Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tieu luan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.26 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

cau 11: Trình bày sự hình thành và những đặc điểm, điều kiện để giai cấp công
nhân Việt Nam làm trọn sứ mệnh lịch sử của mình đối với cách mạng Việt Nam.


Câu 11: Trình bày sự hình thành và những đặc điểm, điều kiện để giai cấp công nhân Việt Nam làm trọn sứ mệnh lịch sử
của mình đối với cách mạng Việt Nam.


1. Sự hình thành giai cấp cơng nhân Việt Nam:


Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược, biến nước ta thành thuộc địa nửa phong kiến, nơi tiêu thụ hàng hóa, khai thác
tài ngun và bóc lột nhân cơng rẻ mạc của chúng.


Sau khi đặt ách thống trị lên toàn bộ nước ta, vào đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp cấu kết với bọn phong kiến tay sai tiến hành
khai thác các hầm mỏ, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, mở các tuyến đường, mở các đồn điền trồng cây cơng nghiệp,…
Từ đó, nước ta có một lớp người lao động mới ra đời – đó là những cơng nhân làm thuê, phần lớn tập trung ở các thành phố,
các khu cơng nghiệp. Năm 1906 nước ta có khoảng 5 vạn công nhân. Đến năm 1924, công nhân đã có 22 vạn người.


Ở nước ta, với hồn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến thì sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân VN trước hết là
phải lãnh đạo cuộc CM dân tộc dân chủ nhân dân để giành độc lập dân tộc. Tiếp đến, trong giai đoạn CM XHCN, lãnh đạo
ND xây dựng thành công CNXH vì mục tiêu của CM VN là độc lập dân tộc và CNXH.


2. Những đặc điểm, điều kiện để giai cấp công nhân VN lãnh đạo CM VN:


Giai cấp công nhân VN là một bộ phận của giai cấp cơng nhân quốc tế nên có những đặc điểm chung của giai cấp cơng nhân
quốc tế; ngồi ra, giai cấp công nhân VN ra đời và phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc VN nên cịn có những đặc
điểm riêng, ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân VN:


- Giai cấp công nhân VN ra đời trước cả giai cấp tư sản VN, là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Sinh
ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, một thứ CNTB thực lợi không quan
tâm mấy đến phát triển công nghiệp, nên giai cấp công nhân VN phát triển chậm.


Mặc dù ra đợi mộn, số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp chưa bằng giai cấp cơng nhân thế giới, cịn mang nhiều tàn dư


của tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp cơng nhân VN đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo của
CM VN, thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng dân tộc để giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH.


- Giai cấp công nhân VN tiếp thu và kế thừa truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc. Giai
cấp công nhân khi ra đời vừa chị nỗi nhục mất nước, vừa bị áp bức bóc lột của giai cấp TS đế quốc nên họ có tinh thần CM
kiên cường, triệt để, sớm nhận thức được mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng giai cấp,
giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nhân mới có khả năng tìm thấy lối thốt cho CM.


- Giai cấp công nhân VN ra đời khi CM XHCN tháng Mười Nga thành công, mở ra một chế độ XH mới trong lịch sử nhân
loại, đó là chế độ XHCN và cùng lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc là con đường
CM VS dưới sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân. Đó là u tố hết sức quan trọng khích lệ, thúc đẩy giai cấp cơng nhân VN
đứng lên làm CM để giải phóng dân tộc.


- Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nên có quan
hệ mật thiết, tự nhiên với nơng dân và đơng đảo nhân dân lao động. Chính vì vậy, giai cấp cơng nhân VN sớm liên minh với
nông dân, tạo thành khối liên minh công – nông và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân trong suốt quá trình CM. Đây cũng là điều kiện cần thiết đảm bảo cho CM VN giành thắng lợi.


- Giai cấp công nhân VN ra đời sau một thời gian ngắn thì ĐCS VN ra đời. ĐCS đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công
nhân, làm cho phong trào cơng nhân có một bước phát triển nhảy vọt về chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trở thành lực lượng chính trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh CM của nhân dân VN.


- Giai cấp công nhân VN ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và sớm có Đảng lãnh đạo nên không bị tác động bởi các
khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa, cải lương, xét lại, không bị giai cấp tư sản đầu độc vè tư tưởng nên luôn ln đồn kết,
thống nhất trong cuộc đấu tranh chống thực dân pháp và bọn địa chủ phong kiến tay sai.


Ngoài những đặc điểm nói trên, thể hiện những ưu điểm của giai cascp công nhân VN, cho đến nay giai cấp cơng nhân VN
cịn có những hạn chế cần phải khắc phục: số lượng cịn ít, trình độ văn hóa, chuyên môn và nghiệp vụ cũng như khoa học


kĩ thuật còn thấp; tư tưởng bảo thủ, chủ quan, cách làm ăn tùy tiện, manh mún của người sản xuất nhỏ cịn ảnh hưởng nặng
nề.


Ngun nhân là do nền cơng nghiệp nước ta chưa phát triển và thành phần đa số xuất thân nông dân. Tuy vậy, những hạn
chế trên không thuộc về bản chất nên giai cấp công nhân VN vẫn có đủ khả năng và điều kiện để đảm đương sứ mệnh lịch
sử của mình đối với dân tộc.


