Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

hồ sơ hành chính 07 bản luận cứ bảo vệ người bị kiện + kịch bản diễn án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.48 KB, 11 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHÓA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Mơn học: Hành chính cơ bản
Hồ sơ : LS.HC.07

Họ và tên:
Ngày sinh:
Lớp:
Khóa:
Số báo danh:

Thành phố Hồ Chí Minh ngày tháng năm 2021


BẢN LUẬN CỨ
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI BỊ KIỆN
LÀ CHỦ TỊCH UBND THÀNH PHỐ A
Trong vụ án:
“Khiếu kiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC ngày
27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành phố A theo Thông báo thụ lý vụ án số
08/2018/TLST-HC ngày 06/4/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố A, tỉnh B”
Kính thưa:

- Hội đồng xét xử;
- Đại diện Viện kiểm sát;
- Quý Luật sư đồng nghiệp

Tôi là Luật sư X thuộc Cơng ty Luật TNHH A, Đồn Luật sư tỉnh B.
Tơi tham gia phiên tịa ngày hơm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi


ích hợp pháp cho khách hàng của tôi là Chủ tịch UBND Thành Phố A - cũng là người
bị kiện trong vụ án hành chính này.
Trước hết cho phép tơi xin thay mặt người bị kiện và nhân danh cá nhân xin
gửi đến Hội đồng xét xử, Đại diện Viện kiểm sát và các luật sư đồng nghiệp lời chào
trân trọng và bày tỏ sự tin tưởng về việc xét xử công minh của quý Hội đồng xét xử.
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Ngày 21/03/2018, bà Hoàng Thị Nhân là chủ cơ sở mộc gia dụng Thái Sơn có
địa chỉ tại Lơ 18 khóm Tân An, phường Tân Hội, Tp A có đơn khởi kiện đến Tòa án
nhân dân TP A đề nghị tuyên hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐXPHC ngày 27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành phố A vì cho rằng Quyết định này
là trái quy định pháp luật và xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bà Nhân.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, và nghe phần trình bày của phía luật sư người
khởi kiện, tôi không đồng ý với các quan điểm mà luật sư người khởi kiện đưa ra và
không đồng ý với các yêu cầu của người khởi kiện đồng thời khẳng định Quyết định

1


xử phạt số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành Phố B là phù
hợp với quy định của pháp luật.
Trước hết, tơi xin nêu ý kiến của mình về thẩm quyền xét xử vụ án, người bị
kiện trong vụ án này là Chủ tịch UBND TP A. theo khoản 1 điều 31 và khoản 4 điều
32 Luật TTHC 2015 thì thẩm quyền thụ lý vụ án này thuộc thẩm quyền của Tịa án
nhân dân Tỉnh B, chứ khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP A.
Do đó, tơi kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại.
Sau đây tôi xin nêu một số quan điểm để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ tôi –
Chủ tịch UBND Thành Phố B, như sau:
1. Về thẩm quyền ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐXPHC ngày 27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành Phố B.
Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 38 Luật xử lý VPHC năm 2012:
“Điều 38. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân


2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có quyền:

b) Phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định
tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 50.000.000 đồng;
…”
Và theo Điều 24 của Luật này có quy định về mức phạt tiền tối đa trong lĩnh
vực môi trường là 30,000,000 đồng.
Thực tế quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC ngày
27/01/2018 do Phó chủ tịch UBND TPA ký thay Chủ tịch UBND TPA có tổng
mức phạt là 14.500.000 đồng với mức phạt này thì việc ra quyết định xử phạt
hành chính của chủ tịch UBND thành phố A là hoàn toàn đúng thẩm quyền.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật XLVPHC 2012, người có
thẩm quyền xử phạt VPHC có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt.

