Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tap lam van SKKN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.61 KB, 19 trang )

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KRƠNG BƠNG
TRƯỜNG THCS ...

Tên sáng kiến:
“Phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết dạy học luyện nói ở
phân mơn Tập làm văn”
Loại đề tài: Thuộc bộ môn Ngữ văn

Tác giả: ...
Chức vụ: Giáo viên
Bộ môn giảng dạy: Ngữ văn

Tháng 2 năm 2017


I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài.
Luyện nói là một trong các kĩ năng quan trọng cần hình thành trong q
trình dạy học. Nói khơng chỉ là việc chúng ta phát ra âm thanh, ngơn ngữ trong q
trình giao tiếp, mà nói cần hướng đến mục đích cao hơn đó là: nói là một q trình
của tư duy bằng ngôn ngữ, tư duy lập luận, tư duy để sắp xếp từ ngữ, diễn đạt
nhằm đạt được một mục đích nào đó. Nói mạch lạc, nói có lơgic, nói để thu hút,
thuyết phục người nghe là cả một quá trình phấn đấu rèn luyện của con người nói
chung và học sinh nói riêng. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay và trong thời kì
hội nhập với quốc tế thì kĩ năng nói cần được đề cao và phải được chú trọng trong
các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết khi dạy học mơn Ngữ văn ở trường THCS. Nói để
thuyết phục người khác, nói để chạm đến sự đồng cảm, rung động của người khác
là một sự thành công của con người trong cuộc sống nói chung và trong cơng việc
nói riêng. Nói có vai trị quan trọng là thế, tuy nhiên trong q trình dạy học mơn
Ngữ văn ở đơn vị THCS ... nhiều năm, tôi nhận thấy các tiết dạy học luyện nói
thường khơng thành cơng, chưa đạt được các mục tiêu, yêu cầu như mong đợi của


chương trình cũng như mong muốn của thầy cơ giáo. Chính bởi điều này mà cá
nhân tôi rất trăn trở, luôn suy nghĩ để tìm tịi các cách dạy học, cách hướng dẫn học
sinh. Mong sao mỗi giờ học luyện nói sẽ là một giờ học bổ ích được các em hào
hứng, chờ đợi chứ không phải là một giờ học khiến các em mang nặng tâm lí lo sợ,
trầm lắng, e ngại. Sáng kiến “Phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết
dạy học luyện nói trong phân mơn Tập làm văn” mà tơi đã ấp ủ, tích lũy kinh
nghiệm trong q trình giảng dạy mà tơi sẽ trình bày dưới đây sẽ là một cách làm
để thay đổi tình hình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ cua đề tài.
Sáng kiến “Phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết dạy học
luyện nói trong phân mơn Tập làm văn” hướng đến các mục tiêu sau đây:
Một là: Hình thành kĩ năng nói lưu lốt, mạch lạc, logic, nói để thu hút
người nghe, nói để đạt được mục đích đề ra cho mỗi học sinh.
Hai là:Rèn luyện phong thái, tâm lí tự tin cho học sinh khi đứng trước tập
thể, nơi đông người.
Ba là: Biết kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt với q trình nói để thu hút
người nghe và thuyết phục người nghe.
Bốn là: Có thói quen hình thành, chuẩn bị dàn ý, nội dung trước khi nói.
Năm là: Rèn luyện cho học sinh sử dụng bố cục của một bài luyện nói. Qua
việc luyện nói để giáo dục cho học sinh văn hóa ứng xử, phép lịch sự của con
người: cả ở người nói và người nghe. Nói có nội dung, có trọng tâm trọng điểm,
nói phải chú ý đến thái độ, phản ứng của người nghe. Nghe để hiểu, để đánh giá,
nhận xét, rút kinh nghiệm. Nghe để học tập, nghe để đồng cảm, sẻ chia chứ không
đơn thuần là tiếp nhận âm thanh ngôn ngữ từ người khác.


Sáu là: Qua tiết dạy học luyện nói để mỗi học sinh tự nhận thấy giá trị của
bản thân, để tự khẳng định mình, để tìm thấy niềm vui trong q trình học tập và
rèn luyện ở nhà trường. Kích thích sự sáng tạo, tự tin của những trị học còn yếu,
ngại giao tiếp. Nhất là những học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số.

Bảy là: Hình thành cho các em các phương pháp làm việc, phương pháp lập
kế hoạch cho một giờ học tập thiên về thực hành trong q trình học mơn Ngữ văn
ở trường THCS.
Tám là: Hình thành cho các em các kĩ năng làm Ban tổ chức: giám khảo,
dẫn chương trình, thư kí; kĩ năng làm việc theo nhóm.
Chín là: Hình thành cho các em có tinh thần trách nhiệm đối với cơng việc
chung, trách nhiệm với tập thể, với nhóm, với bạn bè.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Do số lượng học sinh của trường THCS ... khá đông, nên khi thục hiện sáng
kiến “Phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết dạy học luyện nói trong
phân mơn Tập làm văn” bản thân tôi chỉ chon học sinh của các lớp 6A3, 6A4,
6A5 để làm đối tượng nghiên cứu. Tổng số học sinh của ba lớp là 76 em
4. Giới hạn của đề tài.
Do nói là một khái niệm rộng, lại được sử dụng phổ biến trong mọi lĩnh vực
của đời sống. Với khả năng và kinh nghiệm của bản thân cịn hạn chế nên trong đề
tài này, bản thân tơi chỉ xin giới hạn một số nội dung của vấn đề nghiên cứu như
sau:
Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
Làm thế nào để thực hiện một tiết dạy học luyện nói hiệu quả.
Các bước tiến hành một giờ dạy học luyện nói hiệu quả.
Một số kiến nghị, đề xuất.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Từ thực tiễn của công việc dạy học trong những năm qua, bản thân sẽ sử
dụng các phương pháp: Quan sát, đối thoại, thống kê, phân tích, so sánh số liệu đạt
để phục vụ cho sáng kiến “Phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết dạy
học luyện nói trong phân mơn Tập làm văn”

II. Phần nội dung:
1. Cơ sở lí luận.
Nói khơng chỉ đơn thuần là phát ra âm thanh, ngơn ngữ. Nói là kết quả của

một q trình tư duy tổng hợp. Nó là kĩ năng quan trọng trong bốn kĩ năng: nghe,
nói, đọc viết trong quá trình học tập. Trong cuộc sống hàng ngày, ở mọi người đều
cần đến các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp được thực hiện thông qua việc sử dụng
ngôn ngữ được chọn lọc nhằm giúp người khác hiểu được những thơng tin mà
người nói đưa ra, đồng thời giúp cho mục đích giao tiếp đạt được hiệu quả như
mong muốn. Nói cịn biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lí, tính cách của con người.