<b>Nhận xét</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Vấn đề 1</b> : Đồng chí hãy phân tích điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam


<b>Bài làm</b>


<b> </b>Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất, xuất sắc nhất của
CNXH khoa học<b>.</b> Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những
cống hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác. Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của CNXH ở
Đông Âu và Liên Xô, nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Các phần tử cơ hội, xét lại và các thế lực thù địch đã lợi dung để
tuyên truyền nhằm phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhận và chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhất là trong bối cảnh
lịch sử hiện nay đang đặt ra một cách bức thiết trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân cịn có ý nghĩa rất lớn trong
việc hiểu rõ ý nghĩa và nội dung căn bản cụ thể của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai
đoạn mới – giai đoạn phải thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


<b>1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân</b>


Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp


công nhân và để phù hợp với sự tồn tại của nó, giai cấp cơng nhân buộc phải làm gì về mặt
lịch sử ?


a. Khái niệm về giai cấp công nhân :


Mác và Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ, theo từng tiêu chí khác nhau để nói về giai cấp
cơng nhân như: giai cấp vô sản, những người làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp công nhân
đại công nghiệp, giai cấp công nhân hiện đại .v.v… Dù sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau
nhưng Mác và Ăngghen đều chỉ ra hai tiêu chí cơ bản của giai cấp cơng nhân :


- <b>Một là</b>, về phương thức lao động - phương thức sản xuất - thì giai cấp cơng nhân là
những người lao động (gián tiếp hoặc trực tiếp) có tính chất cơng nghiệp để tạo ra của cải
vật chất cho xã hội.


- <b>Hai là</b>, về địa vị đối với tư liệu sản xuất : trong CNTB giai cấp công nhân là những người
khơng có tư liệu sản xuất, phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản
bóc lột về giá trị thặng dư. Chính điều này khiến cho giai cấp cơng nhân trở thành giai cấp
đối kháng với giai cấp tư sản.


Căn cứ hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa: giai cấp cơng nhân là một
tập đồn xã hội hình thành và phát triển cùng với q trình phát triển của nền cơng nghiệp
hiện đại. Trong xã hội tư bản, giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động làm
thuê cho nhà tư bản, họ hồn tồn khơng có TLSX, phải bán sức lao động cho nhà tư bản
để kiếm sống. Vì vậy, trong sản xuất giai cấp cơng nhân là giai cấp bị phụ thuộc và trong
phân phối, giai cấp cơng nhân bị nhà tư bản bóc lột gía trị thặng dư, do đó giai cấp cơng
nhân là giai cấp đối lập trực tiếp về lợi ích của giai cấp tư sản, là động lực chính của tiến
trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Đánh giá về vị trí vai trị của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác Lênin xác định giai cấp
cơng nhân chính là giai cấp có sứ mệnh lịch sử hết sức to lớn là xoá bỏ chế độ bóc lột


TBCN, thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ XH TBCN lên xã hội XHCN và Cộng sản
chủ nghĩa.Theo Mác và Ăngghen, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải do ý
muốn chủ quan của giai cấp công nhân hoặc do sự áp đặt của các nhà tư tưởng mà do
những điều kiện khách quan quy định.


<b>Trước hết đó là do địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân quy định nên sứ </b>
<b>mệnh lịch sử của giai cấp công nhân</b>. .


CNTB ra đời đánh dấu một bước tiến vĩ đại và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự ra đời
của nền đại công nghiệp, một mặt tạo ra cơ sở vật chất, nhờ đó có thể xóa bỏ được chế độ
bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng, mặt khác sản sinh ra giai cấp công nhân, lực
lượng xã hội đại diện cho lực lượng sản xuất mới. Giai cấp công nhân xét về nguồn gốc ra
đời là con của nền đại công nghiệp, sinh ra và phát triển theo đà phát triển của kỹ thuật và
công nghiệp, họ chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi sản xuất đại công nghiệp đã thay thế
về cơ bản nền sản xuất thủ công. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của giai cấp
công nhân, lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao, trong khi đó quan
hệ sản xuất TBCN lại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Chính điều
đó đã tạo ra mâu thuẫn cơ bản trong lòng XHTB và được biểu hiện ra ngoài bằng mâu
thuẫn gay gắt giữa giai cấp công nhân - đại diện cho lực lượng sản xuất mới - với giai cấp
tư sản - đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời.


Theo quy luật khách quan, quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Một khi quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản
xuất sẽ xảy ra xung đột gay gắt trong xã hội, lúc đó giai cấp tiên tiến trong xã hội - đại diện
cho lực lượng sản xuất mới - sẽ lãnh đạo cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị, thiết lập
quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, tạo nên
phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn phương thức sản xuất cũ bị thay thế. Khi ấy hình
thái kinh tế xã hội cũ sẽ thay đổi bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao, tiến bộ hơn : đó là
quy luật phát triển cơ bản của xã hội loài người đã được lịch sử chứng minh, không một
học thuyết nào bác bỏ được



Như vậy, với mâu thuẫn trong xã hội tư bản, sớm hay muộn người đại diện cho lực lượng
sản xuất mới sẽ lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản - đại diện cho
quan hệ sản xuất lỗi thời - thiết lập quan hệ sản xuất mới, mở đường cho lực lượng sản
xuất tiếp tục phát triển. Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất tiên tiến, cơ bản nhất của
phương thức sản xuất TBCN, vì vậy nó sẽ là người quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất
TBCN, hình thành phương thức sản xuất mới : phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa,
nền tảng cho xã hội CSCN ra đời


