Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

bao cao ve cong tac giang day THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.24 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>BÀI THU HOẠCH TÌM HIỂU VÀ DỰ GIỜ MẪU VỀ CÔNG TÁC DẠY HỌC I. NHỮNG NỘI DUNG THU HOẠCH ĐƯỢC SAU KHI NGHE BÁO CÁO CHUNG VỀ CÔNG TÁC GIẢNG DẠY 1. Những yêu cầu đối với người giáo viên trong công tác giảng dạy 1.1. Phẩm chất và kỹ năng cần có - Khả năng truyền đạt tốt trên cả hai phương diện nói và viết. - Giàu tình yêu thương, đặc biệt là yêu lớp người trẻ tuổi. - Có lòng bao dung, độ lượng và trái tim nhân hậu. - Nhạy cảm, có khả năng nắm bắt tâm lý con người. - Kiên trì, nhẫn nại. - Ham học hỏi và luôn mong muốn truyền đạt lại cho người khác. 1.2. Về đạo đức Người giáo viên cần có phẩm chất nhân cách đạo đức tốt, là tấm gương sáng cho học sinh của mình noi theo. 1.3. Về kiến thức Hoạt động chủ đạo của người giáo viên là giảng dạy, truyền đạt kiến thức của mình tới học sinh, vì vậy người giáo viên phải có vốn kiến thức chuyên môn, chuyên ngành vững vàng. Người giáo viên đồng thời phải vừa là chủ thể của hoạt động dạy tức là tổ chức, điều khiển họat động học cuả người học, là người định hướng, người tạo điều kiện, hỗ trợ cho học sinh. 2. Quy trình soạn giáo án giảng dạy A. Mức độ cần đạt Để thực hiện tốt bài giảng, người giáo viên cần xác định đúng mục đích và yêu cầu bài giảng. Có như vậy khi chuẩn bị giáo án mới thấy cần tập trung thời gian, phương pháp nào là hợp lý với nội dung nào. Trước khi soạn giáo án phải xác Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 1.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> định được cái cuối cùng phải đạt được, nhiệm vụ của người thầy khi lên lớp, cái mà học sinh cần đạt được sau mỗi bài giảng. - Mục đích mang tính khái quát, khó định lượng, đánh giá ngay được. Nhưng lại là cái hướng cho học sinh phải đạt tới. Mục đích trong các bài giảng (lý thuyết và thực hành) bao gồm các tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp mà học sinh cần phải có. B. Trọng tâm kiến thức, kỹ năng 1. Kiến thức Mỗi một bài dạy chứa đựng những nội dung kiến thức nhất định, nhiệm vụ của người giáo viên là phải truyền tải được hết những điểm kiến thức cơ bản và trang bị những kiến thức mở rộng cho học sinh. 2. Kĩ năng - Đối với bài giảng lý thuyết, mục đích chính là trang bị kiến thức, bên cạnh đó giáo viên cần trang bị những kỹ năng sống cần thiết cho học sinh thông qua nội dung bài học. - Đối với bài giảng thực hành, mục đích chính là rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực hành bài tập và trong thực tiễn cuộc sống. C. Phương tiện, phương pháp dạy học 1. Phương tiện Để chất lượng bài giảng tốt ngoài những phần chuẩn bị đã trình bày trên, giáo viên và còn phải chuẩn bị các phương tiện - thiết bị dạy học. Đây là khâu chuẩn bị cần thiết trong khi tiến hành giảng dạy ở các trường phổ thông. Học sinh cũng cần phải chuẩn bị trước để tham gia vào quá trình học tập trên lớp thì mới có thể tiếp thu hiệu quả và nắm bắt nhanh nhất nội dung kiến thức bài học. 2. Phương pháp dạy học Một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 2.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Để đạt được hiệu quả tối ưu cho giờ dạy, giáo viên phải xác định các phương pháp dạy học thích hợp: đảm bảo bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh, phải chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; đảm bảo nguyên tắc tương tác nhiều chiều: giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (chú trọng cả hoạt động dạy của người dạy và hoạt động học của người học). chú trọng kết hợp học với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các kỹ năng, gắn với thực tiễn cuộc sống; phát huy thế mạnh của các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại; các phương tiện, thiết bị dạy học và những ứng dụng của công nghệ thông tin. Đây là phần khó nhất và mất nhiều thời gian nhất khi tiến hành soạn giáo án. Khi giảng dạy ở mỗi đơn vị kiến thức phải lựa chọn một số phương pháp giảng dạy cơ bản, sắp xếp nó theo thứ tự diễn biến của thời gian và nội dung bài giảng. D. Tiến trình dạy học 1. Ổn định lớp: kiểm tra sĩ số lớp (1 đến 2 phút tính cho một tiết giảng). Bước này thực hiện 2 nội dung: - Kiểm tra số lượng học sinh ở tiết dạy. - Nhắc nhở những điều cần thiết. Việc kiểm tra số lượng là một nội dung quản lý số lượng học sinh có đi học chuyên cần không? Vì vậy, bước này giáo viên cần làm thường xuyên và nghiêm túc, vì nó ảnh hưởng đến nề nếp học tập của học sinh, giúp cho giáo viên biết được tình hình học tập của lớp. Tuy nhiên việc kiểm tra đầu giờ nên tránh những biểu hiện quá nguyên tắc, khô khan làm ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa thầy và trò làm cho quá trình tiếp thu bài của học sinh không thoả mái. 2. Kiểm tra bài cũ (Thời gian 5 dến 7 phút tính cho một tiết học).. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 3.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Nội dung kiểm tra là những kiến thức của bài trước, tốt nhất là phần trọng tâm. Nhờ kiểm tra bài cũ giúp cho học sinh củng cố và nắm chắc phần cốt lõi để tiếp thu bài sau. Kiểm tra bài cũ có những tác dụng to lớn sau đây: - Quản lý chất lượng và nề nếp tự học của học sinh. - Rèn ngôn ngữ cho học sinh. - Giúp học sinh chuyển nhanh trạng thái chú ý sang bài mới. Bước kiểm tra bài cũ tuy thời gian rất ít nhưng mang lại nhiều lợi ích to lớn, vì vậy giáo viên phải nắm được ý nghĩa đó để thực hiện bước có chất lượng. 3. Bài mới (từ 3/4 đến 4/5 thời gian lên lớp) Đây là bước quan trọng nhất phản ánh trực tiếp kết quả giảng dạy của mỗi giáo viên. Sự thành công trong một bài giảng của mỗi giáo viên đều được thể hiện ở bước này. Vì vậy, khi biên soạn giáo án giáo viên phải tập trung trí tuệ và thời gian. Khi soạn giáo án ở bước này giáo viên cần tập trung vào các nội dung sau: - Nội dung bài giảng trong giáo án chỉ là những nội dung chính (tiêu đề) và phần cốt lõi, trọng tâm của bài. Giáo viên không chép lại đề cương bài giảng vào giáo án, vì muốn soạn giáo án thì điều kiện đầu tiên giáo viên phải nhuần nhuyễn về kiến thức. - Lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp với kiến thức và đối tượng học sinh - Phân bố thời gian cho từng bước và từng nội dung bài giảng: để phân bố thời gian hợp lý, giáo viên phải thường xuyên rút kinh nghiệm, có như thế các giáo án sau mới chuẩn hoá dần về thời gian. Cần chú ý các nội dung như đặt vấn đề, chuyển tiếp vấn đề không có quỹ thời gian, đó chỉ là hoạt động bổ trợ cho bài giảng, giáo viên không nên phân bố thời gian cho những phần đó làm ảnh hưởng tới các phần khác. Cần ưu tiên cho phần trọng tâm của bài. - Tổng kết bài (thời gian 5 đến 7 phút tính cho một tiết giảng): việc tổng kết bài nhằm mục đích làm rõ trọng tâm của bài giúp cho học sinh định hướng trong quá trình tự học, luyện tập và biết đi sâu vào phần cốt lõi của bài. Nhờ phần tổng. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 4.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> kết bài giáo viên sẽ khắc sâu thêm kiến thức vào tâm trí của học sinh. (Đối với bài thực hành thông qua hệ thống bài giúp cho học sinh biết được bước nào là cơ bản quyết định sự hình thành kỹ năng). Để bước tổng kết bài thành công giáo viên cần chuẩn bị trước những nội dung cần được tổng kết. Tránh tình trạng hệ thống hoá theo trình tự diễn biến của bài học, làm cho học sinh không biết đâu là phần cốt lõi sẽ ảnh hưởng tới quá trình tự học của học sinh sau này. Trong phương pháp giảng dạy mới phần tổng kết bài nên có phần lượng giá (1 đến 2 phút) để sơ bộ đánh giá kết quả tiếp thu bài mới của học sinh. Hình thức đánh giá có thể dùng phiếu kiểm tra nhanh với những câu hỏi có nhiều cách trả lời sẵn để học sinh lựa chọn câu trả lời đúng. 4. Củng cố Phần củng cố nhằm giúp cho học sinh rèn luyện và nắm vững những phần cơ bản của bài. Câu hỏi bài tập củng cố cho học sinh phải chú ý đến đối tượng, trình độ, chú ý rèn luyện các kỹ năng cần thiết cho học sinh. Cần có thêm những nội dung dành cho học sinh khá, giỏi. Có như thế mới phát huy được hiệu quả và giúp cho học sinh có điều kiện đi sâu vào những nội dung kiến thức. 5. Dặn dò việc học bài, soạn bài - Nêu đầy đủ những yêu cầu tự học và làm bài tập về nhà cho học sinh. - Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới. E. Phần Rút kinh nghiệm bài giảng Đây là bước thực hiện sau khi giảng, nhằm mục đích tìm ra mặt mạnh, mặt yếu của giờ giảng, việc lựa chọn phương pháp, phân bố thời gian, các phương tiện giảng dạy. Bước này phải làm nghiêm túc, căn cứ vào mục đích yêu cầu đề ra xem mức độ đạt đến đâu. Tỷ lệ tiếp thu bài của học sinh là bao nhiêu, các phương pháp giảng dạy và việc phân bố thời gian cho từng đơn vị kiến thức đã phù hợp chưa. Tóm lại nếu giáo viên thực hiện rút kinh nghiệm thường xuyên sẽ làm cho chất lượng giờ giảng ngày càng tiến bộ. Thực tế chứng minh rằng, những giáo viên dạy giỏi là những người thường xuyên có ý thức rút kinh nghiệm.. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 5.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 3. Tiến trình lên lớp Lên lớp là hoạt động cụ thể của giáo viên nhằm thực hiện toàn bộ giáo án đã vạch ra. Lên lớp là lĩnh vực đời sống tinh thần quan trọng nhất. Đây là lúc người giáo viên và người học tiếp xúc với nhau. Chính trong thời gian đó người giáo viên mới thể hiện đầy đủ tính khoa học và tính nghệ thuật trong công tác dạy học và giáo dục của mình, thể hiện tầm hiểu biết, hứng thú, niềm tin và nói chung là thế giới tinh thần của mình. Việc mở đầu tiết học có ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình sau này của tiết học. Chính nó quyết định nhịp điệu của tiết học, trạng thái tình cảm của thầy và trò. Tiết học hiện đại thường bắt đầu bằng việc tạo nên tình huống có vấn đề, gây hứng thú và thu hút sự chú ý của học sinh vào những vấn đề, vào đề tài của tiết học. Tiếp đó, tổ chức công tác tự lực của cá nhân hoặc hợp tác với nhau theo từng nhóm để giải quyết vấn đề. Tiết học cũng có thể mở đầu bằng công tác độc lập chung cho cả nhóm giải quyết một vấn đề dựa trên tri thức đã học và việc giải quyết vấn đề đó có liên quan đến tri thức sắp học. Tiến trình của tiết học không chỉ phụ thuộc vào việc mở đầu tiết học mà còn phụ thuộc cả vào việc thông báo đề bài, mục đích, yêu cầu của tiết học, tạo cho họ có nhu cầu, hứng thú, chờ đợi tiếp nhận những tri thức mới mà tiết học sẽ đem đến cho họ. Trong tiến trình tiết học, giáo viên phải chú ý duy trì được không khí tích cực, hào hứng trong học sinh đối với bài học, luôn đặt họ ở trong những tình huống phải tích cực hoá những tri thức, những kinh nghiệm đã có để giải quyết vấn đề và thông qua đó mà lĩnh hội tri thức mới… Tư thế, tác phong của người giáo viên phải đúng mực, ăn mặc gọn gàng, giản dị, ngôn ngữ rõ ràng, trong sáng, truyền cảm, nhịp điệu nói phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, biết cách thay đổi giọng nói. Kết thúc tiết học phải làm sao đạt được mục đích, yêu cầu của tiết học.. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 6.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> 4. Sau khi lên lớp Sau tiết học, người giáo viên phải phân tích sư phạm một cách tổng hợp, cụ thể để rút ra những kinh nghiệm thành công và thất bại rút ra cần ghi lại phía dưới giáo án để những tiết học lần sau được tiến hành với những kết quả cao hơn. 5. Kiểm tra, đánh giá và xếp loại học sinh Kiểm tra, đánh giá, xếp loại hạnh kiểm, học lực bảo đảm nguyên tắc khách quan, chính xác, công bằng, công khai, đúng chất lượng; tuy không căn cứ kết quả xếp loại học lực để đánh giá, xếp loại hạnh kiểm hoặc ngược lại nhưng cần chú ý đến tác động qua lại giữa hạnh kiểm và học lực. Giáo viên cần có cái nhìn khách quan, công bằng, không quá khắt khe cũng như không qua loa, dễ dãi. Giáo viên cần khuyến khích, kích thích học sinh ham học hỏi, cho điểm tối đa khi học sinh xứng đáng. II. THỰC TIỄN DẠY VÀ HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG TIẾT DỰ GIỜ SỐ 1. Trường. : THPT Hòa Vang. Lớp kiến tập. : 11/3. Giáo viên dạy mẫu : Cô Phan Lương Duyên Giáo sinh kiến tập : Lê Thị Loan Môn. : Ngữ văn – Phân mô làm văn. Bài dạy. : Thao tác lập luận so sánh. Tiết 32 ngày 13 tháng 10 năm 2015. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 7.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> PHẦN DỰ GIỜ RÚT KINH NGHIỆM DỰ GIỜ  DIỄN BIẾN GIỜ DẠY Trước khi vào giờ dạy, giáo viên đã lên lớp sớm để chuẩn bị mọi công việc cần thiết cho tiết dạy của mình. 1. Dẫn nhập vào bài mời - Giáo viên ổn định lớp, không kiểm tra bài cũ. - Giáo viên dẫn vào bài học mới bằng một đoạn trích trong bài viết của Nguyễn Đăng Mạnh đã sử dụng hiệu quả thao tác lập luận so sánh. Trên cơ sở của đoạn văn đó, giáo viên nêu các mục đích của bài học về Thao tác lập luận so sánh bước đầu định hướng cho học sinh dễ dàng tiếp cận bài học mới. 2. Nội dung dạy học 2.1. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu mục đích và yêu cầu của thao tác lập luận so sánh. - Giáo viên đặt câu hỏi về khái niệm so sánh. Học sinh suy nghĩ và trả lời. - Giáo viên nhận xét và mở rộng vấn đề phân biệt so sánh tu từ và thao tác lập luận so sánh để giúp các em hiểu sâu sắc hơn thế nào là thao tác lập luận so sánh và tránh nhầm lẫn giữa so sánh tu từ và thao tác lập luận so sánh. - Trên cơ sở hiểu được khái niệm thao tác lập luận so sánh, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu mục đích và yêu cầu của thao tác lập luận so sánh. - Giáo viên mời một học sinh đọc ngữ liệu 1 (đoạn trích trong “Tuyển tập Chế Lan Viên, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1990). - Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm và hướng dẫn học sinh tiến hành thảo luận trong vòng 3 phút về các vấn đề được trình bày trong sách giáo khoa liên quan đến đoạn trích. Trong quá trình học sinh thảo luận, giáo viên quan sát và hướng dẫn các em giải quyết vấn đề thảo luận của nhóm mình. - Học sinh lần lượt trình bày vấn đề thảo luận của nhóm mình, giáo viên nhận xét và mở rộng làm sâu sắc hơn kiến thức bài học kết hợp với phương pháp. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 8.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> tích hợp không chỉ giúp các em nắm được bài học mới mà còn ôn lại kiến thức cũ về các tác phẩm văn học (Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Truyện Kiều, Chiêu hồn). - Giáo viên rút ra kết luận về mục đích và yêu cầu của thao tác lập luận so sánh và ghi lại ý chính trên bảng. - Giáo viên hỏi học sinh: trong quá trình làm văn nghị luận các em, có sử dụng thao tác lập luận so sánh chưa? Giáo viên tiếp tục khẳng định lại một lần nữa tác dụng của thao tác này trong các bài văn nghị luận. 2.2. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu cách so sánh. - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc ngữ liệu 2 (đoạn trích trong “Nguyễn Tuân toàn tập”, tập V). - Giáo viên khái quát về tác phẩm và tác giả được nhắc đến trong ngữ liệu 2 và hỏi học sinh: hiểu thế nào về các quan niệm “cải lương hương ẩm”, “ngư ngư tiều tiều canh canh mục mục”. Đây là những khái niệm khó đối với học sinh nên giáo viên đã chủ động lý giải các quan niệm đó bằng cách trình bày sơ lược về giai đoạn lịch sử nước ta thời kỳ đó và lý giải sự xuất hiện của các quan niệm trên. Từ đó giúp các học sinh hiểu vì sao trong đoạn trích Nguyễn Tuân lại viết Ngô Tất Tố đã “soi đường” cho nhân vật mình đi. - Giáo viên hướng dẫn học sinh giải quyết các câu hỏi trong sách giáo khoa về ngữ liệu 2. Và cuối cùng khẳng định với đoạn trích này tác giả đã sử dụng so sánh tương phản để làm rõ luận điểm mà mình đưa ra. - Giáo viên rút ra kết luận về các bước tiến hành thao tác lập luận so sánh và trình bày ý chính lên bảng. 3. Củng cố và dặn dò - Ở tiết trước giáo viên đã yêu cầu học sinh về nhà chuẩn bị mỗi tổ 1 đoạn văn. Cuối giờ học này, giáo viên yêu cầu học sinh truyền các đoạn văn mình đã chuẩn bị cho các nhóm khác để về nhà học sinh dựa vào những gì đã học phân tích. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 9.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> đoạn văn đó theo những yêu cầu của thao tác lập luận so sánh và rút ra kết luận. yêu cầu nộp bài vào tiết làm văn sau. - Giáo viên dặn dò học sinh chuẩn bị bài mới.  PHẦN RÚT KINH NGHIỆM CỦA GIÁO SINH 1. Phần chuẩn bị bài giảng của giáo viên Đối với giáo viên, phần chuẩn bị bài và thiết kế giáo án là công việc hết sức quan trọng để có được một bài dạy hiệu quả, khoa học và truyền đạt được hết nội dung trọng tâm của bài học. Đối với bài học Thao tác lập luận so sánh giáo viên đã thực hiện khâu chuẩn bị bài giảng của mình hết sức công phu, nghiêm túc với hai giáo án: giáo án giấy và giáo án điện tử. Đây có thể coi như là bước đầu quyết định thành công cho bài dạy của giáo viên. 2. Tiến trình dạy học Giáo viên chú trọng phần dẫn nhập vào bài mới khích thích hướng thú học tập của học sinh. Trong giờ dạy giáo viên phối hợp sử dụng nhiều phương pháp dạy học như phương pháp bình giảng, phương pháp đặt vấn đề, phương pháp thảo luận nhóm,… Đặc biệt là phương pháp tích hợp, dạy bài thao tác lập luận so sánh giáo viên lồng ghép kiến thức văn học và lịch sử vào bài giảng không chỉ giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn bài học mới mà còn ôn lại kiến thức cũ cho các em, mở rộng kiến thức. Trong tiến trình dạy học giáo viên chủ động quản lý lớp, điều tiết hoạt động, cố gắng kích thích tinh thần làm việc của học sinh, giám sát chặt chẽ hoạt động học của học sinh đồng thời khéo léo ứng xử, giải quyết các tình huống sư phạm nảy sinh trong tiết dạy. Cách đặt câu hỏi của giáo viên hợp lý với nhiều dạng câu hỏi khác nhau như: câu hỏi khơi gợi kiến thức, câu hỏi đòi hỏi sự tư duy, câu hỏi mở rộng kiến thức… có khi đơn giản chỉ là những câu hỏi nhỏ thể hiện sự quan tâm của giáo viên đối với học sinh (trong quá trình làm văn nghị luận các em, có sử dụng thao. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 10.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> tác lập luận so sánh chưa?) nhưng cũng đã phần nào thể hiện sự nhiệt tình, tâm huyết của người giáo viên đối với công việc giảng dạy, biến giờ dạy học không chỉ dừng lại trên lý thuyết văn bản mà trở nên gần gũi hơn với thực tế cuộc sống của học sinh. Giáo viên mở rộng kiến thức cho học sinh ở mức độ phù hợp không quá sức tiếp nhận đối với các em, giúp cho bài học thêm sinh động, hấp dẫn. Tiến trình dạy học phối hợp nhịp nhàng giữa phần nêu vấn đề, phần thuyết giảng và phần trình bày bảng kết hợp với các phương pháp sư phạm khác. Giờ học diễn ra tích cực, hiệu quả, giáo viên và học sinh chuẩn bị kỹ lưỡng, tiến trình dạy học suôn sẻ, cách thức truyền đạt của giáo viên phù hợp với trình độ tiếp nhận của học sinh, có sự phân luồng kiến thức rõ ràng để những học sinh trung bình vẫn có thể nắm bắt được kiến thức và những học sinh khá giỏi cảm thấy thích thú với bài học. Việc giáo viên cho học sinh tự chuẩn bị đoạn văn phục vụ cho bài học đã thúc đẩy được tinh thần học tập chủ động của các em, học sinh không thụ động tiếp nhận bài dạy của giáo viên mà các em đã có sự chuẩn bị trước, nhiệm vụ của giáo viên là định hướng, khơi gợi và rút ra kết luận chính cho bài học.  TIẾT DỰ GIỜ SỐ 2. Trường. : THPT Hòa Vang. Lớp kiến tập. : 11/3. Giáo viên dạy mẫu : Cô Phan Lương Duyên Giáo sinh kiến tập : Lê Thị Loan Môn. : Ngữ văn - Phân môn Tiếng việt. Bài dạy. : Ngữ cảnh. Tiết 32 ngày 13 tháng 10 năm 2015. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 11.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> PHẦN DỰ GIỜ RÚT KINH NGHIỆM DỰ GIỜ  DIỄN BIẾN GIỜ DẠY Trước khi vào giờ dạy, giáo viên đã lên lớp sớm để chuẩn bị mọi công việc cần thiết cho tiết dạy của mình. Sử dụng phối hợp nhiều phương pháp: phương pháp trực quan, dạy học nêu vấn đề, thảo luận nhóm… 1. Dẫn nhập vào bài mời - Giáo viên ổn định lớp. - Giáo viên dẫn vào bài học mới bằng một một câu chuyện cười để thấy được sự hiểu lầm khi không đặt câu nói vào trong ngữ cảnh. 2. Nội dung dạy học - Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái niệm ngữ cảnh + Giáo viên đưa ra câu nói: “ Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?” và đặt ra các trường hợp để phân tích: khi đột nhiên nghe câu nói, khi đưa vào trong ngữ cảnh. Hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm và giải quyết các vấn đề. + Đưa ra khái niệm ngữ cảnh. - Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu những nhân tố của ngữ cảnh. + Ngữ cảnh gồm nhưng nhân tố nào? Từ đó lần lượt phân tích các yếu tố của ngữ cảnh gồm: nhân vật giao tiếp, bối cảnh ngoài ngôn ngữ, văn cảnh. + Trong quá trình giảng bài giáo viên nhấn mạnh những kiến thức trọng tâm cho học sinh, những khái niệm khó được giáo viên lý giải cặn kẽ hơn, nhưng vấn đề sách giáo khoa viết không rõ ràng, giáo viên thay thế bằng cách diễn đạt dễ hiểu hơn. + Vừa phân tích ngữ liệu trong sách giáo khoa, vừa đưa các ví dụ lấy từ những tác phẩm học sinh đã học để minh họa cho kiến thức và rút ra kết luận. - Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu vai trò ngữ cảnh: làm rõ kiến thức bằng sơ đồ tư duy. - Củng cố và dặn dò.. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 12.