Nó cịn mang cả giá trị văn hóa, hiểu biết của người nói. Vì thế, giáo dục, rèn luyện
các kĩ năng để thực hành nói năng, vận dụng trong giao tiếp đã được nhân dân ta từ
xã xưa rất chú trọng và đã được đúc kết qua câu tục ngữ:
“ Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau”
Hay “Chim khơn kêu tiếng rảnh rang
Người khơn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”
Với học sinh lớp 6, lớp đầu tiên của bậc học THCS, các em còn gặp nhiều bỡ ngỡ
khi bước vào học tập ở một ngôi trường mới, tiếp cận với nhiều phương pháp giảng dạy
và học tập mới. Quan hệ bạn bè ngày càng mở rộng, yêu cầu phải dùng nhiều kĩ năng nói
trong quá trình học tập ngày cảng nhiều hơn so với khi các em cịn học ở bậc Tiểu học.
Vì vậy thầy cô giáo giảng dạy bộ môn Ngữ văn 6 cần phải quan tâm, đầu tư nhiều cho
những tiết dạy học luyện nói. Muốn rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói thì khơng có

cách nào tốt hơn là thơng qua tiết dạy học luyện nói. Qua tiết dạy học luyện nói,
giáo viên luyện cho học sinh biết vận dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản
đã học để nói đúng, viết đúng, biết diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng.
Hơn nữa giáo viên còn rèn luyện cho học sinh các mặt cụ thể: Lời nói (phải rõ lời,
rõ âm, rõ nghĩa, rõ ý), giọng nói (phải vừa đủ nghe vừa đủ sức truyền cảm) và tư
thế nói (phải mạnh dạn, tự tin), ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ luôn phải hướng đến
người nghe. Có như vậy mới giúp cho lời nói có sức thuyết phục hơn. Mỗi thầy cô
giáo làm tốt điều này tức là chúng ta đã giúp các em học sinh bước đầu có những kĩ năng

để nói năng, giao tiếp tốt để phục vụ cho quá trình học tập hiện tại và trong lao động,
công tác và trong cuộc sống sau này. Dạy học luyện nói cịn giúp các em biết cách chuẩn
bị kế hoạch cá nhân cho công việc của mình. Hình thành cho các em ý tức tự giác trong
quá trình học tập.

2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Trường THCS ... nằm ở địa bàn nông thôn, đa số các em học sinh là con em
của những người nơng dân, ngồi việc đi học, các em cịn phải ra đồng ruộng, lên
nương, lên rẫy để phụ giúp cha mẹ việc đồng áng nên việc vui chơi, giao tiếp, nói
năng phần nhiều chỉ diễn ra ở lớp, ở trường. Vậy nên các em ngại giao tiếp trước
tập thể hoặc những khu vực công cộng, hoặc khi đến thành phố, ngại giao tiếp khi
có người lạ …
Có một thực tế là trong giờ ra chơi ở trường học hoặc những tiết học ngồi
trời, các em nói chuyện, tranh luận với bạn bè rất sơi nổi, nhưng đó là những câu
chuyện phiếm để mua vui, các em nói năng tự do, tùy tiện; các em thường sử dụng
những từ ngữ tục tằn, tiếng lóng … với bạn bè, cịn khi được thầy cơ giáo gọi lên
bảng, đứng trước lớp để trình bày luyện nói trong một tiết học Ngữ văn như luyện
nói thì các em thường lúng túng, gặp nhiều khó khăn bởi vì luyện nói trong giờ học
là các em đang đứng trước một tập thể có tính trang nghiêm, có nhiều ánh mắt của
bạn bè dõi theo, được thầy cô giáo giám sát nên các em phải lựa chọn, suy nghĩ để
nói cho nó phù hợp với yêu cầu của đề bài, phải chú ý đến giọng nói, tác phong …


Qua nhiều năm giảng dạy, cá nhân tôi nhận thấy đây là tiết học khó khăn đối với
học sinh ở vùng nơng thơn, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.
Tiến hành khảo sát 40 học sinh. Tôi đã đề nghị các em cho biết ý kiến của
mình khi học các tiết luyện nói bằng cách đánh dấu x vào bảng thông tin như sau:
PHIẾU THĂM DỊ Ý KIẾN HỌC SINH VỀ TIẾT HỌC LUYỆN NĨI
Em hãy đánh dấu x vào những ô mà em thấy đúng với bản thân mình
1. Tâm lí của em khi lên bảng luyện nói: Tự tin ; Run ; Lo lắng 

2. Tác phong khi trình bày luyện nói: Chững chạc ; khơng dám nhìn xuống lớp 
3. Lời nói khi trình bày: Lưu lốt ; Ấp úng ; Ngắt quãng 
4. Cử chỉ, ánh mát, động tác khi trình bày luyện nói: Sử dụng ; Khơng sử dụng 
5. Thể hiện thái độ, tình cảm khi nói qua giọng điệu: Có ; Khơng ; Ít khi sử dụng 
5. Lên bảng nhưng khơng biết trình bày như thế nào: Có ; Khơng ; Ít khi mắc phải 
Tiến hành thống kê phiếu thăm dò với nội dung như trên, tơi đã có số liệu thống kê
như sau:

Stt

Những biểu hiện khi luyện nói

Số lượng

Tỉ lệ

1

Luyện nói tự tin, tác phong chững chạc;

1

2,5%

2

Biết kết hợp giọng điệu, cử chỉ, ánh mắt để biểu
thị thái độ, tình cảm khi nói.

2


5%

Nói cịn lúng túng, ngập ngừng.

10

25%

3

Lo lắng, run sợ khi phải lên bảng trình bày luyện
nói.

10

25%

4

Khơng biết làm gì khi được thầy cơ gọi lên bảng
trình bày luyện nói.

