Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Những giải pháp chủ yếu kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.15 KB, 11 trang )

Những giải pháp chủ yếu kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với quốc phòng,
an ninh và hoạt động đối ngoại trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng
hiện nay
MỞ ĐẦU
- Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Kết hợp chặt chẽ các lĩnh vực kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh và
hoạt động đối ngoại là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng là
đòi hỏi khách quan xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng đã xác định “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phịng, an
ninh và quốc phịng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa,
biên giới, biển, đảo”1
Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm này của Đảng là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, các địa phương; trong đó Qn đội ta
giữ vai trị hết sức quan trọng. Nhận thức được vấn đề này có ý nghĩa hết sức to
lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn đối việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
của Quân đội ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn nội dung tiểu luận “Những giải pháp
chủ yếu kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh và hoạt
động đối ngoại trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay”.
- Giới hạn của tiểu luận (đối tượng, không gian, thời gian)
+ Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu lý luận, thực tiễn kết hợp
phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và hoạt
động đối ngoại ở nước ta trong những năm qua.
- Giới hạn không gian: Nghiên cứu sự kết hợp phát triển kinh tế, xã hội
với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại ở nước ta
- Giới hạn thời gian: Tiểu luận tập trung nghiên cứu kết hợp phát triển
kinh tế, xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và hoạt động đối
ngoại ở nước ta từ khi có Đảng.


- Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu và tổng hợp tài liệu, phương pháp trình
bày logic - lịch sử, phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia...
- Giá trị, ý nghĩa của tiểu luận
Về mặt lý luận: Tiểu luận hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận và
thực tiễn kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại.
Phân tích, đánh giá thực trạng và những vấn đề đang đặt ra đối với việc kết hợp
kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại ở nước ta. Làm
cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, biện pháp kết hợp kinh tế, xã hội với
quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại trong thời gian tới.
1 Văn kiện tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng TƯ Đảng , Hà Nội, 2016, tr.149

1


Về mặt thực tiễn: Đề xuất một số giải pháp nhằm kết hợp kinh tế, xã hội
với quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại ở nước ta trong thời gian tới.
- Cấu trúc tiểu luận:
Gồm: phần Mở đầu, 2 tiểu tiết, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
NỘI DUNG.
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KẾT HỢP PHÁT
TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI VỚI QUỐC PHÒNG, AN NINH VÀ HOẠT ĐỘNG
ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM

1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự kết hợp phát triển kinh tế, xã
hội với quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại
1.1.1. Một số vấn đề chung về kết hợp phát triển kinh tế xã hội với
quốc phòng an ninh và hoạt động đối ngoại
Hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản, thường xuyên, gắn liền với sự tồn

tại của xã hội loài người. Đó là tồn bộ q trình hoạt động sản xuất và tái sản
xuất ra của cải vật chất cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.
Quốc phịng: là “ Cơng cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của tồn
dân tộc, trong đó sức mạnh qn sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân là
nịng cốt”.2
An ninh: là trạng thái ổn định, an tồn, khơng có dấu hiệu nguy hiểm đe
dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, tổ chức, của từng lĩnh vực
hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội.
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh là hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và Nhân dân (dưới sự lãnh
đạo của Đảng) trong việc gắn kết chặt chẽ hoạt động phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh trong một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng
như ở từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức
mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định, để thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, chúng ta phải kết hợp phát triển
kinh tế, xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong một chính thể
thống nhất. Trên cơ sở các bài học kinh nghiệm từ công cuộc đổi mới đất nước
sau hơn 30 năm qua và từ sự phân tích, đánh giá đúng tình hình trong nước, khu
vực và thế giới thời gian tới, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ
giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại”3, đáp ứng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là quan điểm cơ bản, thể hiện sâu sắc sự phát
triển tư duy lý luận của Đảng ta về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nhất là tầm
quan trọng của sự kết hợp các lĩnh vực đó trong việc tạo sức mạnh tổng hợp để
phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Quan điểm này không
chỉ là sự kế thừa kinh nghiệm trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà
còn là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta.
2 Điều 3, Luật QP 2005.
3 ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149