2


“Điều 54. Giao quyền xử phạt
1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 38; …
của Luật này có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính.…”
Bởi các căn cứ trên, chúng tôi khẳng định quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 44/QĐ-XPHC được ban hành đúng thẩm quyền theo quy định pháp
luật.
2. Về Trình tự thủ tục ban hành quyết định xử phạt số 44/QĐ-XPHC:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật XP VPHC 2012 “1. Xử phạt vi phạm
hành chính có lập biên bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính khơng thuộc trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản
1 Điều 56 của Luật này.” Trường hợp vi phạm của Cơ sở mộc Thái Sơn thuộc trường
hợp phải lập biên bản vi phạm hành chính, theo đó vào ngày 14/01/2018 Đội quản lý

trật tự đô thị đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với cơ sở mộc Thái
Sơn.
2.1 Thủ tục lập Biên bản vi phạm hành chính
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật XLVPHC 2012 quy định: “Trường
hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật,
nghiệp vụ thì việc lập biên bản vi phạm hành chính được tiến hành ngay khi xác định
được tổ chức, cá nhân vi phạm.”
Tiếp theo, Biên bản VPHC được lập theo đúng quy định tại Khoản 2 Điều 58
Luật XL VPHC 2012 “…2. Biên bản vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng,
năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ,
nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày,
tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; biện pháp ngăn chặn vi phạm
hành chính và bảo đảm việc xử lý; tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ; lời
khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến,
người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời
khai của họ; quyền và thời hạn giải trình về vi phạm hành chính của người vi phạm

3


hoặc đại diện của tổ chức vi phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình….” Và mẫu biên bản
số 01 quy định tại Nghị định 81/2013/NĐ-CP về hướng dẫn và biện pháp thi hành
Luật XL VPHC.
Về thẩm quyền lập biên bản VPHC, căn cứ để Đội quản lý trật tự đô thị tiến
hành lập biên bản vi phạm hành chính này là tại thông báo của Đội quản lý trật tự đơ
thị (bút lục 48) có đề cập “Thực hiện theo chỉ đạo của UBND Thành Phố A theo nội
dung công văn số 364/UBND-KT ngày 30/11/2017 văn số 364/UBND-KT ngày
30/11/2017 v/v xử phạt vi phạm HC đối với cơ sở mộc bà Hồng Thị Nhân, khóm Tân
an, phường Tân Hội, thành phố A và kết quả phân tích ngày 15/11/2017 của Trung
tâm quan trắc và Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh B” theo đó, Đội Quản lý

Trật tự đơ thị đã phân công ông Trần Văn Tuất (cán bộ kiểm tra) phối hợp với phường
Tân Hội tiến hành lập biên bản VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với hành
vi vi phạm của bà Hoàng Thị Nhân. Do vậy, biên bản VPHC này được lập đúng thẩm
quyền.
Trên cơ sở kết luận của Phòng TNMT TP.A tại Báo cáo số 23/BC-TNMT ngày
26/11/2016 về kết quả kiểm tra cơ sở mộc Hồng Thị Nhân (bút lục 45) có hành vi vi
phạm của cơ sở mộc Thái Sơn. Ngày 30/11/2017, UBND đã chỉ đạo Đội quản lý trật tự
đô thị TP.A lập biên bản vi phạm hành chính đối với cơ sở mộc Thái Sơn (theo nội dung
Thông báo phân công cán bộ số 24/TB-QLTTĐT (bút lục 48). Tại Thông báo này, biên
bản VPHC của Đội quản lý trật tự đơ thị lập dựa vào kết quả phân tích ngày 15/11/2017
của Trung Tâm quan trắc và kỹ thuật TN và MT tỉnh B. Theo đó, kết quả phân tích này
thực hiện trên mẫu khơng khí được lấy tại ngày kiểm tra ngày 11/11/2017 của đoàn
kiểm tra theo quyết định số 16/QĐ.UBND ngày 8/11/2016 của UBND thành phố về
việc kiểm tra cơ sở mộc gia dụng và cửa sắt của bà Hoàng Thị Nhân (bút lục 43).
Đến ngày 02/01/2018, Đội quản lý TTĐT phân công cán bộ lập biên bản vi
phạm đối với cơ sở mộc của bà Nhân, sau đó, Đội quản lý TTĐT đã lập Biên bản vi
phạm hành chính ngày 14/01/2018 đúng quy định pháp luật, theo sự phân công, chỉ
đạo của UBND TP.A.
Về vấn đề bà Nhân nói biên bản VPHC này bà khơng có ký tên nên khơng có
giá trị pháp lý là khơng đúng.

