Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Nghiên cứu công tác quản lý nguồn vốn ODA của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175 KB, 17 trang )

ĐỀ BÀI: NGHIÊN CỨU CÔNG TÁC ODA CỦA VIỆT NAM

I.

KHÁI QUÁT SƠ BỘ VỀ NGUỒN VỐN ODA

Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance hay cịn
gọi là ODA) đã có lịch sử dài hơn nửa thế kỷ, phản ánh một trong những mối quan hệ
quốc tế giữa một bên là các nước phát triển hoặc các tổ chức quốc tế và bên kia là các
nước đang phát triển thông qua việc cung cấp các khoản viện trợ phát triển. Ở các nước
đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng, ODA là một bộ phận quan trọng trong
tổng vốn đầu tư toàn xã hội và ngày càng khẳng định vai trị quan trọng của nó trong tăng
trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
Vậy ODA là gì?
I.1.

Khái niệm ODA

Theo PGS. TS Nguyễn Quang Thái ( viện chiến lược phát triển): Hỗ trợ phát triển
chính thức ODA là các khoản viện trợ khơng hồn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi
(về lãi suất thời gian ân hạn và trả nợ) của các cơ quan chính thức thuộc các nước và các
tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ (NGO).
Theo chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc: ODA là viện trợ khơng hồn lại
hoặc là cho vay ưu đãi của các tổ chức nước ngồi, với phần viện trợ khơng hồn lại
chiếm ít nhất 25% giá trị của khoản vốn vay.
Định nghĩa về ODA cũng được chính phủ Việt Nam sử dụng trong Quy chế quản
lý và sử dụng vốn ODA ban hành kèm theo Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng
11 năm 2006. ODA được hiểu là :” Hoạt động hợp tác phát triển giữa nhà nước hoặc
Chính Phủ nước CHXHCN Việt Nam với nhà tài trợ là chính phủ nước ngồi, các tổ chức
tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ”
Như vậy, hỗ trợ phát triển chính thức - ODA đúng như tên gọi của nó là nguồn vốn


từ các cơ quan chính thức bên ngoài cung cầp (hỗ trợ) cho các nước đang và kém phát
triển, hoặc các nước đang gặp khó khăn về tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
cơng cuộc phát triển kinh tế - xã hội của các nước này.
Các đồng vốn bên ngoài chủ yếu chảy vào các nước đang phát triển và chậm phát
triển gồm có: ODA, tín dụng thương mại từ các ngân hàng, đầu tư trực tiếp nước
ngồi( FDI) , viện trợ cho khơng của các tổ chức phi chính phủ(NGO) và tín dụng tư
nhân. Các dịng vốn quốc tế này có những mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu một
nước kém phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để cải thiện các cơ sở
hạ tầng kinh tế- xã hội thì cũng khó có thể thu hút được các nguồn vốn FDI cũng như vay
vốn tín dụng để mở rộng kinh doanh nhưng nếu chỉ tìm kiếm các nguồn ODA mà không


tìm cách thu hút các nguồn vốn FDI và các nguồn tín dụng khác thì khơng có điều kiện
tăng trưởng nhanh sản xuất, dịch vụ và sẽ khơng có đủ thu nhập để trả nợ vốn vay ODA.
I.2.

Vốn ODA mang tính ưu đãi
Vốn ODA có thời gian cho vay( hồn trả vốn dài), có thời gian ân hạn dài. Chẳng hạn,
vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hồn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10
năm. Thơng thường, trong ODA có thành tố viện trợ khơng hồn lại( cho khơng), đây
cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho không
được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với
mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập quán thương mại
quốc tế. Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và
chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển.
Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA
là: Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội( GDP) bình quân đầu người thấp. Nước
có GDP bình qn đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ khơng hồn lại của
ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn. Điều kiện
thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và

phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA.
Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của
mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn.
Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng
giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các
tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết. Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hồn lại
hoặc khơng hồn lại trong những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân
từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt
xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía
nước tiếp nhận ODA.
• Vốn ODA mang tính ràng buộc
ODA có thể ràng buộc ( hoặc ràng buộc một phần hoặc khơng ràng buộc) nước nhận về
địa điểm chi tiêu. Ngồi ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác
và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều khơng qn dành được
lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện xuất khẩu hàng hố và dịch
vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Nhìn chung 22% viện trợ của DAC phải được sử
dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ.
Kể từ khi ra đời cho tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song.
Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát
triển. Động cơ nào đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này? Bản thân các nước phát
triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở


-

-

-


-

-

-

Đặc điểm của ODA


mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều
kiện kinh tế xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi
kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu mang tính cá nhân này được kết hợp với
tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính tồn cầu như sự bùng nổ
dân số thế giới, bảo vệ mơi trường sống, bình đẳng giới, phịng chống dịch bệnh, giải
quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo v.v đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng đồng quốc
tế không phân biệt nước giàu, nước nghèo. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị
của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng ODA như một cơng cụ chính trị: xác
định vị thế và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA.
• ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ
thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự
tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vịng nợ nần do khơng có khả
năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA khơng có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất,
nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó,
trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng
cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
I.3.

Phân loại


Phân loại theo phương thức hoàn trả:
Viện trợ khơng hồn lại: Viện trợ khơng hồn lại tức là bên nước ngồi cung cấp
viện trợ mà bên nhận khơng phải hoàn trả lại, phần viện trợ sẽ được bên nhận thực hiện
các chương trình, dự án theo thỏa thuận giữa các bên. Viện trợ khơng hồn lại thường
được thực hiện dưới các dạng:
- Hỗ trợ kỹ thuật
- Viện trợ bằng hiện vật
Viện trợ có hồn lại: Nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tùy theo
một quy mơ và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp.
Những điều kiện ưu đãi thường là:
- Lãi suất thấp (tùy thuộc vào mục tiêu vay và nước vay)
- Thời hạn vay nợ dài (từ 20 – 30 năm)
- Có thời gian ân hạn (từ 10 – 12 năm)
ODA cho vay hỗn hợp: Các khoản ODA kết hợp một phần ODA khơng hồn lại và
một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát
triển, thậm chí có loại ODA vốn vay kết hợp tới 3 loại hình gồm một phần ODA khơng
hồn lại, một phần ưu đãi và một phần tín dụng thương mại.


Phân loại theo nguồn cung cấp:
ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia thơng qua
hiệp định ký kết giữa hai Chính phủ.