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

chỉnh các quan hệ TBCN nhằm cứu vãn chế độ thống trị của giai cấp mình và trên thực tế
giai cấp tư sản đã đạt được một số thành tựu và kết quả nào đấy nhưng vẫn không khắc
phục được mâu thuẫn cơ bản của XHTB, vẫn phải thường xuyên đối đầu với các cuộc
khủng hoảng nặng nề với nhiều cơn suy thối và nạn thất nghiệp thường xun khơng
tránh khỏi của hàng chục triệu người. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy
đang đứng trước những thử thách hết sức nặng nề nhưng bức tranh toàn cảnh của sự phát
triển lực lượng sản xuất thế giới vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho giai cấp
công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, dù có trãi qua những bước thăng trầm,
quanh co nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử.


<b> Bên cạnh đó, những đặc điểm của giai cấp cơng nhân cũng là yếu tố quy định nên </b>
<b>sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân</b>.


Từ địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong nền SX công nghiệp lớn TBCN cũng
đã hình thành nên những đặc điểm của giai cấp công nhân.


- Nền SX công nghiệp luôn luôn phát triển về mặt kỹ thuật, công nghệ, vì vậy nó địi hỏi
trình độ của người cơng nhân phải luôn luôn được nâng lên, đổi mới và phát triển gắn liền
với trình độ phát triển KH-KT và cơng nghệ. Do đó giai cấp cơng nhân <b>là giai cấp tiên tiến </b>
<b>nhất</b>, đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại nhất.



- Giai cấp công nhân là người sản xuất ra những của cải dư thừa của xã hội nhưng lại là
người bị giai cấp tư sản áp bức bóc lột nặng nề nhất, do đó họ là giai cấp trực tiếp đối
kháng với giai cấp tư sản và xét về bản chất họ <b>là giai cấp cách mạng triệt để nhất, </b>họ
không có con đường nào khác là chống lại chế độ áp bức bóc lột TBCN. Điều kiện sinh
hoạt khách quan của họ quy định rằng họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng
tồn xã hội khỏi chế độ TBCN và trong cuộc cách mạng ấy, họ khơng mất gì ngồi xiềng
xích và được cả thế giới về mình.


- Giai cấp cơng nhân cũng <b>là giai cấp tiên phong cách mạng nhất</b> bởi vì trong môi trường
làm việc của họ - nền SX công nghiệp - ln phát triển và có những đổi mới, những cuộc
cách mạng KHKT khơng ngừng, chính cuộc cách mạng mà giai cấp cơng nhân tham gia
địi hỏi họ phải có sự tiên phong


- Địa vị KT-XH khách quan cịn tạo cho giai cấp cơng nhân <b>khả năng đoàn kết thống </b>
<b>nhất giai cấp</b>, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của mình và khả năng hành
động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân
không chỉ là giai cấp đối lập về lợi ích trực tiếp với giai cấp tư sản mà cịn <b>là giai cấp đại </b>
<b>biểu cho lợi ích của toàn bộ các giai cấp khác và tầng lớp lao động trong xã hội</b>, hiểu
được tâm tư nguyên vọng của họ, có khả năng lơi cuốn đồn kết các giai cấp, tầng lớp lao
động khác lại theo mình làm cách mạng xã hội. Do tính tiên phong trong cách mạng, giai
cấp công nhân luôn là người đi đầu và trở thành lãnh tụ tự nhiên của các giai cấp, tầng lớp
lao động khác, của toàn thể nhân dân lao động, của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống
CNTB, chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>VAI TRỊ CỦA GIAI CẤP CƠNG NHÂN VIỆT NAM TRONG</b>
<b>CÁCH MẠNG NƯỚC TA</b>


Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam đang gánh vác một nhiệm
vụ rất vĩ đại trước lịch sử nước ta, trước dân tộc ta và trước phong


trào công nhân quốc tế. Từ hơn mười năm nay, ở miền Bắc, giai
cấp công nhân ta, thông qua Đảng của mình, đã và đang lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Từ khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược ở miền
Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, giai cấp công nhân ta lại
lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống giặc Mỹ xâm lược, bảo vệ
miền Bắc, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc,
đồng thời góp phần bảo vệ hồ bình ở Đơng Nam Á và thế giới.
Sứ mệnh lịch sử vô cùng to lớn đó địi hỏi chúng ta, mỗi người
cơng nhân Việt Nam phải hiểu rõ vai trò lịch sử của giai cấp mình
đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta và đối với sự phát
triển của cách mạng thế giới. Nếu khơng hiểu rõ điều ấy thì dù là
công nhân thật sự, chúng ta cũng chưa hẳn đã là những công
nhân giác ngộ cách mạng, dù là đảng viên đi nữa, chúng ta cũng
chưa hẳn đã là người cộng sản chân chính.


Chúng ta thường nói đến chủ nghĩa xã hội, đến giai cấp công
nhân, nhưng hiểu cho đúng thế nào là giai cấp công nhân, tại sao
giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử cải tạo thế giới cũ và xây
dựng thế giới mới, việc đó thật khơng đơn giản.