2


1.1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự kết hợp phát triển kinh tế, xã
hội với quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại
Xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa
kinh tế, chiến tranh và quốc phòng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Kinh tế, quốc phòng, an ninh là
những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc độc lập có chủ quyền.
Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng và chịu sự chi phối của hệ
thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến quốc phòng,
an ninh; ngược lại, quốc phịng, an ninh cũng có tác động trở lại đối với kinh tế.
Như vậy, giữa kinh tế, chính trị, quân sự, quốc phịng, an ninh và đối
ngoại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, gắn bó hữu cơ với nhau,
trong đó, kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Phát triển kinh tế nhằm tạo
ra của cải cho xã hội, tạo tiền đề vật chất kỹ thuật để tăng cường sức mạnh quốc
phòng - an ninh. Nhiệm vụ chủ yếu của quốc phòng - an ninh là bảo vệ chủ
quyền, giữ gìn an ninh đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính
quyền và chế độ xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội
và hoạt động đối ngoại.
Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phịng, an
ninh. Lợi ích kinh tế, suy cho đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu
thuẫn và xung đột xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc
phịng, an ninh.
Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn
nhân lực, vật lực cho quốc phòng, an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên
chế của lực lượng vũ trang; quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng an ninh. Để xây dựng chiến lược quốc phòng, an ninh quốc gia của mỗi nước,
phải căn cứ vào nhiều yếu tố, trong đó tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang

và vào trang bị binh khí kĩ thuật hiện có là căn cứ đặc biệt quan trọng. Những
yếu tố này đều phụ thuộc vào nền kinh tế. Ph.Ăngghen viết: “Toàn bộ tổ chức
và phương thức chiến đấu của quân đội, và do đó thắng lợi và thất bại, đều tỏ
ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào
chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào số lượng và chất lượng của
dân cư và của kỹ thuật”4
Quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại khơng chỉ phụ thuộc vào
kinh tế mà cịn tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Quốc
phòng, an ninh trực tiếp bảo vệ đất nước, bảo vệ kinh tế, bảo vệ sự ổn định
chính trị - xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội; hoạt
động đối ngoại có tác động mạnh mẽ nhằm tạo ra những điều kiện nhằm nâng
cao tiềm lực và hiệu quả hoạt động của kinh tế, quốc phòng, an ninh. Mặt khác
hoạt động quốc phòng, an ninh còn tạo ra những nhu cầu địi hỏi nền kinh tế
phải đáp ứng cho nó; thơng qua nhu cầu quốc phịng, an ninh nền kinh tế phải
sắp xếp, cân đối tỷ lệ giữa các khâu trong quá trình tái sản xuất, đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học, cơng nghệ, phát triển một cách tồn diện để đáp ứng cả
4 Sđd tr.241

3


nhu cầu dân sinh và nhu cầu quốc phòng, an ninh. Đồng thời, quốc phịng, an
ninh ln tiêu tốn một khối lượng lớn nguồn lực kinh tế, phá hoại cơ sở kinh tế,
xã hội khi chiến tranh sảy ra.
Do vậy, để phát triển kinh tế, xã hội và tăng cường, củng cố quốc
phòng, ,an ninh khắc phục mức tác động của hạn chế mâu thuẫn và thúc đẩy cả
hai lĩnh vực cùng phát triển nhịp nhàng, cân đối, hợp lý, tiết kiệm thì cần phải
gắn hay kết hợp hai lĩnh vực là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển
của đất nước.
* Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phịng