-


-

-


-

-

ODA đa phương: Là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB, …) hay tổ
chức khu vực (ADB, EU, …) hoặc của một Chính phủ của một nước dành cho Chính phủ
của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thơng qua các tổ chức đa phương như
UNDP (Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc), UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp
Quốc) … có thể khơng. Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
- Ngân hàng thế giới (WB)
- Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF)
- Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
• Phân loại theo mục tiêu sử dụng:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách Chính
phủ, thường được thực hiện thơng qua các dạng:
- Chuyển giao trực tiếp cho nước nhận ODA
- Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hóa)
Tín dụng thương mại: tương tự như viện trợ hàng hóa nhưng có kèm theo điều kiện ràng
buộc.
Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước nhận viện trợ ký hiệp
định cho một mục đích tổng quát mà khơng cần xác định tính chính xác khoảng viện trợ
sẽ được sử dụng như thế nào.
Viện trợ dự án: Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiến ODA. Điều kiện được
nhận viện trợ dự án là “phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử dụng ODA”.
I.4.

-

-


-

Vai trò và ý nghĩa của ODA

• Trong lĩnh vực nơng nghiệp và phát triển nơng thơn
Các chương trình và dự án ODA đã góp phần cải thiện và phát triển sản xuất nông nghiệp,
thay đổi bộ mặt nơng thơn Việt Nam, như: các chương trình phát triển thủy lợi, giao thông
nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, phát triển lưới điện nông thôn…
Các dự án hỗ trợ phát triển hạ tầng nơng thơn đã góp phần cải thiện đời sống người dân
các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các
dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục..., góp phần quan trọng vào cơng tác xố
đói giảm nghèo tại các vùng nơng thơn.
Bên cạnh đó, các chương trình, dự án ODA cũng đã hỗ trợ công tác nghiên cứu khoa học,
công nghệ nông nghiệp giúp nâng cao chất lượng, an tồn sản phẩm nơng nghiệp, tăng
sức cạnh tranh của sản phẩm.
• Về năng lượng
Nhờ có ODA, Việt Nam đã xây dựng hàng loạt các dự án nguồn thuỷ điện, nhiệt
điện và năng lượng tái tạo, lưới điện và trạm phân phối... góp phần nâng cao năng lực sản
xuất, truyền tải, phân phối, quản lý hệ thống điện, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng phụ tải
cao với tốc độ 15%-17%/năm.
• Về giao thơng vận tải


-

-

-


-

Đây là ngành tiếp nhận vốn ODA nhiều nhất. Trong thời kỳ 1990-2013, ngành
Giao thơng Vận tải đã hồn thành và đang thực hiện 132 dự án với tổng vốn ODA hơn 17
tỷ USD, trong đó đã hồn thành 83 dự án với vốn ODA đạt 5 tỷ USD và đang thực hiện
49 dự án với số vốn ODA khoảng 12 tỷ USD. Các chương trình, dự án ODA trong lĩnh
vực này đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng và hồn thiện hệ thống giao thơng quốc gia cũng
như giao thơng vùng và tại các tỉnh, thành.
• Trong giáo dục và đào tạo
Tất cả các cấp học đều nhận được sự hỗ trợ thơng qua các chương trình và dự án ODA,
giúp tăng cường năng lực dạy và học, hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi được đến trường, đẩy
mạnh giáo dục cho tất cả mọi người. Bên cạnh đó, còn phải kể đến các dự án hỗ trợ kỹ
thuật, chủ yếu bằng viện trợ khơng hồn lại, đã đào tạo và đào tạo lại cho hàng vạn cán bộ
Việt Nam ở các cấp về nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ, quản lý kinh tế, tài
chính ngân hàng, quản trị cơng...
Các chương trình và dự án ODA đưa tới Việt Nam những chuyên gia quốc tế từ khu vực
và thế giới, thơng qua đó, cán bộ Việt Nam đã học hỏi được không những về chuyên môn
mà còn phong cách làm việc chuyên nghiệp, tinh thần trách nhiệm đối với cơng việc được
giao.
• Về y tế
Các chương trình, dự án ODA đã tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho công tác
khám và chữa bệnh, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, xây dựng cơ sở sản xuất kháng
sinh, trung tâm truyền máu quốc gia...
Ngồi ra, nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, phòng chống HIV/AIDS và các
bệnh truyền nhiễm được thực hiện bằng vốn ODA đã đem lại hiệu quả tích cực. Sự hỗ trợ
của ODA đối với ngành y tế trong thời gian qua đã góp phần vào những tiến bộ đạt được
trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) liên quan tới y tế.
• Về việc phát triển đơ thị và bảo vệ môi trường
Từ nguồn vốn ODA, hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn đã được xây dựng mới,
cải tạo hoặc mở rộng hệ thống cung cấp nước sinh hoạt, thoát nước và một số nhà máy xử

lý nước thải. Nhiều thành phố ở Việt Nam đã được cải thiện về mơi trường bằng các dự án
vốn ODA, điển hình thành công là dự án kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè ở thành phố Hồ Chí
Minh, với sự hỗ trợ vốn vay của Ngân hàng Thế giới (WB), dòng kênh tưởng như đã chết
này lại hồi sinh, trở thành con kênh xanh, sạch, đẹp.
• Về lĩnh vực khoa học, cơng nghệ
Nhiều kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến được chuyển giao cho các cơ
quan, các trung tâm nghiên cứu, cũng như các bộ, ngành và địa phương với sự hỗ trợ của
các chương trình, dự án ODA về công nghệ cao, tiên tiến trong các lĩnh vực công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ xây dựng... Dự án phát triển
hạ tầng khu công nghệ cao và Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại khu Cơng nghệ cao Hịa Lạc,
Hà Nội do Nhật Bản tài trợ là một thí dụ điển hình.
• Về xây dựng thể chế


Thông qua việc tiếp nhận nguồn vốn ODA, Việt Nam đã học hỏi được những kiến
thức, kinh nghiệm quốc tế để hồn thiện mơi trường thể chế, pháp lý trong quá trình
chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế và khu vực, nhất là quá trình
chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nhiều dự thảo luật và văn bản
quy phạm pháp luật dưới luật đã được xây dựng với sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA, như:
Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Doanh
nghiệp…
II.

Tổng quan về quản lý Nhà nước về ODA
Khái niệm
Theo Nghị định số 131/2006/NĐ-CP thì: “Quản lý nhà nước về ODA là sự tác động có tổ
chức của Nhà nước đổi với toàn bộ nguồn vốn ODA bằng quyền lực của nhà nước, thông
qua cơ chể quản lý vốn ODA, nhằm thực hiện được các mục tiêu đặt ra đổi với q trình
thu hút và sử dụng vốn ODA”.
Hoặc có thể hiểu: “Quản lý nhà nước về vốn ODA là quá trình nhà nước lập kể hoạch, tổ