17

42,5%

Thống kê trên giúp chúng ta có thể nhận định về thực trạng học luyện nói
trong giờ Tập làm văn mà tơi đảm nhận như sau:
Một là: các em thiếu tự tin, bị tâm lí lo sợ lấn át những nội dung mà các em

đã chuẩn bị từ trước.
Hai là: Các em chưa biết cách chuẩn bị chu đáo cho những giờ học luyện
nói hoặc có thể là thầy cơ giáo hướng dẫn chưa tỉ mỉ để giúp các em chuẩn bị bài
học đúng cách.
Ba là: Các em ít khi va chạm trong giao tiếp, nói năng nhất là ở những nơi
trang trọng, nghiêm túc như lớp học.
Bốn là: Các em thiếu những kĩ năng cần thiết để phục vụ cho q trình
luyện nói: mở đầu phải nói như thế nào; sử dụng từ ngữ như thế nào để liên kết
giữa các phần; hay khi kết thúc phải nói như thế nào …


Năm là: Các em chưa thực sự tin vào bản thân mình, chưa phát huy những
sở trường về việc sử dụng ngơn ngữ, chưa phát huy hết tính tích cực, tính tự giác
trong học tập nhất là trong việc học luyện nói trong giờ học Tập làm văn.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp.
Sáng kiến “Phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết dạy học
luyện nói trong phân mơn Tập làm văn” cá nhân tôi sẽ đề ra một số giải pháp

tích cực nhằm hướng tới các mục tiêu như sau:
Nâng cao chất lượng giờ dạy học luyện nói trong phân môn Tập làm văn,
làm cho các em học sinh hứng thú, u thích mơn học. Các em tự tin trong q
trình thực hành luyện nói và tự tin trong giao tiếp.
Với sáng kiến này, cá nhân tôi thiết nghĩ rằng nói khơng chỉ giúp học sinh
nắm chắc các kiểu bài tập của phân môn Tập làm văn trong chương trình ngữ văn
THCS mà qua đó cịn rèn luyện, củng cố cho học sinh 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói,
đọc, viết. Đặc biệt là kĩ năng nói. Học sinh từ chỗ cịn lo lắng, rụt rè, nói cịn ngập
ngừng, vấp váp, nói thiếu tính biểu cảm, nói chưa thu hút được sự chú ý, chưa kích
thích được sự hào hứng của người nghe; đến chỗ nói một cách lưu lốt, ngừng nghỉ
đúng chỗ; hơn nữa nói có sự kết hợp với ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, thái độ, tình

cảm. Khơng những thế, qua các tiết học luyện nói, giáo viên còn phát hiện những
hạn chế của học sinh như:
Việc chuẩn bị trước khi nói, bao gồm: lập dàn ý, cách tạo lập một văn bản
luyện nói; lập kế hoạch tập nói; các phương pháp, cách thức luyện nói hiệu quả.
Việc dùng từ ngữ của văn nói; cách mở đầu, kết thúc một bài (nội dung, đề
tài) luyện nói.
Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng thể hiện, bộc lộ những suy nghĩ, những
ý tưởng thành những lời nói, thành những lập luận để thuyết phục người nghe.
Rèn luyện cho các em học sinh những kĩ năng giao tiếp, ứng xử khi còn ngồi
trên ghế nhà trường để phục vụ cho cuộc sống sau này.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp:
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết học luyện nói trong giờ
Tập làm văn, bản thân tôi đã xác định mục tiêu của các tiết day học luyện nói là:
Ưu tiên cho học sinh thật nhiều cơ hội để được nói – học sinh nào cũng ít nhất
một lần được đúng trước lớp để nói trong một học kì, các em sẽ nói từ những vấn
đề từ dễ đến khó cả về độ dài lẫn nội dung; các em được trình bày, được nêu ra ý
kiến bàn luận của mình, được học tập quá trình tổ chức và tự tổ chức một giờ học
luyện nói dưới sự hướng dẫn của thầy cơ giáo.
Qua nhiều năm giảng dạy và tìm hiểu tâm lí của học sinh, tơi nhận thấy
muốn phát huy được tính tích cực của học sinh trong các tiết dạy học luyện nói,
người giáo viên phải định thực hiện các bước với các công việc cụ thể như sau:


Bước 1: Giáo viên thông báo cho học sinh kế hoạch học tập giờ học
luyện nói
Đây là bước định hướng đầu tiên để học sinh có tính chủ động, các em có
tâm thế, sẵn sàng để đón nhận tiết học cho tuần tiếp theo. Công việc này người
giáo viên nên thực hiện như thế nào, theo tôi chúng ta cần làm như sau:
Một là: Thông báo về thời gian chuẩn bị bài ở nhà cho học sinh.
Công việc này tưởng chừng như đơn giản, khơng có nhiều ý nghĩa, nhưng

nếu người giáo viên định hướng thật tốt, thật rõ ràng, thật tỉ mỉ bao nhiêu thì hiệu
quả của tiết học càng cao bấy nhiêu và ngược lại. Vậy thông báo kế hoạch học tập
cho giờ học luyện nói như thế nào thì hiệu quả. Theo quan điểm của cá nhân tơi thì
giáo viên nên thực hiện thơng báo cố định và thông báo thường xuyên:
Thông báo cố định: Là thông báo trước từ 5 đến 7 ngày trước khi có tiết
luyện nói. Cơng việc này nên thực hiện ở tiết cuối cùng của mơn học của tuần
trước đó. Nếu thơng báo sớm hơn nữa thì học sinh dễ quên do các em cịn phải
chuẩn bị cho nhiều mơn học khác nữa, nếu thơng báo chậm hơn thì học sinh sẽ
khơng chuẩn bị kịp, hoặc chuẩn bị qua loa để đối phó với thầy cơ giáo.
Thơng báo thường xun: Là Thơng báo mang tính nhắc nhở ở trong tuần
có tiết dạy học mà giáo viên phụ trách (đến tiết giảng dạy của mình trước khi có
tiết luyện nói), việc làm này nhằm tác động đến tâm thế chuẩn bị của các em, đồng
thời giáo viên trợ giúp các em những vấn đề khó khăn trong q trình chuẩn bị bài
luyện nói.
Bước 2:: Thông báo cho học sinh về các đề bài để học sinh luyện nói.
Thơng thường khi đến tiết học luyện nói, sách giáo khoa Ngữ văn các khối
lớp đều có đưa ra các đề để yêu cầu các em luyện nói, Chẳng hạn như tiết học
luyện nói kể chuyện ở khối 6, sách giáo khoa có các đề như sau:
Tự giới thiệu về bản thân mình.
Giới thiệu về người bạn mà em u q.
Kể về gia đình mình.
Kể về một ngày hoạt động của mình …
Hay khi dạy học tiết luyện nói về văn miêu tả ở khối 6, sách giáo khoa có
các đề như sau:
Em hãy tả lại bằng miệng quang cảnh lớp học trong “Buổi học cuối cùng”.
Em hãy tả lại bằng miệng cho các bạn nghe về hình ảnh thầy giáo Ha-men.
Nếu thầy cơ giáo chỉ sử dụng các đề như vậy thì trong một tiết học sẽ gây ra
sự nhàm chán đối với học sinh vì có thể các em phải nghe nhiều người sẽ nói cùng
một đề bài, trong khi có rất nhiều đề bài thú vị, thiết thực lại khơng có cơ hội để
được trình bày. Như vậy sự đa dạng trong một tiết học sẽ bị hạn chế, kém phần