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, kinh tế và quốc phịng là hai hoạt động thuộc hai
lĩnh vực khác nhau; song giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vai
trò quyết định của kinh tế đối với quốc phòng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, được
thể hiện ở khả năng bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật cho lực lượng vũ trang
“Muốn đánh thắng thì quân ta phải ăn no. Muốn ăn no thì phải có nhiều lương
thực..., thực túc thì binh cường”5. Nhưng qn sự, quốc phịng, chiến tranh
không chỉ phụ thuộc vào kinh tế một cách thụ động mà nó tác động trở lại đối
với kinh tế, xã hội, được Hồ Chí Minh chỉ ra: “Một khi chiến tranh đã bùng nổ
ở nơi nào, ảnh hưởng của nó sẽ lan tràn khắp các nơi khác. Chẳng những thế,
nó cịn ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hố
của tồn xứ... Chiến tranh không những chỉ phát động trong địa hạt quân sự ở
tiền phương mà còn phát động cả trong địa hạt ở hậu phương”6.
Vừa kháng chiến vừa kiến quốc là một nội dung căn bản trong tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng. Trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ đạo vừa kháng chiến vừa kiến quốc; kết hợp chiến đấu với sản xuất,
vừa đánh giặc vừa tăng gia sản xuất. Tư tưởng “Kháng chiến phải đi đơi với kiến
quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành cơng. Kiến quốc có
chắc thành cơng, kháng chiến mới mau thắng lợi”7.
Tư tưởng về xây dựng căn cứ địa và hậu phương cho tiền tuyến trong
chiến tranh. Đây là sự vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa kinh tế với quốc phòng. Người cho rằng, căn cứ địa và hậu phương là
"nơi đứng chân làm cơ sở" cho lực lượng vũ trang hoạt động, nơi “đội du kích
tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập”8.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng quân đội tham gia phát triển kinh tế.
Theo Người, mặc dù đánh giặc cứu nước là nhiệm vụ chủ yếu của quân đội,
song bên cạnh đó qn đội cịn phải tích cực tăng gia sản xuất. Đó là việc làm có
nghĩa thiết thực để vừa khắc phục sự bao vây của kẻ thù đối với nền kinh tế
nước ta lúc bấy giờ; vừa góp phần làm giảm bớt phần nào gánh nặng của nền
kinh tế trong việc đáp ứng các yêu cầu của chiến tranh. Người cịn chỉ rõ: “Tuy

cơng việc chun mơn vẫn là chính, nhưng phải cố sức tăng gia”9.
5 Hồ Chí Minh: Tồn
6 Sđd tập 4, tr.84-85
7 Sđd, tập 4, tr. 114
8 Sđd tập 3, tr.504
9 Sđd, tập 3, tr. 512

tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002, tập 6, tr.178

4


Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm
vững quy luật và biết kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết
hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh một
cách nhất quán bằng những chủ trương sáng tạo, phù hợp với từng thời kì của
cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
Đảng ta đề ra chủ trương “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “Vừa chiến đấu,
vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”; vừa thực hiện phát triển kinh tế ở
địa phương vừa tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp; “Xây dựng làng
kháng chiến”, địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), việc phát
triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng được Đảng ta chỉ đạo thực
hiện ở mỗi miền với các hình thức, nội dung và biện pháp thích hợp. Miền Bắc
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng hậu phương lớn. Miền Nam gắn kết chặt chẽ giữa đánh địch với củng
cố, mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa vững mạnh. Ở thời kỳ này, việc
phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng được thực hiện bằng
nhiều hình thức phong phú, sinh động và thiết thực từ Trung ương đến các địa

phương, do đó đã tạo ra thế và lực vững chắc cho đánh thắng giặc Mỹ xâm lược,
thống nhất Tổ quốc.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương kết hợp kinh tế với quốc
phòng theo phương hướng cơ bản, lâu dài; kết hợp toàn diện, chú trọng những
vùng chiến lược, địa bàn trọng điểm nhằm chuẩn bị sớm, từ trước về mọi mặt để
phát triển kinh tế nhanh và bền vững, đồng thời sẵn sàng ứng phó thắng lợi với
mọi nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình
huống. Đảng ta sớm nhận thấy phải chuẩn bị từ trước, “bảo vệ tổ quốc từ xa” và
đã ln nhấn mạnh u cầu: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh,
xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các
nhân tố bất lợi, nhất là các yếu tố bên trong có thể gây ra đột biến” 10. Để thực
hiện yều cầu đó, trong mỗi bước phát triển của đất nước, tư duy của Đảng về kết
hợp kinh tế với quốc phịng ngày càng có sự phát triển mới, phù hợp hơn với
những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn
mạnh: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và
quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên
giới, biển, đảo”11
Xuất phát từ quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Trước đây, các triều đại phong kiến Việt Nam, đứng trước nguy cơ thường
xuyên bị các thế lực bên ngoài đe dọa, xâm lược, để tồn tại và phát triển đất
nước, các triều đại ln lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, đề ra kế sách giữ
nước với tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc, khoan thư sức dân làm kế sách sâu rễ
bền gốc”. Khi đất nước hịa bình ln chăm lo xây dựng phát triển sản xuất đi
10 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TƯ Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 149
11 Sđd tr.149