Muốn có một quan niệm thật chính xác, thật khoa học về các vấn
đề trên đây, chúng ta phải có quan điểm duy vật lịch sử, phải xuất
phát từ cơ sở kinh tế của xã hội. Cơ sở kinh tế đó là quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất, là phương thức phân phối của sản phẩm
làm ra, là những lực lượng sản xuất của xã hội. Giai cấp ra đời và
mất đi cũng như đấu tranh giai cấp diễn ra và đến một lúc nào đó
sẽ khơng cịn nữa, tất cả những cái đó gắn liền với sự tồn tại và sự
thay đổi của những cơ sở kinh tế nhất định.



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

từng xuất hiện trong lịch sử, sự phân phối sản phẩm và cùng với
sự phân phối ấy<i>- </i>sự phân chia xã hội thành giai cấp và đẳng cấp,
được quyết định bởi những cái đã được sản xuất ra và bởi cách
thức mà những cái đó đã được sản xuất ra, cũng như bởi cách
thức mà người ta trao đổi những vật đã được sản xuất ra. Như vậy
là, phải tìm những nguyên nhân cuối cùng của tất cả những sự
biến đổi xã hội và của tất cả những cuộc biến cách chính trị ở
trong những sự thay đổi về phương thức sản xuất và phương thức
trao đổi, chứ khơng phải ở trong đầu óc người ta, không phải ở
trong sự hiểu biết ngày càng tăng thêm của người ta về chân lý
vĩnh cửu và cơng lý vĩnh cửu; phải tìm những ngun nhân đó
khơng phải là ở trong <i>triết học</i>, mà ở trong <i>kinh tế </i>của thời đại
mình nghiên cứu1*<sub>.</sub>


Chính Mác đã đi từ sự phân tích nền kinh tế tư bản chủ nghĩa để
nghiên cứu quá trình ra đời, lớn lên và diệt vong tất yếu của chủ
nghĩa tư bản; đồng thời cũng đi từ sự phân tích ấy, Mác rút ra kết
luận rằng giai cấp công nhân là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư
bản, là người sẽ đứng ra tổ chức xã hội mới, xã hội cộng sản văn
minh.


Công nghiệp lớn ra đời đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển
rất mạnh. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất xã hội
hoá ngày càng cao, trong khi đó, thì quan hệ sản xuất lại mang
tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là nguồn gốc
của mọi tội lỗi và xấu xa của chế độ tư bản chủ nghĩa.


Mâu thuẫn cơ bản đó biểu hiện thành mâu thuẫn đối kháng giữa
giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Xố bỏ mâu thuẫn cơ bản
đó, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về


tư liệu sản xuất là yêu cầu cấp bách để đẩy xã hội tiến lên.


Là con đẻ của xã hội tư bản chủ nghĩa, gắn liền với nền sản xuất
đại công nghiệp, và là sản phẩm của bản thân đại công nghiệp,
giai cấp công nhân tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới, xã hội
hoá, và do đó, nó là giai cấp tiên tiến nhất có khả năng cải tạo cả
thế giới, tổ chức nên chế độ xã hội mới, xã hội tương lai của loài
người, là xã hội cộng sản chủ nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp với lực lượng sản xuất, tạo nên phương thức sản xuất
mới, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, do đó thúc đẩy nền
sản xuất xã hội phát triển không ngừng. Giai cấp công nhân sẽ
ngày một lớn mạnh cùng với sự phát triển của nền công nghiệp
lớn. Trái lại các giai cấp khác trong xã hội tư bản chủ nghĩa đều
suy tàn với sự phát triển của đại công nghiệp. Là những giai cấp
trung gian trong xã hội tư bản chủ nghĩa, họ khơng có thái độ triệt
để cách mạng trong việc xố bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
"Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì
chỉ có giai cấp vơ sản là giai cấp “thực sự cách mạng”2*<sub>.</sub>


Không nên quan niệm một cách đơn giản rằng giai cấp công nhân
là giai cấp những người nghèo khổ, những người khơng có của,
những người "vô sản" theo nghĩa đen của từ ấy. Dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân phải bán sức lao động để làm
thuê cho giai cấp tư sản, bị giai cấp tư sản bóc lột đến tận xương
tuỷ, phải sống cuộc đời cùng khổ, vì thế giai cấp công nhân coi
giai cấp tư sản là kẻ tử thù của mình. Tuy nhiên, khơng phải bản
thân sự nghèo khổ đó tạo cho giai cấp cơng nhân có vị trí là giai
cấp lãnh đạo cách mạng. Những người nơ lệ trước kia cũng như


nông dân lao động dưới chế độ phong kiến đều là những người bị
bóc lột, và nếu chỉ nhìn về mặt sinh hoạt và quyền sống của con
người mà xét, thì họ cịn khổ nhục hơn cả giai cấp công nhân
trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nhưng họ không lãnh đạo được
cách mạng, không thể nắm chính quyền, bởi vì họ khơng tiêu biểu
cho một phương thức sản xuất nào cả. Còn các tầng lớp vô sản
lưu manh, tầng lớp cặn bã của xã hội có thể bị lơi cuốn vào phong
trào cách mạng, "nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ
càng sẵn sàng hơn để bán mình cho phe phản động"3*<sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Chính vì lý do đó mà khơng phải tất cả các cuộc đấu tranh giai
cấp từ trước đến nay đều dẫn đến chính quyền thuộc về tay giai
cấp bị áp bức bóc lột. Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp nơng dân
và giai cấp phong kiến tuy có thúc đẩy sự phát triển của xã hội
phong kiến trong một chừng mực nhất định, nhưng về cơ bản, đó
chỉ là sự thay đổi các triều đại vua chúa, và đến khi phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã ra đời trong lịng chế độ phong kiến
rồi, thì cuộc đấu tranh giai cấp lại dẫn đến sự chuyển hoá xã hội
từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa.