sinh động, học sinh kém phần hứng thú khi tham gia học tập. Theo tôi, để khắc


phục các hạn chế nêu trên do sự định hướng của các đề ở sách giáo khoa, thầy cô
giáo nên khắc phục bằng cách:
Sử dụng nhiều đề bổ trợ, đa dạng, sát với thực tế của cuộc sống, gần gũi
với các em, phản ánh được những hoạt động của em và quan trong trọng hơn là có
độ khó về kiến thức từ dễ đến khó, ví như các đề kể chuyện, thầy cơ giáo có thể bổ
sung thêm các đề:
Kể về một buổi sinh nhật mà em ấn tượng nhất.
Kể về sân trường của em trong giờ ra chơi.
Kể về lớp học của em.
Kể về một món ăn mà em u thích.
Kể về một lồi vật ni mà em u quí.
Kể về một câu chuyện mà em biết …
Hay bổ sung thêm các đề văn miêu tả như:
Tả lại bằng miệng về người bạn thân của em.
Tả lại bằng miệng về ngôi nhà hiện nay em đang ở.
Tả lại bằng miệng về ông, bà, anh, chị, em của em.
Tả lại bằng miệng về cô giáo cũ của em.
Tả lại bằng miệng về một con vật ni mà em u thích.
Tiến hành giao việc, giao nhiệm vụ cho từng nhóm, từng đối tượng học
sinh cụ thể. Giáo viên nên tiến hành phân thành nhiều nhóm học sinh trước khi
giao nhiệm vụ. Với những học sinh yếu kém, thiếu tự tin trong giao tiếp thì giáo
viên nên giao cho các em những đề dễ; những yêu cầu luyện nói nhẹ hơn như:
nói phần mở bài, kết bài hoặc nói một phần (ý lớn) trong phần thân bài, sau đó
nâng dần về mức độ, yêu cầu cao hơn. Các nhóm có học lực tốt hơn, có sự tự tin
trong giao tiếp thì giáo viên yêu cầu các em chuẩn bị những công việc khó hơn
như nói cả một bài đã chuẩn bị, nói phải thể hiện được tình cảm, thái độ đối với
sự việc và nhân vật …

Sau khi thông báo kế hoạch học tập và giao nhiệm vụ cho các nhóm, trong
các giờ dạy học tiếp theo giáo viên phải thường xuyên nhắc nhở, đơn đốc, nắm tình
hình chuẩn bị cho tiết học luyện nói, tránh việc học sinh sẽ bị quên hoặc các em cố
tình quên. Đây là hiện tượng khá phổ biển, nhất là những học sinh học yếu kém,
không ham thích việc học tập nói chung và học Ngữ văn nói riêng.
Bước 3: Hướng dẫn các em cách chuẩn bị cho tiết học luyện nói.
Một là: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị nội dung, dàn ý cho bài luyện nó.i
Đây là khâu rất quan trọng trong tiết dạy học luyện nói, bởi vì nếu khơng có
sự chuẩn bị của học sinh thì lên lớp các em lấy cái gì để luyện nói, để thực hành.
Nhưng rất nhiều em lúng túng hoặc khơng biết mình cần phải chuẩn bị những gì,
chuẩn bị nội dung, dàn ý cho bài luyện nói nó có khác gì so với chuẩn bị bài cũ và


các tiết học thường ngày. Học sinh không biết nên bắt đầu từ đâu … Đây là những
cơng việc khó, cần phải có sự hướng dẫn của thầy cơ giáo. Để có một giờ dạy học
luyện nói hiệu quả, thầy cô giáo cần hướng dẫn tỉ mỉ, giúp đỡ để các em có nội
dung, sản phẩm tham dự giờ học mang tính thực hành cao. Với học sinh lớp 6, cá
nhân tôi thường hướng dẫn các em trả lời các câu hỏi sau bằng cách ghi chép vào
cuốn vở nháp như sau:
Xác định được đối tượng (kể, tả) mà em sẽ chọn (hoặc được giao nhiệm vụ)
để luyện nói.(hoặc trả lời câu hỏi kể, tả về đối tượng nào?); vì sao em lại chọn đối
tượng đó?
Đối tượng đó có những đặc điểm gì nổi bật, giàu ý nghĩa mà đối tượng khác
khơng có? ngoại hình, vóc dáng, khn mặt, mái tóc, làn da, nụ cười, cử chỉ, nói
năng, tính tình, sở thích, cơng việc, quan hệ với mọi người; em sẽ liên tưởng đến
đối tượng nào có đặc điểm tương đồng hoặc khác biệt để làm nổi bật đối tượng sẽ
trình bày luyện nói? …
Em thấy ấn tượng về đối tượng ấy về điều gì nhất? Vì sao? (đối với đề bài là
kể hoặc tả người)
Đối với đề bài: kể, tả về sự vật, phong cảnh, thì giáo viên cũng có những câu

hỏi mang tính định hướng tương tự như:
Xác định được đối tượng (sự vật, phong cảnh) mà em sẽ chọn (hoặc được
giao nhiệm vụ) để luyện nói.(hoặc trả lời câu hỏi kể, tả về đối tượng nào?); vì sao
em lại chọn đối tượng đó?
Đối tượng đó có những đặc điểm gì nổi bật, giàu ý nghĩa mà đối tượng khác
khơng có?
Đặc điểm nổi bật bên ngồi: màu sắc, hình dáng, cử chỉ, hoạt động nào đáng
yêu? Hoặc vị trí địa lí, cảnh vật nổi bật về cây cối, kiến trúc, thời tiết, khí hậu …;
em sẽ liên tưởng đến đối tượng nào có đặc điểm tương đồng hoặc khác biệt để làm
nổi bật đối tượng sẽ trình bày luyện nói? …
Em thấy ấn tượng về đối tượng ấy về điều gì nhất? Vì sao?
Hai là: Hướng dẫn các em chuẩn bị dàn ý cho bài luyện nói.
Để có một bài luyện nói đủ sức thuyết phục người nghe thì trước hết bài nói
đó phải có nội dung, được trình bày theo một thứ tự phù hợp. Muốn vậy người nói
phải có sự chuẩn bị chu đáo, có thể có nhiều cách khác nhau, nhưng đối với học
sinh các em cịn ít kinh nghiệm, vốn sống cịn hạn chế, vốn từ cịn ít, chưa thể linh
hoạt trong thực tế khi trình bày bằng miệng trước tập thể thì cách tốt nhất là các em
phải chuẩn bị bằng cách viết ra giấy. Nhiều em thường chuẩn bị bằng cách viết
thành bài văn hồn chỉnh nhưng sẽ gặp khó khăn khi biến văn bản viết thành văn
bản nói vì nội dung q dài, người nói khơng thể nhớ hết các vấn đề đã chuẩn bị.
Để khắc phục hạn chế nêu trên, cá nhân tôi thường hướng dẫn học sinh chuẩn bị
dàn ý cho bài luyện nói như sau:


Chuẩn bị dàn ý theo bố cục ba phần, nhưng là dàn ý khái quát, theo kiểu
trả lời các câu hỏi có trong mỗi phần, có thể thêm bớt khi nói mà khơng ảnh
hưởng đến cấu trúc, nội dung của một bài luyện nói. Chẳng hạn như:
Mở bài: trả lời các câu hỏi kể, tả về đối tượng nào? Vì sao em lại chọn đối
tượng đó?
Em sẽ sử dụng những câu văn nào để dẫn dắt đối tượng luyện nói trong phần

mở bài?
(Ví dụ với đề bài là “Kể bằng miệng về người thân của em”, thì câu văn dẫn
dắt vào phần mở bài có thể là: Trong gia đình của em có bốn thành viên, ai em
cũng yêu, ai em cũng quí, những người mà em yêu quí nhất vẫn là mẹ của em, vì
mẹ vừa là người có cơng sinh thành, vừa hết lịng chăm sóc, u thương, nuôi
dưỡng, dạy dỗ em thường ngày (1) …)
Thân bài:
Trả lời các câu hỏi đối với đề bài kể, tả người như sau:
Đối tượng đó có những đặc điểm gì nổi bật, giàu ý nghĩa mà đối tượng khác
khơng có? ngoại hình, vóc dáng, khn mặt, mái tóc, làn da, nụ cười, cử chỉ, nói
năng, tính tình, sở thích, cơng việc, quan hệ với mọi người; em sẽ liên tưởng đến
đối tượng nào có đặc điểm tương đồng hoặc khác biệt để làm nổi bật đối tượng sẽ
trình bày luyện nói? …
Em thấy ấn tượng về đối tượng ấy là điều gì nhất? Vì sao?
Trả lời các câu hỏi đối với đề bài kể, tả phong cảnh như sau:
Đối tượng đó có những đặc điểm gì nổi bật, giàu ý nghĩa mà đối tượng khác
khơng có?
Đặc điểm nổi bật bên ngồi: màu sắc, hình dáng, cử chỉ, hoạt động nào đáng
yêu? Hoặc vị trí địa lí, cảnh vật nổi bật về cây cối, kiến trúc, thời tiết, khí hậu …;
em sẽ liên tưởng đến đối tượng nào có đặc điểm tương đồng hoặc khác biệt để làm
nổi bật đối tượng sẽ trình bày luyện nói? …
Em thấy ấn tượng về đối tượng ấy về điều gì nhất? Vì sao?
Trong phần thân bài sẽ có nhiều đoạn văn (nhiều ý), em sẽ sử dụng phương
tiện gì để liên kết giữa các phần, các đoạn với nhau? (chọn từ ngữ nào? Câu văn
nào?
Chẳng hạn: nếu phần mở bài em sẽ nói: … dạy dỗ em thường ngày. (1)
Thì phần đầu tiên của thân bài em nên sử dụng từ ngữ “mẹ em” để liên kết
giữa phần thân bài với phần mở bài. Khi đó ta sẽ có các phần của bài văn được
liên kết như sau:
Trong gia đình của em có bốn thành viên, ai em cũng yêu, ai em cũng quí,

những người mà em yêu quí nhất vẫn là mẹ của em, vì mẹ vừa là người có cơng
sinh thành, vừa hết lịng chăm sóc, u thương, ni dưỡng, dạy dỗ em thường
ngày.


Mẹ em tên thật là …, năm nay mẹ em vừa tròn 35 tuổi …
Kết bài: Học sinh trả lời các câu hỏi đối với đề bài kể, tả trong phần luyện
nói như sau:
Em thấy đối tượng (kể, tả) để lại trong em những tình cảm, cảm xúc gì? Em
nên làm gì để đối tượng (kể, tả) ln ln được hiện hữu trong cuộc sống của bản
thân và mọi người xung quanh?
Bước 4: Hướng dẫn học sinh tập luyện nói ở nhà (tự luyện nói).
Với khả năng và vốn từ, vốn kiến thức và vốn sống như các em học sinh
THCS, đặc biệt là các em học sinh khối 6, nếu chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn để
các em có một dàn ý cho tiết học luyện nói thì chưa đủ, mà cần hướng dẫn cách tập
dượt, thực hành thử việc biến một kịch bản thành một bài luyện nói. Bởi vì các em
thường có tâm lí chủ quan, các em cứ nghĩ rằng mình đã chuẩn bị được một dàn ý
là có thể nói được, trình bày được những nội dung liên quan, cho nên khi được yêu
cầu luyện nói trong các tiết học thì các em cịn lúng túng, ấp úng, nói khơng trơi
chảy, khơng mạch lạc. Có khi các em chỉ tập trung để nhớ những nội dung cần nói
mà quên mất những cử chỉ, ánh mắt để giao lưu, thu hút sự chú ý của người nghe.
Vì vậy bước tập luyện nói ở nhà là một khâu rất quan trọng. Thầy cô giáo cần
hướng dẫn các em luyện nói sao cho khơng biến nó thành công việc học thuộc
một cách nặng nề, mất nhiều thời gian, công sức của các em. Theo tôi chúng ta
nên hướng dẫn các em cách tập luyện như sau:
Khi luyện nói các em phải bám sát dàn ý mà mình đã chuẩn bị. Nói thành
tiếng chứ khơng nên nói thầm, hay chỉ nghĩ trong đầu, trong tâm trí mà khơng nói
thành lời.
Tập nói thành từng phần: mở bài, thân bài, kết bài. Riêng phần thân bài các
em nên nói thành các ý để tập hợp thành một phần hoàn chỉnh.

Linh hoạt để lựa chọn thời gian trong việc tập nói như: giải lao, nghỉ ngơi,
thời gian thư giãn để luyện nói. Ví dụ như giờ ra chơi, khi đi tập thể dục, hay trong
thời gian làm việc nhà để phụ giúp cha mẹ. Sử dụng, kết hợp thời gian như vậy vừa
giúp các em khơng bị căng thẳng; vừa có thể học bài, vừa có thể làm được những
việc khác. Như vậy việc luyện nói có thể xem như một cách để chúng ta thư giãn,
có nhiều cơ hội để những bạn trong lớp, trong nhóm có thể nghe, góp ý cho nhau.
Khơng nhất thiết phải nói đúng các từ ngữ, các câu mà các em đã chuẩn bị,
có thể linh hoạt thay đổi từ ngữ, câu văn nếu các em thấy điều đó sẽ giúp mình nói
năng dễ dàng hơn mà không ảnh hưởng đến ý nghĩa của câu hoặc không gây phản
cảm cho người nghe.
Khi đã thành thạo trong việc nói năng, các em nên đứng trước gương để tập
nói với việc kết hợp với cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, việc di chuyển khi nói. Bởi vì
nhìn vào gương để tự mình sửa chữa những khiếm khuyết của bản thân.
Có thể thời gian đầu, bài đầu các em sẽ mất nhiều thời gian cho những việc
làm nêu trên, nhưng từ những bài sau các em đã hình thành cho mình những kĩ