5



đơi với chăm lo củng cố thế trận phịng thủ, xây dựng tiềm lực và thực lực quân
sự theo quan điểm “ngụ binh ư nông”, “động vi binh, tĩnh vi dân”. Trong xây
dựng, phát triển kinh tế, đã sử dụng nhiều chính sách như khai hoang lập ấp ở
những nơi xung yếu để "phục binh sẵn, phá thế giặc dữ" từ xa ; phát triển nghề
thủ công để vừa sản xuất ra các công cụ sản xuất, vừa sản xuất ra các vũ khí,
phương tiện phục vụ cho tồn dân đánh giặc; chăm lo mở mang đường sá, đào
sơng ngịi, kênh rạch, xây đắp đê điều để vừa phát triển kinh tế, vừa tạo thế trận
đánh giặc, cơ động lực lượng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
1.2. Thực trạng kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với quốc phòng, an
ninh và hoạt động đối ngoại ở nước ta hiện nay
Đại hội XII của Đảng đã đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng
an ninh của nước ta trong những năm qua: Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có
nhiều phức tạp, chúng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm quốc phịng, an ninh
và trật tự, an tồn xã hội. Nhận thức về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; về vị
trí, vai trị của quốc phịng, an ninh trong tình hình mới; về quan hệ đối tác, đối
tượng có bước phát triển. Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện
pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được hịa
bình, ổn định để phát triển đất nước. Chủ trương, giải pháp trong chiến lược
quốc phòng, quân sự, chiến lược an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội tiếp tục
được bổ sung, hồn thiện. Thế trận quốc phịng tồn dân gắn kết chặt chẽ với thế
trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố, nhất là trên các địa bàn
chiến lược quan trọng; sức mạnh về mọi mặt của Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân được tăng cường. Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế với
quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hịa
bình", hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bước
đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được
tốc độ gia tăng tội phạm.
Trong những năm qua nước ta đã gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế, xã

hội với đảm bảo quốc phịng, an ninh trong cơng tác lập quy hoạch, kế hoạch, tổ
chức thực hiện phát triển các ngành, các lĩnh vực đã đạt được nhiều tiến bộ tích
cực trong việc gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế, xã hội với đảm bảo quốc
phòng, an ninh.
Qúa trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tích cực, đã gắn kết
chặt chẽ phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN. Hệ thống kết cấu cơ sở hạ
tầng trên phạm vi cả nước, đặc biệt là các tỉnh trung du, miền núi, vùng biên giới
hải đảo phát triển mạnh ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ phát triển
kinh tế, xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Lưc lượng vũ trang đặc biệt là Quân đội đứng chân trên địa bàn đạt nhiều
thành tựu quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh. Quân đội đã thực sự trở thành một nguồn lực của
đất nước trong phát triển KT-XH, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; là lực
lượng nịng cốt giải quyết các vấn đề khó khăn về quốc phòng-an ninh, KT-XH
6