Chỉ đến khi chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển thì đấu tranh giai
cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư bản mới tất yếu dẫn
đến chun chính vơ sản, bởi vì giai cấp cơng nhân khơng những
vì bị giai cấp tư sản áp bức bóc lột nặng nề cho nên quyết tâm
đánh đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, mà còn là đại diện cho một
phương thức sản xuất tiên tiến mà những tiền đề cơ bản đã nằm
trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là phương thức
sản xuất xã hội chủ nghĩa. Sự tất yếu đó do những nguyên nhân
kinh tế quyết định. Nếu chúng ta không hiểu đấu tranh giai cấp
gắn liền với sự tiến hoá của xã hội từ phương thức sản xuất này


sang phương thức sản xuất khác, thì chúng ta cũng khơng thể
hiểu nổi vai trị lịch sử của giai cấp cơng nhân.


Ăngghen nói: "Chủ nghĩa cộng sản là phản ánh của phong trào
công nhân". Nhận định đó có nghĩa rằng đánh đổ chủ nghĩa tư
bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến lên chủ nghĩa cộng sản là
sứ mệnh mà lịch sử đã giao phó cho giai cấp cơng nhân, rằng
trong xã hội lồi người, nếu khơng có sự ra đời của giai cấp cơng
nhân thì khơng thể có phong trào cách mạng vơ sản, và do đó,
cũng khơng có chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta
nói đây là chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác, Ăngghen, những
người thầy vĩ đại của chúng ta, sáng lập ra, chứ không phải là chủ
nghĩa xã hội khơng tưởng dựa trên lịng từ thiện hay là trên những
đạo đức tôn giáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

hội, nơng dân và trí thức khơng đại biểu cho một phương thức sản
xuất của một chế độ xã hội nhất định nào cả.


Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà Mác và Ăngghen nêu
ra trong <i>Tuyên ngơn của Đảng Cộng sản19</i> <sub>sau đó đã được Lênin</sub>


làm sáng tỏ thêm trong các luận điểm của Người về cách mạng vô
sản trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, là sự tất yếu của lịch sử. Hai
bản tuyên bố của hai cuộc Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và
công nhân tại Mátxcơva20<sub> năm 1957 và năm 1960 đã khẳng định</sub>
lại điều đó.


Từ khi chủ nghĩa Mác ra đời đến nay, nội dung đấu tranh giai cấp
của giai cấp cơng nhân trong lịch sử cũng có những bước phát
triển rõ rệt. Trong <i>Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, </i>Mác và


Ăngghen đã nêu ra khẩu hiệu <i>"Vô sản tất cả các nước đồn kết</i>
<i>lại!". </i>Khẩu hiệu đó xuất phát từ luận điểm của Mác cho rằng cách
mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi đồng thời trong các
nước, rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa là kết quả của cuộc đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trong
những nước tư bản chủ nghĩa phát triển mà ở đó mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã trở nên sâu sắc, và ở
đó sự phát triển của nền kinh tế đã làm cho sự xung đột giai cấp
diễn ra chủ yếu là giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Giai
cấp công nhân tất cả các nước phải đoàn kết lại để đánh đổ chế
độ tư bản chủ nghĩa làm cách mạng vô sản thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nổ ra ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cịn các nước có
nền kinh tế lạc hậu thì chưa thể làm cách mạng vô sản được.


Về sau này trong Đại hội lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Xơ,
đồng chí Xtalin đã kêu gọi <i>những người cộng sản hãy nắm lấy</i>


<i>ngọn cờ dân tộc, dân chủ mà tiến lên. </i>Đây không chỉ là một lời


hiệu triệu, mà còn là sự tổng kết về phong trào cách mạng thế
giới, chỉ rõ rằng giai cấp cơng nhân chỉ có thể làm cách mạng vô
sản thành công khi nào giai cấp đó nắm vững ngọn cờ dân tộc và
dân chủ.


Tại sao như vậy? Bởi vì cả thế giới là một thể thống nhất, nhưng
từng nước là một xã hội có sự phát triển riêng của nó. Hơn nữa, do
quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản mà cách
mạng vô sản phát triển cũng không đều. Cho nên tuy rằng giai
cấp công nhân là giai cấp có tính chất quốc tế, sứ mệnh lịch sử


của nó là làm cách mạng thế giới, nhưng cách mạng vô sản cho
đến nay chủ yếu vẫn diễn ra trong từng nước một. Muốn giành
thắng lợi cho cách mạng vô sản giai cấp công nhân ở mỗi nước
phải nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ thì mới
đồn kết được nhân dân trong từng nước vùng dậy đấu tranh.
Ngay trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản còn phát triển, Mác và
Ăngghen đã chỉ ra rằng: “... giai cấp vô sản mỗi nước trước hết
phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân
tộc, phải tự mình trở thành dân tộc hồn tồn khơng phải theo cái
nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”1*<sub>.</sub>