năng cần thiết cho việc luyện nói. Khi đó mọi việc đến với các em dễ dàng hơn,
hào hứng hơn, mất ít thời gian hơn.
Bước 5: Bước thực hành trên lớp.
Để tiết học có hiệu quả và mang đến cho các em sự hào hứng, thích thú với
giờ học. Thơng qua giờ học không những giúp học sinh củng cố các kiến thức cơ
bản mà cịn hình thành cho các em những kĩ năng cần thiết khác ở trong cuộc
sống. Bởi vậy cá nhân tôi khi dạy học cho học sinh ở phần này thường chia làm
nhiều bước, cụ thể như sau:
Một là: Giáo viên nên chia lớp học thành nhiều nhóm nhỏ, theo hướng
những em cùng đề bài, cùng nhiệm vụ luyện nói sẽ được ngồi gần nhau.
Hai là: Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cấu trúc của một bài luyện nói để
đảm bảo tính trang nghiêm và tính giáo dục, theo đó khi nói các em cần đảm bảo 3
phần sau đây:

Phần mở đầu: người nói phải có lời thưa gửi, chào hỏi mọi người, tự giới
thiệu đôi nét về bản thân và đề bài sẽ chọn để nói. Chẳng hạn:
Kính thưa thầy, cơ giáo bộ mơn Ngữ văn
Xin được chào mừng tất cả các bạn học sinh lớp 6A1
Em tên … trong giờ học luyện nói hơm nay, em xin được trình bày phần
luyện nói cho đề bài …
Phần trình bày nội dung chính: Trình bày đủ nội dung theo ba phần mở
bài, thân bài, kết bài như đã chuẩn bị.
Phần kết thúc: người nói phải có lời cảm ơn đối với người nghe. Chẳng
hạn:
Phần trình bày nội dung luyện nói của em đến đây là hết. Em xin chân
thành cảm ơn thầy, cô giáo và toàn thể các bạn đã quan tâm theo dõi. Rát mong
nhận được những lời nhận xét, đóng góp ý kiến từ thầy, cơ và tồn thể các bạn.
Ba là: Giáo viên dành từ 3 đến 5 phút để tự các em trong nhóm kiểm tra bài
cho nhau – nói thử cho các bạn trong nhóm cùng nghe, cùng góp ý.
Bốn là: Gọi học sinh luyện nói.
Trước hết giáo viên nên ưu tiên cho những học sinh lần đầu tiên có tinh thần
xung phong để khích lệ việc tự giác học tập của học sinh ở nhà. Sau đó ưu tiên cho
những em học sinh học yếu, chưa tự tin khi nói trước tập thể: các đối tượng này chỉ
nói phần mở bài và một ý của phần thân bài. Hoặc chỉ yêu cầu nói một ý của phần
thân bài và phần kết bài. Ví dụ:
Cho đề bài: Từ truyện Buổi học cuối cùng, em hãy tả lại bằng miệng cho các
bạn nghe về hình ảnh thầy giáo Ha-men.
Với đề bài như trên, nếu thầy cô giáo mà giao nhiệm vụ cho đối tượng học
sinh yếu kém thì các em khơng thể thực hiện, hoặc nếu có thì cũng chỉ mang tính
đối phó. Vì vậy giáo viên nên chia thành nhiều ý trong phần than bài để dành


riêng, giao nhiệm vụ cho học sinh yếu kém hoặc học sinh chưa tự tin trong giao
tiếp từng ý lớn như sau:

Ý 1: Thầy Ha-men trong buổi học cuối cùng là người như thế nào? (Gợi ý:
thái độ, trách nhiệm nghề nghiệp, tình u với nghề, tấm lịng với tổ quốc, với
nhân dân).
Ý 2: Hơm đó thầy sử dụng trang phục khi đến lớp có gì khác với mọi ngày
lên lóp khơng? Vì sao thầy Ha-men lại làm như vậy?
Ý 3: Giọng nói của thầy trong buổi học cuối cùng ra sao? Cử chỉ và thái độ
của thầy như thế nào khi Phrăng đến lớp muộn và không học bài? (Gợi ý: thầy nói
điều gì, nói với ai, giọng điệu, cử chỉ của thầy khi nói, em nên có sự so sánh với
những hơm đi dạy học bình thường).
Ý 4: Nét mặt, lời nói và hành động của thầy vào cuối buổi học như thế nào?
Điều đó đã nói lên điều gì về con người của thầy Ha-men?
Cách làm này nhằm giúp học sinh khơng bị ngợp vì cảm thấy mình khơng
thể làm được, giao những cơng việc học tập vừa sức để kích thích sự hào hứng
của các em, trao cho các em cơ hội để khẳng định mình, từ bỏ tính tự ti trong
học tập, và các em cảm thấy mình vẫn được tơn trọng khi đến trường, đến lớp,
cảm thấy mình khơng phải là những học sinh thừa, bị bỏ rơi giữa một tập thể
đông người. Sau một vài lần như thế, giáo viên nên tăng dần về mức độ để các em
có sự cố gắng trong học tập. Riêng những em học sinh học khá giỏi thì yêu cầu các
em phải trình bày đầy đủ cả bài luyện nói: bao gồm phần mở đầu, phần nội dung –
tất cả các ý chính như trên và phần kết thúc, đồng thời còn yêu cầu thêm, yêu cầu
cao hơn về cách thể hiện.
Năm là: Giáo viên tổ chức cho học sinh nhận xét, góp ý về phần luyện nói
của bạn.
Bước nhận xét góp ý về phần luyện nói cho người trình bày là một cách học
tập tương tác. Việc nhận xét góp ý vừa nêu cao tinh thần trách nhiệm của người
nghe, vừa là cơ hội để các em học tập những ưu điểm của người trình bày luyện
nói, đồng thời rút ra những hạn chế để đến lượt mình có thể nói một cách tốt hơn.
Đối với người được góp ý từ các bạn đồng trang lứa cũng kích thích các em có sự
nỗ lực, cố gắng hơn ở lần học tập tiếp theo. Để phần góp ý nhận xét có hiệu quả,
thầy cơ giáo khơng nên khốn trắng cho học sinh mà phải có phần định hướng để

các em biết cách làm, cách góp ý trọng tâm. Cá nhân tôi thường định hướng cho
học sinh của mình cách góp ý cho phần luyện nói của các bạn bằng các nội dung
cụ thể như sau:
Thứ nhất: nhận xét về nội dung trình bày luyện nói của bạn bằng các câu
hỏi định hướng như sau:
Nội dung trình bày luyện nói đã đúng với yêu cầu của đề chưa? Nội dung đó
đã thể hiện như thế nào so với dàn ý mà người nói hoặc nhóm đã chuẩn bị?
Nội dung trình bày luyện nói đã làm nổi bật được các sự việc, các đặc điểm
của đối tượng cần trình bày chưa?