trên các địa bàn chiến lược, nơi biên giới, hải đảo, vùng biển đặc quyền kinh tế
của Tổ quốc. Thông qua sản xuất, xây dựng kinh tế, quân đội đã góp phần điều
chỉnh lại lực lượng sản xuất trên các vùng, miền, phù hợp với chiến lược phát
triển KT-XH và mục tiêu quốc phòng, tạo nên thế trận KTQP vững mạnh trên
các địa bàn chiến lược, nơi phên giậu của đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ
xa; tạo ra nguồn của cải vật chất đáng kể cho xã hội, nguồn thu bổ sung cho
ngân sách quốc phịng, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tăng cường nguồn lực
cho phát triển. Đồng thời, tạo ra điều kiện vật chất, kỹ thuật, công nghệ cho xây
dựng lực lượng, thế trận, tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ
quốc…
Tuy nhiên trong những năm qua việc thực hiện kết hợp phát triển kinh tế,
xã hội với quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại vẫn còn một số hạn chế
nhất định: Nhận thức về quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân của một số

cán bộ, đảng viên trong các ngành, các cấp chưa đầy đủ, chưa thật sự sâu sắc,
còn thiếu cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch
và “tự diễn biến”, “tự chuyển hố” trong nội bộ. Cơng tác bảo vệ an ninh trong
một số lĩnh vực còn có những thiếu sót; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ
sở có lúc, có nơi cịn bị động, tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị,
trật tự, an tồn xã hội ở một số địa bàn còn diễn biến phức tạp. Việc gắn kết giữa
phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, đặc
biệt là tại các vùng chiến lược, biển, đảo cịn chưa chặt chẽ. Cơng nghiệp quốc
phòng, an ninh chưa đáp ứng yêu cầu trang bị cho các lực lượng vũ trang. Công
tác giáo dục quốc phòng an ninh chưa được quan tâm đúng mức;
Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra một số yếu kém trong việc thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng an ninh: “Nhận thức của một số cán bộ các cấp, các
ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu
sắc. Kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phịng, an ninh
trên một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và
triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về quốc phịng, an ninh của một số cấp ủy, chính quyền có
nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; cịn thiếu những giải pháp mang tính chiến
lược, tổng thể. Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phịng, an ninh chưa hoàn
thiện”.
2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN KẾT HỢP PHÁT
TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI GẮN VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QP AN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:
Đại hội XII của Đảng đã nhận mạnh “Để thực hiện thắng lợi mục tiêu,
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của
Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc”12
2.1. Bồi dưỡng, nâng cao kiến thức kết hợp kinh tế với QPAN và đối
ngoại cho cán bộ các cấp, các ngành
12 Sđd


7


Trước hết, cần bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
kinh nghiệm kết hợp kinh tế với QPAN và đối ngoại trong lịch sử dân tộc; kinh
nghiệm của Đảng ta trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực trạng sự kết hợp này hiện
nay; kinh nghiệm của các nước trên thế giới về vấn đề này. Từ đó xác định rõ
những yêu cầu mới trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập
quốc tế. Ngoài ra, cần bồi dưỡng kiến thức cơ bản về kinh tế quân sự, kiến thức
về QPAN, kiến thức về chiến lược đối ngoại kết hợp với kinh tế và QPAN.
Khối lượng kiến thức về kết hợp kinh tế với QPAN và đối ngoại để bồi
dưỡng, cần được chia theo các nhóm đối tượng: nhóm cán bộ Đảng, nhà nước và
đồn thể, nhóm cán bộ kinh tế, nhóm cán bộ các lực lượng vũ trang nhân dân.
Nội dung bồi dưỡng kiến thức phải hệ thống và toàn diện, những chủ
trương và biện pháp ở từng phân cấp quản lý và tổ chức thực hiện. Làm cho họ
nhận rõ tính quy luật của việc kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh và
hoạt động đối ngoại. Đồng thời, nâng cao tư duy kinh tế, tư duy kinh tế đối
ngoại trong các hoạt động quân sự, hoạt động QPAN.
2.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước kết hợp kinh tế, xã hội với
quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước cần xác định đúng đắn vị trí, vai
trị của vấn đề kết hợp kinh tế với QPAN và đối ngoại trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, nhất là trong tình hình khu vực và
quốc tế có những diễn biến phức tạp về an ninh hiện nay.
Xác định đúng và đủ những nội dung quản lý nhà nước về kết hợp kinh tế
với QPAN và đối ngoại. Đó là: ban hành các văn bản pháp luật; xây dựng quy
hoạch, kế hoạch, chính sách quốc gia; tổ chức thu thập, xử lý, cung cấp thông
tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng dẫn việc kết hợp kinh tế với QPAN và
đối ngoại cho các tổ chức KT-XH và QPAN; tổ chức giáo dục cho toàn dân và

