TIỂU LUẬN CUỐI KHĨA
Tình huống: “Xử lý tính huống phạt vi phạm về chậm nộp hồ sơ đăng
ký mã số thuế của người nộp thuế tại Đội Tổng Hợp Nghiệp Vụ, Hành
chính nhân sự của Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp”
Họ và tên học viên: Mùi Thu Hiền
Lớp: Khóa Bồi dưỡng Nghiệp vụ ngạch Kiểm Tra Viên Thuế
Đơn vị công tác: Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
PHẦN ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT
1. Ưu điểm:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
2. Nhược điểm:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
3.Kết luận: (Cho điểm và kết luận đạt loại khá, giỏi, trung bình)
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
GIÁM KHẢO 1
GIÁM KHẢO 2
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
PHẦN I
LỜI NĨI ĐẦU
Trong q trình đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và q trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay đất nước ta đã có nhiều
chuyển biến tích cực tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đời sống văn
hóa của nhân dân được nâng cao. Theo đó các ngành, lĩnh vực trong cơng tác
quản lý hành chính nhà nước cũng được nâng lên ứng dụng tốt hơn khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin hiện đại vào công tác quản lý phục vụ nhu cầu
của nhân dân, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của nước ta.
Cùng với những đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, công
tác quản lý thuế những năm qua cũng không ngừng được đổi mới và hồn thiện
về chính sách, về cơng nghệ theo hướng phù hợp với tình hình đất nước và các
cam kết quốc tế, đơn giản hóa thủ tục hành chính tạo kiện thuận lợi cho người
nộp thuế trong hoạt động kinh tế và thực hiện tốt nghĩa vụ ngân sách với Nhà
nước. Cũng từ những chính sách cho người nộp thuế chủ động trong việc tự
tính, từ khai, tự nộp thuế mà khơng ít cá nhân, tổ chức đã lợi dụng những chính
sách đó trây ỳ trong cơng tác kê khai, cố tình vi phạm pháp luật trong cơng tác
kê khai thuế gây khó khăn trong cơng tác quản lý người nộp thuế, làm thất thu
ngân sách. Chính sách nhà nước nói chung, chính sách về thuế nói riêng ln
nghiêm khắc với những hành vi vi phạm pháp luật nhưng cũng rất linh động và
thể hiện tính nhân đạo trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Ngày 02/12/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 148-NĐ/CP tách
huyện Sốp Cộp ra từ huyện Sơng Mã. Sốp Cộp có vị trí địa lý hiểm trở nằm ở
phía tây của tỉnh Sơn La. Có diện tích tự nhiên 147.355 ha có độ cao trung bình
so với mặt nước biển 700m, huyện có gồm 8 xã (Sốp Cộp, Mường Và, Mường
Lạn, Dồm Cang, Nậm Lạnh, Púng Bánh, Mường Lèo, Sam Kha) trong đó có 4 xã
biên giới với 120 km đường biên giới Quốc gia, 125 bản. Xã Sốp Cộp là trung
tâm hành chính của huyện, đồng thời cũng là khu trung tâm chợ huyện Sốp Cộp.
Mùi Thu Hiền
2
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
Kinh tế - xã hội, các hoạt động dịch vụ của huyện còn chưa được phát triển, nền
kinh tế phụ thuộc vào nơng nghiệp là chính. Q trình trao đổi, giao thương
hàng hóa tại địa bàn chưa thực sự phong phú đa dạng, chỉ có một số mặt hàng
thiết yếu phục vụ đời sống, sinh hoạt thường ngày của nhân dân. Trong một hai
năm gần đây kinh tế huyện Sốp Cộp cũng từng bước được đầu tư từ những dự
án phát triển kinh tế xã hội của huyện Sốp Cộp của Chính phủ. Cùng với các
nguồn vốn đầu tư từ Nghị quyết 30a cơ sở hạ tầng được cải thiện, nền kinh tế
của huyện tăng trưởng, các hình thức kinh doanh dịch vụ và hàng hóa ngày càng
phát triển. Để đáp ứng sự phát triển đó, nhiều cửa hàng kinh doanh được mở ra,
quy định bắt buộc của một hộ kinh doanh là đăng ký kinh doanh và đăng ký
thuế. Chi cục Thuế Sốp Cộp đã có những hướng dẫn cụ thể bằng văn bản đề
nghị Phòng tài chính kế hoạch của huyện phối hợp trong việc nhắc nhở Người
nộp thuế về nghĩa vụ kê khai thuế của mình. Tuy vậy khơng ít người nộp thuế cố
tình trốn tránh nghĩa vụ kê khai thuế của mình.