4


Căn cứ theo Khoản 2 Điều 58 Luật XL VPHC có quy định: “…Trường hợp
người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm khơng có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình
trốn tránh hoặc vì lý do khách quan mà khơng ký vào biên bản thì biên bản phải có
chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng
kiến.”
Và theo quy định tại Khoản 3 Điều 58 Luật XLVPHC “3. Biên bản vi phạm

hành chính phải được lập thành ít nhất 02 bản, phải được người lập biên bản và
người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký; trường hợp người vi phạm khơng ký
được thì điểm chỉ; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức
bị thiệt hại thì họ cùng phải ký vào biên bản; trường hợp biên bản gồm nhiều tờ, thì
những người được quy định tại khoản này phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người vi
phạm, đại diện tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ
chức bị thiệt hại từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản.”
theo quy định này, trường hợp người đại diện tổ chức vi phạm từ chối ký tên thì người
lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản và ngay tại biên bản VPHC của Đội quản
lý trật tự đô thị, người lập biên bản đã có ghi rõ chỗ ký của bà Hồng Thị Nhân là “có
đọc lại biên bản cho đương sự nghe rõ nhưng không đồng ý ký tên”.
Do vậy, biên bản VPHC vẫn có giá trị pháp lý theo quy định mặc dù người đại
diện cơ sở là bà Hoàng Thị Nhân không ký vào biên bản.
Từ các căn cứ trên cho thấy, biên bản VPHC của Đội quản lý trật tự đô thị
là hợp pháp theo quy định của pháp luật.
2.2 Thời hạn ra quyết định xử phạt
Vụ việc vi phạm của cơ sở mộc Thái Sơn có nhiều tình tiết phức tạp, cần thời
gian để thụ lý, xác minh do liên tục có nhiều đơn phản ánh, kiến nghị của tập thể các
hộ dân cư trú xung quanh và Phịng cảnh sát mơi trường Cơng an tỉnh B chuyển đơn
của nhiều hộ dân đến UBND TP.A để phản ánh cơ sở của bà Nhân gây ô nhiễm môi
trường, làm phát sinh tiếng ồn, thải khí bụi, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của họ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật XLVPHC 2012, thời hạn ra quyết định
xử phạt đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp là tối đa 30 ngày kể từ ngày vi

5


phạm. Đội quản lý TTĐT lập BBVPHC ngày 14/01/2018, đến ngày 27/01/2018,
UBND TP.A ra QĐ xử phạt số 44/QĐ-XPHC là đúng thời hạn theo quy định pháp
luật.