đào tạo đội ngũ cán bộ tham mưu; tổ chức hướng dẫn thực hiện các chính sách,
chế độ, quy định nhằm khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần cho các đơn vị
thực hiện có hiệu quả kết hợp kinh tế với QPAN và đối ngoại.
Xây dựng cơ chế quản lý thích hợp về kết hợp kinh tế với QPAN và đối
ngoại trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế.
2.3. Hoàn thiện cơ chế kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh
và hoạt động đối ngoại
Cơ chế kết hợp kinh tế với QPAN và đối ngoại trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế là tổng thể các yếu tố về tổ chức và các thể chế
tương ứng, bảo đảm cho sự vận hành của các tổ chức, nhằm gắn kết các lĩnh vực
thành một chỉnh thể thống nhất, bảo đảm quá trình CNH, HĐH đất nước, hội
nhập quốc tế được tiến hành trong trạng thái tự bảo vệ và được bảo vệ một cách
vững chắc, đạt tới hiệu quả toàn diện, tổng hợp cả về kinh tế, QPAN và đối ngoại.
Mở rộng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan QPAN ở các bộ, ngành.
Mở rộng chức năng tham mưu cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan Chính
phủ về cơng tác QPAN và công tác kết hợp kinh tế với QPAN và đối ngoại.
Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hoạch định chiến lược của
Bộ Quốc phịng và Bộ Cơng an làm tham mưu, đề xuất các nhiệm vụ, yêu cầu về
8


QPAN và kết hợp kinh tế với QPAN và đối ngoại trong quy hoạch chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội dài hạn.
Ngồi ra, Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an và các bộ, ngành kinh tế cần chủ
động thực hiện phối hợp và kết hợp chặt chẽ mọi hoạt động thực hiện nhiệm vụ
QPAN, nhất là trong các quy hoạch, kế hoạch ở tầm vĩ mơ.
Ngồi ra cần có chính sách đầu tư thoả đáng cho nhu cầu kết hợp kinh tế
với QPAN và đối ngoại. Khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với các tổ
chức kinh tế, xã hội, đơn vị QPAN và các cá nhân có những cơng trình nghiên
cứu, những đề án khả thi, những dự án, những cơng trình kinh tế có tính “lưỡng

dụng” cao, có giá trị về kết hợp kinh tế với QPAN và đối ngoại nhằm thu hút
mọi nguồn lực để nâng cao hiệu quả sự kết hợp.
2.4. Kết hợp kinh tế với QPAN và đối ngoại phải được quán triệt sâu
sắc trong điều hành vĩ mô của Nhà nước
Nhà nước phải có cơ chế, chính sách bảo đảm nguồn tài chính đáp ứng
yêu cầu QPAN. Ngân sách quốc phịng phải được xây dựng theo quan điểm
quốc phịng tồn dân, theo đó, các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh
thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu phải có nghĩa vụ đóng góp
cho ngân sách quốc phòng. Vấn đề này phải được luật hóa trong văn bản pháp
luật của Nhà nước.
Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hàng năm, khi thẩm định
các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, Nhà nước cần chỉ đạo kết hợp mục tiêu kinh
tế và mục tiêu QPAN nhằm tạo ra các cơng trình vừa phục vụ dân sinh, vừa phục
vụ QPAN.
Trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ kinh tế với nước ngồi cần phải ln cảnh giác, giữ vững
độc lập tự chủ, lấy lợi ích dân tộc làm tiêu chí hàng đầu cho việc hoạch định và
triển khai chính sách đối ngoại nói chung, chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng.
Trong q trình xây dựng và phát triển cơng nghiệp cần chú ý kết hợp yêu
cầu sản xuất thời bình với chuẩn bị sẵn sàng cho yêu cầu sản xuất thời chiến;
làm cho mỗi bước tiến lên của công nghiệp là một bước hiện đại hoá lực lượng
QPAN, tăng cường tiềm lực kinh tế - kỹ thuật QPAN. Đảm bảo khi xảy ra chiến
tranh có thể huy động tới mức cao nhất khả năng công nghiệp phục vụ chiến
đấu, nhằm mục tiêu giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Để đáp ứng yêu cầu mới của cả nước, cũng như ở từng địa bàn chiến lược,
Nhà nước cần có chiến lược xây dựng hệ thống giao thơng đồng bộ, gồm nhiều
mạng lưới: đường bộ, đường không, đường sông, đường biển, đường sắt,… để
có thể sử dụng nhiều loại phương tiện, có khả năng hỗ trợ nhau.
2.5. Xây dựng cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ gắn với xây dựng thế trận
QPAN vững chắc, gắn chặt phát triển cơ cấu vùng lãnh thổ với cơ cấu