Từ đó khơng ít người nộp thuế đã vi phạm trong công tác kê khai thuế, cụ
thể là công tác đăng ký để được cấp mã số thuế và cấp giấy chứng nhận đăng ký
thuế trong quá trình kinh doanh của mình. Trong công tác quản lý kê khai thuế
của cơ quan Thuế thì cơng tác cấp mã số thuế là cơng tác rất quan trọng, đây là
công tác chủ chốt nhằm xác định thông tin quản lý thuế của người nộp thuế
trong suốt quá trình kinh doanh của mình. Nhằm làm tốt hơn công tác quản lý kê
khai thuế tại Chi cục Thuế Sốp Cộp, tôi đã chọn đề tài “Xử lý tính huống phạt
vi phạm về chậm nộp hồ sơ đăng ký mã số thuế của người nộp thuế tại Đội
Nghiệp vụ, kê khai của Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp”. Tiểu luận là một tình
huống có thật trong cơng tác quản lý thuế của Chi cục thuế Huyện Sốp Cộp. Sau
khi sai phạm được phát hiện đã có rất nhiều quan điểm về cách lựa chọn các
phương án giải quyết tình huống đúng luật, nhân đạo một mặt thể hiện tính
nghiêm minh của Pháp luật mặt khác vẫn bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người nộp
thuế trong q trình thực hiện nghĩa vụ với chính sách Thuế của Nhà nước. Sự
kiện được tiếp diễn chi tiết như sau:
Mùi Thu Hiền
3
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
PHẦN II
MƠ TẢ TÌNH HUỐNG
Vấn đề nảy sinh trong công tác quản lý đăng ký cấp mã số thuế cho người
nộp thuế trên cơ sở pháp lý là Luật Quản lý thuế và Thông tư hướng dẫn về đăng
ký mã số thuế. Thực hiện đúng quy trình đăng ký cấp mã số thuế đảm bảo tính
thống nhất, pháp lý trong q trình triển khai cơng tác đăng ký cấp mã số thuế
của mọi người nộp thuế. Là một cán bộ trực tiếp xử lý công việc trong công tác
cấp mã số thuế cho người nộp thuế, ngày 12/01/2012 tôi nhận được hồ sơ đề
nghị cấp mã số thuế của người nộp thuế tên là Lò Thị Dưng.
Qua kiểm tra hồ sơ từ bộ phận một cửa chuyển lên, với biên bản đã được
lập kèm trong hồ sơ ghi rõ số ngày chậm nộp hồ sơ đăng ký mã số thuế là 03 ngày
làm viêc kể từ ngày hết thời hạn người nộp thuế phải đăng ký thuế với cơ quan
thuế. Căn cứ trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đối chiếu với quy định tại
Khoản 1, Điều 22 Luật Quản lý thuế có quy định rõ thời hạn nộp hồ sơ đăng ký
thuế: “Đối tượng đăng ký thuế trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động
hoặc giấy chứng nhận đầu tư”.
Trong khi kiểm tra hồ sơ, bà Dưng có thể đã định hình được rằng mình
đang vi phạm về đăng ký mã số thuế. Tuy nhiên, cũng không hiểu rõ vi phạm
như thế nào và sau này phải thực hiện, chấp hành như thế nào để không vi phạm
những quy định pháp luật Thuế. Thái độ rất thản nhiên vì thực tế việc phạt vi
phạm hành chính đối với người nộp thuế trước khi Luật quản lý thuế có hiệu lực
từ ngày 01/07/2007 là gần như được thực hiện rất ít.
Sau khi kiểm tra hồ sơ song, và nêu lên những quy định trong khung hình
phạt đối với hành vi vi phạm của bà Dưng mà bà Dưng có thể sẽ bị xử lý. Lúc đó,
bà Dưng mới thay đổi nét mặt ngơ ngác, pha chút ấm ức và trình bày một mạch
mà khơng để cơng chức thuế ngắt lời hay giải thích gì thêm rằng về quy định
này bà chưa từng biết và cũng chẳng ai nói cho bà biết về quy định phải đăng ký
mã số thuế với cơ quan Thuế sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
Mùi Thu Hiền
4
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
doanh. Bà Dưng nghĩ, để kinh doanh thì chỉ cần có Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh là đủ, khi nào công chức thuế đến thu tiền thuế thì bà nộp. Hơn nữa,
trong thời gian phải kê khai đăng ký thuế gia đình bà Dưng có việc tang nên bà
khơng có thời gian đến cơ quan thuế kê khai được.