chức, lãnh đạo, kiểm tra việc thu hút và sử dụng ODA, nhằm đạt được các mục tiêu của
nhà nước đặt ra với kểt quả và hiệu quả cao trong điều kiện phát triển của đất nước”
II.1.2. Tầm quan trọng của quản lý nhà nước về ODA
ODA là một nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng đối với các nước tiếp nhận trong giai đoạn
hiện nay. Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng có thể sử dụng không hiệu quả, gây gánh nặng
nợ nần cho đất nước nếu như khơng có sự quản lý nhà nước chặt chẽ. Phải nhấn mạnh
tầm quan trọng của quản lý nhà nước về vốn ODA vì các lý do chủ yếu sau:
a. Giá trị thực tế của vốn ODA thấp hơn giá trị danh nghĩa của nó
Điều này có nghĩa tính ưu đãi của vốn ODA giảm, chi phí để có vốn này sẽ tiến gàn tới
vốn thương mại trên thị trường tài chính, nếu khơng có sự quản lý chặt trong thu hút thì
chi phí này càng cao
Chi phí thực tế mà nước tiếp nhận phải trả để sử dụng vốn ODA lớn hơn tiền lãi phải trả
cho nhà tài trợ
+ Chi phí liên quan đến khoản ODA (chi phí có ghi trong hợp đồng và chi phí tiềm
ẩn).
+ Nhà tài trợ ràng buộc điều kiện đối với vốn ODA khi nước tiếp nhận phải chấp
nhận một phần giá trị khoản ODA là hàng hoá dịch vụ do nhà tài trợ đó sản xuất (Trung
bình là ở mức 20% giá trị vốn ODA).
Các nhà tài trợ có quyền chủ động nhất định trong quyết định cung cấp ODA theo dự án,
chương trình. Do đó, các dự án, chương trình mà các nhà tài trợ này lựa chọn để cung cấp
vốn ODA lại có thể khơng phải là dự án quan trọng và tối ưu nhất đối với nước tiếp nhận
Tác động của yếu tố tỷ giá hối đối làm cho giá trị vốn ODA phải hồn lại tăng lên hay
gánh nặng nợ nước ngoài của nước tiếp nhận sẽ tăng lên.
II.1.
II.1.1.

-

-


-

-

-

-

-

NGHIÊN CỨU CÔNG TÁC QUẢN LÝ ODA CỦA VIỆT NAM


-

-

-

-

-

Viễn thông, thực hiện một loại giá trên cả nước (sẽ xoá bỏ sự phân biệt về giá giữa người
Việt Nam và người nước ngoài).
b. Nước tiếp nhận dễ bị rơi vào tình trạng sử dụng khơng hiệu quả nguồn vốn
ODA
Trình độ và kinh nghiệm quản lý nguồn vốn ODA còn thấp, thể hiện trong khâu xây dựng
chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh yực chưa hợp lý, khả
năng đàm phán thuyết phục các nhà tài trợ chưa cao; khả năng khảo sát, xây dựng dự án

còn kém, nên xảy ra hiện tượng, tình trạng theo hồ sơ, theo dự án thì đem lại hiệu quả cao
nhưng khi đàu tư, sử dụng vốn thì rơi vào tình trạng thua lỗ.
Nhằm thống nhất ý chí, quan điểm giữa các bên có liên quan trong quá trình thu hút và sử
dụng ODA. Bao gồm: các cơ quan quản lý Nhà nước về ODA, các nhà tài trợ, các ban
quản lý dự án
Định hướng thu hút và sử dụng ODA trên cơ sở xác định mục tiêu chung, mục tiêu bộ
phận và hướng mọi nỗ lực của các bên có liên quan vào thực hiện các mục tiêu đó.
Tổ chức, điều hịa, phối họp và hướng dẫn hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước
có liên quan, các nhà tài trợ, các ban quản lý dự án, làm giảm bớt sự bất đồng và bất định
trong quá trình sử dụng ODA.
Tạo ra động lực cho các bên có liên quan đến ODA bằng các kích thích, đánh giá, khen
thưởng những nhân tố có thành tích, đồng thời điều chỉnh những lệch lạc, sai sót của các
bên trong quá trình sử dụng ODA.
Quản lý Nhà nước về ODA nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA.
Nội dung của quản lý nhà nước về ODA
Nội dung quản lý Nhà nước về ODA được cụ thể hóa thành nội dung của các chức năng
quản lý Nhà nước về ODA. Trong đó: “Chức năng quản lý Nhà nước về ODA chỉnh là tập
hợp công việc, nhiệm vụ mang tính chất cùng loại mà các cơ quan quản lý Nhà nước về
ODA phải thực hiện trong quả trình thu hút, sử dụng ODA nhằm đạt được những mục tiêu
đã đặt ra
Theo giai đoạn tác động thì nội dung quản lý Nhà nước về thu hút và sử dụng ODA bao
gồm:
• Định hướng thu hút, sử dụng ODA
Đó là Nhà nước quyết định trước những nhiệm vụ, những mục tiêu và những giải pháp
trong quá trinh thu hút và sử dụng ODA trong khoảng thời gian dài thường là 5 năm, 10
năm, hay lâu hơn.
Định hướng thu hút, sử dụng ODA được Nhà nước thực hiện thông qua các hình thức chủ
yếu sau:
Xây dựng chiến lược thu hút, sử dụng ODA.
Xây dựng chiến lược thu hút, sử dụng ODA là Nhà nước xây dựng một hệ thống các quan

điểm cơ bản về thu hút, sử dụng ODA và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn một cách
có căn cứ khoa học cho thu hút, sử dụng ODA nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Xây dựng quy hoạch thu hút và sử dụng ODA.
II.1.3.

-

-

-

-

-

-


-

-

Quy hoạch thu hút và sử dụng ODA là một định hướng thu hút và sử dụng ODA.
Trong đó đi xác định rõ quy mô và giới hạn thu hút và sử dụng ODA trong những khoảng
thời gian nhất định. Nó tạo ra khung cảnh và những đường nét thu hút và sử dụng ODA.
Nó là cơ sở, là tiền đề xây dựng các kế hoạch, chương trình và dự án ODA có quy mơ
vùng và qc gia.
Về bản chất, xây dựng quy hoạch thu hút và sử dụng ODA là cụ thể hóa chiến lược thu
hút và sử dụng ODA về không gian (theo vùng kinh tế và theo ngành kinh tế) và theo thời
gian (theo từng giai đoạn nhất định).