<span class='text_page_counter'>(13)</span>  PHẦN RÚT KINH NGHIỆM CỦA GIÁO SINH Khi soạn giáo án, bố cục cần rõ ràng, phù hợp với điều kiện từng bài và năng lực tiếp nhận của học sinh, bên cạnh đó giáo án cần mang tính sáng tạo và linh hoạt, không nên gò ép vào một khuôn mẫu nhất định và mỗi thiết kế bài giảng phải tạp được một chân trời mở cho sự sáng tạo trong các phương án tiếp cận của học sinh. Với bài dạy Ngữ cảnh, giáo viên đã khéo léo chắt lọc những kiến thức trọng tâm trong bài học, cô đọng lại thành những kiến thức cơ bản nhất mà học sinh cần nắm, cách trình bày bài giảng và các đưa ví dụ minh họa cho thấy khả năng ứng phó linh hoạt và năng lực sư phạm của một người giáo viên có đầy kinh nghiệm trong nghề. Với những ví dụ trong sách giáo khoa còn mơ hồ, không làm nổi bật được kiến thức trọng tâm, giáo viên sử dụng những ví dụ khác để thay thế. Nhưng ví dụ đưa ra không tùy tiện mà có sự sàng lọc một cách khoa học, vừa thể hiện được sự tích hợp giữa phân môn văn học và phân môn tiếng việt, vừa khơi gợi lại kiến thức cũ cho học sinh, được lấy ra từ những tác phẩm văn học mà học sinh đã được học. Với những khái niệm mà sách giáo khoa viết còn hàn lâm, khó hiểu đối với học sinh, giáo viên phân tích rõ hơn hoặc thay thế bằng một khái niệm khác dễ hiểu hơn với khả năng tiếp nhận của học sinh. Trong tiến trình dạy học giáo viên chủ động quản lý lớp, điều tiết hoạt động, cố gắng kích thích tinh thần làm việc của học sinh, giám sát chặt chẽ hoạt động học của học sinh đồng thời khéo léo ứng xử, giải quyết các tình huống sư phạm nảy sinh trong tiết dạy. Trong giờ dạy, giáo viên sử dụng phối hợp nhiều phương pháp, đặc biệt sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, trực quan bằng sơ đồ tư duy, phương pháp phát vấn… Đây quả là một giờ dạy kiểu mẫu và thành công mà bản thân cần học tập.. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 13.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> III. NHỮNG SUY NGHĨ VÀ KINH NGHIỆM BƯỚC ĐẦU CỦA BẢN THÂN VỀ CÔNG TÁC DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG Thời gian hai tuần kiến tập tại trường THPT Hòa Vang là điều kiện cho những giáo sinh như chúng tôi được làm quen với công tác giảng dạy ở trường phổ thông. Dưới sự hướng dẫn tận tình của cô Phan Lương Duyên và bài báo cáo đầy tâm huyết và kinh nghiệm của cô Đào Thị Vân Trang, chúng tôi đã thu lượm được rất nhiều những bài học kinh nghiệm quý báu, biến những lý thuyết được học tại trường đại học thành thực tiễn giảng dạy, là bước chuẩn bị căn bản cho sự nghiệp giảng dạy của chúng tôi sau này. 1. Để trở thành một giáo viên tốt cần có những phẩm chất cao đẹp Để trở thành người giáo viên tốt cần phải hội tụ 3 yếu tố Tâm - Tài - Đức. Đối với nghề giáo cái Tâm là một yêu cầu quan trọng không thể thiếu được. Người thầy phải có tâm huyết với nghề mới có hứng thú, say mê chăm chút từng bài giảng, từng nội dung tiết giảng; mới thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu, chỉnh lý, bổ sung nội dung và phương pháp giảng dạy để đem lại hiệu quả cao nhất cho người học. Cái Tâm người giáo viên tốt không phải chỉ lòng yêu ngành, yêu nghề mà phải được biểu hiện thành những hành động cụ thể Cái Tài thể hiện ở tài năng về trí tuệ và tài năng nghiệp vụ sư phạm. Tài năng sẽ giúp cho người dạy nắm vững và nhuần nhuyễn nội dung hệ thống các kiến thức cơ bản của môn học, khả năng phát hiện vấn đề bổ sung vào nội dung bài giảng; tài năng nghiệp vụ sư phạm thể hiện ở việc áp dụng các phương pháp giảng dạy, khả năng trình bày và khả năng xử lý các tình huống sư phạm trong quá trình giảng dạy. Kết hợp được giữa nội dung và phương pháp sẽ làm cho bài giảng thêm phong phú, sinh động, hấp dẫn và có hiệu quả cao, làm cho học sinh hứng thú, say mê, tránh nhàm chán, từ đó chủ động, tích cực nghiên cứu, tìm hiểu trong học tập. Để thỏa mãn các điều đó, người giáo viên phải hội tụ đủ các năng lực sau đây và cũng để thực hiện thông điệp “Mỗi học sinh đều có quyền có giáo viên tốt”.. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 14.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Ngoài ra, người thầy còn phải có cái Đức, Đức là yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi một giáo viên. Có Tâm, có Tài cũng chưa là người thầy tốt. Bác Hồ đã từng nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng”. Càng quan trọng đối với lĩnh vực giáo dục, để tạo ra nhân cách người học thì trước hết người thầy phải biết thuyết phục học sinh bằng chính nhân cách của mình... Cái Đức của người thầy, thể hiện ở sự hi sinh vô tư “Tất cả vì học sinh thân yêu”, giúp đỡ người học một cách chân thành, không vì vụ lợi, không phân biệt đối xử, giúp đỡ trong hỗ trợ kiến thức phải đến nơi đến chốn; giúp đỡ không có nghĩa là cho điểm cao, dễ dãi đối với người học trong học tập. Cái Đức ấy còn được biểu hiện ở sự kiên quyết đấu tranh chống những cái xấu, cái sai trong xã hội, trong chính bản thân mình và trong đồng sự. Thầy giáo và học sinh phải thật thà. Sống thật, nói thật, làm thật để cống hiến thật sự, để lời nói đi đôi với việc làm, làm có ích cho Tổ quốc, cho nhân dân và cho xã hội, cho chính bản thân mình. 2. Làm thế nào để có được một giáo án chất lượng? 