ngành của nền kinh tế
Xây dựng cơ cấu kinh tế vùng phải tính đến các vị thế xung yếu, các
tuyến giao thông, dân cư, phân bổ nguồn lực lao động, nguồn lực con người.
Xây dựng cơ cấu vùng phải đồng thời là sự bố trí chiến lược thống nhất cả về
9


kinh tế và QPAN, tạo điều kiện để cả nước và từng địa phương có thể chủ động
đối phó với tình huống về QPAN có thể xảy ra.
Kinh tế và QPAN phải được kết hợp chặt chẽ với nhau trong mọi khâu, từ
xây dựng quy hoạch tổng thể, kế hoạch xây dựng, phát triển trên địa bàn, trong
từng khu vực đến khâu xác định vị trí, địa điểm, thiết kế các cơng trình lớn. Sự
kết hợp này phải được thấu suốt trong mọi ngành kinh tế - kỹ thuật, đặc biệt là
với những ngành có liên quan trực tiếp nhiều đến QPAN, như: giao thông vận tải
(cả đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, đường hàng không), xây dựng, thông tin bưu điện, thuỷ lợi, y tế, các cơ sở công nghiệp, kỹ thuật, bố trí các cụm dân cư,
… bảo đảm sao cho mỗi cơng trình được xây dựng đều góp phần tạo nên thế
trận có lợi cho QPAN, cả trong thời bình và thời chiến.
2.6. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với QPAN trong chiến lược phát triển
khoa học - công nghệ; trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, liên kết
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho lực lượng vũ trang
Khuyến khích triển khai các cơng trình khoa học mang tính lưỡng dụng.
Cần xây dựng các cơ chế đặt hàng trong quan hệ giữa các lực lượng khoa học
trong và ngoài quân đội. Cần tổ chức các Hội đồng khoa học liên ngành ở cấp
quốc gia để tổ chức, hướng dẫn việc kết hợp, huy động mọi tiềm lực khoa học công nghệ trong nghiên cứu và giải quyết những vấn đề chiến lược, cơ bản lâu
dài cũng như những nhiệm vụ trước mắt do yêu cầu củng cố quốc phòng, an
ninh đặt ra.
Chiến tranh trong điều kiện hiện đại địi hỏi một nguồn nhân lực đơng đảo
có chất lượng cao, được chuẩn bị chu đáo cả về năng lực chun mơn và ý chí
quyết tâm bảo vệ Tổ quốc. Điều đó làm cho mối quan hệ cân đối, hài hòa giữa
huy động lực lượng lao động cho kinh tế và quốc phòng cả về số lượng và chất