Xây dựng kế hoach thu hút và sử dụng ODA.
Xây dựng chính sách thu hút và sử dụng ODA.
Xây dựng các chương trình, dự án thu hút và sử dụng ODA
Chương trình thu hút và sử dụng ODA là tổ họp các mục tiêu, các thủ tục, các nguyên tắc,
các nhiệm vụ, các bước tiến hành, các yếu tố cần thiết khác để thu hút và sử dụng ODA có
hiệu quả theo những mục tiêu đã đặt ra trong một thời kỳ nhất định, thường là từ 1-5 năm.
Tổ chức thực hiện thu hút và sứ dụng ODA
Đó là tập hợp những nhiệm vụ mà Nhà nước phải thực hiện nhằm thiết lập hệ
thống quản lý và vận hành hệ thống này nhằm thu hút và sử dụng ODA theo nội dung
định hướng thu hút và sử dụng ODA đã đặt ra.
Nội dung tổ chức thực hiện thu hút và sử dụng ODA, bao gồm:
Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về thu hút và sử dụng ODA: thiết lập cơ cấu tổ chức
của bộ máy quản lý Nhà nước về thu hút và sử dụng ODA từ cấp trung ương tới địa
phương, xây dựng và hoàn thiện thể chế hoạt động của bộ máy này, xây dựng đội ngũ
nhân viên làm việc trong bộ máy theo những tiêu chuẩn và yêu câu thu hút và sử dụng
ODA đặt ra.
Vận hành bộ máy quản lý Nhà nước về thu hút và sử dụng ODA: tạo động lực nó hoạt
động theo những kế hoạch đặt ra, phối họp các hoạt động giữa các bộ phận, đơn vị trong
bộ máy, hướng dẫn họ thực hiện theo kế hoạch đặt ra và tuân thủ quy định của pháp luật,
xử lý những vướng mắc, tồn tại, cản trở trong quá trình thu hút và sử dụng ODA, bảo đảm
cho việc thực hiện kế hoạch đặt ra có hiệu quả nhất.
• Kiểm sốt việc thu hút và sứ dung ODA
Đó là tổng thể những hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước về ODA nhằm
kịp thời phát hiện và xử lý những sai sót, ách tắc, đổ vỡ, những khó khăn, vướng mắc
cũng như những cơ hội trong thu hút và sử dụng ODA để đạt được những mục tiêu, kế
hoạch đặt ra.
Về thực chất, đó là đi đánh giá chính xác những kết quả hoạt động trong thu hút và
sử dụng ODA (việc đánh giá này được tiến hành cả trong và sau khi kết thúc quá trinh thu
hút và sử dụng ODA) để có những can thiệp họp lý của Nhà nước tới việc thu hút và sử
dụng ODA.

• Đổi mới phương thức thu hút và sứ dụng ODA


-

-


Mọi giải pháp và hình thức quản lý thu hút ODA luôn luôn biến động theo xu thế
biến động chung của thế giới. Do đó, Nhà nước cũng phải ln theo dõi những biến động
này để kịp thời có các điều chỉnh cần thiết (về quan điểm, định hướng, chiến lược, mục
tiêu...) thích hợp.
II.2.

Thực trạng thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam

Thu hút nguồn vốn ODA ở Việt Nam
Với một quốc gia đang phát triển rất nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn.
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA là một trong những nguồn vốn đầu tư phát
triển quan trọng đối với Việt Nam. Trước đây, Việt Nam nhận được hai nguồn vốn ODA
song phương chủ yếu, một từ các nước thuộc tổ chức SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế),
trong đó chủ yếu là từ Liên Xô (cũ). Đây là một nguồn viện trợ khơng nhỏ và có ý nghĩa
quan trọng nhất cả về nội dung, quy mô và chất lượng, cũng như giá cả, điều kiện tín
dụng… Khoản viện trợ này đã giúp chúng ta xây dựng một số ngành quan trọng nhất của
sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế.
Nguồn viện trợ ODA thứ hai từ các nước DAC và một số nước khác, chủ yếu
là Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Na Uy, Pháp, Ấn Độ… Nguồn ODA này đã có ý
nghĩa tích cực trên một số mặt trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam.
Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ (từ tháng 11-1993), Việt Nam đã
đón nhận được sự cam kết và viện trợ vốn ODA của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, trở

thành điểm đến hấp dẫn đối với ODA cho phát triển kinh tế xã hội.
Trong thời kì 1993 - 2007,Việt Nam đã đạt được những kết quả ấn tượng trong
thu hút và sử dụng vốn ODA. Theo thống kê, số vốn ODA các nhà tài trợ cam kết cho
Việt Nam là 37 tỷ USD, chiếm khoảng 2% tổng ODA toàn cầu.
Trong 3 tháng đầu 2008, công tác vận động thu hút vốn đầu tư ODA của Việt
Nam có nhiều thuận lợi do Việt Nam được đánh giá là một trong những nước sử dụng vốn
ODA hiệu quả nhất. Tính đến hết quý I/2008, tổng giá trị ODA ký kết thông qua các hiệp
định cụ thể với các nhà tài trợ đạt 369,06 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2007,
trong đó vốn vay đạt 342,69 triệu USD và vốn viện trợ khơng hồn lại đạt 26,37 triệu
USD. Trong số này có những dự án tài trợ lớn như: ADB tài trợ cho dự án “Đường hành
lang ven biển phía Nam thuộc tiểu vùng Mê Kông mở rộng” 150 triệu USD; Nhật Bản tài
trợ “Chương trình ngân hàng - tài chính III” 75 triệu USD; dự án “Giáo dục trung học cơ
sở vùng khó khăn nhất” trị giá 50 triệu USD, “Chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo
lần thứ 6” (PRRSC6) trị giá 30,67 triệu USD… Mặc dù gặp nhiều khó khăn do những
biến động của thị trường, tình hình lạm phát vẫn gia tăng, nhưng nhờ những nỗ lực và các
giải pháp của Chính phủ đề ra nhằm hồn thiện thể chế về quản lý và sử dụng vốn ODA,
tình hình thu hút vốn ODA trong quý 2/2008 vẫn được đánh giá rất khả quan. Trong quý
2/2008 này Việt Nam ký với Nhật Bản các hiệp định trị giá khoảng 1 tỷ USD cho một số
dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu, ký với Liên minh châu Âu (EU) hiệp định trị giá 10,8 triệu
II.2.1.


USD cho dự án: “Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam”, ký với Cơ quan Phát triển
Pháp (AFD) hiệp định trị giá 1,5 triệu Euro (khoảng 2,3 triệu USD) viện trợ khơng hồn
lại cho Quỹ Đầu tư phát triển đơ thị thành phố Hồ Chí Minh (HIFU)… Ngồi ra cịn một
số chương trình, dự án ODA đang hồn tất thủ tục để đi đến ký kết. Những kết quả này
cho thấy, sự tin tưởng, đồng tình và ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với
cơng cuộc đổi mới và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Hơn nữa,
các nhà tài trợ quốc tế đánh giá rất cao về môi trường phát triển kinh tế - xã hội của nước
ta đang ngày một hấp dẫn, thơng thống với những tiêu chí của một nền kinh tế thị