Do vậy, căn cứ vào biên bản VPHC trên và được sự giao quyền từ Chủ tịch
UBND, Phó chủ tịch UBND thành phố B ra quyết xử phạt số 44/QĐ-XPHC ngày
27/01/2018 về xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ mơi trường đối với Cơ sở mộc của
Bà Hoàng Thị Nhân là đúng với trình tự thủ tục luật định.
3. Về nội dung quyết định xử phạt số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 Chủ tịch
UBND Thành phố A xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ mơi trường:
Căn cứ để ra hình thức và mức xử phạt đối với cơ sở mộc của Hoàng Thị Nhân là
dựa vào biên bản VPHC của Đội Quản lý trật tự đô thị trên cơ sở biên bản kiểm tra ngày
11/11/2017 và kết quả phân tích mẫu ngày 15/11/2017, xác định cơ sở mộc của bà
Hoàng Thị Nhân có hành vi vi phạm về bảo vệ mơi trường và bị phạt tiền 14,500,000
VNĐ.
Chủ tịch UBND TP.A xử phạt vi phạm hành chính bà Hồng Thị Nhân đối với
các hành vi sau đây:
3.1 Hành vi “không thực hiện nội dung trong bản cam kết bảo vệ mơi trường”
Bà Hồng Thị Nhân đã đăng ký và cam kết thực hiện đề án bảo vệ mơi trường
được Phịng TN-MT thuộc UBND TP.A xác nhận theo Giấy xác nhận đăng ký đề án bảo
vệ mơi trường số 15/GXN-TNMT ngày 01/2/2017. Trong đó, có nội dung cam kết đáp
ứng quy chuẩn quốc gia về mơi trường đối với khí thải, chất thải, tiếng ồn, độ rung…
Tuy nhiên, theo Biên bản kiểm tra cơ sở mộc Thái Sơn ngày 11/11/2017 (BL 4041), Đoàn kiểm tra ghi nhận cơ sở mộc của bà Hoàng Thị Nhân không thực hiện đầy đủ
trong Giấy xác nhận đăng ký đề án bảo vệ môi trường số 15/GXN-TNMT ngày
01/2/2017, cụ thể là:
+ Khơng thực hiện chương trình giám sát mơi trường và định kỳ lập báo cáo gửi
Phịng TN-MT theo cam kết;
+ Khơng trang bị thiết bị phịng cháy, chữa cháy;

6


+ Không lập bảng nội quy cơ sở.
Tại Biên bản kiểm tra nên trên, bà Hoàng Thị Nhân thống nhất với nội dung

kiểm tra và khơng có ý kiến phản đối hoặc giải trình đối với hành vi khơng thực hiện
nội dung cam kết BVMT.
Vì vậy, UBND TP.A xử phạt bà Hồng Thị Nhân đối với hành vi Khơng thực
hiện nội dung trong bản cam kết bảo vệ môi trường theo quy định tại điểm a khoản 2
Điều 8 Nghị định 155 với mức phạt tiền 4.000.000 đồng là đúng quy định pháp luật, cụ
thể:
“2. Hành vi vi phạm quy định về thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường thuộc
thẩm quyền xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp huyện và không thuộc trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều này bị xử phạt như sau:
a) Phạt tiền 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện không
đúng một trong các nội dung kế hoạch bảo vệ mơi trường đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác nhận…”
2.2. Hành vi gây tiếng ồn, thải bụi vượt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về tiếng
ồn, chất thải.
Ngày 11/11/2017 (ngày tiến hành kiểm tra cơ sở mộc Thái Sơn), Phòng TNMT
TP.A yêu cầu Trung tâm quan trắc và kỹ thuật tài nguyên môi trường B lấy mẫu xác
định chỉ tiêu bụi và tiếng ồn tại cơ sở mộc Thái Sơn. Căn cứ Biên bản thu mẫy ngày
11/11/2017 và Kết quả phân tích ngày 15/11/2017, Phịng TNMT TP.A đã lập Báo cáo
số 23/BC-TNMT ngày 26/11/2017 khẳng định cơ sở mộc Thái Sơn gây tiếng ồn vượt
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn, trong đó, độ ồn cho phép trong khu dân cư
xen kẽ khu vực TM, DV, SX từ 6h-18h là: 75dBA nhưng tiếng ồn do cơ sở mộc gây ra
tối đa là 76-90 dBA là vượt quá so với tiêu chuẩn, quy chuẩn về tiếng ồn.
Hành vi nêu trên của cơ sở mộc Thái Sơn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 17
Nghị định 155 với mức phạt là từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Vì vậy, UBND
TP.A xử phạt cơ sở mộc của bà Nhân với mức phạt 3.000.000 đồng là hợp lý và đúng
quy định pháp luật.