Sau khi bà Dưng trình bày song, đại diện cho đội nghiệp vụ, cũng là đại
diện cho người thực thi pháp luật tơi đã giải thích cặn kẽ về nghĩa vụ phải kê
khai đăng ký thuế của người nộp thuế với ngân sách nhà nước. Cho dù chưa phải
nộp thuế nhưng nếu có phát sinh kinh doanh đều phải kê khai để cơ quan thuế có
căn cứ quản lý về nghĩa vụ kê khai thuế sau này của người nộp thuế. Đồng thời
đề nghị bà Dưng cho ý kiến trong biên bản của cơ quan thuế đã lập với bà Dưng,
nội dung ý kiến cơ bản như bà đã trình bày ở trên. Sau khi hồn tất hồ sơ xác
nhận biên bản, đội đã đề nghị bà Dưng nếu khơng có ý kiến gì thì đội sẽ tiến
hành dự thảo quyết định xử lý vi phạm và trong thời gian sau 05 ngày đề nghị
bà Dưng đến Chi cục Thuế nhận Quyết định xử lý vi phạm. Trước khi ra về bà
Dưng nói rằng mong cơ quan thuế tạo điều kiện cho bà vì cũng là lần đầu, do
khơng hiểu biết về pháp luật và gia đình lại có việc tang nên đã vi phạm.
PHẦN III
XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Sau khi hồn tất hồ sơ, cả đội đã cùng trao đổi về hình thức xử lý vi phạm
đối với bà Dưng và trực tiếp xin ý kiến chỉ đạo của Ban lãnh đạo Chi cục thuế
trên lập trường của Đội nghiệp vụ. Ban lãnh đạo Chi cục thuế đã cho ý kiến chỉ
đạo là phải xử lý nghiêm những sai phạm theo Luật quản lý thuế, đồng thời cũng
đảm bảo xử lý một cách hợp lý để người nộp thuế nghiêm chỉnh chấp hành
nhưng người nộp thuế cũng phải nhận thấy tính nhân đạo trong quá trình xử lý
của cơ quan thuế.
Trên cơ sở hành vi, vi phạm của bà Dưng nhằm đảm bảo duy pháp chế xã
hội chủ nghĩa, tính nghiêm minh của pháp luật, xử lý linh hoạt nhưng vẫn đảm
Mùi Thu Hiền
5
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
bảo tính răn đe người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ kê khai của mình
với cơ quan Thuế.
Nhằm duy trì tính nghiêm minh của Pháp luật, với hành vi "chậm nộp hồ
sơ đăng ký thuế", bà Dưng có thể chịu mức phạt được căn cứ tại Khoản 2 Điều 5
của Nghị định số 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định về
việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi chậm nộp hồ sơ đăng ký thuế
trong trường hợp quá thời hạn đăng ký thuế từ 01 ngày đến 30 ngày là 700.000
đồng (Bảy trăm nghìn đồng).
Đi sâu vào vấn đề ta thấy về mặt pháp lý thì bà Dưng đã vi phạm chế độ
kê khai, và theo trình bày thì bà Dưng khơng cố tình thực hiện hành vi đó. Bởi lẽ
trong hành vi vi phạm của bà Dưng nếu không phát sinh tình huống trong gia
đình có tang (ơng mất) nên q trình kê khai của bà Dưng bị chậm 05 ngày thì
có thể xác định là do bà Dưng do khơng hiểu biết về nghĩa vụ của mình nên đã
kê khai chậm với cơ quan thuế. Cịn ở tình huống này có thể xác định được là vì
hồn cảnh gia đình lúc đó nên bà Dưng đã khơng để ý đến việc kê khai thuế của
mình. Đồng thời cũng vì khơng biết là mình đang có nghĩa vụ phải kê khai nên
cũng đã không để ý. Sau khi công việc gia đình ổn thỏa khi đó bà Dưng mới để
ý đến cơng việc kinh doanh của mình. Có thể do khơng biết chính là sau bao
nhiêu ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì bà
Dưng phải đi đăng ký thuế nên vừa nhớ đến công việc của mình nghĩ rằng việc
kinh doanh cần đầy đủ thủ tục giấy tờ nên đã lên cơ quan thuế để hỏi xem cần
phải làm những gì. Khi đến cơ quan thì bà Dưng mới biết mình đã bị chậm nộp
hồ sơ đăng ký thuế.