trường.
Có thể nói, nguồn vốn ODA có vai trị và lợi ích rất lớn đối với Việt Nam, góp
phần thúc dẩy tăng trưởng kinh tế xã hội. Thông qua nguồn vốn ODA, nhiều cơng trình,
chương trình đã được xây dựng, triển khai. Hiện nay, đối tác lớn cung cấp vốn ODA cho
Việt Nam bao gồm: Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Qũy
tiền tệ quốc tế (IMF), các tổ chức Liên Hiệp Quốc (UN) và nhiều nhà tài trợ song phương
khác như Nhật Bản, Hàn Quốc. Theo thỏa thuận được ký cuối tháng 8, hỗ trợ ODA của
Hàn Quốc cho Việt Nam đạt 1 tỷ USD trong giai đoạn 2008 - 2011, nhiều gấp 2 lần so với
quy mô trong thỏa thuận ký kết năm 2007.Với cam kết cuối tháng 8/2008 ODA, Hàn
Quốc trở thành nhà tài trợ song phương lớn thứ hai tại Việt Nam, và Việt Nam là nước
nhận hỗ trợ phát triển nhiều nhất của Hàn Quốc. Kể từ năm 1993 đến nay, Chính phủ Hàn
Quốc đã tài trợ 471,4 triệu USD vốn vay ưu đãi cho 16 dự án của Việt Nam.
Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết theo các điều ước quốc tế cụ thể thời kỳ
2010 - 2014 đạt trên 27,116 tỷ USD, trong đó vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước
ngoài ước đạt 25,746 tỷ USD chiếm khoảng 94,95%; vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) ước đạt 1,370 tỷ USD chiếm khoảng 5,05% so với tổng vốn ODA và vốn vay ưu
đãi của các nhà tài trợ nước ngoài đã ký kết cho thời kỳ này.
Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài ký kết 9
tháng đầu năm 2015 đạt khoảng 2.729 triệu USD, trong đó vốn vay ưu đãi của các nhà tài
trợ nước ngoài đạt khoảng 2.698 triệu USD, vốn ODA đạt khoảng 31,91 triệu USD. Cả
năm 2015 ký kết đạt khoảng 3.500 triệu USD.
Vậy nguyên nhân do đâu mà Việt Nam thu hút được nhiều ODA trong thời gian
gần đây? Đó là:
Thứ nhất, chế độ chính trị ổn định và sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế - xã
hội của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nước được cộng đồng viện
trợ ưa thích.
Thứ hai, Việt Nam đã hưởng lợi nhờ đạt được những kết quả ấn tượng về tăng
trưởng kinh tế và giảm đói nghèo nhanh đúng vào thời điểm mà các nhà tài trợ đang tập
trung vào lĩnh vực giảm nghèo và sẵn sàng viện trợ cho những nước sử dụng tốt nguồn
vốn này.

Thứ ba, tiến trình hội nhập sâu và chủ động vào kinh tế thế giới và khu vực, sự
năng động của nền kinh tế, tiến trình cải cách hành chính và mong muốn của Chính phủ


Việt Nam tiếp tục gắn bó với các nhà tài trợ đã khiến họ càng nhiệt tình với Việt Nam
hơn.
Như vậy, có thể thấy, Việt Nam đã trở thành đối tác quan trọng của các nhà tài
trợ trong các cam kết vốn ODA.Việt Nam cũng đã ký kết nhiều hiệp định nhận viện trợ
ODA. Vấn đề được đặt ra là, vốn ODA, một nguồn lực quý góp phần thúc đẩy cho tăng
trưởng phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn này khơng phải là khoản cho khơng của
nước ngồi mà đây là vốn vay, có vay ắt phải có trả. Do đó, bên cạnh thu hút được nhiều,
thì quan trọng hơn là cần sử dụng hiệu quả, hợp lý vốn ODA. Vậy Việt Nam đã quản lý và
sử dụng nguồn vốn hỗ trợ quan trọng này như thế nào trong công cuộc đổi mới và phát
triển kinh tế - xã hội.
II.2.2. Sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam.

Nguồn vốn ODA vào Việt Nam chủ yếu tập trung cho các dự án đầu tư với
một lượng vốn tương đối được dành cho các dự án hỗ trợ kỹ thuật và phi hỗ trợ kỹ thuật.
Vốn ODA được phân bổ chủ yếu theo sự ưu tiên mà Chính phủ đặt ra cho các ngành kinh
tế. Sự phân bổ vốn giải ngân ODA tương ứng với các lĩnh vực như: năng lượng và cơng
nghiệp, giao thơng vận tải, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, nông
nghiệp, thủy lợi, giảm đói nghèo và phát triển nơng thơn,…
Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân ODA ở Việt Nam vẫn còn thấp. Từ năm1993 đến
2006, vốn ODA đã giải ngân là 15,9 tỷ USD, chỉ chiếm 42,9% tổng số ODA cam kết. Tỷ
lệ giải ngân bình quân chỉ khoảng 50% trong những năm gần đây, thấp hơn các nước
ASEAN. Tỷ lệ ODA trong GDP của Việt Nam dao động từ 3,5% đến 4,5%, thấp hơn một
số nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
Tỷ lệ giải ngân còn chậm, nên chưa phát huy được hiệu quả tốt nhất lợi thế mà
nguồn vốn ODA có được. Chỉ tính riêng trong 5 năm (2001 - 2005) giải ngân vốn ODA ở
nước ta mới đạt khoảng 87% so với kế hoạch đã đề ra. Mức đạt được này tuy cũng đã cao

hơn nhiều so với các năm trước đó. Năm 2001 ta chỉ giải ngân được 1,5 tỷ USD, năm
2002 giải ngân được 1,55 tỷ USD, năm 2003: 1,42 tỷ USD, năm 2004: 1,6 tỷ USD, năm
2005: 1,7 tỷ USD. Tuy nhiên, đến năm 2006, giải ngân ODA của Việt Nam đạt 1,8 tỉ
USD, năm 2007 đạt 2,0 tỉ USD và dự kiến năm 2008 sẽ đạt 2,2 tỉ USD…
Tổng vốn ODA vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giải ngân giai đoạn
2010- 2015 ước đạt 27,165 tỷ USD, bằng 88,7% tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết
trong thời kỳ này, trong đó vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài đạt 25,276 tỷ
USD, vốn ODA đạt 1,889 tỷ USD. Tình hình giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi của
các nhà tài trợ nước ngồi đã có nhiều cải thiện, đã tăng từ mức 3,541 tỷ USD năm 2010
lên mức 5,655 tỷ USD năm 2014.
Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn
ODA cịn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và khơng có sẵn vốn đối ứng trong các dự
án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình giải ngân.


-

-

-

Có một vài ngun nhân giải thích vì sao ODA lại giải ngân chậm ở Việt Nam.
Thứ nhất, thông thường phải mất một thời gian dài để các chương trình và dự án ODA
được triển khai. Khoảng 50% nguồn vốn ODA ở Việt Nam được dành cho các dự án cơ sở
hạ tầng, lĩnh vực cần nhiều thời gian hơn để tiến hành và thậm chí kết thúc chậm hơn từ 3
- 5 năm so với các dự án ở các lĩnh vực khác, điều này đã dẫn đến việc giải ngân chậm.
Một số nước đang phát triển khác, chẳng hạn như một số nước ở châu Phi, chỉ sử dụng
một phần ba nguồn vốn ODA cho các dự án cơ sở hạ tầng và có tỷ lệ giải ngân cao hơn.
Thứ hai, năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án và chương trình ODA của Việt
Nam còn hạn chế và bất cập, đặc biệt là khi có sự tham gia của chính quyền địa phương.