Trong lịch sử, vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc dính liền nhau.
Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản đang phát triển, giai cấp tư sản
cũng đại diện một phần nào cho dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

nhau, và do đó càng phải nêu cao vai trị lãnh đạo cách mạng của
giai cấp cơng nhân. Lịch sử xã hội loài người đã phát triển đến giai
đoạn mà giai cấp công nhân là người tiêu biểu cho thời đại, là
người đại diện chân chính cho dân tộc và dân chủ. Cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản trên toàn thế giới
ngày nay đang diễn ra dưới khẩu hiệu: <i>"Hồ bình, độc lập dân tộc,</i>
<i>dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.</i>


Phải đứng trên lập trường của giai cấp cơng nhân thì mới qn
triệt sâu sắc nội dung cách mạng triệt để của khẩu hiệu nói trên
và mới thấy rõ mối quan hệ hữu cơ của bốn mặt trong khẩu hiệu
ấy. Nếu tách rời từng mặt hoặc lấy mặt này đối lập với một khác
thì sẽ tước bỏ mất nội dung cách mạng của nó và do đó, làm yếu
phong trào cách mạng vơ sản.



Rõ ràng là sau khi cách mạng vô sản thế giới đã giành được thắng
lợi vĩ đại, phe xã hội chủ nghĩa hùng cường đã trở thành một hệ
thống thế giới, thì phong trào độc lập dân tộc đã nổi dậy như bão
táp. Nhưng cho đến nay, ở những nước gọi là dân tộc chủ nghĩa,
nền độc lập dân tộc còn đang ở trong bước quá độ. Trào lưu độc
lập dân tộc chỉ trở thành trào lưu thật sự cách mạng nếu nó gắn
liền với trào lưu xã hội chủ nghĩa và phát triển theo con đường
không tư bản chủ nghĩa. Nếu chỉ dừng lại ở "độc lập dân tộc" thì
cuối cùng những nước đó khơng tránh khỏi bị lệ thuộc vào đế
quốc này hay đế quốc khác, hoặc may mắn lắm thì cũng đi vào
con đường cải lương tư sản. Chỉ có phát triển theo con đường
không tư bản chủ nghĩa thì các nước dân tộc chủ nghĩa mới có thể
giành được độc lập hồn tồn và thật sự. Muốn thế thì điều kiện
tuyệt đối khơng thể thiếu được là xác lập sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân và chính quyền ở nước đó phải thật sự là dân tộc dân
chủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Sinh ra và lớn lên trong một nước thuộc địa và nửa phong kiến,
nếu so với giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển thì giai cấp cơng nhân nước ta còn trẻ và nhỏ bé. Mặc dù
vậy, giai cấp cơng nhân nước ta có một vai trị quyết định trong
cách mạng Việt Nam.


Giai cấp cơng nhân Việt Nam có đầy đủ những phẩm chất chung
của giai cấp công nhân quốc tế. Dưới chế độ thực dân, phong
kiến, giai cấp công nhân nước ta, cũng như giai cấp công nhân
quốc tế, là giai cấp kiên quyết cách mạng nhất, có ý thức tổ chức
và kỷ luật cao nhất, đồng thời nó cịn có những đặc điểm riêng do
q trình hình thành và phát triển của nó tạo nên.



Giai cấp cơng nhân ta trưởng thành trước giai cấp tư sản dân tộc.
Nó sinh ra và lớn lên khơng phải từ khi có thành phần kinh tế tư
bản chủ nghĩa của giai cấp tư sản dân tộc, mà ngay từ khi có sự
khai thác đầu tiên của tư bản nước ngoài trên đất nước ta.


Trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cơng đồn thường
hình thành trước khi có chính đảng cách mạng của giai cấp công
nhân, và ngay trong các tổ chức cơng đồn cịn có cơng đồn
vàng do giai cấp tư sản nắm và gieo rắc tư tưởng cải lương trong
hàng ngũ công nhân. Bọn tư bản độc quyền thường lấy một phần
lợi nhuận siêu ngạch ở thuộc địa để nặn ra, mua chuộc và nuôi
nấng một tầng lớp công nhân quý tộc. Bọn này đã trở thành tôi tớ
chuyên làm chính trị cho giai cấp tư sản trong các tầng lớp công
nhân để phá hoại phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Ở nước ta, ngay khi giai cấp cơng nhân vừa mới lớn lên, đã có
đảng cách mạng tiên phong của mình, Đảng tiên phong đã lập ra
cơng đồn để tổ chức và giáo dục, vận động cơng nhân, vì vậy
giai cấp cơng nhân nước ta khơng bị chia rẽ về chính trị và về tổ
chức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Giai cấp công nhân nước ta lại vừa mới xuất thân từ trong nơng
dân, cho nên có nhiều liên hệ rất khăng khít với nơng dân, hiểu rõ
những nguyện vọng của nơng dân lao động. Sự gắn bó giữa hai
giai cấp anh em đó là cơ sở để xây dựng khối liên minh công nông
vững chắc từ trong cách mạng dân tộc dân chủ cho đến ngày nay.
Nông dân lao động càng gắn chặt với giai cấp công nhân, càng
bảo đảm cho vai trò lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, vì rằng cuộc
đấu tranh để giành quyền lãnh đạo cách mạng giữa giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản trong nước ta chủ yếu là vấn đề tranh thủ
nông dân; giai cấp nào nắm được nông dân lao động, thoả mãn


được những yêu cầu, nguyện vọng của nơng dân lao động thì giai
cấp ấy sẽ nắm được quyền lãnh đạo cách mạng.