Cách sử dụng từ ngữ của bạn trong khi nói có phù hợp hay khơng? (có sử
dụng từ ngữ địa phương, từ vay mượn, tiếng lóng …)
Bạn có sử dụng các phương tiện để liên kết các phần, các đoạn văn với nhau
để làm cho bài luyện nói được gắn kết hay khơng?
Thứ hai: Nhận xét về cách trình bày luyện nói của bạn bằng các câu hỏi
định hướng như sau:
Phần trình bày của bạn đã lưu lốt, mạch lạc hay chưa?
Khả năng nói để thu hút, gây sự chú ý của người nghe mà bạn thể hiện như
thế nào: cử chỉ, ánh mắt, đi đứng, cách biểu cảm trên khn mặt …
Giọng nói, âm lượng, tốc độ phát âm khi nói có dễ nghe khơng? Có đủ nghe
khơng?
Thứ ba: Tổ chức để học sinh tiến hành góp ý, nhận xét.
Giáo viên ưu tiên cho những học sinh cùng nhóm, cùng đề bài luyện nói
phát biểu ý kiến trước vì những em này đã có cơ sở để đối chiếu, nhận xét. Sau đó
là ý kiến tự nguyện của những học sinh khác.
Giáo viên dành thời gian để người trình bày luyện nói phản hồi lại những ý
kiến đã góp ý (nếu có).
Thứ tư: Sau khi dành thời gian cho các em nhận xét, góp ý cho nhau, giáo
viên mới bổ sung phần ưu điểm, nhược điểm, những lỗi nên tránh về phong cách,

đi đứng, dùng từ, diễn đạt, sắc mặt, ánh mắt … trong quá trình mà các em thực
hiện noi trước lớp. Ở phần này giáo viên nên khích lệ, động viên bằng cách khen
nhiều, khen những điểm tích cực, tiến bộ mà các em đã thực hiện được, đã rút
được kinh nghiệm từ những bạn đã trình bày trước.
Năm là: Giáo viên đánh giá bằng điểm số, thầy cơ giáo nên tìm những điểm
tích cực, những điểm mà các em đã có cố gắng để đánh giá bằng điểm số. Khơng
nên lấy những tiêu chí chung, mức độ chung để đánh giá cho điểm, mà nên có sự
thơng báo, phân tích về điểm số mà các em yếu kém đạt được so với các em học
khá giỏi để học sinh không hiểu nhầm về sự thiên vị của các thầy cô giáo.
Bước 6: Tổ chức thành cuộc thi luyện nói giữa các em học sinh trong
lớp.
Hình thức này chỉ nên tiến hành khi giáo viên nhận thấy các em học sinh đã
thành thạo trong các giờ học luyện nói: từ việc chuẩn bị nội dung, khả năng trình
bày đến việc góp ý … Nên thực hiện từ giữa học kì I trở đi. Hình thức học tập
này tổ chức để các em học tập các kĩ năng phối hợp để làm việc tập thể. Hình
thành cho học sinh cách thức và kĩ năng tổ chức các sự kiện nhỏ như: biết cách xây
dựng kế hoạch, phân công trách nhiệm cho nhau-bộ phận trang trí, kẻ vẽ; dẫn
chương trình, ban giám khảo, tổ thư kí. Đồng thời tạo ra một bầu khơng khí mới
trong q trình học tập. Hình thức học tập này nên chia ra thành nhiều giai đoạn.
Cụ thể như sau:
Giai đoạn 1: Tổ chức cuộc thi luyện nói trong một lớp.


Giáo viên cho học sinh đăng kí, tự chọn một đề bài để tập luyện và tham dự
cuộc thi.
Giáo viên trực tiếp hướng dẫn, chỉ định học sinh thực hiện trang trí, sắp xếp
lại bàn ghế, chọn một em nói lưu lốt để dẫn chương trình, chọn ba học sinh khá
giỏi làm giáo khảo, và một học sinh làm thư kí để ghi chép kết quả. Sau đó u cầu
học sinh tổ chức cuộc thi luyện nói:
Người dẫn chương trình thông qua những qui định của cuộc thi, thông báo

thứ tự của những người tham dự cuộc thi.
Người dự thi sẽ lần lượt trình bày nội dung luyện nói, giám khảo tiến hành
chấm điểm và chuyển qua thư kí để tổng hợp.
Người dẫn chương trình cơng bố kết quả. Sau đó mời giáo viên phát biểu
tổng kết, trao giải (nếu có).
Giai đoạn 2: Tổ chức cuộc thi luyện nói giữa các lớp (Hoạt động ngoại
khóa).
Ở giai đoạn này giáo viên có thể tổ chức thi giữa các lớp mà mình giảng dạy
hoặc có thể phối hợp với các giáo viên khác dạy cùng khối để thực hiện. Tất nhiên
việc làm này phải có sự đồng tình, ủng hộ của Ban giám hiệu nhà trường.
Hình thức dạy học này tuy khá vất vả với thầy cô giáo nhưng bù lại chúng ta
lại nhận được sự học tập hào hứng của các em học sinh. Tạo ra một sân chơi trí tuệ
để các em vừa học tập, vừa giao lưu học hỏi lẫn nhau, vừa có thể áp dụng trong
cuộc sống của các em ở hiện tại và trong tương lai.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Các giải pháp mà cá nhân tơi đã trình bày ở phần nêu trên có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Các giải pháp đã nêu vừa đảm bảo các nguyên tắc dạy học theo
qui định. Nó vừa có tính kế thừa, giải pháo trước là cơ sở cho giải pháp sau, giải
pháp sau sẽ phát triển ở mức độ cao hơn, cụ thể hơn giải pháp trước. Và nếu không
thực hiện ở bước trước thì sẽ khó thực hiện ở các bước tiếp theo.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm
vi và hiệu quả ứng dụng.
Sau một quá trình áp dụng đề tài nghiên cứu, tôi đã tiến hành kiểm tra, đánh
giá bằng việc thống kê kết quả học tập của các em học sinh, bằng việc lấy phiếu
thăm dò ý kiến của học sinh trong các giờ học luyện nói, tơi đã thu được kết quả
như sau:
Về kết quả học tập (thống kê điểm số mà học sinh đạt được trong các giờ
học luyện nói)
Lớp