Quy trình và thủ tục trong nước chậm trễ, đi kèm với đó là việc di dân tái định cư và giải
phóng mặt bằng, cũng như công tác đấu thầu, năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự
án của các Ban quản lý còn hạn chế và bất cập. Bên cạnh đó, vốn đối ứng bố trí chưa kịp
thời, vấn đề quy hoạch vận động và sử dụng ODA đến thời điểm này vẫn chưa được hoàn
chỉnh để định hướng cho các cơ quan, địa phương chủ động thu hút và sử dụng nguồn vốn
này.
Thứ ba, khuôn khổ pháp lý về quản lý và sử dụng vốn ODA chưa đồng bộ và việc hiểu
các văn bản này cũng không thống nhất. Hơn nữa, sự khác nhau trong nhận thức giữa các
đối tác Việt Nam và các nhà tài trợ còn lớn, làm hạn chế việc thực hiện các dự án. Trong
Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ gần đây (2007), các nhà tài trợ cho Việt Nam đã khẳng
định rằng việc giải ngân ODA sẽ được cải thiện mạnh mẽ nếu cách thức thực hiện của
Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ hài hòa được với nhau.
Việc giải ngân vốn ODA chậm còn do nhiều nguyên nhân khác: Các điều kiện
khá chặt chẽ do các nhà tài trợ đặt ra; đầu tư và các dự án kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải
qua nhiều khâu, mất nhiều thời gian... song nguyên nhân chủ quan và nội tại là chủ yếu.
II.3.

-

Thực trạng quản lý vốn ODA của Việt Nam.

Mặc dù chỉ chiếm 2,72% trên GDP ( năm 2014) nhưng ODA nhiều năm qua vẫn là
nguồn đầu tư quan trọng từ NSNN cho phát triển kinh tế. Đặc biêt khi Việt Nam vẫn là
quốc gia kém phát triển trong khu vực (Thu nhập bình quân đầu người 1.908
USD/người/năm- 2013) với nguồn ngân sách eo hẹp trong khi nhu cầu đầu tư cho phát
triển kinh tế nổi bật là cơ sở hạ tầng còn rất lớn. Để giải quyết những vấn đề đang đặt ra
hiện nay đối với việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA sao cho hiệu quả nhất, cơng tác
quản lý của nhà nước tuy cịn gặp rất nhiều khó khăn song cũng đạt được một số thành
tích đáng ghi nhận:
Trong những năm gần đây khi nợ công tăng lên Quốc hội rất quan tâm đến hiệu quả sử

dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi, nhất là tại các kỳ họp Quốc hội cuối năm để xem xét và
thông qua Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Kế hoạch Ngân sách nhà nước hàng
năm. Ngồi ra, các Ủy ban của Quốc hội cịn tổ chức giám sát chuyên đề về chất lượng,
hiệu quả các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi trong các lĩnh vực cụ thể.


-

-

-

-

Đây là sự khích lệ, đồng thời là yêu cầu của Quốc hội đối với các cơ quan quản lý nhà
nước về ODA và vốn vay ưu đãi, các Bộ, ngành và địa phương phải bảo đảm thu hút,
quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn này, bảo đảm an tồn nợ cơng.
Bên cạnh đó, gần đây, Chính phủ cũng đã có nhiều văn bản chỉ đạo được kỳ vọng sẽ giúp
quản lý và sử dụng vốn ODA hiệu quả. Cụ thể, ngày 14/2/2015, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Chỉ thị 02/CT-TTg, trong đó có nội dung tăng cường cho vay lại chính quyền
địa phương và cho vay lại chịu rủi ro tín dụng thơng qua cơ quan cho vay lại đối với
nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ. Đối với cho vay lại chính quyền địa phương,
tỷ lệ cho vay lại được xác định theo điều kiện của nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi.
Ngày 17/2/2016, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút,
quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài thời
kỳ 2016 - 2020”. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA và vốn vay ưu
đãi trên cơ sở phân cấp gắn với trách nhiệm, quyền hạn, năng lực quản lý và tính chủ
động của các ngành, các cấp; bảo đảm sự phối hợp quản lý, kiểm tra và giám sát chặt chẽ
của các cơ quan liên quan.
Tăng cường phối hợp liên ngành để giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình

chuẩn bị và thực hiện chương trình, dự án: Ban Chỉ đạo quốc gia về ODA và vốn vay ưu
đãi được thành lập theo Quyết định số216/QĐ-TTg ngày 23/01/2013 của Thủ tướng
Chính phủ do Phó Thủ tướng Hồng Trung Hải làm Trưởng Ban, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch
và Đầu tư làm Phó Trưởng Ban và đại diện cấp lãnh đạo của một số Bộ, ngành và địa
phương. Sau hơn hai năm hoạt động, Ban Chỉ đạo đã tích cực phát huy vai trị để giải
quyết các khó khăn, vướng mắc của các chương trình, dự án nhằm cải thiện tình hình thực
hiện và đẩy nhanh tiến độ giải ngân.
Bên cạnh việc tổ chức đi thực tế để kịp thời nắm bắt, tháo gỡ các vướng mắc, Ban Chỉ
đạo cịn thiết lập cơ chế phối hợp với Nhóm 6 Ngân hàng Phát triển (WB, ADB, AFD,
JICA, KEXIM, KfW) định kỳ tổ chức các hội nghị kiểm điểm chung tình hình thực hiện
các dự án (JPPR) 02 năm một lần; xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch hành động
cải tiến tình hình thực hiện và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ODA, trong đó vấn đề hài
hịa và tinh giản quy trình thủ tục giữa phía Việt Nam và nhà tài trợ được quan tâm và chú
trọng.
Công tác quản lý và thực hiện vốn ODA và vốn vay ưu đãi ở các Bộ, ngành và địa
phương đạt được nhiều tiến bộ: Nhiều Bộ, ngành và địa phương đã kiện toàn tổ chức, bộ
máy quản lý, thành lập các Ban Quản lý dự án theo hướng chuyên nghiệp, ban hành quy
chế nội bộ về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi để phân công nhiệm vụ,
phân cấp quản lý trong phạm vi quyền hạn theo quy định của pháp luật và tăng cường
sự phối hợp trong nội bộ cũng như với các cơ quan khác và các nhà tài trợ.
Mặc dù công tác quản lý của nhà nước đã giúp dấu ấn nguồn vốn ODA để lại trên
nhiều cơng trình trọng điểm chạy khắp dải đất chữ S như : nhiều cây cầu trên quốc lộ 1
và hầm đường bộ Hải vân, cầu Cần Thơ, 3 cảng quốc tế quan trọng, đường cao tốc TP
HCM- Long Thành- Gầy Giây … Cùng với đó là hàng loạt chương trình hỗ trợ trong giáo


dục, y tế, đổi mới trong nông nghiệp, nông thôn, xóa đói giảm nghèo . Nhưng mặt trái của
những điều đó lại xuất hiện những yếu kém, hạn chế vẫn cịn tồn tại khá nhiều vấn đề
trong cơng tác quản lý.
Trong gần 30 năm thực hiện chính sách đổi mới, Việt Nam đã nhận được nguồn hỗ

trợ ODA khoảng 80 tỷ USD. Một tỷ trọng lớn số tiền này được phân bổ cho các dự án
phát triển hạ tầng kinh tế - thường là những dự án lớn, phức tạp về kỹ thuật, thực hiện
trong thời gian dài với nhiều bên liên quan nên dễ xảy ra các hành vi tham nhũng, gian
lận.
Chúng ta cùng xem một case study để thầy rõ hơn những hạn chế này.