Mặt khác có thể nói rằng, trong cơng tác quản lý thuế thì việc phối hợp là
rất cần thiết. Nhận thấy được sự cần thiết đó Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp cũng
đã có cơng văn đề nghị UBND huyện Chỉ đạo Phịng Tài chính hướng dẫn người
nộp thuế sau khi nhận được giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh phải xuống
ngay cơ quan thuế để đăng ký cấp Giấy chứng nhận đăng ký thuế.
Mùi Thu Hiền
6
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
Thực tế khi làm việc với một số người nộp thuế kể cả những người nộp
thuế nộp hồ sơ đúng hạn thì họ đều nói rằng, khi đăng ký cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh trên huyện, Phịng tài chính kế hoạch khơng ai nói gì đến
việc phải xuống Chi cục Thuế đăng ký thuế cả. Việc họ đến cơ quan thuế đăng
ký cấp mã số thuế một phần là sự nhắc nhở của công chức thuế ở địa bàn, một
phần là trong quá trình kinh doanh, các cơ quan ban ngành kiểm tra thủ tục đăng
ký kinh doanh cũng như đăng ký, kê khai nộp thuế hoặc một phần là cũng nghe
những người nộp thuế khác nói cho họ biết sau khi nhận được giấy đăng ký kinh
doanh thì cịn phải thực hiện thủ tục đăng ký thuế để đảm bảo quyền và nghĩa vụ
kê khai của mình. Điều đó chứng tỏ rằng sự phối hợp trong cơng tác quản lý
thuế của các cơ quan có liên quan với Chi cục Thuế cịn yếu.
Chính vì những lý do nêu trên cho nên trong việc xử lý tình huống xử
phạt đối với bà Dưng vừa phải đảm bảo được Pháp luật vẫn được thi hành, vừa
phải đảm bảo hợp tình, khơng để người nộp thuế hiểu nhầm. Tuy nhiên cần xem
xét các yếu tố khách quan, chủ quan tác động vào dẫn đến để xảy ra tình trạng
kê khai chậm như trên của bà Dưng. Tất cả những hình thức xử lý phải mang
tính dăn đe, giáo dục; đảm bảo tính nghiêm minh của Pháp luật và linh động
trong cách xử lý. Mục đích để người nộp thuế nhận thức được hành vi sai trái
của mình, rút kinh nghiệm và thực hiện nghiêm nghĩa vụ của mình với cơ quan
thuế trong những lần sau. Đặc biệt người nộp thuế se không bao giờ tái phạm
với những hành vi tương tự. Đồng thời người nộp thuế cũng sẽ là một tấm
gương để những người kinh doanh khác rút kinh nghiệm và tránh mắc phải
những sai phạm trong quá trình kinh doanh của mình.
PHẦN IV
PHÂN TÍCH NGUN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
Mùi Thu Hiền
7
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
Để phân tích thêm vấn đề này ta cũng cần đánh giá lại cơ chế quản lý của
đội ngũ cán bộ Chi cục thuế thời gian qua, sự tác động qua lại giữa cơ quan thuế
và đối tượng kinh doanh cịn có phần nơi lỏng, dẫn đến các vấn đề tiêu cực nảy
sinh mà ta chưa nắm bắt được kịp thời, có thể gây ra những sai phạm đáng tiếc.
Chẳng hạn như khi hộ kinh doanh có phát sinh nghĩa vụ kê khai thuế nhưng cán
bộ quản lý địa bàn chưa kịp thờ phát hiện, đôn đốc người nộp thuế kê khai nghĩa
vụ của mình. Vì vậy có thể quy trách nhiệm trong vụ việc này:
Nguyên nhân chủ quan:
Trước khi kinh doanh bà Dưng đã không trú tâm tìm hiểu những nội dung,
những yêu cầu, những nghĩa vụ cơ bản mà một người kinh doanh phải thực hiện.
Do đó bà Dưng đã khơng có một chút kiến thức nào về pháp luật về Thuế.
Không biết về nghĩa vụ phải kê khai thuế của mình với cơ quan thuế, với ngân
sách nhà nước.
Cơ quan thuế nơi lỏng trong công tác quản lý hộ kinh doanh của một số
bộ phận, cán bộ tại Đội thuế chuyên quản trung tâm chợ Sốp Cộp, đã không đôn
đốc, nhắc nhở cho đối tượng hộ kinh doanh biết rõ nghĩa vụ của mình, để họ
khắc phục, thực hiện đúng quy trình quản lý thuế. Đồng thời chưa có biện pháp
xử lý kịp thời nhiều trường hợp còn để kéo dài thời gian vi phạm.