7



Cũng theo Báo cáo số 23/BC-TNMT ngày 26/11/2017 của Phòng TNMT TP.A,
cơ sở mộc của bà Nhân thải khí bụi vượt quá 1,2 lần so với quy chuẩn về chất thải bụi.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 15 Nghị định 155 (thải bụi vượt quy chuẩn từ
1,1 đến dưới 1,5 lần) thì mức phạt đối với hành vi này là từ 5.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng => việc UBND TP.A xử phạt cơ sở của bà Nhân với mức phạt tiền là
7.500.000 đồng là phù hợp, đúng quy định pháp luật.
Quy trình lấy mẫu phân tích: mẫu được lấy tại cơ sở mộc do đại diện của trung
tâm quan trắc và kỹ thuật tài nguyên môi trường tỉnh B tiến hành lấy và có biên bản thu
mẫu theo đúng quy trình quy định tại Khoản 7, 8, 9 Điều 44 Thông tư 24/2017/TTBTNMT ngày 1/9/2017 về quy định kỹ thuật quan trắc môi trường. Đồng thời, kết quả
phân tích mẫu ngày 15/11/2017 được thực hiện bởi Trung tâm quan trắc và kỹ thuật Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B – Trung tâm đáp ứng đủ điều kiện thành lập và hoạt động
theo quy định tại NĐ 127/2014/NĐ-CP quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch
vụ quan trắc mơi trường. Vì vậy, kết quả phân tích của Trung tâm là có giá trị pháp lý.
Về việc bà Hồng Thị Nhân u cầu Tịa án tiến hành trưng cầu giám định hai
kết quả phân tích lấy mẫu ngày 11/11/2017 của phân của Trung tâm quan trắc và kỹ
thuật Tài nguyên Môi trường và báo cáo kết quả phân tích ngày 20/5/2018 do Trung tâm
ứng dụng Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh B, chúng tơi có ý
kiến như sau: bà Hồng Thị Nhân có yêu cầu Trung tâm ứng dụng khoa học và cơng
nghệ tiến hành lấy mẫu, phân tích mẫu tại cơ sở mộc của bà là đúng vì đó là quyền của
bà. Tuy nhiên, việc bà đem kết quả phân tích ngày 20/5/2018 trên cơ sở lấy mẫu ngày
13/5/2018 để so sánh, đánh giá tính hợp pháp của kết quả phân tích của phía Ủy ban
ngày 15/11/2017 trên cơ sở lấy mẫu ngày 11/11/2017 là không phù hợp. Bởi lẽ vì, thời
gian lấy mẫu của hai Trung tâm được thực hiện cách xa nhau khoảng gần 6 tháng
(11/11/2017 và 13/5/2018), với khoảng thời gian như vậy đã đủ cơ sở của bà Nhân khắc
phục được các vi phạm trước đó. Do vậy, việc đem kết quả phân tích của phía Bà Hoàng
Thị Nhân sau này để so sánh với kết quả của phía Ủy ban thực hiện trước đó khoảng 6
tháng là không phù hợp.
Từ những căn cứ nêu trên, việc ban hành Quyết định xử phạt VPHC số 44
của UBND TP.A là hợp pháp về thẩm quyền, thủ tục và nội dung.