2.1. Xác định mục tiêu bài học Mục tiêu bài học là một phần rất quan trọng bởi vì nó quyết định đến các khâu khác trong một giáo án. Từ mục tiêu, người dạy sẽ quyết định phải làm gì để đạt được mục tiêu đó từ chuẩn bị, phương pháp, phương tiện đến tiến trình bài giảng. Mục tiêu bài học luôn thay đổi theo thời gian và đối tượng dạy học. Có thể cùng một bài dạy đối tượng khác nhau, mục tiêu bài học cũng sẽ khác bởi lẽ thầy giáo không chỉ cung cấp tri thức của bài mà còn phải giúp học sinh hình thành kĩ năng để chiếm lĩnh những tri thức tương tự. Trong quá trình giảng dạy cần phải căn cứ vào đối tượng cụ thể để có điều chỉnh mục tiêu bài học cho thích hợp. Nếu xác định đúng, bài giảng của giáo viên sẽ trở nên ngắn gọn, tinh giản, vững chắc và đạt được mục tiêu bài học. Xác định không đúng, bài giảng sẽ trở nên ôm đồm, dàn trải, các kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi khắc hoạ không rõ. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 15.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> nét, phân bố thời gian không hợp lý đối với các nội dung kiến thức, mất nhiều thời gian vào các kiến thức không trọng tâm, không hoàn thành được khối lượng kiến thức và kỹ năng, không đạt được mục tiêu bài học. 2.2. Nghiên cứu sách giáo khoa và các tài liệu liên quan Cần nghiên cứu sách giáo khoa và các tài liệu liên quan để: hiểu chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học; xác định những kiến thức, kỹ năng, thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở học sinh; xác định trình tự logic của bài học. Nên đọc kĩ nội dung bài học và hướng dẫn tìm hiểu bài trong sách giáo khoa để hiểu, đánh giá đúng nội dung bài học rồi mới chọn đọc thêm tư liệu để hiểu sâu, hiểu rộng nội dung bài học. Giáo viên nên chọn những tư liệu đã qua thẩm định, được đông đảo các nhà chuyên môn và giáo viên tin cậy. Các bài giảng được trình bày theo cấu trúc của sách giáo khoa, tuy nhiên sách giáo khoa viết rất cô đọng, rất súc tích. Nếu không dành thời gian thích đáng cho việc đọc tài liệu tham khảo thì những điều chúng ta trình bày sẽ rất đơn sơ, ít có sức thuyết phục và dễ mắc phải lỗi về mặt kiến thức, điều này thấy rõ trong các trường hợp thầy giáo giảng giải các kiến thức, vận dụng kiến thức vào thực tế. Không ít giờ dạy đã rơi vào tình trạng này. Việc đọc các tài liệu tham khảo về các nội dung liên quan đến bài giảng giúp chúng ta hiểu sâu, hiểu thấu đáo các kiến thức, điều đó làm cho việc trình bày các kiến thức của bài giảng được thực hiện một cách tự tin, chính xác, sâu sắc. Tuy nhiên, trong giờ giảng chỉ trình bày ở một mức độ nhất định phù hợp với mục tiêu và yêu cầu của bài, của cấp học. 2.3. Lựa chọn phương pháp giảng dạy Phương pháp giảng dạy cần được vận dụng linh hoạt tuỳ từng nội dung cụ thể của bài. Dù dùng phương pháp nào đều phải thể hiện được phương châm lấy học sinh làm trung tâm, rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Rèn luyện qua việc đọc thông tin, nghiên cứu hình vẽ, đồ thị, biểu đồ, bản đồ, số. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 16.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> liệu thống kê,... trong sách giáo khoa từ đó rút ra các kết luận cần thiết phục vụ nội dung bài dạy. Sự phù hợp về phương pháp dạy học không phải nhất thiết phải từ bỏ những phương pháp dạy học truyền thống để lựa chọn các phương pháp mà nhiều người cho là mới, là hiện đại. Sự phù hợp là phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với nội dung bài dạy… giáo viên có thể lựa chọn phương pháp truyền thống hay hiện đại hoặc có thể kết hợp để có một tiết dạy chất lượng nhất. Đơn cử trong bộ môn ngữ văn nên sử dụng phối hợp nhiều phương pháp như: thảo luận nhóm, pháp vấn, phương pháp trực quan, sơ đồ hóa bằng kiến thức tư duy… Phải đưa giờ ngữ văn từ chỗ tuân thủ theo những quy trình cứng nhắc, răm rắp theo một công thức định sẵn trở thành môi trường mở để thầy và trò tự do trao đổi và sáng tạo, từ đó khơi gợi niềm đam mê học văn cho các em. Tuy nhiên, phương pháp bình giảng vẫn là phương pháp chiếm