Hơn nữa trong công tác tuyên truyền Pháp luật về thuế thực sự chưa có
hiệu quả, chưa đi vào đời sống nhân dân. Công tác tuyên truyền vận động nhân
dân thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước còn nhiều bất cập, gây ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả quản lý hành chính nhà nước về thuế. Đồng thời gây ra
những dư luận không tốt đối với một số bộ phận người nộp thuế, gây hậu quả là
người nộp thuế có cơ hội lách luật, coi thường chính sách thuế, dẫn đến những
thiệt hại đáng tiếc xảy ra đối với công tác thu ngân sách hiện nay.
Công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác quản lý
thuế còn chưa được chặt chẽ. Cụ thể cơ quan phịng tài chính kế hoạch huyện đã
Mùi Thu Hiền
8
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
sau khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho bà Dưng đã không hướng
dẫn bà Dưng đi đăng ký thuế tại cơ quan thuế.
Nguyên nhân khách quan:
Ngồi những ngun nhân chủ quan nêu trên, trong tình huống này phải
kể đến một nguyên nhân ảnh hưởng rất lớn đến hành vi vi phạm của bà Dưng
với việc thực hiện nghĩa vụ của mình với Ngân sách nhà nước. Đó là, trong thời
gian bà Dưng phải thực hiện kê khai thuế với cơ quan thuế thì trong gia đình bà
Dưng có việc tang, việc khơng thể bỏ đi làm bất kỳ một việc nào khác. Chỉ khi
trong gia đình bớt bối dối thì mọi việc mới trở lại bình thường. Khi đó bà Dưng
mới có thời gian đến cơ quan thuế thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bên cạnh đó những chính sách, pháp luật nói chung, pháp luật về Thuế
nói riêng của Nhà nước ta, nếu thực hiện khơng nghiêm, khơng đảm bảo được
tính nghiêm minh của Pháp luật, đảm bảo sự cơng bằng về lợi ích của nhân dân,
người dân sẽ mất lòng tin vào Pháp luật, mất lòng tin vào sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt hơn, Sốp Cộp là một huyện vùng biên, nơi
mà các thế lực thù địch ln để tâm trong chiến lược diễn biến hịa bình, bạo
loạn lật đổ. Chúng sẽ tận dụng mọi sơ hở trong chính sách quản lý của Nhà nước
ta để tuyên truyền chống phá Nhà nước, gây bè phái, cục bộ để khiêu khích
chiến tranh nội bộ. Làm ảnh hưởng xấu đến vấn đề an ninh, chính trị của địa
phương.
Từ những nguyên nhân nêu trên dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của bà
Dưng. Hành vi vi phạm tuy không nghiêm trọng những cũng đã ảnh hưởng đến
công tác quản lý nhà nước của cơ quan thuế trong công tác quản lý thuế. Hơn
nữa, với hành vi vi phạm của mình chắc chắn rằng người nộp thuế sẽ bị xử lý vi
phạm bằng những biện pháp về kinh tế. Điều đó chắc chắn sẽ tác động trực tiếp
đến người nộp thuế, ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình.
PHẦN V
XÂY DỰNG, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT
Mùi Thu Hiền
9
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
Đúc kết lại vấn đề vi phạm, ta có thể xây dựng thành ba phương án để giải
quyết sai phạm như sau:
* Phương án 1:
Thực hiện giữ nguyên ý kiến ban đầu, đúng theo quy định của Luật quản lý thuế,
xử lý nghiêm hành vi, vi phạm để hộ kinh doanh nhận thức rõ sai phạm phạm
của mình, lần sau không dám tái phạm, đồng thời cũng là một hình thức dăn đe
đối với các đối tượng kinh doanh khác.
Hình phạt chính là: Mức vi phạm hành chính căn cứ tại Khoản 2 Điều 5
của Nghị định số 219/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định về
việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi chậm nộp hồ sơ đăng ký thuế
trong trường hợp quá thời hạn đăng ký thuế từ 01 ngày đến 30 ngày là 700.000
đồng (Bảy trăm nghìn đồng)..
Theo phương án này ta nhận thấy ưu điểm của nó là vấn đề tăng cường
pháp chế, đảm bảo thực hiện đúng Luật, Quy trình quản lý thuế, nhằm ngăn
chặn kịp thời những vi phạm của đối tượng nộp thuế.