.
Đầu tiên, Chính phủ Nhật cấp các khoản vay bằng đồng yên cho Việt Nam,
Indonesia, Uzbekistan, sau đó các nước này đặt hàng các dự án ODA với công ty JTC.
Để nhận được các dự án này, JTC chuyển tiền mặt cho nhân viên để lại quả cho các quan
chức nước sở tại
Theo đó, ông Tamio Kakinuma, Chủ tịch công ty tư vấn đường sắt JTC thừa nhận
hành vi đưa hối lộ trong cuộc thẩm vấn với cơ quan điều tra Tokyo. Cụ thể, JTC đã “lại
quả” 80 triệu yen (khoảng 16,5 tỷ đồng) cho một quan chức ngành đường sắt Việt Nam để
đổi lại một dự án ODA trị giá 4,2 tỷ yen (~867 tỷ đồng).
Ngày 23/6, Viện KSND Tối cao đã ra cáo trạng truy tố 6 bị can nguyên là lãnh đạo
Ban quản lý các dự án đường sắt (RPMU), thuộc Tổng Cty đường sắt Việt Nam về tội
danh “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”
Theo cáo trạng, tại dự án xây dựng đường sắt đô thị tuyến số 1 (giai đoạn 1),
RPMU ký hợp đồng tư vấn với Công ty Tư vấn giao thông Nhật Bản (JTC) và một số đối
tác. Trong quá trình thực hiện, ơng Bằng đặt vấn đề khó khăn chi phí và JTC đồng ý hỗ


trợ. Từ tháng 9/2009 đến 2/2014, JTC đã chuyển tổng cộng 11 tỷ đồng cho ông Bằng và
một số lãnh đạo dự án. 6 cựu quan chức khai đã sử dụng cho chi phí tiếp khách, hội họp,
làm ngồi giờ, nghỉ mát.... tại RPMU, trong đó bản thân họ cũng được hưởng lợi riêng.
Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn thỏa thuận nhà thầu JTC chi tiền ngoài hợp
đồng của Phạm Hải Bằng và Nguyễn Nam Thái đã gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng làm
ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam, ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và
Nhật Bản trong việc vay vốn và sử dụng vốn ODA. Đại diện VKS còn cho biết Thanh tra

Bộ Giao thơng Vận tải đã có báo cáo cho thấy tính đến nay tiến độ dự án bị chậm hơn 3
năm, sản phẩm chưa hoàn thành trên 45%. Quá trình thực hiện dự án, mặc dù tiến độ cơng
việc chưa hồn thành theo hợp đồng nhưng các bị cáo vẫn ký văn bản đề nghị kho bạc
nhà nước giải ngân cho nhà thầu.
Thiệt hại được xác định là số tiền thanh tốn vượt q số liệu cơng việc đã hoàn
thành, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến lợi ích xã hội, những thiệt hại
này khơng thể xác định chính xác được.

-

-

Như vậy qua đây có thể thấy ngay được những hạn chế trong việc quản lý vốn
ODA của Việt Nam hiện nay:
Vấn đề công khai minh bạch trong các dự án đang được đặt ra. Nổi cộm nhất trong thời
gian vừa qua là những bê bối tiêu cực, gian lận, tham nhũng tại các dự án ODA. Điểm
chung của những vụ bên bối lớn này đều bị phát giác nhờ phía nước ngồi. Cụ thể trường
hợp này do bên Nhật Bản phát giác. Đây là thực trạng đáng lo ngại đối với các cơ quan
quản lý của Việt Nam cũng như đối với các nhà tài trợ. Tham nhũng, hối lộ đã ảnh hưởng
đến lòng tin của nước tài trợ.
Sơ hở lớn nhất trong các dự án ODA chính là ở khâu đấu thầu, giám sát, kí kết hợp
đồng. Như vụ JTC cho thấy lỗ hổng rất lớn trong việc đấu thầu, chọn nhà thầu, giám định
kết quả cơng trình xây dựng. Rõ ràng hệ thống kiểm sốt có lỗ hổng rất lớn, việc công
khai minh bạch, giám sát nội bộ chưa đầy đủ và việc chi tiêu sử dụng tiền mặt không
quản lí được thu nhập thực của các quan chức.
Cơ chế chính sách quản lý nhà nước về ODA chưa đồng bộ với nhau, thủ tục phê duyệt
dự án còn rườm rà, bộ máy cồng kềnh, trách nhiệm của cấp thực hiện dự án khơng rõ
ràng, gây lãng phí, ách tắc, giảm tính linh hoạt trong q trình triển khai, đồng thời,
không phân định được trách nhiệm của các đơn vị thực hiện trong trường hợp dự án
khơng có hiệu quả. Có sự chồng chéo trong thủ tục chuẩn bị và triển khai đầu tư. Theo Bộ

Tài chính, chỉ có 4% lượng vốn ODA áp dụng các quy định về đấu thầu và 3% sử dụng hệ
thống quản lý tài chính cơng của Việt Nam, cịn lại là theo cách thức của nhà tài trợ. Vì
vậy, nhiều dự án cùng một lúc phải thực hiện 2 hệ thống thủ tục, một thủ tục để giải quyết
vấn đề nội bộ trong nước, một thủ tục với nhà tài trợ. Điều này làm kéo dài thời gian thực
hiện dự án, gia tăng chi phí (chi phí chuẩn bị DA, tăng chi phí đầu tư do lạm pháp bởi thời
gian kéo dài) tăng khả năng rủi ro vì có thể bị lợi dụng cho các hoạt động phi pháp.