ưu thế trong việc giúp giáo viên định hướng, truyền đạt, dẫn dắt học sinh cảm thụ tác phẩm văn học qua đó tích hợp giáo dục và bồi dưỡng nhân cách học sinh. Cần tăng cường hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin, đồ dùng dạy học trực quan trong dạy học (tất nhiên phải hợp lí) vì đây là hai yếu tố rất quan trọng để giảm tải các hoạt động của thầy trên lớp, học sinh dễ dàng chiếm lĩnh kiến thức, hơn nữa nó còn có tác dụng lôi cuốn, tạo hứng thú trong các tiết dạy. 3. Tổ chức dạy và học trên lớp Dù cho sự chuẩn bị của giáo viên có kỹ lưỡng đến đâu thì yếu tố quyết định nhất vẫn là tiến trình lên lớp của giáo viên. Để có được một giờ dạy thành công, giáo viên cần phải tự tin, chủ động, linh hoạt trong tiết dạy, phải khéo léo xử lý những tình huống sư phạm bất ngờ, đồng thời phải có khả năng quản lý và điều tiết lớp tốt. Riêng trong bộ môn Ngữ văn thao tác dẫn nhập bài mới là vô cùng quan trọng, nó đóng vai trò thiết yếu trong việc kích thích hứng thú học tập, khơi gợi sự. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 17.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> tò mò của học sinh, đồng thời còn góp phần tạo nên chất văn và sự sinh động cho bài giảng. Khả năng truyền đạt lưu loát của người thầy cũng rất quan trọng vì nó thể hiện sự tự tin của một người thầy khi đứng trước học sinh. Nó giúp học sinh lĩnh hội và tiếp thu kiến thức một cách nhanh chóng, có hứng thú trong học tập hơn. Với môn văn không thể thiếu được chất văn trong từng lời giảng, người giáo viên văn cần luyện tập nhiều để có có được khả năng bình giảng văn học mượt mà, đầy sức truyền cảm, lay động được lòng người, chú ý đến ngữ điệu khi đọc các tác phẩm thơ văn có tính chất khác nhau. Để tạo sự lôi cuốn trong nhưng giờ giảng, khiếu hài hước của người thầy là rất quan trọng, nó giúp các em giảm bớt được sự căng thẳng trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Tạo không khí gần gũi nhưng không xuồng xã, vui tươi nhưng không ồn ào, mất trật tự… Hơn nữa, dạy văn tức là dạy người, không chỉ cung cấp kiến thức cần thiết cho học sinh mà còn phải hình thành ở các em khả năng cảm thụ văn chương, tâm hồn nhạy cảm biết yêu cái đẹp, biết quý trọng con người, biết hi sinh và phấn đấu vì những điều tốt đẹp của cuộc đời. Trong các bài dạy của mình, giáo viên văn cần lồng ghép những lời khuyên răn, định hướng sống tốt đẹp cho học sinh. Và bản thân người giáo viên cũng phải là tấm gương tốt để học sinh noi theo. . Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 18.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ Trong thời gian kiến tập sư phạm tại trường THPT Hòa Vang, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi của Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô trong Hội đồng sư phạm, các em học sinh và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô Phan Lương Duyên cùng những kinh nghiệm được truyền đạt trong bài báo cáo về công tác dạy học của cô Đào thị Vân Trang. Qua đây tôi xin bày tỏ lòng tri ân chân thành đối với thầy cô và các em học sinh. Những gì được học, được trải nghiệm trong thời gian kiến tập sư phạm tại trường đã bước đầu trang bị cho chúng tôi những hành trang quý báu cho sự nghiệm giảng dạy của mình sau này. Chúng tôi càng yêu quý hơn cái nghề mà mình đã lựa chọn, chỉ một khao khát duy nhất là được cống hiến, được tận tâm với nghề. Nghề giáo vẫn luôn được coi là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý. Hiểu được điều đó, bản thân mỗi giáo sinh chúng tôi luôn cố gắng phấn đấu, trau dồi kiến thức và kỹ nẵng nghề nghiệp, không ngừng rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, bồi dưỡng lòng nhiệt huyết, nghiêm túc và tận tâm với nghề, hết lòng yêu thương học sinh.. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 19.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> PHẦN ĐÁNH GIÁ BÀI THU HOẠCH 1. Ý kiến nhận xét của cán bộ đánh giá: ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... .................................................................................................................................... 2. Điểm số: bằng số: …………. bằng chữ: ………………………………….. (Thang điểm 10 với 1 số lẻ thập phân). Chữ ký của cán bộ đánh giá. Lê Thị Loan – Tìm hiểu và dự giờ mẫu về công tác dạy học. Trang 20.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

×