Tuy nhiên về nhược điểm, có thể nói đây là vấn đề tương đối phức tạp
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của người nộp thuế, và khả năng phát
triển kinh doanh thu hồi vốn của hộ kinh doanh, đồng thời sẽ gây nên những bức
xúc về chính sách thuế đối với người vi phạm, sẽ dẫn đến những hành vi tiêu
cực trong xã hội, điều này dẫn đến các sai phạm khác nhằm chốn tránh trách
nhiệm nghĩa vụ về thuế.
* Phương án 2:
Xử lý vi phạm đúng theo quy định, nhưng số tiền phạt thực hiện theo
hướng dẫn tại thông tư 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 về hướng dẫn thực
hiện xử lý vi phạm pháp luật về thuế. Số tiền xử lý vi phạm bằng số tiền thấp
nhất trong khung hình phạt cộng số tiền cao nhất trong khung hình phạt chia đơi.
Mùi Thu Hiền
10
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
Tức là số tiền phát bà Dưng phải chấp hành là 400.000 + 1.000.000/2 = 700.000
đồng.
Phương án này cũng giống như phương án trên ưu điểm của nó là vấn đề
tăng cường pháp chế, đảm bảo thực hiện đúng Luật, Quy trình quản lý thuế,
nhằm ngăn chặn kịp thời những vi phạm của đối tượng nộp thuế. Hơn nữa số
tiền phạt được giảm xuống một nửa, cũng là hình thức động viên người nộp thuế
trong việc chấp hành quyết định xử phạt.
Nhược điểm cũng giống như hình phạt trên: Ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
ích kinh tế của người nộp thuế, và khả năng phát triển kinh doanh thu hồi vốn
của hộ kinh doanh, đồng thời sẽ gây nên những bức xúc về chính sách thuế đối
với người vi phạm, sẽ dẫn đến những hành vi tiêu cực trong xã hội, điều này dẫn
đến các sai phạm khác nhằm chốn tránh trách nhiệm nghĩa vụ về thuế.
* Phương án 3:
Do người nộp thuế có những lý do chính đáng, lại là vi phạm lần đầu nên
ngồi những hình thức nêu trên có thể có thêm một hình thức xử lý nữa đó là
phạt cảnh cáo người nộp thuế không phạt tiền. Yêu cầu người nộp thuế cam kết
với cơ quan thuế về việc thực hiện nghĩa vụ của mình với ngân sách nhà nước.
Đặc biệt tránh tái phạm.
Ưu điểm của phương án này là không gây thiệt hại về kinh tế cho người
nộp thuế. Người nộp thuế cảm thấy nhẹ nhàng, khơng có tư tưởng bức xúc và
tiếp nhận những hướng dẫn của công chức thuế để thực hiện tốt hơn. Người nộp
thuế thấy được tính nhân đạo trong cách xử lý công việc của cơ quan công
quyền. Người nộp thuế sẽ tự giác hơn trong công tác kê khai thuế với cơ quan
thuế. Điều đó sẽ tác động trở lại công tác quản lý của cơ quan thuế dễ dàng hơn,
dễ chịu hơn.
Nhược điểm, tính dăn đe trong cách xử lý khơng cao có thể nói rằng ở
một số trường hợp nếu áp dụng biện pháp này chắc chắn rằng người nộp thuế sẽ
thấy không sợ những biện pháp xử lý của cơ quan thuế. Và dẫn đến một hệ quả
là tại diễn việc vi phạm của mình.
Mùi Thu Hiền
11
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
Xét qua 3 phương án thì có thể nhận thấy mỗi phương án đều có những
ưu điểm nhất định. Và phương án 2 có thể áp dụng trong tình huống này. Tuy
nhiên trong hồn cảnh gia đình của bà Dưng thì áp dụng phương án 2 cũng là
một hình thức xử phạt khá nặng. Do đo, xét đi xét lại đội đề nghị chọn phương
án 3 là phương án phạt cảnh cáo người nộp thuế mà không phạt bằng tiền.
Ưu điểm lớn nhất trong phương án này là cũng đã phát huy được tính dăn
đe của Pháp luật đối với hành vi vi phạm của người nộp thuế. Lại mang tính linh
hoạt, nhân đạo của Pháp luật. Người nộp thuế sẽ nhận thức được hành vi vi
phạm của mình. Khơng gây thiệt hại về kinh tế cho người nộp thuế, người nộp
thuế sẽ cảm thấy nhẹ nhàng trong việc kê khai và việc thực hiện nghĩa vụ của
mình với ngân sách nhà nước.