số

Kết quả thống kê khi chưa áp
dụng đề tài
Khá
giỏi

Trên Tb

Dưới Tb

Kết quả thống kê sau khi áp dụng đề
tài
Khá giỏi

Trên Tb

Dưới Tb


SL TL

SL

TL

SL

TL


SL

TL

SL

TL

SL

TL

6A3 27

0

0%

12 44,4% 15

5,6%

4

14,8% 16 59,3%

7

25,9%


6A4 27

0

0%

13 48,1% 14 51,9%

5

18,5% 15 55,6%

7

25,9%

6A5 22

0

0%

9

3

13,6% 13 59,1%

7


27,3%

40,9% 13 59,1%

Về việc thăm dò ý kiến của học sinh sau khi áp dụng đề tài, tôi đã sử
dụng mẫu phiếu và số lượng học sinh (40 em) như trước khi áp dụng đề tài:
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH VỀ TIẾT HỌC LUYỆN NĨI
Em hãy đánh dấu x vào những ơ mà em thấy đúng với bản thân mình
1. Tâm lí của em khi lên bảng luyện nói: Tự tin ; Run ; Lo lắng 
2. Tác phong khi trình bày luyện nói: Chững chạc ; khơng dám nhìn xuống lớp 
3. Lời nói khi trình bày: Lưu lốt ; Ấp úng ; Ngắt quãng 
4. Cử chỉ, ánh mát, động tác khi trình bày luyện nói: Sử dụng ; Khơng sử dụng 
5. Thể hiện thái độ, tình cảm khi nói qua giọng điệu: Có ; Khơng ; Ít khi sử dụng 
6. Lên bảng nhưng khơng biết trình bày như thế nào: Có ; Khơng ; Ít khi mắc phải 

Tiến hành thống kê phiếu thăm dò với nội dung như trên, tơi đã có số liệu
thống kê như sau:
Stt

Những biểu hiện khi luyện nói

Trước khi áp
dụng đề tài

Sau khi áp dụng
đề tài

1


Luyện nói tự tin, tác phong chững
chạc;

1

2,5%

16

40%

2

Biết kết hợp giọng điệu, cử chỉ, ánh
mắt để biểu thị thái độ, tình cảm khi
nói.

2

5%

17

42,5%

Nói cịn lúng túng, ngập ngừng.

10

25%


4

10%

3

Lo lắng, run sợ khi phải lên bảng trình
bày luyện nói.

10

25%

3

25%

4

Khơng biết làm gì khi được thầy cơ gọi
lên bảng trình bày luyện nói.

17

42,5%

0

7,5%


Mọi thay đổi, giải pháp, biện pháp trong quá trình dạy học thì mục tiêu cuối
cùng là hướng đến sự tiến bộ của người học. Lấy kết quả, sự tiến bộ của người học
làm thước đo cho một quá trình lao động giảng dạy. Với kết quả khảo sát nêu trên,
chúng ta nhận thấy rằng mọi chỉ số của học sinh đều thay đổi theo chiều hướng
tích cực: từ kết quả học tập, cách học tập, cách chuẩn bị cho một bài luyện nói,
cách trình bày một bài luyện nói đến thái độ, tình cảm, tác phong khi trình bày


luyện nói đều có sự tiến bộ. Quan trong nhất là các em đã vượt qua được tâm lí tự
ti, tâm lí e ngại, thậm chí là sợ sệt mỗi khi có giờ học luyện nói, thay vào đó là tâm
lí hịa hứng, chờ đợi đến giờ học này.
III. Phần kết luận, kiến nghị:
1. Kết luận.
Dạy học là một quá trình lao động địi hỏi người thầy giáo phải có tâm, có
tính kiên trì, bền bỉ. Trong q trình dạy học người thầy giáo phải áp dụng nhiều
phương pháp giảng dạy và nhiều biện pháp để giáo dục học sinh. Người thầy được
ví như một con ong cần mẫn, ln tìm tịi để khám phá ra những cách dạy học,
hình thức dạy học nhằm phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với từng đối tượng
học sinh cụ thể. Làm tốt được những vấn đề này thì tơi tin chắc rằng chúng ta đã
chạm được một tay vào sự thành cơng trong q trình dạy học.
Sáng kiến “Phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết dạy học
luyện nói trong phân mơn Tập làm văn”, qua q trình áp dụng và tiến hành kiểm
tra, đánh giá, tơi nhận thấy đề tài đã đạt được cơ bản chín mục tiêu mà phần nhiệm
vụ, giải pháp đã nêu ra. Đồng thời khắc phục được năm hạn chế mà học sinh
thường mắc phải trong các giờ học luyện nói.
2. Kiến nghị.
Dạy học là một quá trình lao động, quá trình này người thầy khơng ngừng
tìm tịi, sáng tạo ra những phương pháp và cách làm hay. Với sáng kiến “Phát huy
tính tích cực của học sinh trong các tiết dạy học luyện nói trong phân mơn Tập

làm văn” tơi xin kiến nghị các cấp quản lí giáo dục nên khuyến khích, động viên,
khen thưởng các thầy cơ giáo có những phương pháp, hình thức dạy học hiệu quả.
Nhân rộng điển hình để các nhà giáo tham khảo, học hỏi.
Sáng kiến này tôi xin đề nghị Ban giám hiệu Trường THCS ... nên tổ chức
các hoạt động ngoại khóa để các em có cơ hội giao lưu, học hỏi, có cơ hội để thể
hiện những kết quả học tập như tiết luyện nói trong phân mơn Tập làm văn.
Sáng kiến “Phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết dạy học
luyện nói trong phân mơn Tập làm văn” mà tơi đã trình bày theo ý chủ quan, chắc
chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của q đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện hơn.
..., tháng 2/2017
Xác nhận của nhà trường

Người thực hiện

……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………

...


MỤC LỤC
Stt

Tên nội dung


Trang

I. PHẦN MỎ ĐẦU:
1

Lý do chọn đề tài.

1

2

Mục tiêu, nhiệm vụ cua đề tài.

1

3

Đối tượng nghiên cứu.

2

4

Giới hạn của đề tài.

2

5

Phương pháp nghiên cứu.


2


II. PHẦN NỘI DUNG
1

Cơ sở lí luận

2

2

Thực trạng vấn đề nghiên cứu.

4

3

Nội dung và hình thức của giải pháp.

5

a

Mục tiêu của giải pháp.

5

b


Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.

6

c

Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
(nếu có)

15

d

Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn
đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng.

16

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1

Kết luận

17

2

Kiến nghị


17

Giới thiệu tài liệu tham khảo.
Sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập 1, tập 2 – Sách của Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×