8


Tại Biên bản lấy lời khai người khởi kiện, bà Nhân cho rằng ngày kiểm tra cơ
sở mộc (11/11/2017) bà không được biết con số độ bụi, độ ồn trong Biên bản kiểm tra
ngày 11/11/2017. Tuy nhiên, ngay trong ngày 11/11/2017, khi cơ quan tiến hành lấy
mẫu khơng khí, đo tiếng ồn để phân tích thì bà Nhân có chứng kiến và ký tên vào Biên
bản thu mẫu (BL 42). Đến ngày 15/11/2017 thì cơ quan phân tích mẫu mới lập kết quả
phân tích và gửi cho Phịng TNMT TP.A để báo cáo cho UBND TP.A.
Mặt khác, bà Hoàng Thị Nhân cho rằng theo Biên bản ngày 11/11/2017 có ghi
cho bà 15 ngày để khắc phục thiếu sót đã ghi trong biên bản nên mới đồng ý ký tên
vào biên bản. Tuy nhiên, đối chiếu Biên bản kiểm tra ngày 11/11/2017 thì thời hạn mà
bà Nhân đề cập là thời hạn đoàn kiểm tra yêu cầu bà thực hiện các quy định về pháp
luật lao động, xây dựng vách riêng, làm thủ tục đăng ký phòng cháy chữa cháy, còn
vấn đề liên quan đến vi phạm trong lĩnh vực BVMT thì bà Nhân đã thống nhất với nội
dung kiểm tra và khơng có ý kiến phản đối nào.
Tơi cho rằng hành vi vi phạm của bà Nhân trong lĩnh vực BVMT là rõ ràng,
tồn tại trong thời gian dài, mặc dù đã nhiều lần yêu cầu khắc phục nhưng cơ sở của bà
Nhân vẫn không thực hiện, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, gây bức xúc, cản trở
cuộc sống bình thường của tập thể người dân sống xung quanh, khiến họ phải liên tục
gửi đơn phản ánh, khiếu nại đến các cấp chính quyền. Vì vậy, việc xử phạt đối với bà
Nhân ngồi mục đích răn đe chấp hành pháp luật cịn nhằm mục đích lâu dài hơn đó là
hạn chế tác động xấu đến môi trường và sức khỏe của đa số người dân.
Nay tôi đề nghị Hội đồng xét xử TAND tỉnh B áp dụng quy định điểm a,
khoản 2 Điều 192 Luật TTHC 2015 tuyên bác yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng
Thị Nhân đối với QĐ XPVPHC số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 của UBND
TP.A và yêu cầu Bà Hoàng Thị Nhân chấp hành Quyết định xử phạt này.

KỊCH BẢN CHI TIẾT THỦ TỤC TRANH LUẬN–
HỒ SƠ HC 07

-

TP: Nếu khơng ai có u cầu hỏi gì thêm, tôi tuyên bố kết thúc phần thủ tục hỏi,
chuyển qua thủ tục tranh luận
Tranh luận

9


-

-

TP: Đề nghị phía luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NKK phát biểu
quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NKK.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NKK đứng lên trình bày bản luận
cứ:…
LS NKK: Thưa HĐXX, tơi đã trình bày xong
TP: Mời LS ngồi. Mời NKK bà Nhân có bổ sung ý kiến tranh luận đối với phần
trình bày của luật sư hay khơng?
Bà Nhân đứng lên: Thưa HĐXX…
TP: Mời bà ngồi xuống
TP: Đề nghị luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBK phát biểu quan
điểm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của NBK
Ơng Năm đứng lên trình bày bản luận cứ:…
Ơng Năm: Thưa HĐXX, tơi đã trình bày xong.
TP: Mời LS ngồi xuống. Mời Đại diện NBK ơng Năm có bổ sung ý kiến tranh
luận đối với phần trình bày của luật sư hay không
TP: Đề nghị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NKK có ý kiến
tranh luận với quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

NBK
LS NKK trình bày ý kiến đối đáp:…
LS NKK: Tơi đã trình bày xong.
TP: Mời LS ngồi xuống. Đề nghị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NBK có ý kiến tranh luận với quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NKK.
LS NBK trình bày ý kiến đối đáp:… Tơi đã trình bày xong.
TP: Mời LS ngồi xuống.

-

TP: Mời Bà Nhân đứng lên. Bà có ý kiến đối đáp gì thêm khơng.
Bà Nhân: Tơi khơng có ý kiến gì thêm (hoặc có thì trình bày).
TP: Mời bà ngồi xuống
TP: Mời Ông Năm đứng lên. Ơng có ý kiến đối đáp gì thêm khơng.
Bà Nhân: Tơi khơng có ý kiến gì thêm (hoặc có thì trình bày).
TP: Mời Ơng ngồi xuống.
TP: Nếu khơng ai có ý kiến tranh luận gì thêm, xin mời đại diện VKS phát biểu
hướng xử lý vụ án.
- ĐDVKS đứng lên trình bày bài phát biểu:…
- TP: Thay mặt HĐXX tơi tuyên bố kết thúc phần tranh luận, HĐXX vào nghị án.
- TK: Mời mọi người đứng đậy
(Mọi người đều đứng dậy, HĐXX vào phòng nghị án)

10



×