Tại đây, công chức thuế cũng có cơ hội tun truyền các chính sách về
pháp luật thuế, người nộp thuế sẽ tiếp thu để không bao giờ vi phạm nữa. Đồng
thời người nộp thuế sẽ là một tuyên truyền viên tích cực sau khi xử lý song,
người nộp thuế sẽ nói, sẽ tuyên truyền để mọi người xung quanh cùng chấp hành
tốt về nghĩa vụ kê khai với ngân sách Nhà nước. Cái được nữa trong phương án
này, đó là người nộp thuế sẽ khơng có ý định trốn tránh trách nhiệm kê khai của
mình, tính tự giác của người nộp thuế được phát huy.
PHẦN VI
KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Khi đã ra quyết định xử lý vi phạm, nhằm đảm bảo tốt hơn trong công tác
quản lý thuế ta cần lên kế hoạch để tổ chức thực hiện như sau:
Tổ chức thực hiện các phần việc ngay sau ngày hộ kinh doanh Lò Thi
Dưng nhận Quyết định sử lý vi phạm của Chi cục thuế huyện Sốp Cộp. Cơ quan
thuế bộ phận chuyên môn về công tác quản lý hộ kinh doanh cá thể (Đội thuế
liên xã) có trách nhiệm phân cơng giao nhiệm vụ cho tập thể, cá nhân có liên
quan chịu trách nhiệm theo dõi giám sát đối với hộ bà Lò Thị Dưng như sau:
Mùi Thu Hiền
12
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
Một là: Đội thuế chuyên quản trung tâm chợ Sốp Cộp có trách nhiệm đơn
đốc hộ kinh doanh thực hiện ngay việc kê khai thuế khoán, nộp thuế Môn bài đối
với việc phát sinh kinh doanh của bà Dưng, tránh vi phạm vào những hành vi vi
phạm khác.
Hai là: Đội Thanh tra, kiểm tra Chi cục thuế có trách nhiệm thường xuyên
kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện các hình vi sai phạm của người nộp thuế cũng
như quá trình triển khai thực hiện của các bộ phận chuyên môn để kịp thời trấn
chỉnh khắc phục. Đồng thời theo dõi quá trình thực hiện theo Quyết định xử lý
của Chi cục thuế đối với bà Dưng.
Ba là: Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền mà Đội Tổng hợp
nghiệp vụ là khâu chủ chốt trong quá trình triển khai các chương trình, cơng tác
tun truyền ở Chi cục thuế. Đồng thời Đội thuế liên xã cũng phải từng bước
nâng cao nhận thức quản lý nhà nước, thường xuyên đơn đốc, tun truyền
những chính sách thuế của nhà nước cho người nộp thuế
PHẦN VII
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Thông qua việc lựa chọn tiểu luận này, để phân tích và xử lý tình huống
xảy ra tơi nhận thấy rằng: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
hiện nay có rất nhiều những vấn đề trong thực tế đời sống xã hội liên quan đến
công tác quản lý hành chính, chính sách pháp luật nhà nước, đặt ra cho chúng ta
những khó khăn về cách giải quyết cũng như sự đảm bảo thoả đáng về quyền lợi
của người nộp thuế. Điều đó khơng chỉ dựa vào chính sách pháp luật, văn bản chỉ
đạo để giải quyết một cách cứng nhắc mà còn rất cần đến những cách giải quyết
vừa hợp tình, vừa hợp lý từ đó sẽ tạo được lòng tin, sự ủng hộ của nhân đối với sự
lãnh đạo nền kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Mùi Thu Hiền
13
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
Trên cơ sở thực tiễn ta đúc kết ra một điều rằng trong khn khổ của
chính sách pháp luật nhà nước ta nói chung, chính sách pháp luật thuế nói riêng
đều bao hàm yếu tố tạo ra sự cơng bằng. Nó thúc đẩy nền kinh tế, xã hội nước ta
ngày một phát triển hơn, văn minh hơn, tiên tiến, hiện đại hơn và ngày càn tiến
xa hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Kiến nghị đề xuất:
Để chính sách pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, đảm bảo
cho mọi công dân phải nhận thức và thực hiện đúng phương trâm: "Sống và làm
việc theo hiến pháp và pháp luật". Có nghĩa là phải có sự giáo dục pháp luật và
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đó cũng là địi hỏi khách quan của sự
nghiệp đổi mới kinh tế hiện nay.
Vì vậy trong công tác quản lý thuế ta cần: Đẩy mạnh hơn nữa công tác
tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật thuế, đa dạng hố cơng tác tun truyền,
nâng cao về chất lượng và hiệu quả trong công tác tuyên truyền. Tăng cường nhiều
hơn nữa các buổi hội thảo, các buổi đối thoại giữa cơ quan quản lý thuế với người
nộp thuế. Thơng qua đó, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế nắm được mục
đích, ý nghĩa của đồng tiền thuế trong việc phát triển kinh tế xã hội.
