thế phổ biến . (4). Thông qua đối chiếu đặc điểm tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại về các phương diện, không những rút ra những điểm giống nhau và khác nhau, mà còn làm cho chúng ta thấy rằng việc thu nhập từ ngữ tiếng Anh sẽ tiếp tục phát triển và hoàn thiện. Nhưng sự quy phạm hóa sử dụng từ ngữ tiếng Anh và giữ gìn tính thuận khiết của hai ngôn ngữ vẫn là một vấn đề để giải quyết.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(87)</span> 79. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Đỗ Hữu Châu (2004), Giáo trình Từ vựng học tiếng Việt (giáo trình Cao đẳng sư phạm), NXB ĐHSP, Hà Nội. tr.230-239. 2. Phan Văn Các (1981),Từ ngữ gốc Hán với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ),NXB KHXH,Hà Nội. 3. Đỗ Hồng Dương (2005), Khảo sát các từ mượn tiếng Anh đang sử dụng trong tiếng việt đời sống, Luận án ngôn ngữ học, Trường đại học khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội. 4. Nguyễn Thiện Giáp (2001), Từ vừng tiếng Việt. Nxb đại học quốc gia, Hà Nội. 5. Vũ Bá Hùng (2000), “Cần có các nhìn thỏa dáng đối với vấn đề phiên chuyển từ ngữ nước ngoài sang tiếng Việt”, Tập chí ngôn ngữ số 4, tr. 59-67. 6. Nyuễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. tr. 321-379. 7. Nyuễn Văn Khang (2000), ―Những vấn đề đặt ra đối với việc xử lý từ ngữ nước ngoài trong tiếng Việt”. Tập chí ngôn ngữ số 10, tr.70-76. 8. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội (Những vấn đề cơ bản ). Nxb Khoa học xã hội, HCM. 9. Hồ Lê (2003), Cấu tạo từ tiếng Việt hiền đại, Nxb khoa học xã hội, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(88)</span> 80. HCM. 10. Bưử Thảo (1981), ―Tiếp nhận và Việt hóa từ ngữ nước ngoại‖. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ (Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, viện ngôn ngữ học, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 216-219. 11. Lê Văn Thới (1981), ―Việc tiếp nhận và Việt hóa từ ngữ nước ngoài‖,Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ (Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 224-229. 12. Lê Đức Trọng (1981), ―Vấn đề từ vay mượn trong tiếng Việt hiện đại‖, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Ngôn Ngữ học), Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 220-224. 13. Nguyễn Lê Thy Trương (2009) Đặc điểm của từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán hiện đại, Luận án ngôn ngữ học, Trường đại học khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội. 14. Trần Ngộc Thêm (1981), ―Tìm hiểu các từ tắt có ngồn gốc vay mượn trong tiếng Việt‖, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ(Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học), Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 229-239. Tiếng Hán 15. 古川(2008),外来词,上海锦绣文章出版社, 上海。 16. 郭伏良(2001),新中国成立以来汉语词汇发展变化研究,山东 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(89)</span> 81. 大学出版社,山东。 17. 郭可(2002), 国际传播中的英语强势及影响,现代传媒第 6 期, 北京。 18. 郭鸿杰(2002) ,从形态学的角度论汉语中的英语借词对汉语构. 词发的影响,上海交通大学学报第4期,上海。 19. 黄卫平(2007) ,现代汉语中英语借词及其社会文化心理探析, 十堰技术学院学报第4期,湖北。 20. 红宝书 (2006),英语外来词的文化分析及翻译方式,中国日 报网 21. 韩庆果 (2003),英语新词及其汉译研究,解放军外国语学院学报 第6期,西安。 22. 卢顺英 (2007),现代汉语词汇学,复旦大学出版社,上海。 23. 吕杭 (2006), ,从词义来看汉语外来词的汉化及表现,社会科学 家第S1期。 24. 赖彦 (2008),汉语借用英语外来词的特点及语用理论,汉语学习, 第3期。 25. 刘茹斐 (2005), 现代英语新词对汉语词汇系统的影响,理工大学 学报第5期。 26. 罗常培 (1996),语言与文化,语文出版社,北京。 27. 刘正埮、高名凯、麦永乾、史有为(1984)外来词词典,上海辞 书出版社第一版,上海。 28. 史有为(2000) ,汉语外来词,商务印书馆,北京。 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(90)</span> 82. 29. 史有为(2004) ,外来词异文化的使者,上海辞书出版社,上海。 30. 汤志祥(2003) ,汉语词汇的“借用”和“移用”及其深层社会. 意义,语言教学与研究出版社,北京。 31. 万红(2007),当代汉语的语言学观照:外来词进入汉语的第三. 次高潮和港台词,南开大学出版社,南京。 32. 王宇翼(2005),现代汉语中的英语外来词研究,语言学硕士论 文,中央民族大学,北京。 33. 王艳艳,王光林(2010) ,全球化背景下英语帝国主义现象剖析, 华东师范大学学报第 42 卷第 5 期, 上海。 34. 王琚敏 (2009),论现代汉语对英语外来词的吸收与使用,中国 教育与社会科学第 3 期。 35. 杨锡彭 (2007),汉语外来词研究,上海人民出版社, 上海。 36. 周红红(2009),汉语外来词的社会语言学研究,北京交通大学 出版社,北京。 37. 周国猛(2008),现代汉越语外来词对比研究,汉语言文学硕士 论文,广西师范大学,广西。. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(91)</span>