Những đặc điểm kể trên tạo nên sức mạnh của giai cấp công nhân
Việt Nam và cũng là những điều kiện đã làm cho nó giành được
địa vịưu thắng và giữ được độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt
Nam từ sau thất bại của cuộc bạo động Yên Bái do những người
tiểu tư sản có xu hướng tư sản lãnh đạo.


Hơn nữa, giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị
sau khi Cách mạng tháng Mười đã thành công rực rỡ, giai cấp
công nhân Nga đã trở thành người chủ của Nhà nước Xơ viết; ước
mơ hàng nghìn năm của các giai cấp cần lao đau khổ đã trở thành
sự thật. Một mặt khác, ở Trung Quốc, một nước láng giềng của ta,
giai cấp tư sản đã phản bội quyền lợi dân tộc; Đảng Cộng sản
Trung Quốc, đảng của giai cấp công nhân Trung Quốc đã nắm lấy
ngọn cờ dân tộc và dân chủ. Hồn cảnh lịch sử đó càng nâng cao
uy thế chính trị của giai cấp cơng nhân Việt Nam trước tồn thể
dân tộc Việt Nam.


Nói giai cấp cơng nhân lãnh đạo cách mạng Việt Nam có nghĩa là
đường lối cách mạng Việt Nam là đường lối chính trị của giai cấp
công nhân, chứ không phải của một giai cấp nào khác. Từ khi có
Đảng ta, giai cấp cơng nhân nước ta đã thực hiện quyền lãnh đạo
cách mạng thông qua đảng tiên phong của mình. Sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thông qua đảng tiên phong rõ ràng không phải
chỉ là về mặt tổ chức mà điều quyết định là <i>đường lối chính trị của</i>
<i>Đảng phải là đường lối cách mạng của giai cấp công nhân thể</i>


<i>hiện đúng lập trường và quan điểm của giai cấp công nhân. </i>Nếu



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Đảng ta, Đảng Cộng sản Đông Dương trước kia, Đảng Lao động
Việt Nam ngày nay, đã sớm tiếp thụ được chủ nghĩa Mác <i>- </i>Lênin
và vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta. Đảng ta
đã nhận rõ con đường của cách mạng Việt Nam phải qua hai giai
đoạn: giai đoạn thứ nhất là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân nhằm đánh đổ chủ nghĩa
đế quốc và chủ nghĩa phong kiến câu kết với nhau, đó là hai kẻ
thù, hai thế lực phản động chủ yếu ngăn trở sự tiến hoá của xã
hội Việt Nam; sau khi cơ bản hồn thành nhiệm vụ đó, cách mạng
sẽ chuyển sang giai đoạn thứ hai là tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa, một cuộc cách mạng triệt để nhất, sâu sắc nhất để giải
phóng hồn tồn người lao động, xố bỏ áp bức bóc lột giai cấp,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến lên xây dựng chủ nghĩa cộng
sản.


Từ khi mới ra đời, Đảng ta đã kiên quyết giương cao ngọn cờ
chống đế quốc, đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề
dân chủ ở một nước thuộc địa.


Đảng ta đã nhận rõ các vấn đề giai cấp, dân tộc, dân chủ không
thể tách rời nhau được. Trong một nước thuộc địa mà đại bộ phận
dân cư lao động là nông dân thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn
đề nơng dân, mà nội dung cơ bản của vấn đề nông dân là vấn đề
ruộng đất. Không giải quyết vấn đề ruộng đất thì khơng thể lơi
cuốn nơng dân lao động hăng hái đứng lên chống đế quốc, giành
độc lập dân tộc. Vì thế, <i>dân tộc độc lập, người cày có ruộng, </i>là hai
khẩu hiệu khăng khít với nhau, là nội dung cơ bản của cách mạng
dân tộc dân chủ.



Vấn đề cách mạng dân tộc dân chủ không chỉ là vấn đề ruộng đất
cho dân cày mà trước hết là vấn đề sống còn của cả dân tộc trước
ách thống trị tàn bạo của đế quốc, một vấn đề chết sống quan hệ
đến mọi người trong dân tộc, do đó Đảng ta để xướng mặt trận
dân tộc thống nhất để đoàn kết tồn dân chống đế quốc. Chỉ có
sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân mới có khả năng tập hợp được
nông dân lao động, thực hiện khối liên minh công nông làm lực
lượng chủ lực cho cuộc cách mạng phản đế, phản phong, và làm
cơ sở cho mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

văn hoá dân tộc khơng có con đường nào khác ngồi con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội sau khi giành được độc lập; chỉ có đưa
nước nhà tiến lên chủ nghĩa xã hội, mới bảo đảm vững chắc cho
một nền độc lập thật sự và hồn tồn. Và chỉ có sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân mới bảo đảm cho kinh tế và văn hố dân tộc
có tiền đồ phát triển rực rỡ đó.


Thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ hơn 37 năm nay đã chứng
minh đường lối của Đảng ta là đúng đắn. Đường lối ấy là đường lối
chính trị của giai cấp cơng nhân, giai cấp duy nhất có khả năng
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mà Đảng ta là bộ tham mưu, là trí
tuệ, là đội tiên phong. Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng
đắn chủ yếu là vì Đảng ta dựa trên lập trường, quan điểm của giai
cấp công nhân, trung thành với chủ nghĩa Mác <i>- </i>Lênin là học
thuyết đấu tranh giai cấp và xây dựng chủ nghĩa xã hội của giai
cấp công nhân. Đường lối ấy phản ánh quy luật phát triển khách
quan của xã hội Việt Nam.


Trong cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta, giai cấp công chân
chẳng những là giai cấp lãnh đạo mà còn cùng với nông dân lao


động, hợp thành đội quân chủ lực của cách mạng Việt Nam.


Trước khi có Đảng ta, phong trào đấu tranh của công nhân đã
bùng lên ở các hầm mỏ, nhà máy, đồn điền của thực dân Pháp.
Sau khi Đảng thành lập, phong trào đó càng đi vào có tổ chức và
phát triển ngày một sâu rộng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Cách mạng tháng Tám đến thành công một cách nhanh chóng
trong cả nước. Cách mạng tháng Tám chính là một cuộc khởi
nghĩa kết hợp phong trào công nhân ở thành thị với phong trào
nông dân ở nông thơn, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng
cơng nông với lực lượng vũ trang.


Cách mạng miền Nam dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải
phóng đã bắt đầu bằng khởi nghĩa từng phần ở nông thôn với lực
lượng chính trị của quần chúng nơng dân lao động là chủ yếu, tiến
lên đấu tranh chính trị và quân sự song song, đánh địch ở cả ba
vùng chiến lược rừng núi, nơng thơn, đồng bằng và thành thị. Đó
là sự vận dụng và phát triển những kinh nghiệm cách mạng Việt
Nam. Thắng lợi của cách mạng miền Nam từ năm 1960 đến nay
một lần nữa chứng tỏ rằng công nhân và nông dân lao động là
quân chủ lực của cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta.


Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đương nhiên giai cấp công nhân nước ta là giai
cấp lãnh đạo, đồng thời nó đang giữ vai trò một đội quân chủ lực
của cách mạng.


Lênin nói: Ngồi đại cơng nghiệp ra, người ta khơng thể có cách
nào khác để xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Chỉ có một nền đại


cơng nghiệp lớn mạnh thì mới có điều kiện cải tạo hồn tồn các
thành phần kinh tế khác, nhất là cải tạo nông nghiệp theo chủ
nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân là đội quân chủ lực trực tiếp xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền
tảng của nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa, và là người đóng
vai trị chủ đạo trong việc quản lý nền kinh tế ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

lao động thì họ càng vùng lên mạnh mẽ, sát cánh cùng giai cấp
công nhân kiên quyết đấu tranh đánh đổ đế quốc và phong kiến<i>.</i>


Nông dân lao động Việt Nam là lực lượng cách mạng rất đông đảo,
là một lực lượng hợp thành đội quân chủ lực của cách mạng dân
tộc dân chủ ở Việt Nam, nhưng họ không lãnh đạo được cuộc cách
mạng ấy. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ngày nay cũng vậy, giai cấp nông dân khơng thể giữ
vai trị lãnh đạo cách mạng, vì gắn liền với nền kinh tế tiểu nông
cá thể, nông dân lao động với vị trí kinh tế của mình, chỉ có thể đi
lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Trong lịch sử nông dân chưa bao giờ có thể dựng nên một chế độ
xã hội do chính mình làm đại biểu; ngay trong thời kỳ phong kiến,
nền kinh tế tự nhiên chủ yếu là kinh tế của nông dân, nhưng quan
hệ xã hội vẫn chủ yếu là quan hệ phong kiến. Ở nước ta, ngay
như Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải xuất thân từ nông dân,
sau khi khởi nghĩa thành công cũng xưng vua và duy trì chế độ
phong kiến.


Tuy nhiên, cần khẳng định rằng nông dân lao động nước ta là một
động lực quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bởi vì nơng dân lao động nước ta có tinh thần cách mạng rất cao,
đã đi theo giai cấp cơng nhân làm cách mạng dân tộc dân chủ


trong ngót 25 năm, khi chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa,
nông dân lao động đã hăng hái tự nguyện đi vào con đường hợp
tác hoá xã hội chủ nghĩa, coi đó là con đường giải phóng họ khỏi
mọi bất cơng xã hội và là con đường thoát khỏi nghèo nàn và đau
khổ. Hơn nữa, xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu tiến lên
chủ nghĩa xã hội, chúng ta khơng có con đường nào khác là phải
bắt đầu tiến hành hợp tác hố nơng nghiệp và phát triển nơng
nghiệp tồn diện làm cơ sở để phát triển cơng nghiệp, lấy cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa làm địn bẩy để cải tạo và đưa toàn
bộ nền kinh tế quốc dân tiến lên.


Chỉ khi nào hồn thành cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa thì nước
ta mới có cơng nghiệp hiện đại, nơng nghiệp hiện đại, văn hố,
khoa học tiên tiến, xã hội ta mới tiến lên xoá bỏ được giai cấp,
thoả mãn được nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi người và đi
vào một cuộc sống văn minh đầy đủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×