lượng trở thành một trong những mối quan hệ lớn có tầm quan trọng chiến lược
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghệ thuật và khoa học của việc
kết hợp này là tìm ra phương hướng đúng đắn để giải quyết những vấn đề về tỷ
lệ động viên, đối tượng động viên, biện pháp động viên nhân lực vào lực lượng
vũ trang mà vẫn đáp ứng vào các nhu cầu xây dựng kinh tế.
2.7. Quân đội thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ nền kinh tế, tích cực
tham gia hoạt động kinh tế; bảo vệ và trực tiếp tham gia vào sự nghiệp
CNH, HĐH; xung kích phòng chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội
Kết hợp kinh tế với QPAN và đối ngoại là công việc của toàn Đảng, toàn
dân và của cả hệ thống chính trị. Quân đội quán triệt và chấp hành nghiêm túc
chủ trương kết hợp kinh tế với QPAN với tư cách là một lực lượng nòng cốt thực
hiện nhiệm vụ này.
Do những đặc điểm về chức năng, nhiệm vụ hoạt động của quân đội mà
nội dung kết hợp kinh tế với QPAN có những nét riêng biệt, thể hiện ở những
điểm sau đây:
Chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, kịp thời và kiên quyết
đập tan mọi hành động xâm lược của kẻ thù, giữ vững môi trường hịa bình, ổn
định, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân có điều kiện an ninh thuận lợi để phát
triển.
10


Bảo vệ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Khi chưa có chiến tranh, lực
lượng vũ trang phải cùng với các ngành kinh tế tạo ra những điều kiện và
phương tiện cần thiết để bảo vệ vững chắc các cơ sở kinh tế, các khu vực kinh tế
và các nguồn tài nguyên của đất nước. Khi chiến tranh xảy ra, các lực lượng vũ
trang phải chiến đấu có hiệu quả, bảo vệ tiềm lực kinh tế, kỹ thuật của đất nước,
bảo vệ các cơ sở sản xuất và nguồn dự trữ, đáp ứng nhu cầu dân sự và quân sự.
Sẵn sàng bảo vệ hoạt động kinh tế đối ngoại. Các lực lượng quân đội và
công an phải cùng các cấp, các ngành phối hợp chặt chẽ, có nguyên tắc, để một

mặt, tạo ra mơi trường thuận lợi, thơng thống cho các hoạt động kinh tế đối
ngoại; mặt khác, vẫn giữ được an ninh và chủ quyền quốc gia, chặn đứng được
các thủ đoạn lợi dụng kinh tế đối ngoại để hoạt động phá hoại. Cán bộ lãnh đạo
và quản lý các cấp phải thường xuyên giáo dục ý thức cảnh giác cho cán bộ và
nhân dân khi có quan hệ với người nước ngoài, làm cho mọi hoạt động kinh tế
đối ngoại phải tự bảo vệ và được bảo vệ, ngăn chặn được các yếu tố gây mất an
ninh và ổn định.
Lực lượng vũ trang tích cực đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu và
các tệ nạn xã hội khác; vận động quần chúng phát hiện, đấu tranh chống các
hiện tượng tiêu cực, thói cửa quyền, hách dịch, hối lộ,...; phối hợp giữa lực
lượng qn đội và cơng an, tịa án, thuế vụ, hải quan đấu tranh ngăn chặn kịp
thời các hành vi tiêu cực nhằm làm trong sạch bộ máy nhà nước và ổn định các
hoạt động kinh tế xã hội.
Kết luận
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, quốc phòng với
an ninh và đối ngoại là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp
củng cố quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc, thực chất là thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược cách mạng của nước ta. Kết hợp kinh tế với quốc phòng,
quốc phòng với kinh tế, quốc phòng với an ninh và đối ngoại là đường lối, quan
điểm xây dựng nền quốc phịng tồn dân thơng qua các hoạt động kinh tế – xã
hội, xây dựng đất nước lấy ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội làm
nền tảng. Đây là một vấn đề trở thành truyền thống của dân tộc, phù hợp với
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, đường lối quốc phịng tồn dân, chiến
tranh nhân dân.
Kết hợp với kinh tế quốc phòng, quốc phòng với kinh tế quốc phòng với
an ninh và đối ngoại là nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế
củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn đất
nước và an ninh quốc gia, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và mọi
thành quả cách mạng.
Để thực hiện tốt quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu trên, đòi hỏi phải

phát huy tốt tinh thần nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và tồn qn ta,
có như vậy mới thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, xã hội gắn với đảm
bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc tuyến biên giới địa đầu của Tổ quốc;
góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.
11



×