Những chính sách thuế của nhà nước là nhằm mục đích điều tiết nền kinh
tế quốc dân, phát triển và tăng cường phúc lợi xã hội, qua đó nâng cao ý thức tự
giác chấp hành các nghĩa vụ thuế.
Phối hợp với các ngành chức năng như: Quản lý thị trường, Công an kinh
tế, Phịng Tài chính kế hoạch, các cấp uỷ, chính quyền địa phương,.... tăng
cường giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm khắc những người nộp thuế cố tình vi
phạm nhằm trốn tránh nghĩa vụ của mình với Ngân sách nhà nước và các hành
vi gian lận khác. Đồng thời các cơ quan có liên quan trong cơng tác quản lý thuế
cũng cần phải xác định rõ trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về thuế; phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc quản lý thuế; tạo điều
kiện thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế (Khoản 1, Điều 13,
Luật Quản lý thuế).
Mùi Thu Hiền
14
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
Phối hợp với Ban Tuyên giáo, Đài phát thanh, truyền hình huyện để đẩy
mạnh cơng tác tun truyền, giáo dục pháp luật thuế. Đặc biệt phối hợp tốt với
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện thực hiện tốt đề án phổ biến giáo dục pháp
luật thuế trong các cấp học đường. Duy trì tốt các chuyên trang về thuế trên báo
viết, báo nói, báo hình. Định kỳ tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật Thuế,
qua đó vận động đông đảo các tầng lớp nhân dân hiểu về nghĩa vụ của mình và
tham gia ngày càng tích cực trong công tác quản lý thuế của cơ quan thuế.
Cần hồn thiện hệ thống chính sách pháp luật về thuế, cụ thể về Luật quản
lý thuế và các Luật thuế liên quan cần phải thống nhất về mục tiêu quản lý,
thống nhất về chế độ chính sách, ngơn từ dễ hiểu, sử dụng ngày các ít những văn
bản hướng dẫn kèm theo. Đồng thời Luật cũng đảm bảo tính nghiêm minh, cơng
bằng, tính đại chúng và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát
triển sản xuất kinh doanh của mình. Các chính sách thuế cần thiết thực và có tác
dụng ưu đãi những cá nhân, đơn vị, những vùng địa lý, những ngành kinh tế có
những điều kiện bất lợi trong phát triển kinh tế hoặc là những chiến lược về an
ninh chính trị quốc gia.
Trong công tác học tập thường xuyên của ngành thuế, cần tổ chức nhiều
hơn các buổi tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ, hướng dẫn các chính sách thuế
mới được sửa đổi, bổ sung để công chức trong ngành nắm chắc và triển khai
thực hiện tốt. Phối hợp với các cơ sở đào tạo mở các lớp chuyên ngành về kế
toán, về nghiệp vụ thuế nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho công chức thuế
trong công tác kiểm tra người nộp thuế.
Cuối cùng tôi xin trân thành cảm ơn các thầy cơ giáo , đã nhiệt tình giảng
dạy, truyền đạt kiến thức về thuế giúp tôi hiểu và nắm chắc hơn những kiến
thức về cơng tác quản lý hành chính Nhà nước. Từ đó tơi có những kiến thức
cần thiết phục vụ tốt hơn trong công việc của cơ quan, đơn vị cũng như đáp ứng
tốt các yêu cầu về nghiệp vụ trong quá trình thực thi, linh hoạt trong xử lý các
tình huống nghiệp vụ phát sinh.
Mùi Thu Hiền
15
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp
- Tiểu luận khóa bồi dưỡng nghiệp vụ nghạch kiểm tra viên thuế
T/ÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 của Quốc hội
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ hợp thứ 10; Luật sửa đổi
bổ sung, một số điều của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012
của Quốc hội;
2. Nghị định số 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 quy định về xử lý vi
phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;
3. Thơng tư số 166/TT-BTC ngày 15/11/2013 của Bộ Tài chính Hướng
dẫn thực hiện xử lý vi phạm pháp luật về thuế;
4. Thông tư số 80/2012/TT-BTC ngày 22/05/2012
5. Tài liệu bồi dưỡng Quản lý hành chính nhà nước chương trình chun
viên của Học viên hành chính Quốc gia./.
Mùi Thu Hiền
16
Chi cục Thuế huyện Sốp Cộp