-

-

-

-

-

-

Thêm vào đó, phần lớn ODA là tiền đi vay mà Việt Nam phải hoàn trả trong tương lai,
nhưng một tỉ lệ không nhỏ cán bộ và người dân, đặc biệt là lãnh đạo địa phương còn hiểu
một cách rất sơ đẳng rằng: ODA là cho không, vay được càng nhiều càng tốt, bất chấp
khả năng trả nợ. Chính vì vậy, các địa phương, bộ, ngành thường đặt mục tiêu phê duyệt
ODA là ưu tiên cao nhất mà chưa chú trọng đúng mức tới yêu cầu phải sử dụng hiệu quả
nguồn vốn này, chứ chưa nói đến việc phải tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm toán, xử
lý sai phạm tại các dự án sử dụng ODA.
Ngoài ra thực trạng giải phóng mặt bằng cịn gặp khá nhiều vướng mắc. Một trong những
nguyên nhân hàng đầu trong quản lý dẫn đến dự án chậm hiện nay là công tác giải phóng
mặt bằng. Những cơng trình như đường cao tốc, nhà máy điện… cần diện tích đất lớn

nên việc giải phóng mặt bằng của Trung ương và địa phương thường gặp khó khăn do thủ
tục rườm rà, tái định cư ách tắc, giá đến bù không thống nhất… Điều này dẫn đến nhiều
hệ luỵ nghiêm trọng, ngoài việc làm dự án đình trệ, chậm tiến độ, chậm đưa vào khai
thác, giảm hiệu quả đồng vốn, còn ảnh hưởng đến niềm tin của người dân, của các nhà tài
trợ, thậm chí nhà thầu kiện đòi bồi thường do chậm bàn giao mặt bằng.
II.4.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng quản lý ODA
Từ thực trạng và trên cơ sở quan điểm đã nêu, để nâng cao hiệu quả quản lý vốn
ODA cần thực hiện các giải pháp sau:.
Cần thay đổi nhận thức về ODA cả ở cấp bộ, ngành và các địa phương, phải thực sự thay
đổi tâm lý coi ODA là nguồn “viện trợ khơng hồn lại”,hoặc chí ít thì “đời mình chưa
phải lo trả nợ”, dẫn đến tình trạng “lobby ODA” để được triển khai các dự án không thực
sự cần thiết hoặc buông lỏng công tác giám sát, kiểm tra trong triển khai thực hiện dự án,
dẫn đến những “dự án ODA đắt đỏ”, lãng phí nguồn lực, ít phát huy tác dụng trong thúc
đẩy tăng trưởng.
Phải tăng cường thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng ODA,
từ khâu thẩm định, phê duyệt danh mục đầu tư, tới hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra
và xử lý sai phạm. Đặc biệt, cần khuyến khích sự tham gia giám sát của xã hội, cơ quan
báo chí, truyền thơng đối với các dự án đầu tư cơng nói chung và sử dụng nguồn vốn
ODA nói riêng.
Chính phủ cũng như từng chính quyền địa phương phải hoạch định chiến lược vận động
và sử dụng vốn ODA phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, các chương
trình, dự án dự định sẽ đầu tư bằng vốn ODA phải được sắp xếp thứ tự ưu tiên theo một
số phương án với các khả năng khác nhau. Các chương trình dự án có mức ưu tiên cao
cần bố trí nguồn vốn thay thế nếu không vận động được vốn ODA.
Cần quán triệt nguyên tắc quản lý vốn ODA phải căn cứ vào kết quả và hiệu quả. Xây
dựng và thực hiện qui trình kỹ thuật dự án theo hướng chuyên nghiệp hóa: từ khi xác định
DA, chuẩn bị DA, đánh giá DA, phê duyệt DA, đàm phán, kí kết, đấu thầu, thi cơng, giám
định, đánh giá sau DA và kiểm toán, cố gắng mỗi khâu phải được đảm nhiệm bởi cơ quan
chuyên trách để có thể lấp đầy lỗ hổng ở khâu đấu thầu, giám sát, kí kết hợp đồng.



-

-

-

Để khắc phục tình trạng một dự án phải có hai thủ tục như đã nêu, Chính phủ cần chấp
nhận dự án nhà tài trợ nào được phép áp dụng thủ tục và hướng dẫn của nhà tài trợ đó. Do
vậy, đối với các DA ODA, Chính phủ nên hình thành qui định hệ thống thủ tục trong nước
theo kiểu “khung“, các vấn đề chi tiết cho phép áp dụng thủ tục và hướng dẫn của nhà tài
trợ.
Chính phủ cần xây dựng hệ thống tiêu chí hợp lý, phân cấp quản lý vốn ODA. Để xây
dựng được hệ thống tiêu chí này cần đánh giá lại một cách tồn diện và thống kê đầy đủ
các DA ODA đã và đang được triển khai thực hiện nhằm xác định mối quan hệ giữa mức
độ hiệu quả đạt được của DA với các tiêu chí: qui mơ, trách nhiệm trả nợ, năng lực quản
lý vốn ODA của địa phương, lĩnh vực đầu tư của DA, nhà tài trợ v.v…
Các bộ ngành trong Chính phủ và chính quyền các địa phương cần có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác quản lý vốn ODA theo hướng
chun mơn hóa.
III.

KẾT LUẬN

Như vậy thơng qua bài thuyết trình có thể khái quát được những vấn đề sau:
Những thành tựu đạt được của công tác quản lý nhà nước đối với vốn gồm: tạo lập
được mơi trường chính trị, kinh tế, xã hội thuận lợi; môi trường pháp lý được quan tâm và
thường xuyên bổ sung hoàn thiện cho phù hợp tình hình thu hút và sử dụng ODA trong
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế từng giai đoạn; cơng tác vận động ODA được thực hiện

tích cực với các hình thức phong phú ở nhiều cấp; thực hiện dự án đạt được nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, công tác này còn tồn tại nhiều hạn chế như: hệ thống pháp luật, chính sách liên
quan cịn nhiều bất hợp lý; các cơ quan quản lý nhà nước về ODA chưa chủ động, phân
cấp quản lý còn nhiều hạn chế; thiếu quy hoạch huy động và sử dụng vốn ODA, quy trình
và thủ tục quản lý cịn phức tạp và có sự khác biệt với các nhà tài trợ; theo dõi, đánh giá
dự án trong một thời gian dài bị bng lỏng, kiểm tra giám sát cịn yếu, giải phóng mặt
bằng cịn gặp nhiều vướng mắc.
Trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý nguồn vốn ODA, nhóm cũng đã đề xuất hệ
thống giải pháp từ phía quản lý nhà nước như: thay đội nhận thức của cán bộ quản lý về
ODA, Hoàn thiện khung pháp lý và thủ tục quản lý nhà nước đối với vốn ODA , Nâng
cao chất lượng quá trình chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt dự án ODA cho kết cấu hạ tầng
kinh tế, Đẩy mạnh công tác theo dõi, kiểm tra giám sát và đánh giá dự án về vốn ODA,
tang cường nguyên tắc công khai minh bạch trong quản lý và sử dụng ODA, Hoàn thiện
bộ máy quản lý nhà nước, nâng cao nhận thức và trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và thực
hiện dự án ODA.



×